5+ Dàn ý Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga (siêu hay)
Tổng hợp Dàn ý Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga hay nhất, ngắn gọn giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Dàn ý Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
- Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 1
- Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 2
- Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 3
- Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 4
- Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 5
- Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 6
- Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 7
5+ Dàn ý Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga (siêu hay)
Bài giảng: Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu - Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)
Dàn ý Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga
Dàn ý Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 1
1, Mở bài:
Giới thiệu tác phẩm và đoạn trích:
- Truyện thơ Lục Vân Tiên của tác gia Nguyễn Đình Chiểu là một trong những truyện thơ Nôm đặc sắc của kho tàng thi ca Việt Nam.
- Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” nằm ở phần đầu của truyện, miêu tả cảnh Lục Vân Tiên lần đầu gặp Kiều Nguyệt Nga, cho thấy tinh thần trượng nghĩa của nam tử hán thời phong kiến.
2, Thân bài
a, Tình huống gặp gỡ - Lục Vân Tiên đánh cướp:
- Chủ tớ Kiều Nguyệt Nga trên đường bị cướp chặn xe, Lục Vân Tiên tình cờ đi ngang qua, thấy vậy liền ra tay cứu giúp.
- Cảnh đánh cướp thể hiện tài năng võ thuật, sự mưu trí, khỏe khoắn của Lục Vân Tiên:
+ “Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô”: câu thơ thể hiện sự gan dạ, không do dự lao tới cứu người.
+ “Kêu rằng: Bớ đảng hung đồ!/Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân.”: hai câu thơ cho thấy bản tính quân tử, minh bạch của Lục Vân Tiên. Trước khi ra tay, chàng tuyên bố lí do sự ra tay của chàng là vì chính nghĩa, việc ra tay cũng minh bạch, không phải đánh lén.
+ Trận đánh gay cấn, “bốn phía bủa vây bịt bùng” vô cùng nguy hiểm, nhưng càng cho thấy tài năng của Lục Vân Tiên: “tả đột hữu xông/ Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang”.
⇒ Hình ảnh so sánh Lục Vân Tiên với nhân vật anh hùng Triệu Tử, tả đột hữu xung, câu thơ với giọng điệu nhanh, dứt khoát, tất cả thể hiện sức mạnh của nhân vật.
- Kết quả của trận đánh: kẻ cướp thua tan tác, bỏ cả gươm giáo, thủ lĩnh Phong Lai bị Vân Tiên tiêu diệt.
⇒ Lời thơ như tiếng reo hò trước sự thắng lợi của công lí. Hình ảnh Lục Vân Tiên qua trận đánh trở thành hình ảnh một người anh hùng thượng võ, bênh vực kẻ yếu, trừ gian diệt ác cho nhân dân
b, Cảnh Lục Vân Tiên gặp Kiều Nguyệt Nga:
Tính cách, phẩm chất của Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga thể hiện qua màn đối đáp trả ơn.
- Khi thấy tiếng than khóc trong xe ngựa, Vân Tiên hỏi chuyện, “động lòng” trước cảnh hai cô gái gặp nguy, khẳng định đã trừ hết kẻ gian.
+ Ngăn không cho hai cô gái ra ngoài: tư tưởng nam nữ thụ thụ bất thân thời phong kiến.
+ Hỏi thăm tên tuổi và lí do hai người bị nạn giữa đường.
⇒ Từ ngôn ngữ mộc mạc, giản dị thể hiện tinh thần võ tướng khi tả cảnh đánh kẻ ác, tác giả chuyển qua sử dụng ngôn ngữ trang trọng để xây dựng đoạn hội thoại. Từ đó cho thấy cả hai nhân vật đều là người có học thức, trọng tôn ti trật tự.
- Khi biết người cứu mình là một trang nam tử hán, Kiều Nguyệt Nga đã kể rõ sự tình: nàng cùng tì thiếp lên đường đến nơi cha đang làm quan, giữa đường gặp cướp may nhờ Vân Tiên cứu. Tính cách và sự giáo dục của nàng thể hiện qua những câu:
+ Làm con đâu dám cãi cha: đặt chữ hiếu lên trước tiên, không quản khó khăn vất vả của bản thân.
+ Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi: quan trọng danh tiết.
+ Muốn lạy tạ ơn cứu mạng của Vân Tiên, mong chàng đi cùng để cha con nàng báo ơn
⇒ Qua đây ta thấy một nhân vật Kiều Nguyệt Nga biết trước sau, hiếu thuận, lễ tiết, là một tiểu thư khuê các có học thức, nghĩa tình.
- Khi nhận được ngỏ ý tạ ơn của Nguyệt Nga, Vân Tiên liền từ chối: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn/ Nhớ câu kiến ngãi bất vi/ Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
+ Tô đậm thêm phẩm chất con người trượng nghĩa.
+ Thể hiện một phương châm sống của đấng nam nhi thời phong kiến: thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải là anh hùng
⇒ Tác giả thông qua nhân vật Lục Vân Tiên nhắc lại những đạo lí làm người cần có ở một trang nam nhi, thông qua Kiều Nguyệt Nga ca ngợi vẻ đẹp chính chuyên của người phụ nữ Việt Nam.
c, Nghệ thuật đoạn trích:
- Nghệ thuật miêu tả nhân vật sử dụng nhiều đối thoại, hành động, ít miêu tả ngoại hình, nội tâm, bởi tác giả sáng tác trong hoàn cảnh bị mù lòa, ông đọc để người khác ghi chép lại nên truyện mang tính chất truyền khẩu. Qua lời nói và hành động, nhân vật bộc lộ tính cách, phẩm chất.
- Ngôn ngữ thơ mộc mạc như lời ăn tiếng nói hằng ngày, đậm tính Nam Bộ. Thể thơ lục bát dễ nhớ.
- Sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, điển tích, triết luận.
3, Kết bài:
- Kết luận về nội dung: đoạn thơ đề cao những phẩm chất tốt đẹp của con người Nam Bộ nói riêng và con người Việt Nam nói chung. Đoạn thơ cũng là khởi đầu cho đoạn nhân duyên giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
- Nghệ thuật miêu tả nhân vật xuất sắc, ngôn ngữ giàu tính triết lí.
Dàn ý Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 2
I. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích:
+ Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19.
+ Truyện Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Đình Chiểu, nói về nhân vật Lục Vân Tiên - người anh hùng trượng nghĩa, văn võ song toàn và phẩm chất tốt đẹp.
+ Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm ở phần đầu của truyện thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của tác giả và khắc họa những phẩm chất tốt đẹp của hai nhân vật Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga.
II. Thân bài:
* Luận điểm 1: Lục Vân Tiên và hành động đánh cướp
- Cảnh Lục Vân Tiên gặp bọn cướp đang hoành hành:
+ Chàng không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà còn thể hiện trong lời nói.
+ Chàng chỉ trích và phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng chính là lời tuyên bố về quan điểm sống đầy cao đẹp của chàng.
+ Giữa đường gặp chuyện bất bình thì sẵn sàng xả thân ra tay cứu giúp.
- Cảnh Lục Vân Tiên chống lại bọn cướp:
+ Vân Tiên chỉ có một mình, tay không đánh cướp
+ Không hề run sợ, vẫn "bẻ cây làm gậy" xông vào đánh cướp
-> Hành động nhanh, mạnh, dứt khoát của Vân Tiên được tác giả ví với người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng Đương Dương, một anh hùng hảo hán, có khí phách, trượng nghĩa.
=> Trước sức mạnh và tài nghệ của Vân Tiên, bọn cướp đã bị đánh tan tác, nhân nghĩa bao giờ cũng chiến thắng.
=> Hình ảnh một người anh hùng thượng võ, bênh vực kẻ yếu, trừ gian diệt ác cho nhân dân.
* Luận điểm 2: Lục Vân Tiên gặp Kiều Nguyệt Nga
+ Vân Tiên "động lòng" thương xót, ân cần hỏi han, an ủi
+ Khi nghe trong kiệu vọng ra tiếng nói muốn được tạ ơn, Vân Tiên vội gạt đi ngay
+ Vân Tiên không muốn nhận những cái lạy tạ của hai cô gái
+ Không nhận chiếc trâm vàng mà chỉ cùng Kiều Nguyệt Nga xướng họa một bài thơ
-> Dường như đối với Vân Tiên, làm việc nghĩa là bổn phận, lẽ tự nhiên
=> Lục Vân Tiên không chỉ là một người có học thức mà còn là một người hào hiệp, trượng nghĩa. Đối với Vân Tiên, chàng coi việc nhân nghĩa trên đời là điều tất yếu, nếu làm ơn mà vì được đền đáp, trông ngóng đến việc trả ơn thì đó không còn là người anh hùng.
* Luận điểm 3: Hình ảnh Kiều Nguyệt Nga.
+ Là con gái quan tri phủ.
+ Xinh đẹp, nết na, có học thức.
+ Cách xưng hô vừa thận trọng vừa khiêm nhường
+ Nói năng dịu dàng, mực thước
+ Băn khoăn tìm cách trả ơn Vân Tiên
+ Tự nguyện gắn bó cuộc đời mình với Vân Tiên.
-> Kiều Nguyệt Nga là người ân cần, có tình nghĩa trước sau.
=> Tác giả thông qua Kiều Nguyệt Nga để ca ngợi vẻ đẹp chính chuyên của người phụ nữ Việt Nam.
* Đặc sắc nghệ thuật
+ Khắc họa nhân vật qua hành động, cử chỉ, lời nói.
+ Ngôn ngữ bình dị, mộc mạc, đậm màu sắc Nam Bộ
+ Ngôn ngữ kể chuyện tự nhiên, ít trau chuốt, uyển chuyển
+ Sử dụng nhiều đối thoại, hành động, ít miêu tả ngoại hình, nội tâm.
III. Kết bài:
Cảm nhận của em về đoạn trích: Đoạn trích đã khắc họa một cách rõ nét, chân thực và đầy sống động về người anh hùng trượng nghĩa Lục Vân Tiên, đó là một hình mẫu anh hùng lí tưởng và khát vọng về lẽ công bằng ở đời.
Dàn ý Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 3
1. Mở bài
Nguyễn Đình Chiểu (1822 – 1888), là thầy giáo, thầy thuốc, nhà thơ, ...được nhân dân mến mộ. “Truyện Lục Vân Tiên” là tác phẩm xuất sắc của ông
Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” thể hiện tinh thần đề cao đạo lí, chính nghĩa thông qua những hình tượng đẹp, có sức hấp dẫn với đông đảo công chúng
2. Thân bài
2.1. Nhân vật Lục Vân Tiên
* Đánh cướp cứu Kiều Nguyệt Nga
Hoàn cảnh: trên đường đi thi, ghé về thăm nhà.
Tình thế: đơn độc (một mình) tay không.
Thái độ: bất bình
Hành động: bẻ cây làm gậy, xông vô
Lời nói: “kêu rằng ..... hại dân”.
=> dũng cảm, nghĩa khí, mang khí phách của người anh hùng. Tính cách anh hùng, tài năng, vị nghĩa.
* Nghệ thuật:
Miêu tả nhân vật qua hành động, lời nói.
Dùng thủ pháp đối lập.
=> Làm nổi bật vẻ đẹp và sức mạnh của nhân vật.
* Trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga
- Sau khi đánh tan bọn cướp
- Lời nói:
Hỏi: “ai than khóc” -> quan tâm, sẵn sàng giúp đỡ.
Khẳng định: “ta đã...” -> an ủi.
Can ngăn: “khoan khoan...” -> hiểu và xem trọng lễ giáo, cư xử đúng mực, coi trọng danh dự.
- Thái độ: vô tư, trong sáng, khiêm nhường, coi trọng khí phách, bổn phận của người anh hùng.
=> Thái độ ân cần, chu đáo, cư xử đúng mực, hiểu lễ giáo; tính cách khiêm nhường.
=> Vân Tiên là nhân vật lí tưởng, chính trực, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, từ tâm, nhân hậu.
2.2. Nhân vật Kiều Nguyệt Nga
Thái độ: biết ơn -> trọng nghĩa.
Cử chỉ: cúi đầu lạy
Lời nói: thưa, gửi -> lễ phép.
Tính cách: chân thực, hiếu thảo, trọng nghĩa.
=> xưng hô khiêm nhường, nói năng dịu dàng, mực thước, bình dị, mộc mạc.
=> Là người con gái hiền hậu, nết na.
Cư xử: mời lên ngồi, mời đến nhà để được đền đáp ơn Vân Tiên
=> cách ứng xử ân tình, ân nghĩa.
=> Nguyệt Nga là cô gái thùy mị, nết na, có học thức và trọng tình nghĩa.
3. Kết bài
Bút pháp lí tưởng hóa nhân vật;
Miêu tả thông qua ngôn ngữ hành động, cử chỉ, …
Ngôn ngữ thơ mộc mạc, bình dị, mang đậm màu sắc Nam Bộ.
Trích đoạn ngợi ca đạo lý tốt đẹp ngàn đời của dân tộc thông qua các hình tượng nhân vật chính.
Dàn ý Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 4
1.1. Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm và đoạn trích: Truyện Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Đình Chiểu, truyện nói về nhân vật Lục Vân Tiên - người anh hùng trượng nghĩa, văn võ song toàn và phẩm chất tốt đẹp.
1.2. Thân bài
Cảnh Lục Vân Tiên gặp bọn cướp đang hoành hành: Chàng không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà còn thể hiện trong lời nói. Cành chỉ trích và phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng chính là lời tuyên bố về quan điểm sống đầy cao đẹp của chàng.
Cảnh Lục Vân Tiên chống lại bọn cướp: Hành động nhanh, mạnh, dứt khoát của Vân Tiên được tác giả ví với người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng đương Dang. Trước sức mạnh và tài nghệ của Vân Tiên, bọn cướp đã bị đánh tan tác.
Phẩm chất và nhân cách của Lục Vân Tiên khi nói chuyện với Kiều Nguyệt Nga: Có thể thấy Lục Vân Tiên không chỉ là một người có học thức, hơn thế chàng còn là một người hào hiệp, trượng nghĩa. Càng không muốn nhận sự cúi lạy của Kiều Nguyệt Nga cũng như sự báo đáp của nàng.
Quan điểm và lí tưởng sống của Lục Vân Tiên: đối với Vân Tiên, chàng coi việc nhân nghĩa trên đời là điều tất yếu, nếu làm ơn mà vì được đền đáp, trông ngóng đến việc trả ơn thì đó không còn là người anh hùng.
1.3. Kết bài
Ý nghĩa của đoạn trích: Đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" đã khắc học một cách rõ nét, chân thực và đầy sống động về người anh hùng trượng nghĩa Lục Vân Tiên, đó là một hình mẫu anh hùng lí tưởng và khát vọng về lẽ công bằng ở đời.
Dàn ý Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 5
1. Mở bài
Giới thiệu về tác giả, đoạn trích và nhân vật Lục Vân Tiên
2. Thân đoạn
Lục Vân Tiên là dũng cảm, nghĩa hiệp:
- Giữa đường gặp chuyện bất bình, ra tay tương trợ.
- "Bẻ cây làm gậy" để đánh tan lũ cướp Phong Lai, bảo vệ người vô tội.
- Không tính toán thiệt hơn, vì nghĩa quên mình.
Lục Vân Tiên là người hào hiệp, nhân hậu và trọng lễ nghĩa:
- Dịu dàng an ủi, hỏi thăm hai cô gái bị nạn
- Ngăn cản Kiều Nguyệt Nga xuống kiệu để giữ gìn danh tiếng cho nàng.
Lục Vân Tiên là người anh hùng hào sảng, không màng danh lợi:
- Từ chối mong muốn báo đáp công ơn của Kiều Nguyệt Nga.
- Quan niệm sống: giúp người không mong cầu được báo đáp
3. Kết bài
Khẳng định vẻ đẹp nhân vật và giá tị đoạn trích.
Dàn ý Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 6
Mở bài:
Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888) là một nhà thơ Nam Bộ nổi tiếng với tác phẩm Lục Vân Tiên, một trong những tác phẩm văn học nổi tiếng của văn học Việt Nam thế kỷ 19. Tác phẩm này không chỉ là một câu chuyện về anh hùng dũng cảm, mà còn là một tác phẩm đầy ý nghĩa về lòng dũng cảm, trung hậu và tình nghĩa đồng bào.
Thân bài:
Lục Vân Tiên - Anh hùng dũng cảm, nghĩa hiệp:
Hành động đánh cướp: Lục Vân Tiên không chần chừ khi đối mặt với bọn cướp, mà thậm chí một mình đánh lại chúng với võ nghệ điêu luyện. Hành động này thể hiện sự gan dạ, quyết đoán của anh hùng.
Tình thần không màng danh lợi: Lục Vân Tiên luôn hành động dựa trên nguyên tắc và lòng trung hiếu, không bao giờ mong đợi sự đền đáp. Sự tôn trọng, nhân hậu của anh được thể hiện qua mỗi hành động, lời nói.
Đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm:
Bút pháp miêu tả ước lệ: Nguyễn Đình Chiểu sử dụng ngôn từ mộc mạc, gần gũi, nhưng lại chứa đựng nhiều cảm xúc sâu sắc. Miêu tả về cuộc sống, về tâm trạng nhân vật được thể hiện một cách chân thực và sống động.
Giọng thơ nghiêm túc, trang trọng: Bản thơ của Nguyễn Đình Chiểu được xây dựng với nhịp điệu uyển chuyển, đầy hứng khởi và đôi khi cảm động. Sự phong phú và đa dạng của ngôn từ càng làm tăng thêm sức hút của tác phẩm.
Xây dựng hình tượng nhân vật: Từ những hành động, cử chỉ và lời nói của Lục Vân Tiên, độc giả được tận mắt chứng kiến sự kiên định, trung hiếu và lòng dũng cảm của nhân vật.
Kết bài:
Tóm lại, nhân vật Lục Vân Tiên không chỉ là một anh hùng dũng cảm mà còn là biểu tượng của sự trung hiếu, lòng nhân ái và tinh thần không màng danh lợi. Qua tác phẩm này, Nguyễn Đình Chiểu đã để lại một di sản văn học vô giá, với thông điệp về đạo đức, tình nghĩa và lòng yêu nước, luôn sáng tỏ trong lòng người đọc.
Dàn ý Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 7
1. Mở bài
Nguyễn Đình Chiểu, một nhà thơ Nam Bộ tài hoa, sống trong thế kỷ XIX, đánh dấu tên tuổi của mình không chỉ qua tác phẩm văn chương đầy sức mạnh mà còn qua cuộc đời chứa đựng biết bao gian khổ và biến động xã hội. Trong số các tác phẩm nổi bật của ông, "Lục Vân Tiên" nổi lên như một biểu tượng về lòng yêu nước và chính trực, với đoạn trích "Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga" là điển hình.
2. Thân bài
Luận điểm 1: Lục Vân Tiên - Anh hùng dũng cảm, nghĩa hiệp
Lục Vân Tiên không chỉ là biểu tượng của sức mạnh về thể chất mà còn là minh chứng cho lòng dũng cảm và lòng nghĩa hiệp. Khi đối mặt với tên cướp hung ác, hành động dứt khoát và không chần chừ của Lục Vân Tiên đã góp phần tạo nên hình ảnh anh hùng mạnh mẽ và kiên định trong đấu tranh vì công bằng và chính nghĩa.
Luận điểm 2: Lục Vân Tiên - Biểu tượng của chính trực và nhân hậu
Sự chính trực của Lục Vân Tiên không chỉ thể hiện qua những hành động mạnh mẽ mà còn thông qua cách cư xử tôn trọng và chu đáo đối với mọi người xung quanh, như cách anh đối đãi với Kiều Nguyệt Nga. Sự nhân hậu và không màng danh lợi của anh là điểm sáng giúp làm nổi bật tính cách đạo đức trong tác phẩm.
Đặc sắc nghệ thuật
Ngoài sức mạnh về nội dung, "Lục Vân Tiên" còn ghi điểm với độc giả qua bút pháp miêu tả ước lệ, giọng thơ uyển chuyển và sâu sắc, cũng như ngôn ngữ đa dạng phản ánh tính cách đa chiều của nhân vật. Tất cả tạo nên một tác phẩm văn chương đậm chất nghệ thuật, lôi cuốn và sâu sắc.
3. Kết bài
Nhân vật Lục Vân Tiên, qua cuộc sống và hành động, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả, là biểu tượng của lòng dũng cảm, chính trực và nhân hậu. Sự tưởng nhớ và ngưỡng mộ về anh không chỉ là của một thời và một nơi, mà là của mọi thế hệ, với hy vọng về một xã hội công bằng và nhân từ.
Dàn ý Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 8
1. Mở bài
Giới thiệu tác phẩm và đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga:
Tác phẩm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là một trong những kiệt tác văn học của dòng văn học Việt Nam cổ điển, tôn vinh tinh thần anh hùng và phẩm chất đạo đức.
Đoạn trích về việc Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga không chỉ là một cảnh quay đầy hấp dẫn mà còn là điểm nhấn tôn vinh những phẩm chất cao đẹp của nhân vật chính.
2. Thân bài
Phân tích về nhân vật Lục Vân Tiên:
Trượng nghĩa và dũng cảm:
Trong phân đoạn đánh cướp Phong Lai, Lục Vân Tiên thể hiện sự dũng cảm và quyết đoán, không do dự khi đối mặt với tội phạm.
Anh ta coi việc bảo vệ người dân và giải thoát kẻ yếu là trách nhiệm tự nhiên của một người đàn ông đích thực.
Anh hùng quả cảm và võ nghệ:
Đối mặt một mình với đám cướp đông đúc, Lục Vân Tiên không chùn bước mà tiến thẳng vào trận.
Sự thành thạo trong võ nghệ của anh ta được thể hiện qua việc đánh đuổi kẻ thù một cách dứt khoát và thành công.
Tấm lòng nhân hậu và biết ơn:
Sau khi giải thoát được Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên không chỉ dừng lại ở việc cứu mạng mà còn thể hiện sự quan tâm và ân cần đối với cô gái bị nạn.
Anh ta từ chối sự đền đáp của Kiều Nguyệt Nga, thể hiện lòng nhân hậu và không mong đợi phần thưởng.
Phân tích về nhân vật Kiều Nguyệt Nga:
Sự quý phái và hiền lành:
Là tiểu thư của một gia đình quyền quý, Kiều Nguyệt Nga được tôn trọng và ngưỡng mộ về đức tính và học thức của mình.
Tuy có xuất thân cao quý nhưng cô gái này vẫn giữ thái độ khiêm nhường và chân thành đối với mọi người xung quanh.
Tấm lòng biết ơn và thủy chung:
Kiều Nguyệt Nga không chỉ biết ơn và cảm tạ Lục Vân Tiên mà còn sẵn sàng đền đáp bằng cách mời anh về nhà để cha mẹ của mình thể hiện lòng biết ơn.
Sự thủy chung và tận tâm của cô gái này đến từ việc hiểu rõ vai trò và trách nhiệm của mình trong gia đình và xã hội.
3. Kết bài
Cảm nhận:
Đoạn trích về việc Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga và mối quan hệ giữa hai nhân vật này không chỉ là một phần trong cốt truyện mà còn là điểm nhấn tôn vinh những phẩm chất cao đẹp của con người.
Từ sự dũng cảm, tình nhân ái cho đến lòng biết ơn và thủy chung, Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga đại diện cho những giá trị văn hóa truyền thống mà chúng ta nên gìn giữ và tôn trọng.
Dàn ý Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 9
1. Mở bài
Giới thiệu về Nguyễn Đình Chiểu và tác phẩm Lục Vân Tiên:
Nguyễn Đình Chiểu (1822 - 1888), một nhà thơ vĩ đại của văn học Việt Nam thế kỷ 19, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng đất nước qua tác phẩm văn xuôi và thơ ca.
Trong số các tác phẩm của ông, Lục Vân Tiên nổi bật với hình ảnh của một anh hùng dũng cảm, lòng trung hiếu nghĩa, đồng thời phản ánh sâu sắc về xã hội thời đại.
Giới thiệu đoạn trích và ý nghĩa của nó:
Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga từ truyện Lục Vân Tiên là một phần quan trọng trong việc khắc họa những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật chính và thể hiện sứ mệnh cao cả của tác giả trong việc nâng đỡ những kẻ yếu đuối và phản ánh chân thực về lòng nhân ái và lòng trung hiếu trong xã hội.
2. Thân bài
Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga:
Luận điểm 1: Sự dũng cảm và trượng nghĩa của Lục Vân Tiên:
Hành động đánh cướp:
Lục Vân Tiên không chỉ là một anh hùng dũng cảm mà còn là biểu tượng của lòng trung hiếu và nghĩa vụ đối với xã hội.
Tài nghệ võ công của Vân Tiên được thể hiện qua việc đối đầu một mình với bọn cướp, không màng tính toán hay định mệnh.
Luận điểm 2: Tính nhân ái và cao quý của Lục Vân Tiên:
Gặp Kiều Nguyệt Nga:
Lục Vân Tiên không chỉ là một chiến binh mạnh mẽ mà còn là người có tấm lòng nhân ái, biết cảm thông và giúp đỡ những người gặp khó khăn.
Sự từ chối nhận lời cảm ơn của Kiều Nguyệt Nga thể hiện rõ ý chí cao quý, không mong đợi đền đáp.
Luận điểm 3: Hình ảnh của Kiều Nguyệt Nga:
Là một phụ nữ hiền lành, tốt bụng và có phẩm chất cao quý.
Tài năng và vẻ đẹp của Kiều Nguyệt Nga không chỉ làm nổi bật vẻ quý phái của giai cấp quý tộc mà còn làm nổi bật vẻ đẹp trong sáng của lòng người.
3. Kết bài
Tổng kết về nhân vật Lục Vân Tiên và ý nghĩa của đoạn trích:
Đoạn trích đã thành công trong việc khắc họa một cách chân thực và sâu sắc về nhân vật Lục Vân Tiên, một anh hùng mang trong mình tinh thần trượng nghĩa và lòng nhân ái, là biểu tượng của lòng trung hiếu và nhân ái trong xã hội.
Tác giả đã thông qua những tình huống trong đoạn trích để kể một câu chuyện sâu sắc về lòng nhân ái và trượng nghĩa, từ đó, để lại cho độc giả những suy ngẫm về ý nghĩa của việc hy sinh bản thân cho lợi ích của cộng đồng và lòng nhân ái là điều thiết thực trong cuộc sống.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 1
Nguyễn Đình Chiểu là một nhà văn, nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam, thơ văn của ông không có sự chau chuốt, cầu kỳ về câu từ mà lại rất mộc mạc, dân dã gắn liền với đời sống của con người Nam Bộ. Vì vậy trong nền văn học của Việt Nam, đại thi hào Nguyễn Du nổi tiếng với kiệt tác truyện Kiều, đây là tác phẩm được đông đảo độc giả trong nước, cũng như độc giả nước ngoài đón nhận bởi câu từ mượt mà, văn phong khoa học, giàu giá trị nội dung cũng như tư tưởng thì văn chương của cụ Đồ Chiểu đã thâm nhập vào đời sống, trở thành một phần đời sống của người dân Nam Bộ, người ta đọc Truyện Lục Vân Tiên phẩm của ông quen thuộc như những bài đồng dao dân gian. Truyện Lục Vân Tiên nổi tiếng bởi chính chất mộc mạc, gần gũi ấy, trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” cũng đã thể hiện được phần nào đặc trưng thơ văn của tác phẩm này.
“Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là một trích đoạn của tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên”, kể về hành động nhân nghĩa, vô tư của Lục Vân Tiên, khi chàng bắt gặp trên đường cảnh bạo tàn, chàng đã không hề né tránh hay e ngại những tai họa sẽ đến mà hết lòng ra tay cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích thể hiện được nét đẹp trong phẩm chất cũng như tâm hồn của Lục Vân Tiên, chàng làm việc nghĩa xuất phát từ tấm lòng mà không hề tính toán đến việc thiệt hơn, báo đáp ân nghĩa. Ngoài ra, Kiều Nguyệt Nga cũng là một nhân vật được xây dựng khá đặc sắc, nàng là một tiểu thư khuê các, khi được cứu giúp bởi Lục Vân Tiên nàng đã thể hiện những phẩm chất tốt đẹp như trọng ân nghĩa, hiền thục đoan trang lại là một người con có hiếu.
Mở đầu đoạn trích, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân thực, sống động những hành động của Lục Vân Tiên, đó chính là khi chàng ra tay diệt trừ cái bạo tàn, không cho phép nó làm tổn hại, gây ra đau khổ cho những người dân lương thiện, đây là một hành động đẹp, là biểu hiện ra bên ngoài của một tấm lòng đáng quý, đáng trân trọng.
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ”
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Câu thơ miêu tả những hành động của Lục Vân Tiên khi gặp một sự cố ở trên đường, đó là chứng kiến cảnh lũ cướp hoành hành, đang gây họa cho người dân, bản tính cương trực, căm ghét cái ác lại đề cao hành động nhân nghĩa đã thôi thúc Vân Tiên hành động, và hành động của chàng dường như cũng chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, chàng không hề suy nghĩ, tính toán thiệt mất nếu như mình can dự vào mà chàng lập tức ra tay diệt trừ mối nguy hại ấy, bảo vệ người dân. Và sự gấp rút của tình huống nên chàng không kịp chuẩn bị gì mà tiện tay bẻ luôn cành cây bên đường để làm vũ khí diệt trừ cái ác “Bẻ cây làm gậy nhằm đằng xông vô”. Không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà lời nói của chàng cũng thể hiện được tính cách cương trực, thẳng thắn của chàng “Kêu rằng bớ đảng hung đồ/ Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Lời nói của Lục Vân Tiên là hướng đến chỉ trích, phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng là tuyên ngôn sống đầy cao đẹp của chàng, sống là phải hướng đến bảo vệ cuộc sống của những người dân lành, chứ không phải mang đến những đau khổ cho họ. Và những hành động bạo tàn, “hồ đồ” chàng càng không cho phép nó xâm hại đến những con người lương thiện ấy. Vân Tiên không chỉ là một con người có tình thương với con người, mang trong mình tinh thần chính nghĩa cao đẹp mà chàng còn là một chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi, điều này được thể hiện ra trong những hành động chàng chống lại những tên cướp:
“Vân Tiên tả đột hữu xông
.............
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
Những động tác của Vân Tiên đều rất dứt khoát, nhanh nhẹn “tả đột hữu xung”, và những hành động anh hùng này được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu so sánh với hình ảnh người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang. Trước sức mạnh của Lục Vân Tiên thì băng cướp bị đánh tan “Lâu la bốn phía vỡ tan”, chúng hoảng loạn bỏ lại gươm giáo mà tìm đường thoát thân. Và cầm đầu của băng đảng này là Phong Lai thì bị Tiên cho một gậy “thác rày thân vong”. Đây là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ lấy việc hại người làm niềm vui, làm mục đích kiếm sống. Đối với những tên cướp ngày Lục Vân Tiên tuyệt đối không khoan nhượng, lời nói và hành động đều hết sức quyết liệt nhưng khi hỏi thăm người bị nạn thì chàng lại trở nên vô cùng dịu dàng, phải phép:
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này”
Không chỉ ra tay cứu giúp người bị nạn mà chàng còn hết lòng quan tâm đến họ, thể hiện ngay qua lời hỏi thăm ân cần, và động viên, giúp người bị nạn trấn tĩnh lại tinh thần sau cơn hoảng loạn bằng việc thông báo cho họ biết tình hình bên ngoài, rằng những lũ “kiến chòm ong” đã bị tiêu diệt, cũng tức không còn bất cứ sự nguy hiểm nào có thể đe dọa nữa. Và phẩm chất tốt đẹp của Lục Vân Tiên cũng tiếp tục được bộc lộ khi chàng có cuộc đối thoại với người bị hại, cũng tức Kiều Nguyệt Nga. Khi Kiều Nguyệt Nga có ý định bước ra khỏi kiệu để cúi lạy Lục Vân Tiên vì công cứu mạng thì chàng nhất quyết không chịu nhận:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai”
Chỉ thông qua vài câu nói thôi nhưng ta có thể nhận thấy Lục Vân Tiên là một con người trọng đạo lí, cũng như những khuôn phép trong xã hội xưa. Chàng không muốn Kiều Nguyệt Nga ra ngoài cúi lạy mình vì không muốn sự gặp mặt này ảnh hưởng đến phẩm tiết của nàng, vì trong quan niệm của xã hội phong kiến xưa, thì “nam nữ thụ thụ bất thân”, tức là giữa con trai và con gái cần phải có những khoảng cách nhất định, không được tùy tiện gặp mặt hay có những hành động thân thiết. Lời nói của Lục Vân Tiên cũng thể hiện chàng là một con người có học thức, còn đặt lời nói ấy trong xã hội ngày nay thì ta lại thấy có cái gì đấy đáng yêu ở chàng trai này. Nhưng mục đích của Lục Vân Tiên không chỉ vì lễ tiết mà chàng cũng không muốn nhận sự báo đáp của Kiều Nguyệt Nga, bởi hành động cứu giúp của chàng là xuất phát từ tấm lòng chứ không phải vì mục đích vụ lợi gì “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, câu nói của chàng với Kiều Nguyệt Nga càng làm cho con người chàng trở nên đáng trân trọng hơn.
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Trong quan niệm của Lục Vân Tiên thì những việc nhân nghĩa là tất yếu, và nếu làm ơn mà trông ngóng việc trả ơn thì không phải người anh hùng “Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
Như vậy, đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga đã khắc họa một cách chân thực, sống động hình ảnh của người anh hùng hiệp nghĩa Lục Vân Tiên, ở chàng hiện lên với biết bao phẩm chất tốt đẹp, không chỉ là con người nhân nghĩa, thấy việc ác là ra tay diệt trừ, bảo vệ sự bình yên cho con người mà chàng còn là một con người có học thức, trọng những lễ nghi, khuôn phép. Và ở chàng trai ấy ta cũng có thể thấy được một quan niệm sống thật đẹp, đó là quan niệm về việc nghĩa và về người anh hùng. Khắc họa nhân vật Lục Vân Tiên cũng là cách nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu hình mẫu anh hùng lí tưởng và khát vọng về lẽ công bằng ở đời.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 2
Trong nền văn học của Việt Nam ta, nếu như Truyện Kiều của Nguyễn Du được xem là đỉnh cao, là kiệt tác của nền thơ ca bác học trong thể loại truyện thơ Nôm, thì Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu lại được xem là viên ngọc sáng, mang những giá trị nhân văn, nhân bản sâu sắc, hướng con người đến với chữ "Thiện", thông qua cách sử dụng kết cấu cốt truyện kinh điển trong văn học dân gian phương Đông. Nhân vật chính là người có tài, có nhiều phẩm chất tốt đẹp, nhưng luôn gặp nhiều gian khó và đều vượt qua được nhờ sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ của các nhân vật phụ trợ, và cuối cùng là một cái kết có hậu cho nhân vật chính, kẻ ác phải chịu quả báo. Từ đó rút ra bài học nhân sinh sâu sắc về cách con người đối xử với nhau trong cuộc sống, và chân lý không bao giờ thay đổi, ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác.
Tác giả Nguyễn Đình Chiểu là một con người có cuộc đời nhiều đau thương mất mát, bản thân ông không may bị mù khi còn quá trẻ, đường công danh từ đó cũng đứt đoạn, tình riêng lại bị bội ước, cả cuộc đời gói trọn trong giai đoạn nước mất nhà tan, chịu thân phận của một người nô lệ. Tuy nhiên, không đầu hàng với số phận Nguyễn Đình Chiểu có một nghị lực sống phi thường, sau khi bị mù ông trở về quê hương bốc thuốc chữa bệnh cứu người, mở trường dạy học, tích cực tham gia phong trào kháng chiến, đồng thời sáng tác thơ văn, để lại nhiều tác phẩm có giá trị trường tồn mãi với thời gian. Về sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu có thể chia ra làm hai giai đoạn, trước năm 1958 là chủ đề đạo đức với tác phẩm tiêu biểu nhất là Lục Vân Tiên. Sau 1858, là chủ đề yêu nước với các tác phẩm như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Chạy giặc,...
Lục Vân Tiên, được sáng tác vào khoảng đầu những năm 50 của thế kỷ XIX, thuộc thể loại truyện thơ Nôm bác học, gồm 2082 câu thơ lục bát tất cả. Về giá trị nội dung, Lục Vân Tiên xoay quanh cuộc đấu tranh giữa hai phe thiện và ác, từ đó mang đến giá trị hiện thực, vạch trần bộ mặt của những kẻ bất nhân, bất nghĩa lừa thầy phản bạn, vạch trần những cái xấu, cái bất công trong xã hội. Thứ hai là giá trị nhân đạo vững vàng của tác phẩm, khẳng định và ngợi ca những phẩm chất đẹp đẽ cao quý của con người, như tinh thần trượng nghĩa, lòng hiếu thảo, lòng chung thủy; ca ngợi tình nghĩa giữa con người với con người, như tình mẫu tử, tình nghĩa bạn bè,...; đề cao khát vọng của nhân dân hướng tới lẽ công bằng trong xã hội thiện thắng ác, chính nghĩa thì thắng gian tà; ngoài ra tác phẩm còn lên án những kẻ xấu xa bất nhân bất nghĩa lừa thầy phản bạn. Về giá trị nghệ thuật, Lục Vân Tiên xoay quanh cuộc đấu tranh giữa hai tuyến nhân vật thiện - ác, mang màu sắc Nam Bộ đậm đà về cả ngôn ngữ, tính cách nhân vật,... Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga thuộc phần đầu của tác phẩm, kể lại việc Vân Tiên đánh cướp Phong Lai để cứu Nguyệt Nga và cuộc đối đáp giữa hai người.
Nhân vật Lục Vân Tiên trong phân đoạn đánh cướp Phong Lai, hiện lên với dáng vẻ của một con người có tinh thần trượng nghĩa, không hề băn khoăn do dự khi đánh cướp, được Nguyễn Đình Chiểu thể hiện một cách nhẹ nhàng trong câu thơ: "Vân Tiên ghé lại bên đàng/Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô". Điều đó chính tỏ rằng đối với Lục Vân Tiên việc đánh cướp cứu người như là một lẽ tự nhiên, "bẻ cây làm gậy" không màng đến an nguy của bản thân. Nguyên nhân xuất phát từ thái độ bất bình của chàng trước những kể tàn ác xấu xa "đảng hung đồ", thứ hai là xuất phát từ lòng yêu thương bênh vực cho dân lành bị hãm hại. Ngoài tinh thần trượng nghĩa thì Lục Vân Tiên còn là một anh hùng quả cảm, có võ nghệ cao cường, nếu so với bọn cướp bủa vây bốn phía thì chàng chỉ có một mình, tay không tấc sắt chỉ có một thân cây làm gậy. Đó là trận đánh không cân sức, một bên là tướng cướp hung dữ "Phong Lai mặt đỏ phừng phừng", quân cướp thì đông đúc, vũ khí gươm giáo đầy đủ. Từ đó tô đậm lòng dũng cảm, sự tài giỏi của Lục Vân Tiên.
"Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng đương giang
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong"
Thế nhưng với sự tài giỏi ứng biến tài tình, Lục Vân Tiên đã xung trận với một khí thế áp đảo "tả đột hữu xông", được ví như hình ảnh của võ thần Triệu Tử Long thời Tam Quốc một mình, một ngựa phá vỡ vòng vây của Tào Tháo, để cứu đứa con nhỏ của Lưu Bị, thể hiện tầm vóc của người anh hùng với sức mạnh phi thường. Việc sử dụng các từ ngữ Hán việt, nhịp điệu nhanh đã làm nổi bật lên khí thế hào hùng sôi nổi cho trận đánh, cụm từ "tả đột hữu xông" là cụm từ giàu giá trị tạo hình, cho thấy Lục Vân Tiên tung hoành giữa đảng cướp như chốn không người. Bên cạnh việc xây dựng hình tượng người anh hùng Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu còn xây dựng chiến thắng tuyệt đối của chàng trước lũ cướp hung hãn. "Lâu la bốn phía vỡ tan", hoảng sợ "quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay", còn kẻ cầm đầu "Phong Lai chẳng kịp trở tay", trong một thời gian ngắn đã "Bị Tiên một gậy thác rày thân vong". Thắng lợi trong chớp mắt ấy lại càng tôn lên dáng vẻ quả cảm của người anh hùng có sức mạnh phi thường, phong thái hùng dũng hiên ngang, võ nghệ cao cường, sẵn sàng xả thân vì nghĩa.
Sau khi đánh cướp xong, thì Lục Vân Tiên đã tiến đến hỏi thăm an ủi Kiều Nguyệt Nga, từ đó ta lại thấy được một phương diện khác của người anh hùng này. Lời hỏi thăm rất ân cần, lịch thiệp, "Hỏi: Ai than khóc ở trong xe nầy?" đã cho thấy người anh hùng này không chỉ quả cảm, võ nghệ cao cường mà còn rất giàu lòng nhân hậu. Và sau khi biết được nguyên do thì Lục Vân Tiên chỉ đáp lại bằng một câu ngắn gọn, nhẹ nhàng "Rằng ta đã trừ dòng lâu la" dường như cái trận đánh không cân sức ấy chỉ là một chuyện thoáng qua, thể hiện lòng khiêm nhường, không thích kể công của người anh hùng chân chính. Thứ hai nữa lòng nhân hậu của Lục Vân Tiên, còn thể hiện ở tấm lòng cảm thông, thương xót dành cho những người gặp nạn. Bên cạnh đó vẻ đẹp của người anh hùng còn thể hiện ở sự hiểu biết, một mực giữ gìn lễ nghĩa cho Kiều Nguyệt Nga và cho cả bản thân mình. Lối xưng hô "nàng - ta", cho thấy tấm lòng trân trọng, thái độ lịch sự của một con người có gia giáo, trở thành một nét đẹp trong lối ứng xử của một người đọc sách thánh hiền.
Và ở trong 6 câu thơ cuối đoạn trích ta lại thấy ở Lục Vân Tiên một lần nữa tấm lòng hào hiệp trượng nghĩa, vì dân trừ hại.
"Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Nay đà rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng"
Điều đó thể hiện qua tiếng cười rất vô tư, sảng khoái làm ơn nhưng không màng đến sự đền ơn của người. Tứ hai là thể hiện qua quan niệm về người anh hùng của Lục Vân Tiên "Nhớ câu kiến nghĩa bất vi", đây là lời thầy dạy trong sách Thánh hiền, là người anh hùng thì phải biết làm việc nghĩa, nếu thấy mà không làm thì không phải là người anh hùng chân chính. Ở Vân Tiên ta còn thấy một phẩm chất, một lối sống cao đẹp của chàng, học đạo phải hành đạo, học đi đôi với hành, sống trong sáng, vô tư, không mưu cầu, kể công. Từ đó rút ra được quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu rằng người anh hùng phải là người có tài trí, sức mạnh, sẵn sàng hành động vì nghĩa, mà hình tượng Lục Vân Tiên là hình mẫu lý tưởng, văn võ toàn tài, đại diện cho hình ảnh người quân tử trong xã hội cũ.
Bên cạnh nhân vật chính là Lục Vân Tiên, thì Kiều Nguyệt Nga cũng là một nhân vật được Nguyễn Đình Chiểu khá ưu ái. Thông qua phần nói chuyện với Lục Vân Tiên, thì ta có thể nhận thấy rằng nàng là một người con gái có nề nếp gia giáo, và có học thức. Nguyệt Nga có một xuất thân quyền quý, là tiểu thư khuê các con quan tri phủ Hà Khê, xong nàng lại là người rất giản dị, chân thành, không khoa trương, kênh kiệu đài các. Điều đó bộc lộ ở lời giới thiệu của nàng rất đầy đủ, nhưng vẫn chứng tỏ được sự ngưỡng mộ của mình dành cho Lục Vân Tiên. Lối xưng hô "quân tử-tiện thiếp" và hành động "lạy-thưa" cho thấy sự khiêm nhường, lòng biết ơn rất đỗi chân thành của nàng. Tổng kết lại, Kiều Nguyệt Nga là người con gái thông minh, mực thước và hiểu lễ nghĩa trong lời ăn tiếng nói. Từ câu nói "Làm con đâu dám cãi cha/Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành" cho thấy Nguyệt Nga là người sống đúng với khuôn phép gia đình, với lễ giáo phong kiến. Vượt ngàn dặm từ Tây Xuyên đến Hà Khê để định bề nghi gia nghi thất, không quản khó khăn, mệt nhọc, không quản thân gái dặm trường, thể hiện tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ. Từ đó để lại một ấn tượng tốt đẹp về một người con gái thùy mị, nết na, thông minh, sắc sảo có học thức.
Bên cạnh những vẻ đẹp trên thì Kiều Nguyệt Nga còn gây ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả, bởi tấm lòng ân nghĩa thủy chung. Dẫu rằng nàng có ý thức rất rõ về lễ giáo nam nữ hữu biệt và hoàn cảnh của mình, thế nhưng đứng trước ân nhân cứu mạng thì nàng vẫn sẵn sàng xuống xe để cảm tạ Lục Vân Tiên, phản ánh tấm lòng biết ơn sâu sắc của nàng. Ngay sau khi bị Vân Tiên ngăn cản không cho xuống xe, thì xuất phát từ tấm lòng áy náy của mình, Nguyệt Nga đã cất lời ca ngợi công lao của Lục Vân Tiên, trước hết là ơn cứu mạng, thứ hai lớn hơn và khiến nàng biết ơn hơn cả ấy là nhờ Vân Tiên mà nàng đã bảo toàn được danh tiết được ngụ ý trong câu "Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi", từ đó nó đã trở thành một ân nghĩa không thể không báo đáp. Thế nên nàng đã cất lời mời Lục Vân Tiên về Hà Khê để cha mình đền ơn, cho thấy lối sống, ân nghĩa, thủy chung có trước có sau của Kiều Nguyệt Nga. Và đáng quý hơn cả chính là sự ý thức của nàng về việc không có bạc vàng nào có thể sánh được với công ơn của Lục Vân Tiên, từ đó cho thấy Nguyệt Nga là người coi trọng tình nghĩa, xem tình nghĩa là vô giá. Qua đoạn trích, có thể thấy rằng Kiều Nguyệt Nga chính là kết tinh cho vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống bởi nàng không chỉ gia giáo nết na, có học thức mà còn rất đằm thắm nghĩa tình.
Trích đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga là một đoạn trích hay, bộc lộ được vẻ đẹp lý tưởng của người quân tử theo quan niệm Nho học thông qua nhân vật Lục Vân Tiên, với sự toàn vẹn về văn võ, sự hiểu biết lễ nghi, đức tính khiêm nhường, cẩn thận, sử quả cảm và thân thủ phi thường. Bên cạnh đó ta còn thấy hiện lên hình ảnh Kiều Nguyệt Nga là kết tinh cho vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống, dịu dàng, nết na, ân tình thủy chung, thấu hiểu lễ nghĩa. Bộc lộ tấm lòng khao khát hành đạo cứu người của tác giả, hướng con người ta đến với chữ 'thiện", ước vọng con người đối xử với nhau bằng tình nghĩa, và niềm tin về chân lý cái thiện sẽ luôn luôn chiến thắng cái ác.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 3
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ, nhà văn, thầy thuốc, thầy giáo nổi tiếng đất Nam Bộ. Tên tuổi của ông gắn liền với “Truyện lục Vân Tiên”. Tác phẩm đại diện cho tiếng nói, quan niệm về đạo lý không chỉ của riêng nhà thơ mà đó còn là tiếng nói của cả dân tộc. Trích đoạn “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là trích đoạn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật và tư tưởng đạo lý của tác giả.
Có thể thấy tấm lòng nhân nghĩa là điểm sáng chói ngời trong nhân vật Vân Tiên. Tạ từ thầy dạy, chàng một mình rong ruổi trên con đường về kinh đô ứng thí. Lòng đầy ước mơ, hoài bão. Không ngờ, giữa đường, lại gặp chuyện chẳng lành. Nhân dân bồng bế, dắt díu nhau trốn chạy hoảng loạn, tiếng kêu van thảm thiết vang trời dậy đất. Ân cần hỏi han, rồi chẳng chút suy tính, chàng liền ra tay tương trợ để cứu dân lành thoát khỏi vòng lao lung.
"Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này”
Quá bất bình trước hành động phi nghĩa của lũ bất nhân, chàng thét vào mặt chúng
"Kêu rằng: bớ đảng hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân".
Hành động nhân nghĩa của chàng có lẽ là sự tiếp nối đạo lí tốt đẹp của dân tộc “Thương người như thể thương thân". Tình yêu thương đã làm cao chí khí và lòng dũng cảm của chàng nho sinh họ Lục. Mặc cho lũ cướp mặt mày hung tợn, đằng đằng sát khí: "mặt đỏ phừng phừng", chàng một mình lao vào vòng vây trừng trị bọn côn đồ. “Vân Tiên tả đột hữu xung”, một mình chàng với vũ khí thô sơ đấu lại cả bọn cướp gươm giáo sáng lòa. Với tài võ nghệ vô song, chàng tiêu diệt được tên cầm đầu toán cướp. Lũ còn lại như rắn mất đầu, quăng vũ khí, bỏ chạy tan tác. Hình ảnh Vân Tiên lúc này được nhà thơ so sánh như dũng tướng Triệu Tử Long phá vòng Đương Dương thời Tam Quốc. Thật là một hình ảnh đẹp tuyệt vời cho tinh thần đại nghĩa quên mình.
“Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong".
Giọng thơ hứng khởi, tràn đầy nhiệt huyết khi chiến thắng thuộc về người anh hùng dũng cảm.
Đánh tan lũ giặc, chàng Vân Tiên đã cứu thoát nàng Nguyệt Nga cùng người hầu khỏi cảnh nguy nan. Cuộc kì ngộ giữa giai nhân và trang hảo hán diễn ra thật cảm động. Nàng kính cẩn mời tráng sĩ về nhà để cha nàng “báo đức thù công”
"Ngẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi".
Trước lời lẽ chân thành và đầy biết ơn của Kiều tiểu thư, thì Vân Tiên "nghe nói liền cười". Một nụ cười thật tươi, thể hiện tâm hồn hào hiệp, tính tình vô tư, khảng khái. Chàng coi việc đánh cướp là việc nghĩa nên làm. Người biết võ nghệ phải ra tay diệt trừ cái ác, đem lại công bằng, bình yên cho nhân dân. Nếu thấy việc bất bình mà không ra tay tương trợ thì đâu xứng đáng đứng trong trời đất này nữa:
"Nhớ câu kiến nghĩa bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng''.
Cụ Đồ Chiểu đã xây dựng nhân vật Lục Vân Tiên theo mô tuýp người anh hùng thời loạn, trọng đạo nghĩa. Đó là mẫu người anh hùng mà người đọc đã từng gặp trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
"Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!"
Người anh hùng ra tay tương trợ nên đã cứu được nàng Nguyệt Nga khỏi cơn nguy khốn. Ngoại hình nàng tiểu thư con quan tri phủ không được miêu tả một cách chi tiết, tỉ mỉ mà ta vẫn hình dung ra chân dung của nàng qua cuộc đối thoại ngắn ngủi với chàng Vân Tiên. Đầu tiên là hành động tạ ơn đầy tôn kính đối với ân nhân của nàng.
“Trước xe quân tử tạm ngồi
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa”.
Đang than khóc vì quá hoảng sợ trước bọn cướp Phong Lai, chỉ cần một lời hỏi han, động viên của Vân Tiên, nàng liền trấn tĩnh lại ngay. Cách nói chuyện không chỉ thể hiện thái độ kính cẩn, biết ơn chân thành, mà còn toát lên khí chất của một tiểu thư dịu dàng, có học thức. Qua cuộc nói chuyện, nàng đã tỏ bày hoàn cảnh của mình. Đó là việc nàng từ ngàn dặm xa xôi, không quản hiểm nguy, khó nhọc để làm theo lời cha “định bề nghi gia”. Tấm lòng hiếu thảo của nàng thật khiến mọi người cảm động:
“Quê nhà ở quận Tây Xuyên
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê
Sai quân đem bức thư về
Rước tôi qua đó định bề nghi gia
Làm con đâu dám cãi cha
Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành”.
Không chỉ có cách nói chuyện thùy mị, dịu dàng, nét đẹp tỏa sáng ở Nguyệt Nga có lẽ là lòng biết ơn chân thành, sâu sắc trước những hành động cao quý của chàng tráng sĩ.
“Hà Khê qua đó cũng gần
Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng”.
Lời nói thiết tha chân thành xuất phát từ tấm lòng biết ơn sâu nặng. Có thể nhận thấy, Nguyệt Nga là con người sống trọng tình trọng nghĩa. Trước nghĩa cử cao đẹp của Vân Tiên, lần thứ nhất nàng quỳ lạy rồi thưa chuyện gia cảnh của mình, lần thứ hai, nàng lại tha tha thiết mời ân nhân về nhà để được đáp đền ơn sâu nghĩa nặng. Cái ơn đó không chỉ là ơn cứu mạng mà còn cứu cả danh tiết của một người con gái, điều mà với một cô gái, nó còn quan trọng hơn cả tính mạng.
“Lâm nguy chẳng gặp giải nguy
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”.
Lời chối từ thẳng thắn và thái độ hào hiệp trượng nghĩa của Vân Tiên sau đó càng khắc sâu thêm ấn tượng đẹp đẽ của chàng tráng sĩ trong lòng tiểu thư Nguyệt Nga. Ấn tượng sâu đậm này đã biến mối hàm ơn ban đầu của nàng thành lòng yêu thương âm thầm mà mãnh liệt dành cho chàng Vân Tiên. Lòng thủy chung sâu sắc của nàng càng được bộc lộ sâu sắc và rõ nét ở những đoạn trích sau của tác phẩm.
Đoạn trích đã thể hiện thành công bức chân dung của hai nhân vật chính. Một Vân Tiên văn võ song toàn, hào hiệp trượng nghĩa, một Nguyệt Nga tài sắc vẹn toàn, hiếu thảo, thủy chung, trọng nghĩa tình. Cảnh gặp gỡ đầu tiên như dự báo trong lòng người đọc về một tình yêu đẹp song cũng lắm chông gai, thử thách, khiến người đọc bị lôi cuốn vào những sóng gió tiếp theo đang chờ đợi hai nhân vật ở phía trước.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 4
Mở đầu Truyện Lục Vân Tiên, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu viết:
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước, lành dè thân san.
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình...
Lời thơ giản dị, rành rẽ như một tuyên ngôn, định hướng cho bước đi của toàn bộ tác phẩm. Với nhà thơ xứ dừa ấy, sáng tác văn chương không phải vì sự nghiệp văn chương mà trước hết, quan trọng hơn hết là vì mục đích giáo dục, truyền bá đạo lý, nhân cách con người.
Truyện thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu được nhân dân ta - nhất là bà con ở Nam Bộ - yêu thích không phải vì có nhiều câu hay, lời đẹp, nghệ thuật tinh tế mà vì những chi tiết, sự việc, những nhân vật tỏa sáng đạo lí, vì những ý tưởng giáo huấn chân thành, thấm thía. Nội dung đạo lý bao trùm toàn thiên truyện là nhân nghĩa, là trung hiếu, tiết hạnh. Song đấy không phải những từ ngữ khô khan trói trong khuôn khổ phong kiến cổ hủ, nặng nề.
Với Nguyễn Đình Chiểu, nhân nghĩa là đạo đức của nhân dân, là căn cốt, gốc rễ để trau dồi, rèn giũa con người. Vì vậy, vào đầu tác phẩm - ở đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - nhà thơ đã hào hứng giới thiệu hai con người trẻ tuổi, biết hướng theo lòng nhân, biết hành động theo việc nghĩa.
Đó là Lục Vân Tiên - chàng trai tài ba dũng cảm, sẵn sàng làm việc "nghĩa". Vân Tiên vốn con nhà thường dân nhưng học giỏi, văn võ kiêm toàn. Chàng đang háo hức trên con đường lên kinh ứng thi. Vậy mà gặp cướp. Không phải chúng gây sự với chàng, mà chúng đang quấy nhiễu nhân dân.
Trước mắt chàng, bày ra một nghịch cảnh: dân thì "than khóc tưng bừng - Đều đem nhau chạy vào rừng lên non" ; bọn cướp thì "xuống thôn hương - Thấy con gái tốt qua đường bắt đi". Thế là, sau một lời hứa ngắn gọn: "Tôi xin ra sức anh hào...", Lục Vân Tiên nhanh nhẹn "Ghé lại bên đàng, bẻ cây làm gậy", xông thẳng vào giữa bọn cướp.Bọn cướp đông đặc. Tên tướng cướp "Mặt đỏ phừng phừng", dữ tợn như một con ác thú.
Chúng "Truyền quân bốn phía bủa vây bịt bùng". Lực lượng thật quá chênh lệch. Bèn kia là cả lũ lâu la đông như ong, như kiến. Bên này chỉ độc nhất một mình chàng trai dũng cảm với lời hứa chân thành "Cứu người ra khỏi lao đao buổi này", với vũ khí giản dị "cây gậy bên đàng". Vậy mà, chàng không chút nao núng:
Vân Tiên tả đột hữu xông,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Giang.
Nhà thơ không tả tỉ mỉ trận giao chiến mà chỉ kể ngắn gọn bằng mấy dòng thơ, một đấu so sánh và dăm ba từ đặc sắc: "tả đột, hữu xông - Khác nào Triệu Tử..." đúng là một dũng tướng tài ba, đánh nhanh, kín võ, sánh ngang với Triệu Tử Long thời Tam quốc trong trận phá vây quân Tào Tháo ở Đường Đan Trường Bản. Ngày xưa Triệu Tử Long chiến đấu vì ngôi vua nhà Hán, vì bảo vệ ấu chúa A Đẩu, dù sao vẫn là nghĩa vụ của một bầy tôi trung thành.
Còn ngày nay, Lục Vân Tiên chiến đấu vì người dân gặp nạn, cứu dân, trừ ác, vì việc nghĩa... hành động đó thật giản dị, vô tư trong sáng và cao đẹp biết bao. Cuộc chiến đấu của chàng y như trận đánh của Thạch Sanh„ diệt đại bàng cứu nàng công chúa. Sức mạnh của Lục Vân Tiên là sức mạnh của nhân dân, của điều thiện.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đêu quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Lời thơ chân chất, có chỗ còn thô mộc, song hồn thơ chan chứa dạt dào. Đọc Lục Vân Tiên, chúng ta thường gặp nhiều câu chữ chân mộc như thế. Thơ chân mộc nhưng cảm hứng tác giả vẫn bay bổng, mộng mơ. Ngỡ như người thi sĩ mù ấy vừa kể chuyện vừa rung đùi thích thú, gửi tới bạn đọc một lẽ phải nhãn tiền: Người có lòng nhân, biết làm việc nghĩa thì sẽ thắng. Kẻ độc ác, bất nhân sẽ thảm bại như thế đấy. Xuất phát từ lòng nhân, Lục Vân Tiên đã làm được một việc "nghĩa", một việc xứng đáng được gọi là anh hùng.
Tự nguyện dấn thân vào vòng nguy hiểm, chiến đấu hết mình, thắng lợi rực rỡ,... tất cả đều vì nhân nghĩa, nên sau thắng lợi, Lục Vân Tiên không một chút kiêu ngạo. Trái lại, chàng thật khiêm nhường, chính trực. Nghe cô hầu Kim Liên than thở nhưng vẫn còn hoảng sợ, Vân Tiên động lòng thương, an ủi: "Ta đã trừ dòng lâu la".
Rồi ôn tồn, chàng thăm hỏi ngọn ngành từ tên họ, gia cảnh đến quê hương, nguyên cớ gặp nạn của hai cô gái. Trong lời chàng, có ý còn lạc hậu, ảnh hưởng quan niệm phong kiến "Nam nữ thụ thụ bất thân", song tất cả đều chân thành, duns dị, rất đáng mến. Đáng mến, đáng phục hơn nữa là sau khi nghe cô tiểu thư Kiều Nguyệt Nga (nạn nhân được chàng cứu giúp) kể lể, thở than, ca ngợi và tha thiết muốn đền ơn, thì: Vân Tiên nghe nói liền cười
"Cái cười đáng yêu, đáng kính sao ! Một là cái cười của anh hùng quân tử, hai là cái cười của anh con trai, ba là cái cười của quần chúng rộng lượng, đều nở trên môi Vân Tiên" (Xuân Diệu - Đọc lại thơ văn Nguyễn Đình Chiểu). Sau nụ cười đáng yêu ấy là lời nói, cũng rất đáng yêu:
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Đúng là giọng nói, cách nói của chàng trai Nam Bộ - nôm na, giản dị. Nó cất lên từ một cõi lòng chất phác. Chất phác, là cái bên ngoài là cái vỏ xù xì, thô nháp. Nhưng phía trong, phần ruột thì cao đẹp, thắm đỏ, ngọt ngào thơm thảo một quan niệm nhân sinh rất hào hiệp, vô tư của một lớp người, một thế hệ con người. Chúng ta hiểu lời của Lục Vân Tiên như thế nào?. Trước hết, chàng khẳng định việc mình làm là hoàn toàn tự nguyện.
Gọi là ơn cũng được. Hay nên xem đó là việc "nghĩa" ? Làm việc "nghĩa" thì không nên đợi trả ơn, tính hơn thiệt,... vì "ơn nghĩa" là lẽ thông thường của người sống có văn hoá, đang theo đòi kinh sử, người hướng về nghĩa khí, lấy nghĩa lớn, lấy chữ nhân, lòng nhân làm động cơ, làm mục đích cho mọi hành động.
Chàng đã hành động vì nghĩa lớn trừ kẻ ác, bảo vệ người lương thiện. Chàng chỉ mong Nguyệt Nga cũng như mọi người "rõ đặng nguồn cơn" - nghĩa là hiểu rõ, cảm thông với hành động của chàng. Sau nữa, chàng nhắc tới sử sách, nhắc lời các bậc hiền nhân xưa. Người xưa nói: "Kiến ngãi bất vi vô cùng dã". Nghĩa là "Thấy việc nghĩa mà không làm, không phải người dũng cảm".
Cách nói của chàng giản dị hơn: "Nhớ câu kiến ngãi bất vi - Làm người thế ấy cũng phi anh hùng". "Phi anh hùng" là những kẻ tiểu nhân, hèn nhát. Lời của Vân Tiên chắc nịch, vừa để đối chứng, phê phán những kẻ tầm thường, vừa khẳng định việc làm là đúng đắn, là tất yếu, hiển nhiên, thuộc căn cốt, gốc rễ trong lẽ sống của minh.
Đó cũng là lẽ sống của biết bao hiền nhân, quân tử ngày xưa, và bao con người chân chính ngày nay. Lời chàng, nhân cách của chàng, gợi nhớ Từ Hải, nhân cách Từ Hải trong Truyện Kiều: "Anh hùng tiếng đã gọi rằng - Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha". Thế đấy, Lục Vân Tiên thật dũng cảm, trọng nghĩa, khinh tài, tiêu biểu cho những chàng trai Nam Bộ.
Còn Kiều Nguyệt Nga là một cô gái hiền hậu, nết na biết trọng nghĩa tình. Sau khi được cứu thoát khỏi tay bọn bất nhân, độc ác, nàng vô cùng xúc động. Nàng đã nói những lời đẹp nhất để cảm ơn ân nhân:Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
Nói "Tiết trăm năm" là nói việc hộ trọng của cả một đời người. "Lạy rồi sẽ thưa" cũng là một thái độ kính nể, thiêng liêng trong quan hệ của con người. Một cô tiểu thư vốn quen được yêu chiều, quen được bảo vệ, chở che mà xử sự như thế, hạ mình như thế, đâu phải chuyện dễ dàng. Nguyệt Nga là tiểu thư - con quan tri phủ - nàng được giáo dục chu đáo, nàng gắn bó với những người dân, nên tiếp nhận được đạo đức của nhân dân.
Đạo đức ấy là chữ "ân", chữ "nghĩa". Do đó, sau những phút giao đãi mở đầu, nàng thẳng thắn bày tỏ ý nguyện đền đáp công lao cứu mạng của Lục Vân Tiên. Thái độ và lời nói của nàng có cái gì lúng túng, ngượng ngập, nhưng chất phác, "nghe thánh thót bên tai giọng nói của cô gái miền Nam" (Xuân Diệu):
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công,
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi.
Nguyệt Nga nói tới "của tiền", "vàng bạc" để giãi bày sự thiếu hụt về vật chất. Lại nói tới "báo đức thù công" - đền đáp ơn đức, công lao. Rồi than thở "Lấy chi cho phí tấm lòng..." để giãi bày sự lúng túng vé tinh thần, những xúc động có thật của một tâm hồn trong trắng. Sau đó Nguyệt Nga cố mời Vân Tiên về nhà mình để tạ ơn. Nhưng chàng từ chối. Nàng băn khoăn, day dứt khôn nguôi.
Chỉ đến khi thấy "Vân Tiên nghe nói liền cười..." và an ủi: "Nhớ câu kiến ngãi bất vi - Làm người thế ấy cũng phi anh hùng", Nguyệt Nga mới khuây khoả hỏi thăm gia cảnh tuổi tên của vị ân nhân. Vậy đấy, ngay phút gặp gỡ ban đầu với Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga đã tỏ rõ một tâm hồn trung hậu, nết na. Tâm hồn ấy bắt nguồn từ đâu, nếu không phải từ đạo lí nhân nghĩa của nhân dân ta, nhất là nhân dân Nam Bộ cùng quê hương với Nguyễn Đình Chiểu. Nhiều nhà nghiên cứu văn học cho rằng: Lục Vân Tiên là Truyện Kiều của nhân dân Nam Bộ.
Vân Tiên, Vân Tiên, Vân Tiên,
Cho tôi một tiền, tôi kể chuyện thơ...
Những nghệ sĩ hát rong vùng đồng bằng sông Cửu Long, thường giáo đầu bài hát Lục Vân Tiên bằng câu ca như thế. Ngay sau đó, buổi diễn xướng dân gian được đông đảo bà con hưởng ứng, quây tròn quanh người kể chuyện. Người diễn, người nghe giao hoà, say đắm hàng giờ, hàng buổi. Một trong những đoạn truyện được mọi người yêu thích là đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Ngư.
Yêu thích không phải vì văn chương chải chuốt, nghĩa lý thâm trầm như Truyện Kiều, mà trước hết vì: đoạn trích thể hiện khát vọng hành đạo giúp đời của Nguyễn Đình Chiểu và khắc họa phẩm chất đẹp đẽ của hai người trẻ tuổi - Lục Vân Tiên tài ba dũng cảm, trọng nghĩa khinh tài ; Kiều Nguyệt Nga nết na, nhân hậu, ân tình.
Tất cả những vẻ đẹp ấy của đoạn thơ phù hợp với phong cách sống, với ước mơ, khát vọng giản dị mà trong sáng của nhân dân ta, mãi mãi dạy chúng ta bài học đạo đức thiết thực và cao cả biết bao.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 5
Từ biệt tôn sư về đi thi, giữa đường bất chợt gặp cảnh lũ cướp hoành hành, Lục Vân Tiên vụt dũng mãnh như chàng Thạch Sanh trong truyện cổ tích. Nhân vật ấy đọng mãi trong lòng người đọc là hình ảnh xả thân cứu Kiều Nguyệt Nga:
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô.
Kêu rằng: "Bớ đảng hung đồ,
Chớ quen cái thói hồ đồ hại dân"...
Có cảm giác là sự việc diễn ra quá bất ngờ, nhanh chóng. Bất ngờ cũng phải thôi, vì Vân Tiên "giữa đường gặp cảnh bất bình", hoàn toàn ngẫu nhiên. Không kịp suy nghĩ, không kịp đắn đo, chàng bất chấp hiểm nguy, ra tay cứu giúp. Chàng là ai? Người được che chở không hề biết; chỉ biết chàng đang quyết liệt sống mái với lũ cướp đường. Quả thật, theo mạch truyện, chính Vân Tiên đã bị cuốn vào trận đấu một cách không chủ động. Chàng có thể tránh xa nếu là người hèn nhát, có thể dửng dưng nếu là một kẻ ích kỷ...Vân Tiên đã không bàng quan, không để ngoài tai, ngoài mắt những điều trông thấy. Và sự bất ngờ "vào cuộc" của chàng tạo nên thế tự chủ vững vàng trong cái ngẫu nhiên ấy. Giá như Vân Tiên biết rằng người bị cướp tấn công là nàng Kiều Nguyệt Nga xinh đẹp, hiền thục; giá như chàng kịp dừng lại để suy nghĩ một chút thiệt hơn thì đoạn thơ sẽ mất đi cái hấp dẫn của tư thế chủ động "tả đột hữu xông; khác nào Triệu Tử mở vòng..." mạnh mẽ ấy. Ta gặp một chàng trai Nam Bộ thực sự cương trực và... hơi liều lĩnh nữa; thấy cảnh bọn cướp "làm thói hồ đồ hại dân" là xông vào đánh hết mình, đánh bằng lòng căm hờn của một đấng nam nhi quả cảm, bằng tài võ nghệ điêu luyện. Hình ảnh Vân Tiên ngang tàng xông pha giữa đám đầu trâu mặt ngựa như biểu hiện của chính nghĩa đang trừng trị cái ác, cái xấu. Nhân nghĩa và can trường biết bao!
Không hiện lên trước mắt người đọc như một Từ Hải "vai năm tấc rộng, thân mười thước cao", cũng không "vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa" như Kim Trọng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhưng qua lời nói, việc làm của Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo được ấn tượng đậm nét về chàng. Làm ơn mà không màng được trả ơn là cách sống của người quân tử xưa nay; nhưng thái độ của Lục Vân Tiên trước tình cảnh và sự hàm ơn của Nguyệt Nga lại có những nét riêng rất đáng yêu. Mạnh mẽ, xông xáo trong cuộc chiến với lũ cướp bao nhiêu, chàng lại nhút nhát và e dè trước người con gái nhờ mình mà thoát nạn bấy nhiêu. Khi Nguyệt Nga định bước ra tạ ơn, Vân Tiên ngượng ngùng:
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai...
Dẫu chưa nguôi sợ hãi, chắc rằng Nguyệt Nga khó mà giấu được nụ cười kín đáo trước chàng trai nhát gái này. Có lẽ người ta sẽ không buột miệng nói như thế nếu là một kẻ thạo đời, lọc lõi trong tiếp xúc với phụ nữ. Liệu hình ảnh Lục Vân Tiên có đẹp một cách trọn vẹn nếu như chàng tỏ ra vồ vập đối với Nguyệt Nga? Thì ra tâm hồn, bản chất chàng trai họ Lục thật trong sáng, tươi trẻ. Càng đáng quý hơn nữa khi cái chất trong trẻo, hiền lành ấy ẩn chứa sau một tính cách khí khái, dũng cảm. Sự cứng rắn của thép, nét non nớt, thư sinh của chàng trai vừa bước vào đời hài hòa trong con người Vân Tiên. Không chỉ qua hành động, cách giao tiếp mà cách ứng xử cũng bộc lộ rõ phẩm cách của chàng. Dám liều mình cứu người, lời lẽ đanh thép khi giao chiến với giặc cướp, để rồi trước một cô gái dịu dàng, Vân Tiên không tránh khỏi ngại ngùng bẽn lẽn - điều đó tự nhiên đã biểu lộ một lối sống lành mạnh, có giáo dục, nề nếp. Lời nói, thái độ khiêm nhường, nhã nhặn: "Làm ơn há dễ trông người trả ơn", "Nhớ câu kiến ngãi bất vi, Làm người thế ấy cũng phi anh hùng"... vừa cho ta cảm cái tâm nhân ái, vừa khâm phục trước quan niệm sống trọng nghĩa của Vân Tiên.
Cái nhìn, cách nghĩ của nhà văn bao giờ cũng lộ rõ trong tác phẩm, trong cách thể hiện hình tượng, chi tiết... Có ý kiến cho rằng, cuộc đời Lục Vân Tiên là hình bóng cuộc đời nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Chỉ qua vài chi tiết nhỏ - Vân Tiên "bẻ cây làm gậy" có thể thấy được cảm quan hiện thực của nhà thơ. Không rút gươm, rút kiếm một cách oai phong như các binh tướng hay văn nhân quý tộc cao đạo, hành động của chàng chỉ mang tính dân dã, bộc trực. Bất kỳ một người con trai bình dân nào cũng có thể bẻ cây làm gậy để làm việc nghĩa, không cầu kì, chẳng nề hà. Thực chất ở đây, Vân Tiên vẫn là một chàng trai có học, sống giữa những người lao động, chưa phải là một quan chức của nhà nước phong kiến như ở đoạn sau. Ghi một cử chỉ ấy thôi, người đọc đã thấy rõ sự gắn bó mật thiết giữa tâm hồn, tình cảm của nhà thơ với cuộc sống nhân dân, hồn hậu như hạt lúa, củ khoai. Việc làm và cách nghĩ của Lục Vân Tiên như minh chứng cho quan niệm của Nguyễn Đình Chiểu về lẽ sống ở đời:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
Vẫn là những vần thơ mang đậm phong cách dân gian quen thuộc nhưng được tác giả gọt giũa và nâng cao, tạo được sự hấp dẫn, thích thú đối với người đọc, nhất là trong những lời đối thoại giữa Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga. Lời thơ trau chuốt, không còn là thứ ngôn ngữ mộc mạc thường ngày:
Chút tôi liễu yếu đào thơ,
Giữa đường gặp phải bụi dơ đã phần.
Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng...
Đây đúng là lời lẽ của một tiểu thư con nhà khuê các, có giáo dục. Và điều đó cùng chứng tỏ nhà thơ đã rất dụng công khi dùng câu chữ và có dụng ý khi thể hiện nhân vật.
Lấp lánh sau những câu thơ giản dị, hồn hậu là nét đẹp của phẩm cách, tấm lòng đáng quý, đáng phục của Vân Tiên, Nguyệt Nga... Đoạn thơ ngời sáng như chính cái tâm nhân ái của cụ Đồ Chiểu.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 6
Trong tác phẩm Lục vân Tiên, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên hình tượng một con người lý tưởng với những vẻ đẹp toàn diện, mà nổi bật lên trong những vẻ đẹp đó chính là tính chính nghĩa cao đẹp. Trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện lại phẩm chất tốt đẹp đó qua hành động trừ bạo cho dân.
Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga nằm trong phần mở đầu của tác phẩm. Nghe tin triều đình mở khoa thi, Vân Tiên giã từ thầy xuống núi đua tài. Trên đường về nhà thăm cha mẹ, Vân Tiên đã gặp bọn cướp Phong Lai đang hoành hành, bóc lột của dân lành. Một mình chàng đã đánh tan bọn cướp, cứu được Kiều Nguyệt Nga.
"Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Giang
Lâu la bốn phía vỡ tan”
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay"Trên đường về quê,Lục Vân Tiên đã bắt gặp cảnh chướng tai gai mắt, đó chính là sự hoành hành đầy ngang ngược của bọn cướp Phong Lai. Không tính toán thiệt hơn, được mất,Lục Vân Tiên đã bẻ cây bên đường làm gậy xông vào lũ cướp để giải cứu người dân lương thiện vô tội. Không chỉ hành động mà lời nói của chàng cũng thể hiện được con người đầy chính nghĩa của chàng "Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân", đó là lời cảnh cáo nhưng cũng là tuyên ngôn sống của chàng,người chân chính là phải bảo vệ nhân dân chứ không phải mang lại đau khổ cho họ.
"Phong Lai mặt đỏ phừng phừng
Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây
Trước gây việc dữ tại mầy
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng"
Đang cướp bóc thì có người phá hỏng "chuyện tốt" của mình, Phong Lai đã vô cùng giận dữ, khuôn mặt của hắn "đỏ phừng phừng" cho thấy đây là con người bạo tàn, gian ác. Trước hành động chính nghĩa của Vân Tiên thì Phong Lai đã vô cùng coi thường mà buông lời thách thức đầy giễu cợt "Thằng nào dám đến lẫy lừng vào đây" và còn nói trước kết cục bi thảm của Tiên khi dám phá hỏng một vụ kiến trác béo bở của chúng "Trước gây việc dữ tại mày", sau đó hôn quân kéo bầy bủa vây, tấn công Vân Tiên.
"Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Giang
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay"
Trước sự tấn công của bọn Phong Lai, Lục Vân Tiên đã không hề nao núng mà tả đột hữu xung, với các miêu tả này ta vừa có thể hình dung ra những hành động nhanh chóng, chính xác, vừa thể hiện được bản lĩnh hơn người của Vân Tiên. Và trong cái nhìn của NGuyễn Đình Chiểu thì hành động anh hùng này giống như hình tượng đầy oan phong của Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang, lập được công trạng lớn. Bọn cướp Phong Lai chẳng mấy chốc bị đánh cho tan tành, sợ hãi mà tháo chạy, Phong Lai bị Vân Tiên trừng trị thẳng tay "thác rày thân vong"
"Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi ai than khóc ở trong xe này
Thưa rằng: Tôi thiệt người ngay
Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ"
Sau khi đánh tan lũ cướp, Lục Vân Tiên quan tâm đến hỏi thăm người bị hại, nghe tiếng khóc sợ hãi từ trong kiệu, Vân Tiên đã cất tiếng thăm hỏi "ai than khóc ở trong xe này" thì trong xe vọng ra tiếng đáp của một người con gái, nàng đã kể lại hết sự tình cho Vân Tiên nghe, nàng là một người dân thiện lương, vì sa cơ nên mới lọt vào tay của bọn hung đồ "sa cơ nên mới lầm tay hung đồ". Nàng còn bày tỏ mong muốn gặp mặt,cúi đầu bày tỏ sự biết ơn trước sự hành động ra tay nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên:
"Trong xe chật hẹp khôn phô
Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng"
Tuy nhiên, quan điểm sống của Lục Vân Tiên là "làm ơn há dễ trông người trả ơn" đã từ chối lời yêu cầu của Kiều Nguyệt Nga, và một lí do nữa được chàng đưa ra đó chính là sự khác biệt về thân phận, giới tính. Trong quan niệm phong kiến xưa thì "nam nữ thụ thụ bất thân", vì vậy nên Lục Vân Tiên không muốn cuộc gặp gỡ này ảnh hưởng đến tiết hạnh của Nguyệt Nga. Qua đây ta thấy được Vân Tiên là một con người sống chuẩn mực đối với những lễ nghĩa của phong kiến và là người biết quan tâm đến người khác:
"Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai"
Đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga là đoạn trích hay, hấp dẫn đối với người đọc bởi sự chính nghĩa, ngay thẳng, kiên cường của Lục Vân Tiên, qua cuộc trò chuyện với Kiều Nguyệt Nga ta còn thấy đây là con người có nhiều phẩm chất đáng quý, đáng trân trọng.
Phân tích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - mẫu 7
Truyện Lục Vân Tiên là một trong những tác phẩm đặc sắc nhất của Nguyễn Đình Chiểu, truyện nói về nhân vật Lục Vân Tiên – người anh hùng trượng nghĩa, văn võ song toàn và phẩm chất tốt đẹp. Trong đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã thể hiện được rõ con người và nhân cách của Lục Vân Tiên.
Trên đường đi thi, Vân Tiên bất chợt gặp cảnh lũ cướp hoàng hành, không kịp suy nghĩ, hay đắn đo, chàng bất chấp hiểm nguy mà ra tay cứu giúp:
“Vân Tiên ghé lại bên đàng…
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Trong hoàn cảnh gấp rút cứu người ấy chàng không kịp chuẩn bị gì mà chỉ tiện tay bẻ cành cây bên đường làm vũ khí chiến đấu với bọn cướp. Chàng không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà còn thể hiện trong lời nói. Chàng chỉ trích và phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng chính là lời tuyên bố về quan điểm sống đầy cao đẹp của chàng. Sống là phải hướng đến bảo vệ cho người dân lành, chứ không phải mang đến những đau khổ, đày đọa cuộc sống của họ. không cho phép những hành động “hồ đồ” xâm hại tới những con người lương thiện. Đoạn thơ đã cho thấy Vân Tiên không chỉ có tình thương với con người mà còn có tinh thần trách nhiệm cao cả. Điều này đã được thể hiện trong cảnh chàng chống lại với lũ cướp:
“Vân Tiên tả đột hữu xông…
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
Hành động nhanh, mạnh, dứt khoát của Vân Tiên được tác giả ví với người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng đương Dang. Trước sức mạnh và tài nghệ của Vân Tiên, bọn cướp đã bị đánh tan tác, hoảng loạn bỏ chạy, đó là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ hại người. Sau khi đã dẹp tan bọn cướp, chàng Vân Tiên liền tới gần hỏi thăm người bị nạn:
“Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi: Ai than khóc ở trong xe này”
Vân Tiên không chỉ cứu giúp mà còn hết lòng quan tâm đến người gặp nạn. Chàng hỏi thăm ân cần, động viên và giúp người bị nạn trấn tĩnh tinh thần. Khi trò chuyện với người bị nạn là Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên đã biết là nữ nhi nên đã nhanh miệng:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai”
Câu nói ấy đã thể hiện Lục Vân Tiên là một người rất coi trọng đạo lý và khuôn phép xã hội. Không muốn sự gặp mặt sẽ ảnh hưởng đến phẩm tiết của nàng vì “nam nữ thụ thụ bất thân”. Có thể thấy Lục Vân Tiên không chỉ là một người có học thức, hơn thế chàng còn là một người hào hiệp, trượng nghĩa. Chàng không muốn nhận sự cúi lạy của Kiều Nguyệt Nga cũng như sự báo đáp của nàng, bởi hành động của chàng xuất phát từ tấm lòng chứ không vì mục đích được đền đáp. “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, câu nói của chàng với Kiều Nguyệt Nga đã khiến cho người đời rất đáng trân trọng và noi theo:
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Đối với Vân Tiên, chàng coi việc nhân nghĩa trên đời là điều tất yếu, nếu làm ơn mà vì được đến đáp, trông ngóng đến việc trả ơn thì đó không còn là người anh hùng.
Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” đã khắc họa một cách rõ nét, chân thực và đầy sống động về người anh hùng trượng nghĩa Lục Vân Tiên, đó là một hình mẫu anh hùng lí tưởng và khát vọng về lẽ công bằng ở đời.
Bài giảng: Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:
Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga (Bài văn mẫu 1)
Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga (Bài văn mẫu 2)
Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga (Bài văn mẫu 3)
Phân tích đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga (Bài văn mẫu 4)
Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn tự sự
- Mục lục Văn nghị luận xã hội
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 1
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 2
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9 và Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều