10+ Dàn ý Hình ảnh người bà (siêu hay)



Tổng hợp Dàn ý Hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa hay nhất, ngắn gọn giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

10+ Dàn ý Hình ảnh người bà (siêu hay)

Quảng cáo

Bài giảng: Bếp lửa - Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)

Dàn ý Hình ảnh người bà - mẫu 1

I. Mở bài

Giới thiệu về tác giả Bằng Việt và tác phẩm thơ Bếp lửa

Nêu khái quát nội dung, nghệ thuật của tác phẩm: bài thơ gợi lên những kỉ niệm sâu sắc về tuổi thơ, tình bà cháu thiêng liêng, cảm động

- Hình ảnh người bà nhân hậu, giàu tình yêu thương, sự hi sinh vì con cháu hiện lên thật giản dị, gần gũi và ấm áp

II. Thân bài

Hình ảnh bếp lửa nơi xứ người gợi lên nỗi nhớ bà, nhớ quê hương

- Dòng hồi tưởng về bà, về tuổi thơ được khơi gợi từ hình ảnh thân thương- bếp lửa

    + Bếp lửa “chờn vờn sương sớm” và “ấp iu nồng đượm” ùa về trong tâm trí người cháu hình ảnh người bà nhân hậu với tấm lòng chi chút của người nhóm lửa

Quảng cáo

- Bếp lửa thực tự nhiên khi xa xứ đánh thức dòng cảm xúc, nỗi nhớ luôn trực chờ trong lòng người cháu về bà: cháu thương bà lặng lẽ, âm thầm

Bài thơ gợi lại kỉ niệm ấp áp, êm đềm của tuổi thơ khi bên bà

    + Tuổi thơ đứa cháu là những chuỗi ngày thiếu thốn, khó khăn “đói mòn đói mỏi” dường như ám ảnh, xót xa cho người cháu mỗi khi nhớ lại

    + Nhưng có bà, cuộc sống của cháu luôn tràn ngập tình yêu thương, đầm ấm

    + Bên cạnh bếp lửa, âm thanh của tiếng tu hú gợi lên hình ảnh hai bà cháu gắn bó, chia sẻ tình cảm nồng ấm suốt 8 năm trời.

- Bà luôn ân cần đảm nhiệm nhiều vai trò khi chăm sóc cháu: biện pháp liệt kê “bà bảo, bà chăm, bà dạy” diễn tả sâu sắc và cảm động sự nhân hậu, tình yêu thương cháu và sự chăm sóc chi chút cho cháu của bà

    + Bà trở thành chỗ dựa vững chắc cho cháu, lấp đầy những thiếu thốn về vật chất và tinh thần của đứa cháu

Quảng cáo

- Trong hoàn cảnh chiến tranh tàn phá, bà vững lòng, bình tĩnh tạo niềm tin cho con cháu

    + Hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa ấm áp từ tình thương yêu, sự hi sinh của bà đối lập với ngọn lửa hung tàn, tiêu diệt sự sống của kè thù (năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi)

→ Mạch cảm xúc xen với lời kể, cùng hình ảnh thơ lan tỏa hiện lên rõ nét đã để lại dấu ấn sâu đậm về người bà

Những suy ngẫm về cuộc đời bà và hình tượng bếp lửa

- Từ những hoài niệm về bà, người cháu suy ngẫm, chiêm nghiệm về cuộc đời bà

    + Hình ảnh của bà luôn gắn chặt với hình ảnh bếp lửa ấm áp, thân thuộc

    + Trong lòng bà luôn có một “ngọn lửa” “ủ sẵn”, đây là ngọn lửa của niềm tin, ý chí, nghị lực và khát vọng sống

    + Điệp từ “một ngọn lửa” nhấn mạnh vào tình yêu thương cũng như tấm lòng nhân hậu của bà dành cho cháu

Quảng cáo

    + Ngọn lửa đó thắp lên niềm tin, tình yêu và nghị lực sống tin tưởng vào ngày mai cho đứa cháu

- Hình ảnh người bà tần tảo khuya sớm, là người thắp lửa, giữ lửa truyền tới thế hệ trẻ

    + Mặc dù cuộc đời bà trải qua “nắng mưa” lận đận, nhưng bà luôn lạc quan, tin tưởng và dành những điều tốt đẹp cho con cháu

    + Động từ “nhóm” được lặp đi lặp lại nhằm khẳng định : bà chính là người khơi dậy những giá trị sống tốt đẹp trong cuộc đời mỗi con người. Bà đã truyền hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn cháu tình yêu thương ruột thịt, sự cảm thông chia sẻ

    + Từ đó nhà thơ khám phá ra điều kì diệu giữa cuộc đời bình dị “Ôi kì lạ và thiêng liêng- bếp lửa”

- Khổ thơ cuối là lời tự bạch của người cháu khi trưởng thành, xa quê

    + Dù xa quê hương, xa bà nhưng người cháu vẫn luôn nhớ và hướng về bà với niềm yêu thương, sự biết ơn vô hạn

III. Kết bài

Tác giả xây dựng thành công hình tượng bếp lửa để làm sáng lên phẩm chất đáng quý của bà. Qua đó thể hiện tình cảm yêu quý, kính trọng bà của người cháu xa quê nhưng luôn nhớ và biết ơn sự hy sinh, chăm sóc, dạy bảo của bà.

Dàn ý Hình ảnh người bà - mẫu 2

1. Mở bài

- Tác giả, tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác.

- Qua việc sáng tạo hình ảnh bếp lửa, nhà thơ đã bày tỏ thái độ kính yêu và biết ơn vô hạn đối với người bà của mình. Đó là người bà tần tảo, chịu thương chịu khó và giàu đức hi sinh.

2. Thân bài

2.1. Khái quát: 

Bếp lửa là bài thơ thành công viết về tình bà cháu. Trên đất nước bạn xa xôi, nhà thơ bất chợt bắt gặp hình ảnh bếp lửa. Đó là bếp lửa thật nhưng cũng có thể là bếp lửa hiện lên trong trí tưởng tượng. Nghĩ đến bếp lửa, nhà thơ nghĩ về bà.

2.2. Phân tích

* Luận điểm 1: Bà là người chịu thương chịu khó, tần tảo hi sinh

- Tuy giờ đây được sống trong điều kiện vật chất đầy đủ với tiện nghi hiện đại, nhưng mỗi lần nhớ về bếp lửa, cháu lại nhớ về bà - người bà với cuộc đời biết bao vất vả, lam lũ.

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

- Cụm từ "biết mấy nắng mưa" diễn tả vòng tuần hoàn khép kín của thời gian. Tình cảm mà cháu dành cho bà vượt qua thời gian, qua năm tháng. Hình ảnh "nắng mưa" là ẩn dụ đặc sắc cho cuộc đời lận đận lắm đắng cay, cơ cực của bà.

- Kí ức còn đưa nhà thơ trở về với nạn đói rùng rợn năm 1945. Cái đói chỉ là cái cớ để tác giả gợi nhớ về một tuổi thơ nhiều đắng cay cơ cực, thiếu thốn về vật chất nhưng không thiếu thốn nghĩa tình. Vượt lên trên gian khổ, thiếu thốn, vượt lên trên cái "đói mòn đói mỏi", với sự chịu thương chịu khó, tần tảo lam lũ, bà đã cùng mọi người vượt qua những năm tháng cơ cực ấy.

- Sự tần tảo và đức hy sinh chăm lo cho người của bà được tác giả thể hiện trong một chi tiết rất tiêu biểu

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.

+ Cuộc đời bà là một cuộc đời đầy gian truân, vất vả, nhiều lận đận, trải qua nhiều nắng mưa tưởng như không bao giờ dứt. Hình ảnh người bà cũng là hình ảnh của bao người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh dù gian truân vất vả vẫn sáng lên tình yêu thương.

* Luận điểm 2: Bà là người phụ nữ nông thôn thuần hậu nhưng có bản lĩnh vững vàng, là chỗ dựa tinh thần cho con cháu.

- Tuy chỉ là một người phụ nữ nông thôn thuần phác, thật thà nhưng ẩn đằng sau đó là sự kiên cường, bản lĩnh vững vàng, là sức sống mãnh liệt, dẻo dai. Bà đã giúp mọi người trong gia đình vượt qua nạn đói 1945 để đến bây giờ mỗi khi nghĩ lại cháu vẫn thấy “sống mũi còn cay”. Nhớ về bà, cháu nhớ về những năm mà thực dân Pháp chiếm đóng. Hiện thực đau thương như được tái hiện lên qua từng câu chữ:

Năm giặc đốt nhà cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

- Trong gian khổ khó khăn, bà vẫn không gục ngã. Bà vẫn "vững lòng" dặn cháu:

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo ở nhà vẫn được bình yên

- Qua lời bà dặn cháu ta thấy được tâm hồn thật đẹp. Bà là người lo lắng, yêu thương con cháu, nhân hậu và giàu đức hi sinh. Bà muốn con được yên tâm công tác nên đã một mình vượt qua tất cả những khó khăn nơi quê nhà.

- Như vậy ta thấy rằng, dẫu chiến tranh tàn phá, đau khổ chồng chất cũng không thể thay đổi ý chí, niềm tin của bà. Bà là hiện thân đầy đủ nhất, sinh động nhất cho hậu phương lớn. Bà chính là điểm tựa, chỗ dựa tinh thần cho con cháu:

Rồi sớm chiều bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng

- Chính bà đã nhóm lên ngọn lửa - ngọn lửa của tình yêu thương, niềm tin bất diệt. Bởi đó là ngọn lửa - trái tim, tình cảm và tâm hồn bà. Bà đã truyền cho cháu nghị lực, niềm tin một cách tự nhiên như người truyền lửa cho thế hệ sau. Một ngọn lửa thổi bùng lên mơ ước, khát vọng về ngày mới thanh bình.

* Luận điểm 3: Bà là người yêu thương, chăm sóc và dạy cháu lên người. Bà đã nhóm lên trong cháu tình yêu thương, mơ ước và khát vọng về tương lai

- Trong những năm đói khổ tuổi thơ của tác giả vẫn luôn tươi sáng bởi bên nhà thơ luôn có bà. Nhà thơ luôn nhận được tình yêu thương, sự chăm sóc của bà. Đó là thời gian:

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

- Bố mẹ đi công tác, cháu sống trong sự yêu thương, đùm bọc, chăm sóc của bà. Bà đã thay con nuôi cháu khôn lớn trưởng thành..

- Cấu trúc song hành góp phần khẳng định vai trò của bà với cuộc đời cháu. Đồng thời còn nói lên tình yêu thương vô bờ mà bà đã dành cho đứa cháu bé bỏng. Không chỉ chăm sóc, nuôi nấng, dạy dỗ cháu khôn lớn trưởng thành mà bà còn là người nâng đỡ, chắp cánh ước mơ cho cháu. Nếu cơm gạo của bà nuôi lớn cháu về thể xác thì tình yêu thương của bà nuôi lớn cháu về tinh thần, vể ý chí, nghị lực niềm tin. Để rồi, mỗi khi nhớ về bà, cháu lại nhớ về hình ảnh:

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

- Cũng chính bàn tay bà đã nhóm lên bếp lửa với khoai sắn ngọt bùi, với nồi xôi gạo mới làm ấm lòng cháu những ngày đông tháng giá. Và cũng chính là bà đã thổi bùng lên trong cháu ngọn lửa của tình yêu thương, khát vọng và ước mơ. Bà đã trở thành người bạn lớn, chia sẻ tâm tình. Cháu khôn lớn và trưởng thành như ngày hôm nay phần lớn là nhờ công lao chăm sóc, dạy dỗ của bà. Hình ảnh bà và bếp lửa đã trở thành kí ức thiêng liêng nâng đỡ cháu trên suốt chặng đường đời.

* Đánh giá nâng cao:

- “Bếp lửa” là bài thơ cảm động viết về tình bà cháu. Qua lời thơ dung dị của Bằng Việt ta thấy hiển hiện hình ảnh một người bà thật đẹp - người bà Việt Nam.

- Phải là người yêu bà sâu sắc và mãnh liệt mới có thể tạo nên những dòng thơ chân thành, chứa chan tình cảm dành cho bà đến như vậy.

3. Kết bài:

- Giọng thơ chân thành, sâu lắng.

- Bài thơ là tiếng lòng của đứa cháu xa bà.

- Cảm ơn Bằng Việt cho ta bài thơ hay viết về tình cảm con người, giáo dục chúng ta trân trọng tình cảm gia đình, quê hương, đất nước.

Dàn ý Hình ảnh người bà - mẫu 3

I. Mở đầu

Giới thiệu về bài thơ "Bếp lửa" và tác giả Bằng Việt.

Nêu ý nghĩa của hình ảnh người bà trong bài thơ.

II. Nội dung chính phân tích hình ảnh người bà

- Hình ảnh nhân hậu và tình yêu thương:

Miêu tả sự nhân hậu, tình yêu thương của người bà đối với người cháu.

Các dòng thơ gợi lên hình ảnh người bà như một nguồn yêu thương vô điều kiện, luôn sẵn lòng chăm sóc và bảo vệ người cháu.

- Sự hi sinh và lòng hiếu thảo:

Phân tích cách người bà hi sinh cho người cháu thông qua việc làm bếp lửa.

Hình ảnh bếp lửa là biểu tượng cho sự hy sinh, cống hiến và lòng hiếu thảo của người bà với người cháu.

- Tình yêu thương và sự gắn kết:

Diễn tả tình yêu thương và sự gắn kết đặc biệt giữa người bà và người cháu.

Hình ảnh bếp lửa kết hợp với âm thanh tiếng tu hú tạo nên sự gắn bó, chia sẻ và tình cảm nồng ấm giữa hai người.

- Vai trò của người bà trong cuộc sống:

Liệt kê các vai trò mà người bà đảm nhận như chăm sóc, dạy dỗ và cung cấp sự an ủi cho người cháu.

Hình ảnh người bà thể hiện sự quan tâm nhỏ nhặt và sự dịu dàng trong việc chăm sóc người cháu.

III. Kết luận

Tổng kết những hình ảnh và ý nghĩa của người bà trong bài thơ.

Nêu lại vai trò quan trọng của người thân trong cuộc sống và tình yêu thương gia đình được thể hiện trong bài thơ.

Dàn ý Hình ảnh người bà - mẫu 4

1. Mở bài:

- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.

- Khái quát về hình tượng người bà.

2. Thân bài:

a) Hình ảnh người bà chịu thương, chịu khó:

- "Một bếp lửa chờn vờn sương sớm/Một bếp lửa ấp iu nồng đượm": Những bếp lửa được bà nhóm lên bằng tất cả yêu thương dành cho cháu.

- "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa":

+ "thương": thể hiện tình cảm người cháu dành cho bà.

+ "nắng mưa": hình ảnh ẩn dụ gợi lên những vất vả, khó khăn mà bà phải trải qua.

- Cuộc đời đầy những lam lũ, vất vả nhưng bà vẫn luôn nhóm lên những bếp lửa thân thương cho cháu: "Bà vẫn giữ đói quen dậy sớm/Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm/Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi/Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui/ Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ".

=> Cuộc đời bà là những gian truân, khó khăn tưởng như không bao giờ dứt. Bà cũng chính là hình ảnh đại diện cho những người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ luôn hết lòng vì gia đình.

b) Bà là chỗ dựa tinh thần cho con cháu:

- Trong gian khó, bà vẫn vững lòng dặn cháu: "Mày có viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo ở nhà vẫn được bình yên".

=> Bà không muốn con ở chiến khu phải lo lắng, bà luôn là hậu phương vững chắc cho con nơi chiến trường.

- Bà luôn chăm lo cháu từng li từng tí: "Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa", "Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe", "Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học".

- Ngọn lửa yêu thương luôn thường trực trong trái tim bà: "Rồi sớm chiều bếp lửa bà nhen/ Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn/ Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng".

=> Bà đã truyền cho cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của nghị lực sống, một ngọn lửa mãnh liệt để thắp lên cho cháu niềm hi vọng về một tươi lai sáng.

3. Kết bài:

- Khẳng định lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật:

+ Giá trị nội dung: Hình tượng người bà lam lũ, vất vả chăm lo cho người cháu.

+ Giá trị nghệ thuật: Sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ, hình ảnh thơ đặc sắc, giọng thơ chân thành, sâu lắng.

- Liên hệ mở rộng.

Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa - mẫu 1

Lép Tôn-xtôi đã từng nói rằng: "Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu". Tình yêu con người, yêu cuộc sống chính là hạt mầm khỏe khoắn nuôi dưỡng nhân cách, tài năng con người, cũng là cảm hứng sáng tác cho muôn văn nhân,nghệ sĩ. Cùng chung mạch nguồn về tình yêu gia đình, nếu nữ sĩ Xuân Quỳnh khiến người đọc nhớ về một thời bên người bà kính yêu với tiếng bà mắng yêu, với hình ảnh "Tay bà khum soi trứng" thì Bằng Việt lại khiến ta nhớ mãi người bà đôn hậu, giàu tình yêu với con cháu, dân tộc, và đặc biệt người bà ấy gắn với hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt: "Bếp lửa".

"Bếp lửa" như một đóa hoa đầu mà Bằng Việt thân gửi đến độc giả khi ông đang là sinh viên năm thứ hai du học tại Liên Xô. Xa gia đình, bè bạn, quê hương, tại nơi đất khách quê người, ông bồi hồi nhớ lại kỉ niệm ấu thơ bên bếp lửa cùng người bà đáng kính. Đó là hình ảnh của ngọn lửa cháy leo lét bên vách bế trong làn sương buổi sớm được đôi tay bà "ấp iu", chở che. Hình ảnh "Một bếp lửa ấp iu nồng đượm" gợi ta nghĩ đến hình ảnh ngọn lửa có đôi tay gầy guộc, già nua của bà nhen nhóm, chở che cho ngọn lửa cháy lên, sáng lên và khiến ta hình dung đến sự ôm ấp, che chở, tình cảm yêu thương, đùm bọc mà bà dành cho cháu trong những tháng ngày tuổi thơ.

Và rồi trong kí ức của cháu hiện về kỉ niệm năm bốn tuổi, năm tám tuổi. Kỉ niệm tuổi ấu thơ cứ lần lượt hiện về trong nỗi nhớ của cháu tựa như một thước phim quay chậm, đó là kỉ niệm "Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa". Lời thơ thủ thỉ, tâm tình như câu chuyện trong cuộc sống đời thương, cùng điệp ngữ "tu hú kêu" và câu hỏi tu từ "Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà?" gợi về nhiều những câu chuyện mà bà đã kể cho cháu nghe. Trong những năm tháng cha mẹ đi công tác xa, bà và cháu quấn quýt bên nhau. Cháu ở bên bà, được bà nuôi dưỡng, săn sóc "bà bảo cháu nghe", "bà dạy cháu học", "bà chăm cháu làm". Thời ấu thơ, bà chính là chỗ dựa tinh thần quan trọng cho cháu,...Bên bà, có lẽ cháu sẽ thấy thật ấm áp, bình yên, hạnh phúc biết bao.

Trong tâm trí của cháu luôn khắc sâu kỉ niệm năm giặc phá làng, đốt làng, túp lều tranh của hai bà cháu cũng bị đốt. Trong những tháng năm khắc nghiệt ấy, cháu nhớ như in lời dạy của bà:

"Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên"

Cuộc sống của hai bà cháu vô cùng khó khăn, cơ cực ở vào cảnh màn trời chiếu đất, đó là tháng ngày tăm tối nhất. So với thực tế cuộc sống của hai bà cháu, phương châm về chất đã không được tuân thủ. Bà dặn cháu như vậy là để bố mẹ cháu yên tâm công tác. Từ lời dặn ấy, ta thấy ở bà có những phẩm chất thật cao đẹp: giàu lòng thương con, hi sinh hạnh phúc tuổi già để đổi lấy độc lập dân tộc và đặc biệt là lòng dũng cảm, kiên định của bà trước mọi khó khăn khốc liệt. Tuy bà không trực tiếp tham gia chiến đấu nhưng lại là chỗ dựa vững chắc cho tiền tuyến. Cảm nhận đức hi sinh cao cả của bà, trong lòng ta lại nhớ về bao bà mẹ Việt Nam anh hùng, những người đã rơi bao giọt nước mắt khi phải tiễn chồng con ra tiền tuyến, nhớ đến người mẹ Tà-ôi địu con trên lưng mà vẫn giã gạo nuôi bộ đội trong "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" của Nguyễn Khoa Điềm,... Những bà mẹ kính yêu ấy xứng đáng được bác Hồ ngợi ca là người "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang",...Bà chính là người tiêu biểu cho phẩm chất truyền thống của phụ nữ Việt Nam tự bao đời nay...

Người cháu bộc lộ những nghĩ suy về bếp lửa bà nhóm, và cũng là về bà:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng

"Bếp lửa bà nhen" là hình ảnh mang nghĩa thực- bếp lửa cháy bằng rơm, bằng củi do bàn tay gầy guộc của bà nhen nhóm. Từ hình ảnh bếp lửa mà nhà thơ có sự liên tưởng sâu sắc đến ngọn lửa ấm áp của tình yêu thương mà bà luôn ấp ủ dành cho cháu, bù đắp cho cháu khi cháu phải xa mẹ cha. "Ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng" là ngọn lửa của niềm tin trong cuộc sống, có sức sống mãnh liệt, bền bỉ mà bà truyền cho cháu. Bà không chỉ là người nhóm bếp lửa mà còn là người giữ lửa, truyền lửa, ngọn lửa của bà thật thiêng liêng, cao cả và vĩ đại.

Cuộc đời bà dẫu đầy truân chuyên, vất vả, nhiều nắng mưa nhưng bà vẫn "giữ thói quen dậy sớm"- một người đảm đang, tần tảo, chịu thương, chịu khó. Với cháu, việc nhóm bếp lửa của bà có ý nghĩa vô cùng quan trọng:

"Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ"

Mỗi khi bà nhóm lên bếp lửa là nhóm lên tất cả: nhóm lên tình yêu thương mà bà đã dành cho cháu, nhóm lên niềm vui trong lòng cháu mỗi khi mùa về, nhóm lên tình đoàn kết với hàng xóm, láng giềng và đặc biệt, bà nhóm dậy tất cả những kỉ niệm ấu thơ của cháu. Vậy là từ bếp lửa mà bà nhen, cháu đã khôn lớn cả về thể chất và tâm hồn, để cháu được bay cao bay xa,...Từ bếp lửa thiêng liêng ấy, cháu đã hiểu hơn về sự đảm đang vất vả của bà. Bà chính là người nuôi dưỡng tâm hồn chắp cánh ước mơ cho cháu.

Để rồi khi xa bà, với cuộc sống hiện đại, đầy đủ, cháu vẫn không nguôi nhớ về bà, có một điều không bao giờ đổi thay, luôn khắc ghi trong tâm trí cháu:

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Lời thơ của Bằng Việt thủ thỉ, nhẹ nhàng, tâm tình cứ như một câu chuyện vậy. Người bà hiện lên trong tâm trí của nhà thơ và ông dành cho bà tình yêu, sự trân trọng. Bài thơ cũng là lời nhắc với mỗi chúng ta: hãy luôn trân trọng những người thân quanh ta, vì họ là cuộc sống của ta.

Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa - mẫu 2

Bạn đã bao giờ đắm chìm trong những kỉ niệm tuổi thơ với một hình ảnh thân thuộc nào đó? Phải chăng hình ảnh ấy đã để lại cho bạn ấn tượng sâu sắc nơi tâm hồn? Với Bằng Việt, có lẽ bóng dáng thân thương của người bà bên bếp lửa đã thấm đẫm trang kí ức tuổi thơ.

Những kí ức đó đã được Bằng Việt tái hiện chân thực qua bài thơ “Bếp lửa”. Vậy hình ảnh người bà hiện lên trên những vần thơ ấy sâu sắc như thế nào? Điều đó góp phần thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm ra sao? Hãy thử hòa mình vào hơi ấm ngọn lửa của tình bà ngay từ những câu thơ đầu tiên:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”

Dòng cảm xúc trong trẻo, bình dị ấy bắt nguồn từ hình ảnh bếp lửa “chờn vờn sương sớm”, “ấp iu nồng đượm” gợi bàn tay nhóm lửa khéo léo, chi chút của người bà. Sự hi sinh thầm lặng miệt mài của bà đã sưởi ấm trái tim đứa cháu nhỏ, sưởi ấm những năm tháng tuổi thơ của cháu. Tuổi thơ ấy có thật sự bình yên, êm đềm bên ngọn lửa ấm áp? Không! Những kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ, thiếu thốn và nhọc nhằn:

“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”

Những dòng thơ chân thực đến ám ảnh, xót xa. Năm lên bốn, cháu đã phải đối mặt với nạn đói năm 1945, vậy mà trong những mảnh ghép kí ức mơ hồ ấy vẫn lưu giữ mùi khói bếp của bà – mùi khói đã hun nhèm mắt cháu, để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”.

Cay vì khói bếp, cay vì cảm xúc sống dậy những mùi khói của mấy chục năm qua. Không thể không nhận thấy sức ám ảnh, lay động trong tâm hồn cháu khi mà dù cho những kỉ niệm đã nhạt nhòa thì mùi khói bếp năm nào vẫn để lại dư vị cay cay nơi sống mũi. Bà vẫn lặng lẽ, vẫn âm thầm tích góp hơi ấm nuôi dưỡng cháu trong những năm tháng ấy, đến tận “tám năm ròng”. Càng lớn lên trong vòng tay của bà, những kí ức về bà lại càng sâu đậm trong tâm hồn người cháu:

“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.”

Trong sương khói mịt mờ của chiến tranh, cháu không được sống cùng bố mẹ, nhưng lại được yêu thương, che chở, nuôi dưỡng tâm hồn từ tấm lòng bà. Bên bếp lửa hồng bà kể chuyện, chuyện đời thường ngày nay, chuyện cổ tích ngày xưa. Từng việc, từng việc, nhỏ nhẹ, hai bà cháu từng ngày, từng tháng và “tám năm ròng” cùng nhau “nhóm bếp lửa” để nấu nướng thức ăn, để sưởi ấm chỗ ở, và hơn thế, là để soi sáng trí tuệ và tâm hồn.

Bà đã đóng vai trò thay thế người mẹ, người cha, người thầy để dạy dỗ, yêu thương cháu một cách vô điều kiện. Bởi vậy, tình yêu và kính trọng bà được Bằng Việt thể hiện sâu sắc qua hình ảnh: “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu.

Hơi ấm của bếp lửa ấy lại gợi thêm những kỉ niệm về một thời đầy vất vả, đau thương. Hình ảnh bà già nua, nhỏ bé nơi làng quê hoang tàn trong khói lửa chiến tranh vẫn không một lời kêu ca, phàn nàn khiến biết bao con tim chúng ta cảm phục. Đặc biệt, lời dặn cháu đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh, cả đời vì con vì cháu:

“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàm xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
‘Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư, chớ kể này, kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Bằng Việt đã thổi vào những vần thơ truyền cho người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà. Thật vậy! Người bà ấy gồng mình lên gánh vác mọi lo toan để các con yên tâm công tác với tấm lòng của một người hậu phương luôn hướng ra tiền tuyến, trong ý chí và nghị lực kiên cường. Bà mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, sẵn sàng hi sinh tình riêng để đặt tình chung lên trên.

Đó chẳng phải là biểu hiện cao cả nhất của lòng yêu Tổ quốc, yêu kháng chiến và cách mạng đấy ư? Bằng Việt đã thổi vào những vần thơ truyền cho người đọc sức mạnh của lòng yêu nước, sự can đảm và hi sinh lớn lao qua hình tượng người bà. Càng về cuối, nỗi xúc động dâng trào lên càng tha thiết và mãnh liệt khiến cho hình ảnh người bà càng trở nên chân thực và sống động hơn bao giờ hết, làm điểm sáng cho cả bài thơ với những hành động và phẩm chất tuyệt đẹp:

“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Bếp lửa không chỉ được nhen lên bằng nguyên liệu củi rơm mà còn được nhen lên từ ngọn lửa sức sống, lòng yêu thương, “luôn ủ sẵn” trong bà, của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt… Giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam thời chiến. Bà là người nhóm lửa, truyền lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình.

Trong tâm trí của Bằng Việt, bếp lửa và bà tuy thật bình dị, song ẩn giấu nhiều điều cao quý thiêng liêng: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Mỗi câu, mỗi chữ cứ như hồng lên, nồng ấm biết bao tình cảm nhớ thương, ơn nghĩa. Và đứa cháu hiếu thảo ấy giờ đây đã lớn, đã đi đến những chân trời mới mẻ, hạnh phúc. Thế nhưng dù có rời xa bếp lửa của bà, cháu vẫn nhớ mãi về ngọn lửa làm nhèm mắt cháu thuở lên bốn, vẫn nhớ mãi hình ảnh tảo tần nắng mưa nơi góc bếp của bà:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”

Đứng trong những điều mới mẻ của thế giới rộng lớn, tuổi thơ đã lùi xa, đứa cháu nhỏ giờ đã được chắp cánh bay cao nhưng quên sao được bà và bếp lửa quê hương, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau bởi bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời. Hình ảnh bàn tay khéo léo, chắt chiu nhóm lửa vẫn luôn tỏa hơi ấm trong tâm hồn người cháu.

Bạch Cư Dị từng nói: “Cảm động lòng người trước hết không gì bằng tình cảm và tình cảm và tình cảm là cái gốc của văn chương”. Thật vậy! Bài thơ “Bếp lửa” là một bài thơ như thế. Đọc những vần thơ thấm đẫm cảm xúc của Bằng Việt dường như trong ai cũng sống dậy những tình cảm đẹp, kí ức đẹp. Với bạn có thể là tình cảm với gia đình, người thân. Với bạn có thể là tình cảm với bạn bè, thầy cô.

Bằng Việt cũng mang những cảm xúc đó, nhưng ông có thể chuyển tải nó qua những vần thơ tha thiết làm xao xuyến biết bao tâm hồn độc giả. Dòng cảm xúc trong trẻo ấy đã để lại trong ta nhiều ấn tượng, đặc biệt là hình ảnh thân thương của người bà.

Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa - mẫu 3

Hình ảnh người cháu đi lính trở về quê ngoại hồi tưởng lại hình bóng bà lam lũ vất vả trong bài thơ “ Đò Lèn” của Nguyễn Duy:

“Bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn”

Gợi nhắc ta nhớ tới tình cảm bà cháu sâu nặng trong bài thơ “ Bếp lửa”. Nhà văn khắc họa hình ảnh người bà với những vẻ đẹp tần tảo, đức hi sinh và niềm tin mãnh liệt, qua đó thể hiện lòng kính yêu bà sâu nặng. Khơi nguồn kí ức của người cháu khi trưởng thành nhớ về bà khi anh bắt gặp hình ảnh quen thuộc:

“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”

Người bà hiện lên chịu thương chịu khó, cần mẫn nhóm lửa ngày nào nay ùa về trước mắt người cháu. Hình ảnh bàn tay cần mẫn của người bà đang nâng niu, vun vén cho ngọn lửa chập chờn, bập bùng trong mỗi sớm mai. In hằn suốt đời bà là những vất vả, nhọc nhằn, hình ảnh ẩn dụ “ biết mấy nắng mưa” tượng trưng cho bao nỗi cơ hàn đè nặng lên tấm thân già nua của bà. Hình ảnh ấy khơi dậy niềm thương cảm, xót xa của người cháu khiến dòng hồi tưởng về bà rõ nét, chân thực hơn:

“ Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
...Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,”

Khi cháu lên bốn, lên tám đó là những mốc thời gian nguy khó nhất của cuộc chiến tranh: cái đói hoành hành, giặc tàn phá hậu phương. Bà cưu mang đứa cháu nhỏ dại, suốt tám năm ròng “ cháu cùng bà nhóm lửa”. Phải chăng bà luôn bền bỉ nhen lên hơi ấm của sự sống bền bỉ?

Bà không chỉ trở thành người cha, người mẹ của cháu lúc cha mẹ bận công tác nơi tiền tuyến mà bà còn là người thầy hết mực bảo ban cháu. Điệp từ “ bà” lặp đi lặp lại cùng một loạt động từ “ kể chuyện, dạy, chăm cháu học” giúp ta hình dung bà là người khắc sâu lòng căm thù giặc trong lòng cháu qua những câu chuyện kể và bà bảo ban cháu nên người.

Khó nhọc đời bà thêm trĩu nặng khi nuôi lớn cháu trong hoàn cảnh khốn khó, đầy thiếu thốn về vật chất. Nhà thơ khắc họa hình ảnh người bà với tình yêu thương cháu vô bờ bến, có lẽ bà muốn bù đắp phần nào những bất hạnh trong tuổi thơ đứa cháu bé bỏng. Không chỉ giàu tình yêu thương cháu mà bà còn giàu đức hi sinh và lòng vị tha:

“Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

Nén nỗi khổ đau một mình bà chịu đựng tất cả nên lời căn dặn cháu “ chớ kể này, kể nọ” những gian khó ở quê nhà : “ giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”, bởi bà muốn làm yên lòng những người nơi hỏa tuyến để họ làm tốt nhiệm vụ. Lòng vị tha giúp bà và dân làng tạo thành hậu phương vững chắc cho tiền tuyến đánh giặc. Bà luôn nuôi dưỡng, ấp ủ một niềm tin không bao giờ dập tắt, niềm tin nhỏ bé nhưng dai dẳng, được nhen lên bằng cả tấm lòng, trái tim nhân hậu:

“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...”

Điệp ngữ “một ngọn lửa” ấm nồng vẫn âm ỉ cháy ngày qua ngày được bà nâng niu biến hình ảnh bếp lửa trở thành một hình tượng giàu sức tượng trưng:

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm tình yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ”

Hành động “nhóm” bếp điệp lại tới bốn lần nhấn mạnh thói quen thường ngày thành nếp sống của suốt cuộc đời long đong “lận đận” của bà. Nhưng việc làm giản đơn ấy có sức mạnh kì lạ. Nó thắt chặt tình nghĩa xóm làng bằng những củ khoai sắn hay nồi xôi gạo ngọt bùi từ bếp lửa bà đun nấu. Một trời mộng mơ của cháu từng bị lãng quên nay bên bà những nỗi niềm ấy lại sống dậy khi được sưởi ấm tâm hồn. Vậy bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa.

Qua dòng kí ức tuổi thơ của người cháu, bài thơ “ Bếp lửa” gửi gắm lòng biết ơn bà sâu nặng. Nhà thơ Bằng Việt khéo léo xây dựng hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình tượng người bà vừa làm nổi bật vẻ đẹp cao cả vừa tạo tính biểu tượng cho hình ảnh thơ.

Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa - mẫu 4

Trong khoảnh khắc yên bình, tráng lệ của bếp lửa, ta cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt vời của người phụ nữ đã trải qua bao thăng trầm cuộc đời. Với mái tóc bạc phơ, ánh mắt tinh khôi và nụ cười dịu dàng, bà trở thành biểu tượng của sự mạnh mẽ và sự hy sinh vô điều kiện. Nhìn vào khuôn mặt của bà, ta thấy dấu vết của những nụ cười và nước mắt, những giọt mồ hôi và những nỗi lo lắng đã đi qua. Dưới ánh sáng vàng ươm của ngọn lửa, người cháu chợt nhận ra rằng bà là nguồn cảm hứng và động lực vững chắc của cuộc sống.

Bếp lửa là nơi chứa đựng những kỉ niệm đáng quý và những giờ phút trò chuyện thân thương giữa bà và cháu. Những món ăn ngon lành được nấu chín trên đây, mang trong mình hương vị của tình thân và tình yêu. Mỗi lần nhớ về bữa cơm gia đình, người cháu cảm nhận hơi ấm của bếp lửa, khắc sâu trong trái tim và trở thành nguồn động lực để vượt qua khó khăn trong cuộc sống.

Đôi khi, trong những đêm tĩnh lặng, ngọn lửa như một người bạn đồng hành, nhắc nhở người cháu về những lời khuyên và sự dạy dỗ của bà. Bếp lửa trở thành biểu tượng của sự ấm áp gia đình và sự gắn kết tình thân. Nó là ngọn đèn lửa soi sáng con đường tương lai, truyền cảm hứng và động lực để tiếp tục bước đi.

Trên hành trình trưởng thành, người cháu nhớ mãi những kỉ niệm về bà và sẽ luôn ghi nhớ những giá trị mà bà đã truyền đạt. Bếp lửa là một biểu tượng vĩnh cửu của tình yêu và sự hi sinh, là ký ức vĩnh viễn trong tâm hồn người cháu.

Với bài thơ "Bếp lửa", chúng ta được nhìn thấy sự sâu sắc và đáng quý của tình cảm gia đình. Có những thứ đơn giản như tiếng gà trưa hay ánh sáng của bếp lửa, nhưng chúng lại chứa đựng những giá trị vô cùng to lớn. Chúng là những chìa khóa mở cánh cửa tâm hồn, là nền tảng cho những tình cảm chân thành và không thể thay đổi bằng bất kỳ vật chất nào.

Với lòng biết ơn sâu sắc và tình yêu mãnh liệt, người cháu gửi tới bà những suy tư và lời thương nhớ. Dù thời gian trôi qua, bếp lửa vẫn sẽ luôn cháy mãi, tượng trưng cho tình yêu và sự kính trọng vĩnh viễn dành cho người bà.

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

Mỗi buổi sáng, khi sương mù nhẹ nhàng trải dài khắp không gian, tôi lại nghe thấy câu chuyện của "một bếp lửa" vang lên. Nó trở thành điệp khúc mở đầu cho bài thơ, mang đến sự ấm áp và an lành. Hình ảnh "chờn vờn sương sớm" không chỉ đơn thuần là một bếp lửa quen thuộc trong những gia đình Việt Nam, mà nó còn gợi lên những kí ức tuổi thơ, khi bếp lửa lung linh trong tâm trí tôi. Từ "ấp iu" đã diễn tả chính xác đôi tay khéo léo, kiên nhẫn và tấm lòng rộng lượng của người bà.

Các từ "chờn vờn" và "ấp iu" đã kết nối và thể hiện một cách tinh tế những cảm xúc được khơi gợi bởi hình ảnh bếp lửa. Từ đó, một quá khứ đầy kỷ niệm đã tỉnh mộng trong tâm trí và suy tư của tôi. Người bà hiện ra trong dòng hồi ức và suy ngẫm của nhân vật trữ tình, mang trong mình những khó khăn và những phẩm chất cao quý. Khi tôi nhớ về bà, tôi nhớ về những kỷ niệm tuổi thơ, những khoảnh khắc sống bên bà:

Những buổi sáng rạng rỡ, bà đứng bên bếp lửa, với đôi tay khéo léo nắm bắt từng khoảnh khắc. Mùi hương của nồi canh chín mùi, của cơm nóng hổi tràn ngập không gian. Tôi ngồi bên bà, nhìn bà làm việc với tâm hồn đầy ấm áp. Bàn tay bà chạm vào những miếng gỗ, sắt, và những nguyên liệu tươi ngon. Đôi mắt bà tỏa sáng khi nhìn thấy thành quả của công việc. Những lời khuyên của bà, những câu chuyện vui vẻ, và những ý nghĩa sâu xa trong cuộc sống, tất cả đều ấp ủ trong từng cử chỉ nhẹ nhàng của bà.

Bếp lửa không chỉ là nơi tạo ra những bữa ăn ngon lành, mà còn là nơi gắn kết tình thân, tình yêu gia đình. Nó là nơi tôi học hỏi những giá trị về sự chia sẻ, sự hy sinh và tình yêu thương. Những kỷ niệm ấy đã điểm tô cho tuổi thơ của tôi, và giúp tôi trưởng thành, suy ngẫm và hiểu rõ hơn về cuộc sống của người bà. Bếp lửa trở thành biểu tượng cho tình yêu thương vô hạn, và sẽ luôn được lưu giữ trong trái tim tôi, với sự biết ơn và trân trọng sâu sắc.

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay! 

Không gian của bài thơ được tạo nên bởi những khổ thơ ngắn ngủi và không ổn định, như một cách thể hiện sự khó khăn và đau khổ mà hai bà cháu đã trải qua. Đến cuối đoạn, nhịp thơ càng trở nên chùng xuống, như muốn nhấn mạnh vào những gian truân của cuộc sống. Từ hiện tại, những kỷ niệm đã đưa cháu trở về quá khứ, kèm theo những cảm giác thực sự "Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!". Một cảm giác cay đắng bất ngờ tràn đến sống mũi, như thể quá khứ trong cháu vẫn còn sâu đậm, nguyên vẹn và không thể phai nhòa, nên nó đã hiện diện, sống động ngay trước mắt.

Có thể nói, tuổi thơ của cháu chặt chẽ liên kết với giai đoạn lịch sử đau thương và oai hùng của dân tộc. Tuổi thơ ấy đan xen với những khó khăn chung của thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong hoàn cảnh "mẹ cùng cha bận công tác không về", cháu đã trải qua những ngày tháng được sống trong tình yêu thương, sự chăm sóc, che chở và sự dạy dỗ từ bà:

Bà là người mẹ thứ hai, người chịu trách nhiệm chăm sóc và nuôi dưỡng cháu trong lúc cha mẹ phải vất vả công tác xa nhà. Bà là người đã trở thành tấm gương mẫu mực, truyền đạt những giá trị quý báu cho cháu. Mỗi buổi sáng, khi những tia nắng đầu tiên len lỏi vào căn phòng nhỏ, cháu đã thấy bà đứng bên bếp lửa, với đôi tay khéo léo chế biến những bữa ăn đơn giản mà đầy yêu thương. Mùi hương của món ăn ngon lành lan tỏa khắp căn nhà nhỏ, mang đến sự ấm áp và an lành. Bà dạy cháu cách chia sẻ, cách yêu thương và cách sống đúng đắn. Những lời khuyên, những câu chuyện đầy ý nghĩa và những giá trị về gia đình, đạo đức và lòng nhân ái đã được truyền dạy từ bà. Mỗi lần cháu nhìn thấy ánh mắt rạng rỡ của bà, cháu cảm nhận được tình yêu thương vô tận và sự hi sinh không đáng lẽ của bà.

Tuổi thơ của cháu không chỉ là những kỷ niệm về cuộc sống khó khăn và cố gắng vượt qua, mà còn là những giá trị về lòng nhân ái, gia đình và lòng biết ơn. Cháu biết ơn bà vì những ngày tháng tuyệt vời đã trôi qua, và bà sẽ mãi là một phần quan trọng trong trái tim cháu.

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học

Nhìn lại quá khứ, người cháu nhớ về những buổi chiều đông se lạnh, khi bà đứng bên bếp lửa, đun nước cho cháu tắm. Mọi thứ trở nên ấm áp và an lành bởi ánh lửa sưởi ấm và tình yêu thương của bà. Bếp lửa không chỉ là nơi nấu nướng, mà còn là trái tim của gia đình, nơi mọi người sum họp, chia sẻ những câu chuyện và kỷ niệm.

Hình ảnh bà và bếp lửa còn gắn liền với những hương vị ngọt ngào của những món ăn mà bà đã nấu. Mỗi món ăn đều được làm từ tâm huyết và tình yêu. Bà dạy cháu cách nấu nướng, truyền đạt những bí quyết gia truyền và những món ăn truyền thống của gia đình. Những hương vị ấy không chỉ đậm đà mà còn mang trong mình tình thân, tình yêu của bà.

Bà không chỉ là người chăm sóc gia đình mà còn là người gắn kết, giữ gìn gia đình. Bà là người truyền thống, biết giữ và tôn trọng những giá trị gia đình. Bà luôn khuyến khích mọi người sum họp, quan tâm và chia sẻ với nhau. Nhờ bà, gia đình luôn gắn bó và trở thành một nơi an lành, yên bình.

Nỗi nhớ da diết của người cháu với bà không chỉ là nỗi nhớ về hình ảnh bếp lửa và những món ăn ngon lành, mà còn là nỗi nhớ về tình thương gia đình, quê hương và đất nước. Bà là người mang trong mình tình yêu và sự hy sinh vô điều kiện cho gia đình và quê hương. Bà là người đã truyền dạy cho người cháu những giá trị quý báu về tình yêu, lòng biết ơn và sự kiên nhẫn.

Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.

Bà đã hy sinh tất cả, từ những bữa ăn đơn giản cho gia đình cho đến sức khỏe, thậm chí là cuộc sống của chính mình. Bà không ngại ngần đối diện với mọi khó khăn, mà luôn tràn đầy lòng yêu thương và sự hy sinh vì tình yêu đất nước.

Ngoài hình ảnh bếp lửa, người cháu còn nhớ về những cuộc trò chuyện đêm khuya bên bếp, khi bà kể về những câu chuyện lịch sử và những trận đánh trong cuộc kháng chiến. Những câu chuyện đó không chỉ giúp cháu hiểu rõ hơn về lịch sử quê hương mà còn khơi dậy trong lòng cháu tình yêu và tự hào về Tổ quốc. Bà đã truyền dạy cho cháu những giá trị về lòng yêu nước, trách nhiệm và sự kiên nhẫn trong cuộc sống.

Hình ảnh bếp lửa và bà còn đồng hành với những kỷ niệm vui buồn của người cháu. Những bữa cơm gia đình đậm đà tình thân, những cuộc chia sẻ và cười đùa bên nhau là những kỷ niệm đáng trân trọng trong tâm trí cháu. Bà luôn tạo nên không khí ấm cúng, hạnh phúc và đoàn kết trong gia đình. Bà là nguồn động lực và niềm tự hào của cháu.

Nỗi nhớ về bà và bếp lửa cũng là nỗi nhớ về một thời tuổi thơ đầy hồn nhiên và vô tư. Đó là khoảng thời gian cháu được ngồi bên bà, ngắm nhìn bà nấu nướng và học hỏi những bí quyết nấu ăn truyền thống. Bếp lửa không chỉ là nơi cháu học cách nấu nướng, mà còn là nơi cháu học cách yêu thương và quan tâm đến người thân. Bà đã truyền dạy cho cháu sự quý trọng của gia đình và tình thương đối với mọi người xung quanh.

Trên hết, từ hình ảnh bếp lửa và bà, người cháu hiểu rõ hơn về ý nghĩa của gia đình và tình yêu thương. Bà đã để lại trong lòng cháu những giá trị vô giá và sự khát khao tiếp tục truyền bá những giá trị ấy cho thế hệ sau. Bếp lửa và bà là những ký ức đẹp, là nguồn cảm hứng và sức mạnh để cháu vượt qua những khó khăn trong cuộc sống và trân trọng những giá trị đích thực trong tình thân và quê hương.

Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,

Mày có viết thư chớ kể này kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên.

Trong những năm tháng chiến tranh, cháu lớn lên, trưởng thành trong tình yêu thương, đức hi sinh cao cả, sự đùm bọc, che chở của người bà:

Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...

Hình ảnh bếp lửa đã được nhà thơ liên tưởng thành ngọn lửa của tình yêu thương với ý nghĩa thật sâu sắc. Nếu bếp lửa là biểu hiện cuộc sống âm thầm, lặng lẽ của hai bà cháu thì ngọn lửa rộng hơn, nó là sức sống tình yêu, là niềm tin của bà trong cuộc sống của hai bà cháu. Cuộc đời bà "lận đận" mấy chục năm, bà lặng lẽ hi sinh cho cháu, cho mọi người:

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Điệp từ "nhóm" được lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ đã khẳng định bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người giữ lửa, truyền lửa, thắp lên trong người cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của nghị lực, niềm tin, giúp cháu vững bước trên đường đời. Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong truyện cổ tích. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong Tiếng gà trưa của Xuân Quỳnh:

Tiếng gà trưa

Mang bao nhiêu hạnh phúc

Đêm cháu về nằm mơ

Giấc ngủ hồng sắc trứng

Với người cháu, hình ảnh ngọn lửa trong bếp trở nên kỳ lạ và thiêng liêng đến mức khó tả: "Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa!" Trong suốt bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa cũng là mười lần tác giả nhắc đến bà. Âm điệu của những dòng thơ tràn đầy sức mạnh, như tình cảm dâng trào của người cháu dành cho bà. Hình ảnh bếp lửa thiêng liêng và kỳ lạ, vì nó luôn hiện hữu và gắn bó, đồng hành cùng hình ảnh người bà, liên kết với những năm tháng tuổi thơ của cháu.

Bà và bếp lửa đã nuôi dưỡng cháu lớn lên, thắp sáng niềm tin và ước mơ, trở thành điểm tựa tinh thần cho cháu. Câu thơ là lời thốt lên từ đáy lòng người cháu, thể hiện lòng tự hào và biết ơn sâu sắc của cháu dành cho bà cũng như cho quê hương và đất nước.

Với sự nhẹ nhàng và giản dị nhưng đầy ý nghĩa, bài thơ Bếp lửa đã tuyệt vời thể hiện hình ảnh người bà và tình yêu giữa bà và cháu. Bếp lửa - ngọn lửa của bà, cùng tình yêu thương và những phẩm chất tốt đẹp của bà, đã soi sáng và dẫn lối cháu trên con đường đời đầy khó khăn và thử thách. Hình ảnh người bà chính là hình ảnh của quê hương và đất nước.

Bài thơ thành công trong việc truyền đạt tình cảm kính yêu, trân trọng và biết ơn đối với bà, đồng thời cũng là sự biểu hiện cao đẹp của lòng biết ơn đối với quê hương và đất nước, theo truyền thống "Uống nước nhớ nguồn". Bếp lửa gợi cho người đọc những suy ngẫm về tình cảm gia đình, về truyền thống nghĩa tình của dân tộc Việt Nam, và để lại trong tâm hồn của độc giả những dư âm tuyệt đẹp về tình yêu bà cháu và hình ảnh người bà kính yêu.

Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa - mẫu 5

Bếp lửa của Bằng Việt là một khung cảnh đầy những kỷ niệm đẹp và kí ức tuổi thơ, và hơn hết, những kỷ niệm đó luôn gắn liền với người bà yêu dấu. Một bài thơ bảy khổ đã vẽ nên những phẩm chất cao quý và tuyệt vời của bà. Bà chính là biểu tượng của những người mẹ Việt Nam vĩ đại, luôn hy sinh hết lòng vì con cái và cháu chắt. Tất cả những vẻ đẹp ấy được thể hiện một cách chân thật và đầy đủ nhờ những dòng thơ tươi sáng và đậm đà tình yêu thương.

Hình ảnh của người bà trong kí ức tuổi thơ hiện lên trước mắt cháu, gần gũi và thiêng liêng, mang theo tình yêu vô bờ bến, sự bao bọc và che chở. Qua từng câu thơ, từng từ ngữ, những phẩm chất và sự hi sinh của bà được bày tỏ một cách trân trọng và tự hào sâu sắc bởi tác giả.

Ba câu thơ đầu với hình ảnh của bếp lửa là ngọn lửa cháy sáng, đánh thức hình ảnh người bà thân thương: "Một bếp lửa chờn vờn sương sớm/ Một bếp lửa ấp iu nồng đượm/ Cháu thương bà biết mấy nắng mưa." Hình ảnh của bếp lửa, ánh sáng lung linh và sự bùng cháy vào buổi sáng, mang đến một cảm giác thân mật và gần gũi. Hai từ "ấp iu" diễn tả sự khéo léo trong việc chăm sóc lửa của bà, đồng thời thể hiện tình yêu và lòng nhân hậu từ những hành động đó.

Từ hình ảnh của bếp lửa, bằng tình cảm chân thành và tự nhiên, tác giả đã thể hiện: "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa." Đây là một câu thơ đầy cảm xúc, ẩn dụ nắng mưa tượng trưng cho những khó khăn và gian khổ trong cuộc đời bà. Đồng thời, đó cũng là nỗi ám ảnh không nguôi ngoai trong tâm trí của Bằng Việt. Hình ảnh của bà hiện lên nhẹ nhàng và sâu lắng, và những phẩm chất tuyệt vời của bà từ từ hiện ra trong những câu thơ tiếp theo.

Bà là người phụ nữ chịu khó, chịu đựng và biết thương yêu. Trong những năm khó khăn khi tất cả chúng ta trong dân tộc đang sống trong nghèo đói, khi đói đã cướp đi bao nhiêu sinh mạng của người dân Việt Nam, bà vẫn kiên nhẫn nuôi dưỡng cháu lớn lên. Quá khứ của những năm đói khổ hiện lên rõ ràng hơn bao giờ hết qua những từ ngữ đặc sắc, những cảm giác đói khát và hình ảnh ám ảnh của ngọn lửa cháy trong bếp.

Tác giả đã tặng cho người bà những lời khen ngợi và tình yêu thương tuyệt vời: "Người bà đẹp như mặt trời mai/ Như mưa lành gọi đất thêm xanh/ Bà tình yêu cháu như thiên thần." Bằng những ngôn từ tươi sáng và hùng vĩ, tác giả miêu tả vẻ đẹp của người bà như mặt trời và mưa lành, mang lại sự sống và sự tươi mới cho mọi thứ xung quanh. Tình yêu và sự quan tâm của bà được so sánh với thiên thần, một biểu tượng của sự hiền lành và bảo vệ.

Cuối cùng, tác giả kết thúc bài thơ với những lời tri ân và tôn vinh người bà: "Hôm nay cháu viết lên thành thơ/ Tri ân bà, người mẹ Việt Nam/ Một tấm lòng nhạc thánh hòa giọng." Đây là sự thể hiện sâu sắc của tình yêu và lòng biết ơn đối với người bà và tất cả những người mẹ Việt Nam. Tình yêu và lòng hi sinh của họ được coi như những bản nhạc thánh, tạo nên âm nhạc tình yêu và hy sinh không lời.

Bà không chỉ là người đã nuôi dưỡng tâm hồn cháu bằng cách kể những câu chuyện về Huế, nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình và những đau thương mất mát của dân tộc, mà còn là người đã bảo ban, dạy dỗ cháu từng chút một để cháu trưởng thành trong suy nghĩ và nhân cách. Những từ ngữ mà bà đã sử dụng, như bà bảo, bà dạy, bà chăm, đã thể hiện tình yêu thương bao la và sự dành riêng cho cháu.

Bà còn là trụ cột vững chắc trong gia đình, là nguồn hỗ trợ lớn để con cháu yên tâm trong công việc. Dẫu cho làng xóm bị Giặc đốt cháy, dù chiến tranh càng tàn phá khốc liệt, bà vẫn kiên cường đối mặt với những thử thách. Bà luôn khẳng định: "Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh/ Bố ở chiến khu bố còn việc bố/ Mà có viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên." Câu thơ này chân thật và giản dị, nhưng lại có sức lan tỏa lớn đến tất cả chúng ta.

Bà không chỉ là người dạy dỗ cháu học hành, mà còn là nơi chúng ta có thể dựa vào, là hậu phương vững chắc cho những đứa con xa xứ yên tâm trong công việc. Hình ảnh bà gợi lên trong tâm trí chúng ta như người bà trong bài thơ "Đò Lèn" của Nguyễn Duy: "Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất/ Đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền/ Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết/ Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn." Trước những cơn bão tố chiến tranh, lòng bà vẫn kiên cường, tràn đầy tình yêu thương, lòng dung cảm và lòng hi sinh. Đó là sức mạnh giúp bà đương đầu với mọi khó khăn, gian khổ.

Đẹp đẽ và cao cả nhất, chính bà là người đã khơi dậy những ước mơ, hy vọng và truyền đạt sức mạnh phi thường của mình cho những thế hệ sau: "Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen/ Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn/ Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng." Trái tim bà luôn chứa đựng một niềm tin dai dẳng, kiên trì và bất diệt. Ngọn lửa của kỷ niệm và tình yêu thương sẽ tiếp tục thắp sáng và chỉ dẫn cháu trên các con đường của cuộc sống.

Cùng với hình ảnh "ngọn lửa", các từ ngữ như "rồi sớm rồi chiều", "nhen", "ủ sẵn", "chứa" đã khẳng định ý chí và sự kiên nhẫn của bà, cũngnhư của một người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh. Trong khổ thơ tiếp theo, tác giả sử dụng hàng loạt từ thuộc nhóm "nhóm" để miêu tả bà: "Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm/ Nhóm bếp lửa ấp ủ nồng đượm/ Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi/ Nhóm nồi xôi gạo sẻ mới chung vui/ Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ."

Bà vẫn duy trì thói quen dậy sớm và trong nhóm bếp lửa ấm áp, nồng nàn. Nhóm niềm yêu thương, nhóm khoai sắn ngọt bùi, nhóm nồi xôi gạo là những điều chung vui mà bà mang đến. Bà còn là người đứng dậy với tâm tình của những đứa trẻ.

Bà không chỉ là người đã nuôi dưỡng tâm hồn cháu bằng cách kể những câu chuyện về Huế, nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình và những đau thương mất mát của dân tộc, mà còn là người đã bảo ban, dạy dỗ cháu từng chút một để cháu trưởng thành trong suy nghĩ và nhân cách. Những từ ngữ mà bà đã sử dụng, như bà bảo, bà dạy, bà chăm, đã thể hiện tình yêu thương bao la và sự dành riêng cho cháu.

Bà còn là trụ cột vững chắc trong gia đình, là nguồn hỗ trợ lớn để con cháu yên tâm trong công việc. Dẫu cho làng xóm bị Giặc đốt cháy, dù chiến tranh càng tàn phá khốc liệt, bà vẫn kiên cường đối mặt với những thử thách. Bà luôn khẳng định: "Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh/ Bố ở chiến khu bố còn việc bố/ Mà có viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên." Câu thơ này chân thật và giản dị, nhưng lại có sức lan tỏa lớn đến tất cả chúng ta.

Bà không chỉ là người dạy dỗ cháu học hành, mà còn là nơi chúng ta có thể dựa vào, là hậu phương vững chắc cho những đứa con xa xứ yên tâm trong công việc. Hình ảnh bà gợi lên trong tâm trí chúng ta như người bà trong bài thơ "Đò Lèn" của Nguyễn Duy: "Bom Mĩ giội, nhà bà tôi bay mất/ Đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền/ Thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết/ Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn." Trước những cơn bão tố chiến tranh, lòng bà vẫn kiên cường, tràn đầy tình yêu thương, lòng dung cảm và lòng hi sinh. Đó là sức mạnh giúp bà đương đầu với mọi khó khăn, gian khổ.

Đẹp đẽ và cao cả nhất, chính bà là người đã khơi dậy những ước mơ, hy vọng và truyền đạt sức mạnh phi thường của mình cho những thế hệ sau: "Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen/ Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn/ Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng." Trái tim bà luôn chứa đựng một niềm tin dai dẳng, kiên trì và bất diệt. Ngọn lửa của kỷ niệm và tình yêu thương sẽ tiếp tục thắp sáng và chỉ dẫn cháu trên các con đường của cuộc sống.

Cùng với hình ảnh "ngọn lửa", các từ ngữ như "rồi sớm rồi chiều", "nhen", "ủ sẵn", "chứa" đã khẳng định ý chí và sự kiên nhẫn của bà, cũngnhư sự đồng hành và sự ấm áp mà bà mang đến cho cháu. Bà là nguồn cảm hứng và mẫu gương sống đáng ngưỡng mộ, là người đã truyền cảm hứng và khắc sâu trong lòng cháu những giá trị tốt đẹp nhất của cuộc sống.

Bài thơ cũng mang trong mình một thông điệp sâu sắc về tình yêu thương và sự quý trọng gia đình. Bằng cách nhắc nhở chúng ta về ông bà và gia đình, nó nhấn mạnh tầm quan trọng của việc yêu thương, kính trọng và chăm sóc cho những người thân yêu trong cuộc sống hàng ngày. Qua việc tôn vinh ông bà, bài thơ cũng truyền đạt thông điệp về sự biết ơn và lòng hiếu thảo, khuyến khích chúng ta trân trọng và tôn vinh nguồn gốc, cội nguồn của chúng ta.

Trên một khía cạnh khác, bài thơ cũng là một cái nhìn sâu sắc về vai trò và đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong xã hội. Bà được miêu tả như một hình ảnh tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam, đầy đủ các phẩm chất như đảm đang, tần tảo và giàu đức hi sinh. Bằng sự kiên nhẫn và lòng yêu thương vô điều kiện, bà đã mang lại sự ổn định và hạnh phúc cho gia đình và cả xã hội.

Từ việc truyền đạt những giá trị tốt đẹp nhất cho cháu, gắn kết và chăm sóc cho xóm làng, đến sự hy sinh và kiên cường trước những gian khó, bà đã để lại một di sản tuyệt vời cho thế hệ sau. Bài thơ là một lời nhắc nhở cho chúng ta về tầm quan trọng của tình yêu thương, sự hiếu thảo và lòng biết ơn đối với ông bà và gia đình.

Phân tích hình ảnh người bà trong bài thơ Bếp lửa - mẫu 6

Bằng Việt là nhà thơ xuất sắc của nền thơ ca Việt Nam. Với giọng thơ trong sáng, chân thành, ông đã sáng tác rất nhiều tác phẩm ý nghĩa. Tiêu biểu phải kể đến bài "Bếp lửa". Tác phẩm đã giúp người đọc cảm nhận được hình ảnh người bà chịu thương, chịu khó, yêu thương và luôn chăm lo cho gia đình.

Mở đầu bài thơ, độc giả được thấy hình ảnh của bếp lửa gắn với những kỉ niệm bên người bà kính yêu:

"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa".

Câu thơ đầu gợi lên hình ảnh bếp lửa thân thương, quen thuộc vào buổi sớm mai. Đôi bàn tay khéo léo của bà vẫn ngày ngày nhóm lên bếp lửa yêu thương để nuôi nấng cháu. Những câu thơ trên không chỉ thể hiện tình cảm chân thành người cháu dành cho bà mà "nắng mưa" còn là hình ảnh ẩn dụ gợi lên những vất vả, khó khăn mà bà phải trải qua.

Vất vả là vậy, nhưng bà không bao giờ kêu than mà vẫn luôn nhóm lên bếp lửa yêu thương nuôi nấng cháu:

"Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ"
Bà vẫn giữ đói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ".

Từ "mấy chục năm" đã giúp người đọc biết được quãng thời gian dài, vất vả bà đã trải qua. Dường như, bà đã dành cả cuộc đời để chăm lo cho gia đình. Bà kính yêu luôn thức dậy sớm, nhóm lên bếp lửa để nuôi nấng cháu nên người. Bằng việc sử điệp từ "nhóm" được nhắc lại ở đầu mỗi câu thơ, tác giả đã nhấn mạnh hành động nhóm lửa quen thuộc hàng ngày của bà. Bà không chỉ chăm lo cho gia đình mà luôn dành sự quan tâm tới những người hàng xóm xung quanh. Chi tiết "Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui" thể hiện tình làng nghĩa xóm thân thiết, sẵn sàng chia sẻ cho nhau những điều tưởng như nhỏ bé nhất. Vậy chỉ bằng vài câu thơ, người đọc có thể cảm nhận được cuộc đời bà phải trải qua biết bao khó khăn nhưng bà vẫn luôn cố gắng dành tất cả những điều tốt nhất cho cháu. Qua đây, nhà thơ như muốn gửi gắm thật nhiều yêu thương dành cho người bà kính yêu.

Bà không chỉ chịu thương, chịu khó mà còn là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho con cháu:

"Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo ở nhà vẫn được bình yên".

Và:

"Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa",
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc".

Bà là hậu phương vững chắc cho con an tâm chiến đấu.Trong khoảng thời gian khó khăn, bà vẫn cố gắng lo liệu chu toàn mọi việc. Người phụ nữ đó không muốn con ở chiến khu phải lo lắng chuyện nhà nên đã dặn cháu đừng có kể cho cha chuyện giặc đốt làng. Không chỉ vậy, bà còn luôn chăm lo cho cháu từng li từng tí, từ bữa ăn, giấc ngủ đến việc học. Chính bà đã truyền cho cháu ngọn lửa của tình yêu thương, của nghị lực sống. Một ngọn lửa mãnh liệt để thắp lên cho cháu niềm hi vọng về một tươi lai sáng.

Bằng việc sử dụng những biện pháp tu từ đặc sắc kết hợp với giọng thơ chân thành, tha thiết, nhà thơ Bằng Việt đã làm nổi bật hình ảnh người bà tần tảo, chịu khó. Qua đây, tác giả muốn ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ trong xã hội thời kì chiến tranh. Họ không những tần tảo, vun vén chuyện gia đình mà còn là hậu phương vững chắc cho người lính nơi chiến trường.

Xem thêm các phần Dàn ý và văn mẫu lớp 9 hay khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH ĐỀ THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


bep-lua.jsp


Giải bài tập lớp 9 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên