5+ Dàn ý nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân (siêu hay)
Dàn ý nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân hay nhất, ngắn gọn được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn viết bài văn hay hơn.
- Dàn ý nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân
- Nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 1
- Nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 2
- Nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 3
- Nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 4
- Nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 5
- Nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 6
5+ Dàn ý nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân (siêu hay)
Bài giảng: Cảnh ngày xuân - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Dàn ý nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân
Dàn ý nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 1
I. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm truyện Kiều và đoạn trích Cảnh ngày xuân
- Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong đoạn trích Cảnh ngày xuân cho thấy tình cảm nhân văn cao đẹp của tác giả trước thiên nhiên và con người
II. Thân bài
Nghệ thuật ước lệ cổ điển sử dụng hình ảnh ước lệ quen thuộc trong thơ cổ, mượn thơ cổ một cách sáng tạo, bút pháp chấm phá, điểm xuyết
1. Bốn câu thơ đầu: miêu tả khung cảnh ngày xuân
- Miêu tả khái quát vẻ đẹp mùa xuân tươi đẹp với hình ảnh én chao liệng trên bầu trời thanh bình tràn ngập ánh sáng xuân tươi tắn trong sáng ( hai câu đầu)
- Tác giả thể hiện niềm tiếc nuối khi thời gian trôi chảy nhanh chóng
- Bức tranh tuyệt mĩ hiện lên qua hai câu thơ:
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
+ Cảnh vật đơn giản với cỏ xanh, hoa trắng nhưng hiện lên không gian khoáng đạt, rộng lớn, tươi đẹp
+ Nếu hai câu thơ cổ “Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm hoa” của Trung Quốc dùng hình ảnh cỏ thơm thì Nguyễn Du lại chọn hình ảnh cỏ xanh để nhấn mạnh vẻ đẹp giàu sức sống của mùa xuân
+ Hình ảnh hoa lê gợi lên sự mới mẻ, tinh khôi, thanh khiết kết tinh của đất trời được điểm xuyết trong không gian
→ Hai câu thơ tả cảnh thiên nhiên tuyệt bút của nguyễn Du giàu chất tạo hình, ngôn ngữ biểu cảm. Từ đó thấy tâm hồn con người tươi mới, phấn chấn qua cái nhìn về thiên nhiên trong trẻo tươi vui
2. Sáu câu thơ cuối: bức tranh thiên nhiên mang tâm hồn con người
- Cảnh mang cái thanh, cái dịu của mùa xuân: nắng hoàng hôn , dòng suối nhỏ, dịp cầu bắc ngang dường như nhuốm màu tâm trạng của con người
+ Không gian buổi chiều tà quen thuộc trong văn học khiến con người chìm trong cảm xúc bâng khuâng khó tả.
+ Cảnh vật như chậm dần, lắng dần, mọi chuyển động đều đi vào tĩnh lặng
+ Không gian dần thu hẹp, mang dáng dấp nhỏ nhoi, phảng phất nỗi buồn của con người
- Các từ láy thanh thanh, tà tà, nao nao không chỉ biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn thể hiện tâm trạng con người
+ Từ nao nao gợi lên nét buồn khó hiểu. Hai chữ thẩn thơ có sức gợi lớn, chị em Kiều bần thần, tiếc nuối, buồn bã khi ra về
→ Bút pháp tả cảnh ngụ tình tả cảnh gắn với tình, cảnh và tình tương hợp
III. Kết bài
Với bút pháp miêu tả thiên nhiên đặc sắc, đoạn trích dựng lên bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng
Bức tranh làm nổi bật tình cảm nhân văn cao đẹp của nhà thơ đại tài Nguyễn Du trước cảnh vật và con người
Đoạn trích khẳng định tài năng miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du cũng như kiệt tác Truyện Kiều
Dàn ý nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 2
A. Mở bài
Ở nội dung phần mở bài này thì cần phải giới thiệu tác giả Nguyễn Du và tác phẩm truyện kiều trong đoạn trích cảnh ngày xuân. Và nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong đoạn trích cảnh ngày xuân
B. Thân bài
- Nghệ thuật ước lệ cổ điển sử dụng hình ảnh ước lệ quen thuộc trong thơ cổ, mượn thơ cổ một cách sáng tạo, bút pháp chấm phá, điểm xuyết.
- Miêu tả khung cảnh ngày xuân
Mùa xuân vẫn luôn đẹp đẽ và tươi mới, như một bức tranh sống động vẽ lên bởi những cánh én chao liệng trên bầu trời thanh bình. Ánh sáng xuân tươi tắn trong sáng lan tỏa khắp nơi, mang lại một cảm giác ấm áp và hi vọng cho tâm hồn. Nhưng đằng sau vẻ đẹp rạng ngời ấy, tác giả đã thể hiện sự tiếc nuối về thời gian trôi chảy nhanh chóng, như là một lời nhắc nhở về sự quý báu của mỗi khoảnh khắc.
Bức tranh tuyệt mĩ của mùa xuân được vẽ nên qua hai câu thơ sắc nét:
"Cỏ non xanh tận chân trời Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Cảnh vật đơn giản với cỏ xanh mướt và những bông hoa lê trắng, nhưng lại hiện lên một không gian khoáng đạt, rộng lớn, và tươi đẹp. Từ láy "cỏ non xanh" không chỉ đơn thuần là một mô tả mà còn là sự tôn vinh cho vẻ đẹp giàu sức sống của mùa xuân. Hình ảnh hoa lê lại gợi lên sự mới mẻ, tinh khôi, và thanh khiết, như là những viên ngọc quý được trải rộng khắp không gian.
So với hai câu thơ cổ "Phương thảo liên thiên bích/ Lê chi sổ điểm hoa" của Trung Quốc, trong đó sử dụng hình ảnh của cỏ thơm, Nguyễn Du đã chọn hình ảnh của cỏ xanh để nhấn mạnh vẻ đẹp sống động và tươi mới của mùa xuân. Hai câu thơ này không chỉ là một bức tranh tả cảnh thiên nhiên tuyệt bút, mà còn là sự biểu hiện sâu sắc của tâm hồn con người, đầy phấn chấn và tươi vui khi đối diện với vẻ đẹp trong trẻo của thiên nhiên.
- Bức tranh thiên nhiên mang tâm hồn của con người
Bức tranh thiên nhiên trong mùa xuân không chỉ đơn giản là một phần của cảnh vật tự nhiên mà còn là một bức chân dung của tâm hồn con người, mang trong đó những cảm xúc sâu lắng và phong phú.
Cảnh vật trong mùa xuân thường đem lại cái thanh và cái dịu dàng đặc trưng của nắng hoàng hôn, dòng suối nhỏ, hay dải cầu bắc ngang trên bầu trời. Những hình ảnh này có thể nhuốm màu tâm trạng của con người, khiến chúng ta không khỏi chìm đắm trong cảm xúc bâng khuâng khó tả. Buổi chiều tà, với không gian quen thuộc trong văn học, khiến con người lạc vào mênh mông của tâm trạng, mọi chuyển động dường như chậm lại và đi vào tĩnh lặng. Không gian dần thu hẹp, như là một lời nhắc nhở về sự nhỏ bé và phảng phất nỗi buồn của con người.
Tác giả đã tận dụng các từ láy như "thanh thanh", "tà tà", "nao nao" để không chỉ diễn đạt sắc thái của cảnh vật mà còn thể hiện tâm trạng sâu sắc của con người. Từ "nao nao" chẳng hạn, không chỉ đơn thuần là một mô tả về cảnh vật mà còn gợi lên nét buồn khó hiểu, đầy những suy tư và nỗi lo lắng trong lòng người. Còn "thẩn thơ", một cụm từ mang đầy nghĩa lượng, đã được sử dụng để tả nỗi buồn bã, tiếc nuối và sự bần thần của nhân vật Kiều khi ra về.
Bút pháp tả cảnh ngụ tình không chỉ đơn giản là việc tả cảnh, mà còn là sự kết hợp hài hòa giữa cảnh và tình, để tạo ra những tác phẩm mang đậm tâm hồn con người, đầy sức sống và sự chân thành.
C. Kết bài
Dưới bàn tay tài hoa của Nguyễn Du, bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân tươi đẹp được dựng lên với sự tinh tế và sắc nét, như một tác phẩm nghệ thuật đích thực. Bằng bút pháp miêu tả thiên nhiên đặc sắc, nhà thơ đã làm nổi bật vẻ đẹp trong sáng, tươi mới của mùa xuân. Trong đoạn trích, hình ảnh én chao liệng trên bầu trời thanh bình, dòng suối nhỏ mềm mại và dải cầu bắc ngang trên bầu trời đã được tả ra một cách sống động và lôi cuốn. Mỗi chi tiết đều được vẽ nên với sự tinh tế, từng nét vẽ đều làm nổi bật sự tươi mới và trong sáng của mùa xuân. Tuy nhiên, không chỉ là miêu tả thiên nhiên, mà Nguyễn Du còn biết kết hợp tinh tế giữa cảnh vật và con người, để tạo nên một bức tranh sinh động và sâu sắc hơn. Lễ hội mùa xuân không chỉ là một sự kiện về thiên nhiên mà còn là một dịp để tôn vinh tình cảm nhân văn cao đẹp của con người. Những hình ảnh về con người, như nhà thơ Kiều trong tác phẩm Truyện Kiều, được kết hợp một cách khéo léo với cảnh vật, tạo nên một bức tranh hoàn hảo về tình yêu, lòng nhân ái và sự kiên nhẫn trước khó khăn của cuộc đời.
Dàn ý nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 3
A. Phần mở bài
Ở nội dung phần mở bài thì cần phải thể hiện và giới thiệu khái quát nhất về tác phẩm truyện kiều của Nguyễn Du và giới thiệu về cảnh ngày xuân cùng nghệ thuật miêu tả thiên nhiên đặc sắc
B. Phần thân bài
Ở phần thân bài thì cần thể hiện được các nội dung chính như sau:
- Bức tranh thiên nhiên thông qua khung cảnh mùa xuân tươi đẹp
Trong khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, bức tranh thiên nhiên được tái hiện một cách sống động và sâu sắc, như một tác phẩm hội họa tinh xảo với bút pháp miêu tả đậm chất tạo hình. Trên bầu trời cao rộng, những cánh én sải cánh chao liệng, như những điệu nhảy nhẹ nhàng trên bức vẽ không gian vô hạn, gợi lên hình ảnh của bước đi không ngừng nghỉ trong dòng thời gian trôi.
Ánh nắng mùa xuân được mê hoặc bằng cụm từ "thiều quang", tạo ra một màu sắc tươi mới, dịu dàng như làn hơi ấm của mùa xuân. Sắc xanh tươi của cỏ non trải dài vô tận, từ đỉnh trời đến chân đất, tạo nên một không gian bao la, rộng lớn, như một biển xanh mênh mông.
Thay vì nói "điểm trắng", bút pháp đảo ngữ sử dụng cách nói "trắng điểm", như một cách thể hiện sự tinh khôi và trong sáng của bức tranh. Chấm phá đầy tinh tế, như những điểm sáng nhỏ trên mặt nước, gợi lên vẻ đẹp tinh khiết và thanh thoát của thiên nhiên trong mùa xuân.
- Một bức tranh thiên nhiên mang nặng tâm trọng con người thông qua bút pháp " tả cảnh ngụ tình"
Tranh vẽ thiên nhiên không chỉ là một bức họa đơn thuần mà còn là một biểu hiện tinh tế của tâm trạng con người, thông qua việc áp dụng bút pháp "tả cảnh ngụ tình". Trong khung cảnh mùa xuân, một cảm giác thân thuộc và ấm áp lan tỏa như một vòng tay ân cần của tự nhiên.
Bức tranh bắt đầu với hình ảnh của "bóng ngả về tây", một hình tượng gợi nhớ về sự yên bình và thanh thản. Khe nước nhỏ và dòng nước uốn quanh như những vòng tay mềm mại, ôm trọn không gian bé nhỏ này, tạo ra một cảm giác thân thuộc và bình yên, như một lời kể về sự gắn kết giữa con người và tự nhiên.
Tác giả Nguyễn Du đã tận dụng hàng loạt từ láy giàu giá trị, với sự gợi hình và gợi cảm tinh tế. Những từ láy không chỉ là một phần của môi trường, mà còn là những dấu ấn của cảm xúc và tâm trạng con người.
Bằng cách sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình, tác giả đã thành công trong việc kết nối giữa thiên nhiên và tâm trạng con người. Các từ láy thường được đảo lên đầu câu thơ, nhấn mạnh tâm trạng sâu xa và ý định của nhà thơ. Từ láy "nao nao" không chỉ làm nổi bật sắc thái của cảnh vật mà còn thể hiện sự hoang mang và bất an trong tâm trí con người, tạo ra một hiệu ứng tương phản đầy ấn tượng.
C. Phần kết bài
Ở nội dung phần kết bài này thì cần đánh giá về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong đoạn trích và tài năng của nhà thơ Nguyễn Du.
Nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 1
Truyện Kiều của Nguyễn Du ”rất thành công trong nghệ thuật tả cảnh. Đoạn trích “Cảnh ngày xuân ”là đoạn thơ tiêu biểu thể hiện rõ tài năng miêu tả cảnh của nhà thơ. Bốn câu thơ đầu đã miêu tả cảnh ngày xuân đẹp như một bức tranh. Nhà thơ đã lựa chọn những chi tiết tiêu biểu nhất mang nét đặc trưng của ngày xuân để khắc hoạ .
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thềm quang chín chục đã ngoài sáu mươi ”.
Giữa bầu trời bao la mênh mông là những cánh én bay qua , bay lại như đưa thoi. hai chữ“đa thoi ”rất gợi hình gợi cảm. Nó vừa gợi được cánh én như con thoi bay qua , bay lại chao lượn , vừa thể hiện được thời gian ngày xuân đang trôi nhanh . Nhà thơ mượn cách nói của dân gian , thời gian thấm thoắt thoi đưa. Cảnh ngày xuân hiện nên trong thơ ông vừa bình dị vừa sống động. Sau cánh én đưa thoi là ánh xuân, là “thiều quang” của mùa xuân khi đã ngoài sáu mươi.
Cách tính thời gian và miêu tả vẻ đẹp mùa xuân của Nguyễn Du mang những nét rất riêng. Hai chữ “Thiều quang”để thể hiện mùa xuân đã sang tháng ba. Hai chữ ấy đã gợi nên màu hồng của ánh xuân, cái đầm ấm của khí xuân, cái mênh mông bao la của đất trời. Câu thơ đã thể hiện được không gian mùa xuân thật trong sáng.
Bức tranh mùa xuân ấy còn là sắc xanh mơn mởn, ngọt ngào của cỏ non trải ra, lan rộng như tấm thảm tới tận chân trời:
“Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa ”.
Người đọc đều cảm nhận thấy nhà thơ Nguyễn du đã tiếp thu những yếu tố miêu tả của câu thơ cổ Trung Quốc .“cỏ thảm liền với trời xanh Trên cành lê có mấy bông hoa ”. Nhưng ở dây, Nguyễn Du đã có điểm sáng tạo. Ông đã thiên về miêu tả sắc trắng của bông hoa. Dùng phép đảo ngữ đưa tính từ “trắng lên trước cụm từ “vài bông hoa”để cùng với tính từ “xanh” ở câu trên. Câu thơ của Nguyễn Du đã trở thành bức hoạ với gam màu dịu dàng. Trên nền xanh của cỏ biếc, điểm xuyến một vài bông hoa lê trắng đã tạo thành một bức gấm thêu.
Nghệ thuật phối hợp sắc màu của Nguyễn Du thật tài tình. Cái màu xanh – trắng hài hoà ấy gợi lên cảm giác cảnh mênh mông mà không quạnh vắng, trong sáng mà trẻ trung, nhẹ nhàng mà thanh khiết. Bốn câu thơ đầu là một bức tranh về ngày xuân bằng ngôn từ. Bức tranh ấy đẹp, bình dị thơ mộng. Đó là bức tranh có màu sắc hài hoà, dịu dàng, tươi tắn. Đó là màu xanh của cỏ màu trắng của hoa lê. Bức tranh ấy có không gian mênh mông, thoáng đạt. Có những cánh én đang chao lượn, có màu hồng của ánh thềm quang.
Vẽ được bức tranh xuân hoa lê như vậy đã thể hiện rõ tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó với cảnh vật ngày xuân của Nguyễn Du. Cảnh ngày xuân càng trở lên đẹp thêm, sinh động thêm bởi nhà thơ còn miêu tả lễ hội mùa xuân.
“Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh”.
Điệp từ “lễ là. hội là ”có tính chất liệt kê để gợi lên cảnh lễ hội dân gian cứ liên tiếp diễn ra từ bao đời nay. Sau đó nhà thơ đã miêu tả cụ thể cảnh chảy hội đông vui, tưng bừng, náo nhiệt .
“Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe như nước áo quần như nêm ”.
Trên khắp nẻo đường gần xa, những dòng người cuồn cuộn chảy hội có biết bao yến anh, tài tử, giai nhân dập dìu, vai sánh vai, chân nối chân cùng nhịp bước . Dòng người chảy hội tấp nập , ngựa xe cuồn cuộn . Nhà thơ đã rất khéo léo dùng hàng loạt các từ láy“ nô nức , dập dìu ”rồi các từ ghép “yến anh, tài tử , giai nhân …” kết hợp với các ẩn dụ ,so sánh “như nước , như nêm ”để gợi tả lễ hội mùa xuân tưng bừng náo nhiệt đang diễn ra trên khắp các miền quê đất nước .
Đọc tiếp đoạn thơ ta còn thấy Nguyễn Du thể hiện đời sống tâm linh , phong tục dân gian cổ truyền trong lễ tảo mộ.
“Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay ”.
Câu thơ có giá trị tạo hình lớn. Bởi lẽ, nhà thơ đã dùng phép đảo ngữ đưa từ “ngổn ngang”lên đầu câu thơ để diễn tả những ngôi mộ liền kề nhau . Cõi âm và cõi dương, người đang sống và người đã chết , hiện tại và quá khứ ,đồng hiện trong những gò đống ngổn ngang trong lễ tảo mộ. Những “thoi vàng vó ”được rắc ra , tiền vàng được đốt tro bay lả tả bao trùm hết không gian để gửi cho người đã khuất. Cái tâm thánh thiện và niềm tin chất phác đầy ắp nghĩa tình.Các tài tử giai nhân và ba chị em Kiều không chỉ cầu mong cho các vong linh đã khuất mà còn gửi gắm bao niềm tin, bao điều mơ ớc về tương lai, hạnh phúc cho tuổi xuân khi mùa xuân về .
Giá trị nhân văn của những câu thơ đã làm cho người đọc rất xúc động. Sáu câu thơ cuối đã ghi lại cảnh chị em Thuý Kiều đi tảo mộ đang lần bước trở về nhà. Lúc này, mặt trời đã là là gác núi, ngày hội, ngày vui đã trôi qua .
“Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về ”.
Nhịp thơ chậm rãi, diễn tả cuộc sống như ngừng trôi . Tâm tình của chị em Thuý Kiều thơ thẩn, cử chỉ thì dang tay, nhịp chân thì bước dần, không gian thì yên tĩnh, lắng lại. Công việc lúc hoàng hôn hiện lên trong mắt nhìn của chị em Thuý Kiều càng trở nên nhỏ bé.
“Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang ”.
Khe suối chỉ là “ngọn tiểu khê ”, phong cảnh thanh thanh, dòng nước “nao nao uốn quanh ”. “dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang. Nhà thơ đã rất khéo léo sử dụng hàng loạt các từ láy để gợi tả những cảnh vật nhỏ bé, êm đềm. Phải chăng sự nao nao của dòng nước uốn quanh không chỉ thể hiện sự nhẹ nhàng, êm đềm của dòng nước đang chảy mà còn diễn tả tâm trạng bâng khuâng, nuối tiếc, sự rung động của tâm hồn giai nhân khi hội tan, ngày tàn.
Như vậy, đoạn thơ có kết cấu theo trình tự thời gian, bốn câu thơ đầu gợi tả khung cảnh ngày xuân. Tám câu tiếp theo là khung cảnh lễ hội. Sáu câu thơ cuối là cảnh du xuân trở về .Kết cấu ấy đã rất phù hợp với diễn biến tâm trạng của nhân vật trong khung cảnh ngày xuân. Đồng thời cũng để người đọc tiện theo dõi. Qua đó ta cảm nhận được một bức tranh thiên nhiên đẹp là một nét đẹp truyền thống văn hoá dân tộc ta .
Nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 2
Khi nhắc tới bút pháp sử dụng trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, người ta thường nhắc nhiều về bút pháp miêu tả nội tâm cực kì xuất sắc mà ông đã thể hiện trong mỗi nhân vật của mình. Thế nhưng, người đọc chúng ta mỗi khi đọc đến đoạn trích “Cảnh ngày xuân” thì cũng không khỏi thán phục trước nghệ thuật miêu tả cảnh thiên nhiên vô cùng sống động, tươi đẹp, trong sáng mà ông đã dùng để vẽ lên bức tranh xuân trong đoạn trích này. Bức tranh thiên nhiên mùa xuân ấy quả thực đẹp đẽ đến vô cùng dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du.
Nguyễn Du được mệnh danh là đại thi hào của Việt Nam. Nhắc đến ông chúng ta nhắc đến kiệt tác Truyện Kiều mà một trong những nét độc đáo, hấp dẫn của tác phẩm này là:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh rợn chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Trong đoạn thơ có một bức tranh thiên nhiên mùa xuân sáng tươi và rất thơ mộng. Nguyễn Du đã sử dụng rất thành công biện pháp tu từ nhân hóa làm cho cảnh vật trở nên có hồn thơ. Mùa xuân được mở đầu bằng cánh én chao lượn trên không gian. Điểm nhìn của nhà thơ từ thấp nhìn lên cao nên có cảm tưởng như cánh én đang đưa thoi một cách nhịp nhàng, đều đặn. Nhưng có lẽ đặc sắc hơn cả là cách miêu tả cỏ xuân của Nguyễn Du:
“Cỏ non xanh rợn chân trời.”
Trong thơ ca Việt Nam có rất nhiều câu thơ tả cỏ rất đặc sắc: “Cỏ xanh như khói bến xuân tươi.”
(Bến đò xuân đầu trại – Nguyễn Trãi)
hay:
“Ngoài đường đê cỏ non tràn biếc cỏ.”
(Chiều xuân – Anh Thơ,)
Cỏ trong câu thơ của Nguyễn Du mang một vẻ đẹp rất riêng, rất tạo hình. “Xanh rợn” là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác gợi ra trước mắt người đọc một màu xanh bao la trải dài mãi trong không gian. Nhà thơ đã lấy cái hữu hạn để làm nổi bật cái vô hạn. Trong màu “xanh rợn” ấy ta cảm thấy có một vị ngọt của mưa xuân, mặc dù trong câu thơ Nguyễn Du không hề nhắc đến, đó là cái tài của nhà thơ. Trong bức tranh thiên nhiên mùa xuân ta còn bắt gặp hình ảnh của những cành lê:
“Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Mùa xuân đã tạo nên màu trắng kì diệu của những bông hoa. Trước mắt chúng ta có những đốm trắng lấm tấm, lưa thưa, có cảm tưởng như có ai vô tình để quên những bông hoa ấy trên cánh lê. Bên cạnh những bức tranh thiên nhiên mùa xuân, trong Truyện Kiều còn bắt gặp bức tranh thiên nhiên mùa hạ:
“Dưới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông.”
Thiên nhiên được cảm nhận trong khoảnh khắc đặc biệt của đêm trăng. Chim quyên được nhân hóa như một vị sứ giả cất tiếng gọi hè. Tiếng chim ấy vang lên trong đêm trăng có cái gì rạo rực, say mê. Mùa hè đến từ từ, chậm chạp làm không gian cùng có một sự thay đổi. Nguyễn Du miêu tả mùa hè bằng những tín hiệu đặc sắc và quen thuộc của nó. Bên cạnh những tiếng chim tu hú, ta còn bắt gặp hình ảnh của những bông lựu đỏ:
“Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông.”
Bốn âm đặt cạnh nhau làm cho câu thơ có âm điệu nhịp nhàng. Nhưng bông lựu đỏ dưới ánh sáng của trăng trở nên lấp lánh được so sánh như những đốm lửa hồng sáng tươi. Những đốm lửa cứ lập lòe trên cành cây, cảnh rất ảo, rất gợi cảm. Mùa hè đã đến, đã thắp lên trên không gian những đốm lửa nhỏ in bóng trên tường. Ngôn ngữ gợi nhiều hơn tả của Nguyễn Du đã để lại cho người đọc ấn tượng sâu sắc.
Bằng bút pháp tài hoa của mình, Nguyễn Du đã vẽ nên cho người đọc thấy được bức tranh thiên nhiên đẹp tuyệt vời của mùa xuân trong tiết Thanh minh. Đoạn trích được kết cấu vô cùng hợp lý với phần mở đầu, diễn biến và kết thúc cùng với các bút pháp nghệ thuật được sử dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn như tả cảnh ngụ tình, chấm phá, lấy điểm tả diện, … Là một bức tranh thiên nhiên mùa xuân, nhưng nó vẫn được Nguyễn Du lồng vào đó những biểu cảm, những tự sự và những dự cảm của mình về số phận của con người. Phải nói, đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một trong những đoạn trích miêu tả thiên nhiên đặc sắc và điêu luyện nhất của Nguyễn Du.
Kết thúc đoạn trích, người đọc không khỏi trầm trồ trước bức tranh thiên nhiên ngày xuân được vẽ lên bằng thơ của đại thi hào Nguyễn Du. Chỉ với đoạn trích này, Nguyễn Du đã khẳng định được tài năng cũng như bút pháp của một nhà thơ đại tài của dân tộc. Và đoạn trích “Cảnh ngày xuân” cũng như Truyện Kiều sẽ luôn là những tác phẩm đặc sắc nhất trong nền thi ca Việt Nam.
Nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 3
Đoạn trích “Cảnh ngày xuân’’ trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, tả cảnh ngày xuân trong tiết Thanh minh và cảnh du xuân của chị em Kiều.
Đoạn thơ tả không gian và thời gian với những nét đặc trưng của thi pháp cổ điển, chấm phá điểm xuyết, tả ít gợi nhiều:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Ngày xuân thấm thoắt trôi mau, tiết trời đã bước sang tháng ba, những cánh chim én rộn ràng bay lượn như thoi đưa. Thảm cỏ non trải rộng đến chân trời, trên nền trời điểm xuyết vài hoa lê trắng. Gợi tả vẻ đẹp mới mẻ, tinh khôi, đầy sức sống (cỏ non), khoáng đạt, trong trẻo (xanh tận chân trời), nhẹ nhàng, thanh khiết (trắng điểm vài bông hoa).
Thanh minh, trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay
Cảnh lề hội rộn ràng được miêu tả qua hàng loạt từ ghép, từ láy: gần xa, yến anh, chị em, tài tử,giai nhân, nô nức sắm sửa, dập dìu… gợi cảnh đông vui, sự náo nhiệt, tâm trạng nô nức của những người đi hội, nhất là những tài tử giai nhân. Truyền thống văn hóa lễ hội xa xưa vào tiết Thanh minh được khắc họa: mọi người sắm sửa lễ vật đi tảo mộ, sắm sửa quần áo đi chơi hội ở đồng quê, rắc những thoi vàng vó, đốt tiền giấy hàng mã để tưởng nhớ những người thân đã khuất.
Thanh minh, trong tiết tháng ba,
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh.
Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm.
Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay
Nắng nhạt, mặt trời ngả bóng về tây, phong cảnh thanh dịu, lần bước theo nhịp cầu nhỏ cuối ghềnh, dòng nước uốn quanh. Những từ ngữ tà tà, thanh thanh, nao nao không chỉ miêu tả màu sắc cảnh vật mà còn bộc lộ tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến về một ngày vui sắp tàn và linh cảm về điều sắp xảy ra.
Đoạn thơ Cảnh ngày xuân là bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, trong sáng được gợi lên qua từ ngữ, bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình, đậm chất “thi trung hữu họa” của thi pháp văn học trung đại.
Nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 4
Đoạn trích "Cảnh ngày xuân" là một tác phẩm hay, độc đáo, rất tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên của đại thi hào Nguyễn Du. Đoạn trích nằm ngay sau đoạn tả tài, tả sắc của chị em Thúy Kiều. Qua đoạn thơ, Nguyễn Du dựng lên bức tranh thiên nhiên và lễ hội mùa xuân trong tiết Thanh minh thật tươi sáng, sống động. Nhà thơ đã khéo léo kết hợp bút pháp tả và gợi với những chi tiết mang tính ước lệ mà vẫn vô cùng chân thực, giàu tính chất tạo hình và biểu cảm, ngôn ngữ trong sáng, trau chuốt để miêu tả khung cảnh ngày xuân.
Trước hết là bốn câu thơ đầu , với nghệ thuật chấm phá độc đáo tả ít gợi nhiều, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, giàu sức xuân:
Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Hai câu thơ đầu vừa có sức gợi về thời gian, lại vừa có sức gợi về không gian. Ngày xuân thấm thoát trôi qua thật nhanh như thoi đưa. Cả mùa xuân có chín mươi ngày thì nay đã qua tháng giêng, tháng hai và bước sang tháng thứ ba. Ánh sáng của ngày xuân nhẹ nhàng, trong veo, lan tỏa, trải dài khắp muôn nơi. Trên nền trời cao là những đàn chim én mùa xuân đang chao nghiêng bay lượn. Dưới mặt đất là một thềm cỏ xanh non bất tận chạy ra xa tít tắp. Động từ “tận” làm cho không gian mùa xuân như đang giãn nở, ngày càng mở rộng ra biên độ và bao trùm cả không gian xuân là một màu xanh biếc của cỏ lá. Trên nền cỏ xanh tươi ấy là những bông hoa lê điểm vài sắc trắng gợi lên sự tinh khôi, mới mẻ. Biện pháp đảo ngữ có tác dụng tô đậm thêm và làm nổi bật hơn sức trắng của hoa lê trên nền cỏ mùa xuân. Chỉ bằng bốn câu thơ ngắn gọn nhưng dưới ngòi bút và cách miêu tả thần tình, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh xuân tinh khôi, trong trẻo, thanh khiết và giàu sức sống, mang đậm hơi thở của hồn xuân đất Việt.
Đến sáu câu thơ cuối, bằng nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình", Nguyễn Du đã miêu tả thời điểm kết thúc của ngày hội xuân thấm đượm hồn người một chút buồn xao xuyến. Đây vừa là tả thực, lại vừa nhuốm màu tâm trạng nhân vật trữ tình trong thơ.
Tà tà bóng ngả về tây
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Cảnh vẫn mang cái dịu nhẹ, êm đềm của ngày xuân nhưng bóng dương đã “tà tà ngả về tây”. Cảnh vật như trở nên nhạt dần đều, cái khung cảnh rộn rã, náo nức, tưng bừng lúc sáng sớm ngày xuân đã phải nhường chỗ cho sự tĩnh lặng, yên ả. Không gian xuân co gọn lại theo ánh sáng của bầu trời hoàng hôn chứ không mở ra rộng lớn, mênh mông, vô tận như ở bốn câu thơ đầu. Tất cả đều thu nhỏ trong bước chân của người ra về. Phong cảnh thì "thanh thanh" nhẹ nhàng, dòng nước tiểu khê thì uốn quanh "nao nao" và chiếc cầu "nho nhỏ" thì "bắc ngang" cuối ghềnh. Cảnh thực đẹp, rất giàu chất thơ, chất họa, phảng phất một nỗi buồn lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng của lòng người. Đồng thời gieo vào lòng người đọc những linh cảm về một điều sắp sửa xảy ra, như là sự dự báo trước cuộc gặp gỡ nấm mồ Đạm Tiên và sự gặp gỡ của hai con người trai tài gái sắc: Thúy Kiều – Kim Trọng. Tóm lại, với bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với việc sử dụng hệ thống những từ láy, hình ảnh giàu tính tạo hình và biểu cảm, tác giả đã khắc họa bức tranh chiều tà trong ngày hội xuân thấm đượm tâm trạng của con người nhân vật. Qua đó cho thấy được tài năng nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và tâm trạng con người của Nguyễn Du.
Nếu như ở bốn câu thơ đầu, bức tranh thiên nhiên mùa xuân vào lúc sáng sớm hiện lên căng tràn, đầy nhựa sống, bao la, vô tận trong màu sắc xanh non, biếc rờn của cỏ cây thì đến sáu câu cuối, bức tranh xuân khép lại trong ánh sáng nhạt nhòa của ánh nắng chiều yếu ớt ngã về phía tây, co gọn lại thật nhỏ bé và nhuốm màu sắc tâm trạng con người. Cảnh chuyển rất tự nhiên và hợp lý.
Tóm lại, qua việc phân tích ở trên, chúng ta thấy được nghệ thuật miêu tả thiên nhiên rất độc đáo, giàu sức gợi của nhà thơ. Đó là một bức tranh mùa xuân giàu chất thơ, chất họa, rất sống động, nhịp nhàng.
Nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 5
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được xem là một kiệt tác của nền văn học dân tộc Việt Nam, không chỉ hấp dẫn độc giả trong nước mà còn thu hút sự chú ý và yêu thích của rất nhiều độc giả nước ngoài. Sở dĩ có sự thành công này, không chỉ bởi Truyện Kiều phản ánh được sinh động hiện thực xã hội đương thời, mang giá trị nhân đạo sâu sắc, mà còn bởi bút pháp nghệ thuật tài tình của Nguyễn Du. Điển hình nhất trong nghệ thuật miêu tả của Truyện Kiều, không thể không kể đến nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Ở đây, ta sẽ đi tìm hiểu nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” để thấy được sự tài tình của tài năng Nguyễn Du.
Trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, bức tranh thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống được nhà thơ Nguyễn Du gợi ra đầy sinh động, tươi tắn, ngập tràn sắc xuân:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”
Khung cảnh mùa xuân được nhà thơ gợi ra bằng hình ảnh “con én đưa thoi”. Chim én vốn là một loại chim tiêu biểu, nó luôn gợi nhắc người ta đến mùa xuân bởi chính đặc tính sinh học của nó. Khi xuất hiện những đàn chim én bay lượn trên bầu trời cao là người ta biết mùa xuân đã về. Ngày xuân những cánh én chao liệng như gọi thêm cái náo nức, nhộn nhịp về cho đất trời. Ở đây, Nguyễn Du đã ví những cánh én như những con “thoi”, như để chỉ sự chảy trôi nhanh chóng của ngày xuân tựa như chiếc thoi vẽ những đường tơ mềm mại trên khung vải.
“Thiều quang” là làn ánh sáng đỏ hồng, tỏa rạng rực rỡ và ấm áp của ngày xuân. Trong không khí náo nức của những cánh chim én, bầu trời như cao hơn, rực rỡ hơn bởi những ánh nắng xuân nhẹ nhàng mà đầy tinh khiết, mang lại cái ấm áp cho vạn vật, khoác lên chúng bộ một sắc màu tươi tắn, mới lạ và đầy sức sống. Trên cái khung cảnh tuyệt sắc ấy của thiên nhiên, hình ảnh xanh mướt của cỏ non trải dài ra trước mắt người đọc “ Cỏ non xanh tận chân trời”. Hình ảnh những đám cỏ xanh mơn mởn trải ra bát ngát, mênh mông, dường như không có điểm dừng. Trong cảm nhận của đại thi hào Nguyễn Du, dường như những đám cỏ này trải dài đến tận đường “chân trời”. Trong không khí rộn ràng, khoe sắc của mùa xuân ấy, thu hút thị giác của độc giả không chỉ bởi cái nõn tươi của cỏ non, mà còn bởi những đốm trắng được điểm xuyết bởi những bông hoa lê “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Ta có thể thấy, sự xuất hiện của sắc trắng hoa lê đã làm cho bức tranh ngày xuân thêm hoàn mĩ, bộc lộ được trọn vẹn vẻ đẹp của ngày xuân. Sự kết hợp tài tình giữa hai màu xanh- trắng đã làm cho câu thơ tràn trề sức sống của vạn vật, của hoa lá cỏ cây.
Không chỉ không khí của ngày xuân được Nguyễn Du tái hiện một cách sinh động, chân thực mà ngay cả khi bầu trời ngả bóng chiều tà, khi không khí ngày xuân dần dần lặng xuống, nhường chỗ cho bóng tối thì Nguyễn Du vẫn dùng sự tài hoa, tinh tế của mình mang đến cho người đọc một bức tranh chiều tà thật đẹp:
“Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc qua”
Nếu không khí của ngày xuân nhộn nhịp, vui tươi bởi những cánh én chao liệng, bởi sự khoa sắc của cỏ cây hoa lá, bởi chính sự tấp nập, háo hức của con người, thì khi chiều tà, không khí của ngày xuân trở nên trầm lắng hơn, thanh tĩnh hơn nhưng không vì đó mà mất đi cái vẻ hấp dẫn, mất đi cái nét đẹp vốn có của nó. Ở đây, nhà thơ Nguyễn Du đã sử dụng hệ thống các từ láy như: “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ” để vẽ ra bức tranh chiều tà, các từ ngữ này không chỉ có chức năng biểu đạt sắc thái cảnh vật mà còn giàu giá trị biểu cảm. Trong đó, từ láy “nao nao” rất đặc biệt, bởi nó không chỉ gợi ra được cái nhịp chảy chậm rãi, từ từ của “dòng nước uốn quanh”, mà nó còn gợi ra được bức tranh tâm trạng của con người, đó chính là cảm giác mơ hồ buồn, có chút trống trải trong sự cảm nhận của con người.
Khung cảnh buổi chiều của mùa xuân được nhà thơ Nguyễn Du khắc họa với vẻ đẹp trầm lặng, chậm rãi nhưng mọi cảnh vật vẫn thơ mộng như vậy, hữu tình như vậy. Cảnh vật vẫn mang cái thanh, cái nhẹ của mùa xuân, ánh nắng nhạt nhòa, dòng suối nhỏ, nhịp cầu chênh vênh. Đặc biệt, trong bức tranh buổi chiều mùa xuân, Nguyễn Du đã rất khéo léo lồng tâm trạng, cảm xúc của con người vào bức tranh thiên nhiên, làm cho bức tranh thiên nhiên sinh động, chân thực hệt như cảm xúc của con người.
Như vậy, bằng sự cảm nhận tinh tế của tâm hồn thi sĩ, nghệ thuật miêu tả cảnh vật bậc thầy, Nguyễn Du đã tái hiện vô cùng chân thực, tự nhiên bức tranh ngày xuân với đầy đủ sắc thái, từ náo nức rộn rã đến cái nhẹ nhàng, chậm rãi của cảnh vật, từ cái tấp nập, háo hức đến vẻ trầm tĩnh, nao nao của cảm xúc con người. Ta có thể khẳng định, bức tranh ngày xuân trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là bức tranh tươi đẹp, sống động nhất, nó thể hiện được tài năng miêu tả bậc thầy cũng như tâm hồn đầy tinh tế của nhà thơ Nguyễn Du.
Nghệ thuật tả cảnh trong Cảnh ngày xuân - mẫu 6
Trong Truyện Kiều, biết bao nhiêu lần Nguyễn Du đã dụng công nghệ thuật để miêu tả thiên nhiên có đủ bốn mùa đầy gợi cảm, trữ tình.
Thế nhưng, có lần Nguyễn Du vẽ nên bức tranh thơ bất tử về mùa xuân bằng màu xanh tươi tắn của cỏ non với nét thanh nhã của sắc trắng hoa lê. Để rồi trên cái nền xuân mênh mông, êm đềm ấy xuất hiện những trang giai nhân tuyệt sắc. Để rồi giai nhân - tài tử - mùa xuân và tình yêu đôi lứa chớm nở, đã mang cái đẹp đến cho đời và làm bùng vỡ cảm xúc thẩm mỹ của người yêu thơ Việt Nam qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân”.
Xuân đã vào tháng ba - tiết thanh minh, rộn ràng những cánh én trong nắng ấm. Bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân bằng sự kết hợp tuyệt vời giữa thảm cỏ xanh non trải dài tận đến chân trời. Điểm trên cái nền xanh mênh mông rợn ngợp ấy, là những cánh hoa lê màu trắng thanh nhã. Tác giả dùng từ “điểm” thật phù hợp, tạo nét thanh nhã, đúng với tình cảm trong sáng thanh lịch của “nam thanh nữ tú” đang du xuân.
Đó là màu sắc tinh khôi, trong trẻo, giàu sức sống và gợi cảm, là nét đặc trưng của mùa xuân. Bức tranh xuân đã làm say lòng người.
Tám dòng tiếp theo gợi tả khung cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh.
Nét văn hoá tảo mộ giàu tính truyền thống, trở thành nét đẹp trong tâm hồn con người.
Hội Đạp thanh gợi cái nét thanh tao mà gần gũi. Có gì thanh bình bằng dạo chơi trên cánh đồng quê lúc cỏ non vừa vươn dậy sau những cơn mưa xuân lất phất. Đâu đó thoang thoảng mùi hương trầm tỏa ra từ những ngôi mộ hòa quyện vào tâm hồn người du xuân thành niềm thiêng liêng khó tả.
Đoạn thơ giàu giá trị biểu cảm thể hiện qua các danh từ yến anh, chị em, tài tử, giai nhân tất cả mọi người xa gần đều trong tâm trạng “nô nức” sắm sửa, dập dìu đến phó hội.
Ngoài các động từ, danh từ được đưa vào thật đắt, Nguyễn Du còn hào phóng thêm vào các tính từ nô nức, gần xa và hình ảnh ẩn dụ “nô nức yến anh” đã góp phần gợi tả, làm nổi bật không khí, khung cảnh nhộn nhịp ngày xuân và tâm trạng phơi phới của khách chơi xuân.
Điểm trên khung cảnh ấy là những thoi vàng với tro tiền giấy bay càng làm cho khung cảnh có phần sâu lắng. Điều ấy làm nổi bật nét đẹp văn hoá truyền thống giàu tính nhân văn trong tiết Thanh minh.
Sáu câu cuối tả cảnh chị em Kiều trở về nhà. Cảnh hiện lên lúc chiều tàn, không còn nhộn nhịp mà như lặng dần và nhuốm buồn.
Những từ láy “tà tà, thanh thanh, nao nao” biểu đạt sắc thái cảnh vật và tâm trạng con người cũng “nao nao” như dòng nước. Phép nhân hoá độc đáo khiến cho cảnh vật như có tâm trạng.
Cảm giác vui xuân còn lâng lâng thì tác giả đã điểm vào lòng người một thoáng buồn qua hình ảnh “Nao nao dòng nước” và ngọn “tiểu khê” có màu thanh thanh lành lạnh như tiên cảm cho một điều chẳng lành, dự báo một thiên đoạn trường…
Đoạn thơ có kết cấu hợp lý và ngôn ngữ giàu tính tạo hình; nghệ thuật nhân hoá độc đáo và những từ láy giàu tính biểu cảm.
Với mười tám dòng thơ, tác giả đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân thanh nhã với nét chấm phá tuyệt vời và nhuốm đầy tâm trạng con người với dự cảm ẩn chứa niềm đau.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:
Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn tự sự
- Mục lục Văn nghị luận xã hội
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 1
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 2
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9 và Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều