Dàn ý Thuyết minh về cây lúa (20 mẫu)
Tổng hợp Dàn ý Thuyết minh về cây lúa hay nhất, ngắn gọn giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Dàn ý Thuyết minh về cây lúa
- Thuyết minh về cây lúa - mẫu 1
- Thuyết minh về cây lúa - mẫu 2
- Thuyết minh về cây lúa - mẫu 3
- Thuyết minh về cây lúa - mẫu 4
- Thuyết minh về cây lúa - mẫu 5
- Thuyết minh về cây lúa (mẫu 6)
- Thuyết minh về cây lúa (mẫu 7)
- Thuyết minh về cây lúa (mẫu 8)
- Thuyết minh về cây lúa (mẫu 9)
- Thuyết minh về cây lúa (các mẫu khác)
Dàn ý Thuyết minh về cây lúa (20 mẫu)
Dàn ý Thuyết minh về cây lúa
Dàn ý Thuyết minh về cây lúa - mẫu 1
1, Mở bài:
Giới thiệu ngắn về cây lúa:
- Giới thiệu gián tiếp qua các câu thơ, câu văn: Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết: “Việt Nam đất nước ta ơi/ Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn”. Cây lúc đã gắn bó lâu đời và trở thành một biểu tượng văn minh, văn hóa của con người Việt Nam
2, Thân bài:
a, Những đặc điểm sinh học của cây lúa
- Cây lúa là một trong năm loại cây lương thực chính trên thế giới.
- Có nhiều giống lúa khác nhau nhưng do đặc điểm khí hậu, đất đai vùng Đông Nam Á, lúa ở Việt Nam là giống lúa nước.
- Đặc điểm, hình dạng, kích thước:
+ Lúa là thực vật thuộc nhóm một lá mầm, thân cỏ, rễ chùm, bao gồm ba bộ phận chính:
Rễ: nằm dưới đất, hút chất dinh dưỡng để nuôi cây
Thân: tròn, mọc thẳng đứng, được nối với nhau bằng nhiều đốt. Bên trong thân cây lúa rỗng và mềm => có tác dụng vận chuyển chất dinh dưỡng cho cây.
Ngọn: Đây là nơi hình thành và sinh trưởng của bông lúa. Bông lúa gồm nhiều hạt, khi chín có màu vàng, được người nông dân thu hoạch về làm nông sản. Lá lúa ôm lấy thân, nằm nhiều ở phần ngọn, tùy thời kì sinh trưởng mà lá đổi màu từ xanh nõn đến xanh thẫm và vàng.
+ Khi cây lúa còn non được gọi là mạ, khi trưởng thành hoa lúa tự thụ phấn thành các cụm hoa, rồi thành hạt.
b, Cách trồng lúa
- Từ hạt thóc thu hoạch, người nông dân ngâm cho thóc nảy mầm, thành mạ.
- Cày xới ruộng cho đất tơi xốp, màu mỡ.
- Gieo mạ trên ruộng riêng để phát triển tốt rồi đem mạ gieo xuống ruộng đã cày bừa.
- Trong thời gian trồng lúa, phải bón phân, chú ý tưới tiêu để ruộng luôn xâm xấp nước, không ngập không hạn.
- Khi lúa phân nhánh hoa, sinh hạt phải diệt sâu bọ: có nhiều cách như phun thuốc sâu, nuôi vịt…
- Hạt lúa chín, người nông dân gặt lúa về, tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành hạt gạo.
c, Vai trò và sự phát triển của cây lúa:
- Vai trò về lương thực, kinh tế:
+ Cây lúa đem lại lương thực cho người Việt Nam từ ngàn đời nay: lúa nếp cho hạt gạo nếp để nấu xôi, các loại bánh; gạo tẻ nấu cơm dùng hàng ngày, làm thành các thực phẩm khác như bún phở, bánh đa bánh đúc…; lúa non dùng làm cốm…
- Vai trò về văn hóa:
+ Hình thành nền văn minh lúa nước: phát triển những phương thức trồng trọt ở đồng bằng, châu thổ từ xưa; phát triển kĩ thuật cấy lúa hiện đại…
+ Tạo nên một nền văn hóa ẩm thực độc đáo, phong phú.
+ Đại diện cho vẻ đẹp lao động: đi vào thơ ca, được khắc trên trống đồng, làm họa tiết trang trí trên áo dài…
- Sự phát triển của cây lúa hiện nay:
+ Hiện nay ta đã lai tạo được hơn 30 giống lúa đạt sản lượng năng suất cao.
+ Việt Nam từ một nước đói nghèo đã trở thành nước đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan về xuất khẩu gạo.
3, Kết bài:
– Cây lúa vô cùng quan trọng đối với đời sống người Việt
– Cây lúa không chỉ mang lại đời sống no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt.
Dàn ý Thuyết minh về cây lúa - mẫu 2
I). Mở bài:
+ Từ bao đời nay, cây lúa đã gắn bó và là một phần không thể thiếc của con người Việt Nam
+ Cây lúa đồng thời cũng trở thành tên gọi của một nền văn minh – nền văn minh lúa nước.
II) Thân bài:
1. Khái quát:
+ Cây lúa là cây trồng quan trọng nhất thuộc nhóm ngũ cốc.
+ Là cây lương thực chính của người dân Việt Nam nói chung và của Châu Á nói riêng.
2. Chi tiết:
a. Đặc điểm, hình dạng, kích thước:
+ Lúa là cây có một lá mầm, rễ chùm.
+ Lá bao quanh thân, có phiến dài và mỏng.
+ Có 2 vụ lúa: Chiêm, mùa.
b. Cách trồng lúa: Phải trải qua nhiều giai đoạn:
+ Từ hạt thóc nảy mầm thành cây mạ.
+ Rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng
+ Ruộng phải cày bừa, làm đất, bón phân.
+ Ruộng phải sâm sấp nước.
+ Khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi phải làm có, bón phân, diệt sâu bọ.
+ Người nông dân cắt lúa về tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành hạt gạo…
c. Vai trò của cây lúa và hạt gạo:
+ Vấn đề chính của trồng cây lúa là cho hạt lúa, hạt gạo.
+ Có nhiều loại gạo: Gạo tẻ, gạo nếp (dùng làm bánh chưng, bánh dày)…
* Gạo nếp dùng làm bánh chưng, bánh dày hay đồ các loại xôi.
* Lúa nếp non dùng để làm cốm.
- Lúa gạo làm được rất nhiều các loại bánh như: Bánh đa, bánh đúc, bánh giò, bánh tẻ, bánh phở, cháo,…
Nếu không có cây lúa thì rất khó khăn trong việc tạo nên nền văn hóa ẩm thực độc đáo của Việt Nam.
d. Tác dụng:
+ Ngày nay, nước ta đã lai tạo được hơn 30 giống lúa được công nhận là giống lúa quốc gia.
+ Việt Nam từ một nước đói nghèo đã trở thành một nước đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan về sản xuất gạo.
+ Cây lúa đã đi vào thơ ca nhạc họa và đời sống tâm hồn của người Việt Nam
III) Kết bài:
+ Cây lúa vô cùng quan trọng đối với đời sống người Việt
+ Cây lúa không chỉ mang lại đời sống no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt.
Dàn ý Thuyết minh về cây lúa - mẫu 3
I. Mở bài: Giới thiệu chung về cây lúa với nền văn minh nước ta.
Cây lúa nước là cây nông nghiệp gắn bó với nhiều thế hệ người nông dân từ hàng ngàn năm.
Cây lúa là cây lương thực đại diện cho nền văn minh lúa nước.
II. Thân bài:
1. Giới thiệu chung
Cây lúa ra đời từ rất lâu, sử sách ghi chép lại Lang Liêu đã sử dụng gạo nếp làm bánh chưng bánh giầy.
Đây là cây lương thực rất quan trọng với người Việt Nam nói riêng và châu Á nói chung.
2. Giới thiệu chi tiết
Từ hạt thóc ngâm trong nước sẽ phát triển thành mạ non và trở thành cây lúa.
Cây lúa là cây có một lá mầm.
Thân mềm, có nhiều lá mỏng, bề mặt lá rát.
Rễ của cây lúa mọc theo chùm rất vững chắc.
Bông lúa có nhiều nhánh, khi bông rụng sẽ tạo ra hạt.
Hạt lúa có màu xanh non, khi già thì chuyển sang màu xanh đậm, khi chín màu vàng.
3. Giai đoạn phát triển cây lúa
Hạt thóc ngâm tạo độ ẩm để nẩy mầm.
Khi hạt gieo tạo thành mạ non.
Mạ non sau thời gian chăm sóc sẽ phát triển thành cây lúa.
Sau quá trình chăm sóc, phân bón, phòng bệnh cây lúa sẽ nở bông, bông rụng tạo thành hạt lúa.
Hạt còn non thì màu xanh, sau đó chuyển sang xanh đậm, khi chín chuyển sang màu vàng.
Thu hoạch lúa vàng và xay xát sẽ thu được hạt gạo
4. Vai trò cây lúa với con người
Trong bề dày lịch sử cây lúa và hạt gạo là nguồn lương thực chính nuôi sống con người Việt Nam.
Từ hạt gạo làm ra những loại bánh ngon ví dụ bánh chưng, bánh giầy, bánh đúc.
Hạt gạo còn dùng làm thức ăn cho gia cầm như gà, vịt, ngỗng.
Thân lúa dùng làm thức ăn, giữ ấm cho gia súc.
Vỏ trấu dùng đun nấu trong sinh hoạt hàng ngày.
Gạo cũng được xuất khẩu nhiều nơi trên thế giới và mang lại nguồn ngoại tệ cho nước ta.
III. Kết bài:
Cây lúa gắn bó với đất nước đó, cây lương thực chính dùng để xuất khẩu.
Các bộ phận khác của cây lúa đều có những công dụng quan trọng trong đời sống của người nông dân.
Hình ảnh cây lúa như là nét đẹp trong đời sống tinh thần của dân tộc ta.
Dàn ý Thuyết minh về cây lúa - mẫu 4
1. Mở bài
Giới thiệu và dẫn dắt vào vấn đề cần thuyết minh: .
2. Thân bài
Tổ tiên của cây lúa bắt nguồn từ xa xưa, được con người phát hiện và thuần chủng nên trở thành giống ngày hôm nay.
Ở Việt Nam hiện tại có rất nhiều giống lúa khác nhau như: BC, bắc thơm, nếp cẩm, nếp cái...
Cây lúa thuộc thân cỏ khá mềm yếu, thường được cấy thành cụm gần kề nhau. Lúa nước thuộc loại rễ chùm nên đứng khá vững trên mảnh ruộng màu mỡ.
Một cây lúa trưởng thành cao khoảng 70 - 80 cm và có hệ rễ với tổng chiều dài gần 625km. Những cánh lá của cây lúa dài, có lớp lông phủ trên bề mặt như những lưỡi gươm.
Ở miền Bắc theo thời tiết, người nông dân trồng lúa theo hai vụ: chiêm và mùa. Vụ chiêm bắt đầu từ tháng giêng tới tháng sáu, còn vụ mùa từ tháng bảy tới tháng mười một. Tháng còn lại ruộng được cày ải và nghỉ ngơi để tiếp nối thời vụ năm sau.
Khi cây lúa còn là hạt thóc mẩy, căng tròn, người nông dân gieo trên lớp bùn phì nhiêu, được che khum, cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, từng mầm lá nảy lên biếc rờn. Lúc đó cây lúa được gọi là mạ. Mạ đem ra ruộng cấy thì hình thành lúa.
Họ hàng lúa nước còn thích nghi với điều kiện khắc nghiệt của ruộng bậc thang, còn dọc dải đất miền Trung có khi mưa bão, bà con bị mất trắng.
Giai đoạn lúa trưởng thành được người nông dân bón một số loại phân bón như NPK, Kali... Cụm rễ làm việc siêng năng, bấu vào đất mà hút chất dưỡng chất chuẩn bị cho lúa trổ đòng.
Những bông lúa trĩu nặng hạt tròn mẩy khiến thân lúa cây lúa uốn cong. Suốt hai thời vụ, người nông dân thường xuyên ra thăm ruộng để kịp thời ngăn chặn dịch bệnh nguy hiểm như bạc lá hay khô vằn.
Hạt thóc khi vàng ươm được máy gặt về. Những bó lúa dày hạt là thành quả cho cả quá trình lao động miệt mài của người lao động.
Nhờ có hạt thóc nhỏ giúp nước ta trở thành nước đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu lúa gạo trên thị trường quốc tế. Hạt ngọc thực làm cuộc sống dân ta trở nên no đủ hơn.
3. Kết bài
Khái quát lại hình ảnh cây lúa và nêu cảm nghĩ của bản thân về hình ảnh cây lúa.
Dàn ý Thuyết minh về cây lúa - mẫu 5
1. Mở bài
Giới thiệu và dẫn dắt vào hình ảnh cây lúa.
Lưu ý: Học sinh tự lựa chọn cách dẫn mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy thuộc vào năng lực của mình.
2. Thân bài
a. Nguồn gốc của cây lúa
Cây lúa có mặt ở Việt Nam và trên thế giới từ bao giờ vẫn còn là một câu hỏi lớn. Không ai biết được chính xác, cụ thể thời gian và không gian. Nhiều giả thiết cho rằng chúng xuất hiện cùng với những ngày đầu con người biết đến trồng trọt.
b. Khái quát về cây lúa
Lúa là một trong số cây lương thực chính của Việt Nam nói riêng và châu Á nói chung. Trên chặng hành trình trải dài từ miền Bắc vào đến trong Nam, không có nơi đâu là thiếu vắng hình ảnh những cánh đồng lúa mênh mông trải dài vô tận.
Việt nam là một nước xuất khẩu gạo và có một ngành nông nghiệp trồng lúa từ xa xưa, trên hầu hết cánh đồng lúa dải khắp các vùng đất từ Bắc vào Nam.
Cây lúa thuộc loại cây rễ chùm, ưa nước. Cây lúa phát triển qua từng thời kì khác nhau, trải qua quá trình chăm sóc, tưới tiêu vất vả, cần mẫn của người nông dân mới cho những bông lúa uốn câu vàng óng.
Cây lúa luôn mang trên mình mùi hương rất đặc biệt. Hạt lúa khi chín được bọc bên ngoài là lớp vỏ trấu màu vàng, bên trong là hạt gạo tròn, chắc mẩy, hương lúa lúc nào cũng có mùi thơm ngát, rất ngậy.
c. Phân loại
Có nhiều loại lúa khác nhau, phù hợp với từng vùng miền, khí hậu riêng. Các loại thóc thường phổ biến là thóc nếp, thóc BC, thóc Việt Hương, thóc Tạp Giao, thóc Tám…
Mỗi loài có những cách chăm sóc khác nhau nhưng đều rất hữu ích và là một nguồn lương thực không thể thiếu với người nông dân.
d. Biểu tượng lúa nước
Giữ một vị trí quan trọng như vậy nên khi nhắc tới Việt Nam, người ta nhắc tới một nền văn minh lúa nước. Cây lúa đã đi vào lịch sử dân tộc của Việt Nam, trở thành một đặc trưng cho văn hoá Việt.
3. Kết bài
Khái quát lại vẻ đẹp, hình ảnh cây lúa.
Dàn ý Thuyết minh về cây lúa - mẫu 6
1. Mở bài
Giới thiệu, dẫn dắt đến hình ảnh cây lúa nước bằng mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp.
2. Thân bài
a. Lịch sử, nguồn gốc cây lúa
Rất lâu rồi, lúa đã là một loại cây lương thực cổ có vị trí quan trọng trong đời sống và lịch sử phát triển của hàng triệu, triệu người từ xa xưa đến nay.
Đi khắp đất nước Việt Nam, từ Bắc vào Nam, từ miền ngược đến miền xuôi,… đâu đâu cũng có thể bắt gặp hình ảnh lúa trải rộng trên các cánh đồng thẳng cánh cò bay.
Cây lúa là cây trồng quan trọng nhất thuộc nhóm ngũ cốc và là cây lương thực chính của người dân Việt Nam nói chung, Châu Á nói riêng.
b. Đặc điểm của cây lúa
Cây lúa sống ở dưới nước, thuộc loại cây một lá mầm và là loài cây tự thụ phấn.
• Cấu tạo của cây lúa: 3 bộ phận
Rễ: thuộc loại rễ chùm. Những rễ non có màu trắng sữa, rễ trưởng thành có màu vàng nâu và nâu đậm, rễ đã già có màu đen.
Thân cây lúa: bao gồm bẹ lúa (là phần đáy lá kéo dài cuộn thành hình trụ và bao phần non của thân), phiến lá (hẹp, phẳng và dài hơn bẹ lá), lá hình lưỡi liềm). Thân cây có chức năng hống đỡ cơ học cho toàn cây, lá làm nhiệm vụ quang hợp.
Ngọn là nơi bông lúa sinh trưởng và trở thành hạt lúa. Lúa chín có màu vàng và người nông dân gặt về làm thực phẩm.
c. Lợi ích và vai trò của cây lúa
Là cây lương thực chính nuôi sống con người và có giá trị kinh tế cao (Gạo để xuất khẩu, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới).
Lúa còn chế biến ra nhiều sản phẩm như: Bánh, cốm, rượu,…
Sản phẩm phụ từ lúa được sử dụng trong nhiều lĩnh vực: làm đẹp (cám gạo), thức ăn gia súc, sản xuất giấy, đồ thủ công mỹ nghệ, chất đốt,…
Cây lúa có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của người Việt Nam: đi vào nhiều câu ca dao tục ngữ, nhiều câu chuyện dân gian, nhiều bài thơ bài hát. Nó cũng là loại cây tiêu biểu của Việt Nam, gắn với nhiều phong tục, tập quán của người dân.
3. Kết bài
Khái quát lại vai trò, ý nghĩa của cây lúa trong đời sống của con người hiện nay.
Dàn ý Thuyết minh về cây lúa - mẫu 7
1. Mở bài
Giới thiệu về cây lúa nước.
2. Thân bài
a. Khái quát chung
Gắn bó với người dân ta từ lâu đời, là thực phẩm quan trọng không thể thiếu trong bữa ăn hằng ngày của người Việt Nam và cũng là cây lương thực xuất khẩu hàng đầu của nước nhà.
Là cây thân cỏ, ưa nước, gieo trồng trên đất phù sa và có nhiều giống loại khác nhau.
Chu kì sinh trưởng trung bình là 4 tháng. Ưa thời tiết nóng ẩm.
b. Miêu tả chi tiết
Cây lúa trưởng thành trung bình có độ cao 80cm, toàn thân màu xanh, từ ngọn trổ bông rồi nặng dần xuống thành hạ.
Hạt lúa mọc thành chùm, khi còn non thì mềm mại, có màu xanh thoảng hơi sữa, khi già chuyển màu vàng, nặng dần và chúi đầu xuống phía dưới.
Lá lúa dài, hình lưỡi liềm nhỏ.
Rễ thuộc loại rễ chùm nên không cắm quá sâu xuống đất.
Thân cây rỗng.
c. Chu trình sinh trưởng
Người ta mang hạt lúa đi ngâm → hạt nảy mầm → mang đi reo ra những luống được chuẩn bị sẵn → lớn lên thành cây mạ → nhổ mạ bó thành bó → mang ra ruộng và trồng mỗi khóm cách nhau 20 - 30cm (mỗi khóm có từ 4 - 8 cây tùy tay người lấy) → cây lúa con thích nghi với ruộng và lớn dần lên → trổ bông và chín người dân thu hoạch (gặt lúa).
d. Quá trình chăm sóc
Người nông dân phải ủ đúng độ nóng ấm của nước và thời gian.
Thường xuyên thăm nom khi nó còn là cây mạ để xem tình trạng của cây.
Sau khi cấy xuống ruộng, nên thường xuyên bón phân và diệt trừ sâu bọ.
e. Tổng quát
Nêu tầm quan trọng và ý nghĩa của cây lúa với đời sống.
3. Kết bài
Khái quát lại những giá trị của cây lúa.
Dàn ý Thuyết minh về cây lúa - mẫu 8
I. Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu chung về đối tượng thuyết minh - cây lúa Việt Nam (cây lương thực chính quan trọng, một trong những biểu tượng của nền nông nghiệp nước ta,...).
II. Thân bài
a. Giới thiệu khái quát về cây lúa Việt Nam
Lúa nước là loại cây quen thuộc với người dân nước ta, có lịch sử trồng trọt và canh tác lâu đời.
Là thế mạnh của xuất khẩu lương thực Việt Nam trên thị trường thế giới.
b. Giới thiệu chi tiết về cây lúa
Đặc điểm sinh học: Cây tự thụ phấn, rễ chùm, một lá mầm,...
Môi trường sống: ngập nước
Các giai đoạn phát triển: hạt giống → nảy mầm → mạ non → trổ bông → kết hạt → lúa chín.
• Đặc điểm canh tác:
Số vụ gieo trồng: thường là 2 vụ/năm.
Quy trình trồng trọt và canh tác: ủ mầm => gieo mầm => cấy mạ => chăm sóc => thu hoạch.
c. Vai trò của cây lúa trong đời sống người Việt Nam:
Làm ra gạo tạo nguồn lương thực chính trong các bữa ăn.
Xay thành bột dùng làm nguyên liệu chính cho nhiều loại bánh.
Cho ra những phụ phẩm sau hạt gạo (cám, tấm, vỏ trấu,...) dùng trong chăn nuôi và các việc khác.
Tạo nguồn thu nhập cho người trồng lúa.
Trở thành chủ lực mang lại lợi nhuận xuất khẩu, danh tiếng và cơ hội tiến xa hơn cho nước ta trên thị trường lương thực thế giới.
III. Kết bài
Nêu kết luận, nhận định chung về cây lúa Việt Nam (quan trọng, mang lại nguồn lợi to lớn,...).
Dàn ý Thuyết minh về cây lúa - mẫu 9
I. Mở bài: Giới thiệu về cây lúa nước
Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Từ bao đời nay, cây lúa luôn là biểu tượng của người dân Việt Nam. Cây lúa luôn gắn bó với con người Việt Nam, làng quê Việt Nam chính vì thế nó đã trở thành biểu tượng văn minh của nước ta. Mỗi một ai là người con của dân tộc Việt Nam thì luôn tự hòa với nền văn minh này. Lúa có tác dụng như thế nào và tầm ảnh hưởng ra sao, chúng ta cùng đi tìm hiểu.
II. Thân bài
1. Khái quát
Lúa là một cây trồng thuộc nhóm ngũ cốc và rất quan trọng đối với người dân Việt Nam
Là cây lương thực chủ yếu của người dân Việt Nam và các nước trên thế giới
2. Chi tiết về cây lúa
• Đặc điểm của cây lúa
Cây lúa sống ở dưới nước
Thuộc loại cây một lá mầm
Là loài cây tự thụ phấn
• Cấu tạo của cây lúa: 3 bộ phận
+ Rễ:
Bộ rễ lúa thuộc loại rễ chùm. Những rễ non có màu trắng sữa, rễ trưởng thành có màu vàng nâu và nâu đậm, rễ đã già có màu đen.
Thời kỳ mạ: Rễ mạ dài 5-6 cm
Thời kỳ sau cấy: Bộ rễ tăng dần về số lượng và chiều dài ở thời kỳ đẻ nhánh, làm đòng
Thời kỳ trổ bông: Bộ rễ đạt giá trị tối đa vào thời kì này, chiều dài rễ đạt 2- 3 km/cây
+ Thân lúa: Thân lúa gồm lá lúa, bẹ lúa, lá thìa và tai lá
Bẹ lá: Là phần đáy lá kéo dài cuộn thành hình trụ và bao phần non của thân.
Phiến lá: Hẹp, phẳng và dài hơn bẹ lá (trừ lá thứ hai).
Lá thìa: Là vảy nhỏ và trắng hình tam giác.
Tai lá: Một cặp tai lá hình lưỡi liềm
Chức năng của thân:
Chống đỡ cơ học cho toàn cây, dự trữ tạm thời các Hydratcacbon rước khi lúa trỗ bông. Lá làm nhiệm vụ quang hợp, chăm sóc hợp lí, đảm bảo cho bộ lá khoẻ, tuổi thọ lá lúa sẽ chắc hạt, năng suất cao.
+ Ngọn: Đây là nơi bông lúa sinh trưởng và trở thành hạt lúa. Lúa chín có màu vàng và người nông dân gặt về làm thực phẩm.
• Cách trồng lúa:
Hạt lúa ủ thành cây mạ
Mạ lúa cấy xuống thành cây lúa
Chăm sóc tạo nên cây lúa trưởng thành và trổ bông
Lúa chín gặt về tạo thành hạt lúa
Vai trò của lúa: Lúa cho hạt
Trong cuộc sống thường ngày: Chế biến thành cơm và các loại thực phẩm khác
Trong kinh tế: Buôn bán và xuất khẩu lúa gạo
Thành tựu về lúa:
Ngày nay, Việt Nam đã lai tạo hơn 30 loại giống lúa khác nhau và được công nhận là giống lúa quốc gia.
Từ một nước nghèo đói, lạc hậu. Việt Nam nay là nước thứ 2 xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, chỉ đứng sau Thái Lan.
III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ và ý nghĩa của cây lúa
Dù Việt Nam có phát triển và đạt những thành tựu như thế nào vẫn là một lương thực không thể thiếu trong cuộc sống hằng ngày của con người Việt Nam. Chính nhờ vào lúa mà ta đã có những bước chuyển biến đáng kể. Việt Nam sẽ luôn là nước có nền văn minh lúa nước.
Dàn ý Thuyết minh về cây lúa - mẫu 10
I). Mở bài:
- Từ bao đời nay, cây lúa đã gắn bó và là một phần không thể thiếc của con người Việt Nam
- Cây lúa đồng thời cũng trở thành tên gọi của một nền văn minh – nền văn minh lúa nước.
II) Thân bài:
1. Khái quát:
- Cây lúa là cây trồng quan trọng nhất thuộc nhóm ngũ cốc.
- Là cây lương thực chính của người dân Việt Nam nói chung và của Châu Á nói riêng.
2. Chi tiết:
a. Đặc điểm, hình dạng, kích thước:
- Lúa là cây có một lá mầm, rễ chùm.
- Lá bao quanh thân, có phiến dài và mỏng.
- Có 2 vụ lúa: Chiêm, mùa.
b. Cách trồng lúa: Phải trải qua nhiều giai đoạn:
- Từ hạt thóc nảy mầm thành cây mạ.
- Rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng
- Ruộng phải cày bừa, làm đất, bón phân.
- Ruộng phải sâm sấp nước.
- Khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi phải làm có, bón phân, diệt sâu bọ.
- Người nông dân cắt lúa về tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành hạt gạo…
c. Vai trò của cây lúa và hạt gạo:
- Vấn đề chính của trồng cây lúa là cho hạt lúa, hạt gạo.
- Có nhiều loại gạo: Gạo tẻ, gạo nếp (dùng làm bánh chưng, bánh dày)…
* Gạo nếp dùng làm bánh chưng, bánh dày hay đồ các loại xôi.
* Lúa nếp non dùng để làm cốm.
- Lúa gạo làm được rất nhiều các loại bành như: Bánh đa, bánh đúc, bánh giò, bánh tẻ, bánh phở, cháo,…
Nếu không có cây lúa thì rất khó khăn trong việc tạo nên nền văn hóa ẩm thực độc đáo của Việt Nam.
d. Tác dụng:
- Ngày nay, nước ta đã lai tạo được hơn 30 giống lúa được công nhận là giống lúa quốc gia.
- Việt Nam từ một nước đói nghèo đã trở thành một nước đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan về sản xuất gạo.
- Cây lúa đã đi vào thơ ca nhạc họa và đời sống tâm hồn của người Việt Nam
III) Kết bài:
- Cây lúa vô cùng quan trọng đối với đời sống người Việt
- Cây lúa không chỉ mang lại đời sống no đủ mà còn trở thành một nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt.
Thuyết minh về cây lúa - mẫu 1
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn”
Cây lúa là loài cây quen thuộc gắn bó với người Việt từ ngàn đời nay, tư thuở sơ khai dựng nước cho tới tận bây giờ. Có lẽ vì thế mà hình ảnh cây lúa đi vào trong tiềm thức người Việt, vào cả những câu ca dao, dân ca một cách thật tự nhiên và thật đẹp với sự trân trọng và nâng niu như một báu vật của đời người
Lúa là loài thực vật thuộc nhóm các loại cỏ đã được thuần dưỡng. Đây là loại cây lương thực được trồng nhiều ở các khu vực Đông Nam Châu Á và Châu Phi. Trải qua hàng triệu năm thuần chủng và tiến hóa, lúa nước mới có hình dáng và kích thước cũng như những đặc tính của hiện tại. Lúa là loài cây lương thực có vòng đời sống trong một năm, thuộc loài cây thân thảo. Thân lúa thường mọc thẳng, trên thân có nhiều đốt rộng khoảng 2-3cm, cao khoảng 60-80cm. Thân lúa mềm, trong rỗng nên mỗi lần có gió, cả đồng lúa xanh mướt lả lướt tạo thành những sóng lúa tít tận chân trời. Lá lúa có phiến dầu và mỏng, viền lá sắc, mọc bao quanh và sắp xếp đối xứng quanh thân lúa. Mặt lá sờ vào có cảm giác ram ráp như một phủ một lớp da mỏng. Trên lá có đường gân chạy song song. Rễ của lúa là rễ chùm, bám chặt vào bùn để giữ cho thân lúa đứng thẳng và cũng là nơi hút chất dinh dưỡng từ đất nuôi cây lớn. Hạt lúa có vỏ ngoài màu vàng, còn được gọi là vỏ trấu, hơi ráp, bao bọc lấy hạt gạo sữa trắng ngần, thơm mát bên trong.
Ở Việt Nam có hai vụ lúa chính là vụ chiêm và vụ mùa. Nhưng sau khi cải tiến và lai tạo, hiện nay ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có tới 3 vụ mùa một năm. Vụ chiêm thu hoạch vào tháng năm, tháng sáu còn vụ mùa vào tháng tám hoặc tháng chín âm lịch. Lúa chia thành các giai đoạn phát triển, mỗi giai đoạn sẽ có những đặc điểm riêng. Sau khi ngâm thóc cho hạt thóc nảy mầm, người nông dân với đôi bàn tay khéo léo sẽ lấy từng nắm hạt giống, vãi ra khắp cánh đồng đã được bừa thật kĩ, láng thật mịn. Chỉ vài ngày sau hạt thóc sẽ nhú lên những cây mạ xanh non, biếc rờn rồi được cấy thành từng hàng thẳng tắp. Đất là một trong những nhân tố quan trọng cho sự phát triển của cây lúa. Bởi lúa chỉ có thể phát triển tốt nhất ở đất phù sa, với nhiệt độ lí tưởng cho cây lúa là từ 20-30 độ C. Trong vùng nhiệt độ sấy lúa sẽ lớn nhanh, hạt lúa sẽ chắc và mẩy. Lúa càng lớn càng phải chăm sóc kĩ bởi thời gian này lúa rất dễ bị nhiễm bệnh hoặc thiếu dinh dưỡng. Người nông dân chăm cấy lúa như chăm con, từ nhổ cỏ, tưới nước, bón phân đến bắt sâu, diệt bọ từ khi cây lúa còn đương thì con gái cho đến tận khi cây đã trổ đòng rồi chín vàng. Lúa chín sẽ chuyển sang màu vàng ruộm, tỏa ra mùi thơm thoang thoảng. Hạt lúa vàng ươm nặng trĩu kéo thân lúa sà sát mặt đất như mái tóc óng ả của người con gái đang độ xuân thì. Khi ấy cũng là lúc người nông dân thu hoạch lúa. Dưới cái nắng hè chói chang, những bóng nón trắng nhấp nhô trên cánh đồng lúa chín vàng. Lúa được gặt rồi bó thành từng bó lớn rồi tuốt hạt, phơi hai ba nắng to cho hạt lúa khô, để được lâu hơn rồi say rồi giã, rồi dần, rồi sàng, đủ mọi công đoạn mới có được một hạt gạo trắng ngần, béo múp. Có lẽ cũng vì cái khó khăn, nhọc nhằn ấy mà ca dao xưa đã có những câu:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
Hạt gạo trắng, những bát cơm dẻo thơm nghi ngút khói trong bữa cơm của mỗi nhà được làm ra bởi cái nắng chói chang của vùng nhiệt đới cùng những giọt mồ hôi mặn mòi của người nông dân cả ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Cũng vì thế mà người Việt yêu hạt gạo, nâng niu trân trọng và biết ơn những con người đã vất vả làm ra nó.
Cây lúa được trồng ở hầu hết các vùng trên cả nước. Dù không phải đất ở vùng nào cũng có thể trồng lúa nước nhưng nhờ sự sáng tạo, cần mẫn và khéo léo, người Việt không chỉ trồng được lúa trên các vùng đồng bằng bằng phẳng, màu mỡ mà ngay cả trên những vùng núi cao trập trùng, nghèo dinh dưỡng họ cũng có thể tạo ra những cánh đồng lúa chín vàng như những bậc thang nối từ mặt đất lên tới trời xanh. Lúa là loại lương thực chính của người Việt nói riêng, người Châu Á nói chung, cũng là loại lương thực quan trọng nhất trong năm loại ngũ cốc. Gạo cung cấp cho con người những chất dinh dưỡng cần thiết để duy trì sự sống của con người. Trong bữa cơm của mỗi gia đình Việt, thứ không thể thiếu chính là bát cơm gạo trắng tinh, mềm mềm, thơm phức và ngọt ngào. Bánh chưng - thứ bánh truyền thống của dân tộc trên bàn thờ gia tiên mỗi ngày Tết, là kết tinh của hạt gạo nếp, của thịt mỡ, của tiêu, của hành rồi được gói trong lá rong xanh mướt, trở thành tinh hoa trong ẩm thực Việt. Còn nhiều thật nhiều những món ăn ngon được làm từ hạt gạo: từ món cốm thơm từ hạt nếp non mỡ màng đến những món xôi ngon lành, mát mắt từ hạt nếp...tất cả đều trở thành thức quà khó quên trong tâm hồn người Việt.
Cây lúa còn có vai trò quan trọng trong tâm thức của người Việt. Với nền văn minh lúa nước có lịch sử 4000 năm, những lễ hội thể hiện sự biết ơn với cây lúa của người Ba Na (Gia Lai), lễ hội mừng lúa mới của người Xơ Đăng, người S’tiêng, lễ hội A Za Kông tạ ơn mẹ lúa và các giống cây trồng của người Tà Ôi, lễ mừng lúa sinh trưởng của người Mạ, lễ hội “Ăn trâu cúng thần được một ngàn gùi lúa” của người Mạ...khiến cho ta thấy sự ảnh hưởng, trân trọng và biết ơn của con người đối với cây lúa. Cây lúa cũng đi vào trong thơ ca, hội họa của con người như một lẽ tự nhiên và nó trở thành thi liệu để người nghệ sĩ vẽ lên hình ảnh về đất và người Việt.
Ngày nay, lúa gạo trở thành một trong những nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta và nước ta đã trở thành nước có sản lượng gạo xuất khẩu lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Thái Lan. Điều ấy cũng có nghĩa, lúa không chỉ là người bạn mà còn trở thành nguồn thu để nuôi sống biết bao đời người Việt từ xa xưa cho đến tận bây giờ.
Cây lúa nước mang vẻ đẹp mộc mạc, giản dị như chính tâm hồn của người Việt, đã gắn bó với con người Việt cả ngàn đời nay. Và dù cuộc sống có hiện đại, phát triển thì cây lúa vẫn sẽ giữ một vị trí quan trọng trong cả đời sống vật chất và tinh thần của người Việt Nam.
Thuyết minh về cây lúa - mẫu 2
Việt Nam là một nước nông nghiệp với khoảng 50% số dân làm nghề nông. Chính vì thế, cây lúa là một loài cây quan trọng trong đời sống người Việt. Nó phục vụ chủ yếu cho nhu cầu lương thực trong nước, ngoài ra còn để xuất khẩu ra nước ngoài. Sản lượng xuất khẩu lúa gạo Việt Nam đã đứng thứ hai trên thế giới, chỉ sau Thái Lan. Vì thế, cây lúa đã góp phần quan trọng trong việc phát triển đất nước.
Đối với mỗi chúng ta, cây lúa đã trở nên quen thuộc. Cây lúa thân nhỏ, có lớp vỏ bên ngoài bao quanh còn bên trong là thân rất bé nhưng khỏe. Mỗi cây có khoảng năm, sáu lá có màu xanh, nhọn, có một lớp lông hơi ráp. Mỗi cây có một bông lúa với rất nhiều hạt. Mỗi khi lúa lên đòng, mùi sữa trong các hạt lúa ấy tỏa ra thơm nhè nhẹ. Cây lúa cũng như người Việt Nam, luôn đoàn kết lẫn nhau: Mỗi cây lúa ở trong một khóm lúa, mỗi khóm lúa trong một ruộng lúa, ruộng lúa trong một cánh đồng cùng che chở cho nhau. Nếu như nói: “Cây lúa là loài cây quan trọng nhất trong đời sống Việt Nam” thì cũng không sai. Cây lúa là cây lương thực chủ yếu của Việt Nam. Chính cây lương thực này đã làm cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng rất nhanh, đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước. Ngoài ra, lúa gạo cũng để làm nguyên liệu chế biến ra những món ăn vừa dân dã vừa đậm đà hương vị dân tộc như bánh chưng, cốm, xôi hoặc các loại bánh… Ở nông thôn, người ta còn tận dụng vỏ trấu để đốt hoặc sử dụng trong các lò ấp trứng. Cám thì lại để dùng cho gia súc ăn, rất tiện mà hơn thế cám còn giúp cho gia súc tăng trưởng tốt. Còn rơm rạ lại là chất đốt hàng ngày trong cuộc sống ở nông thôn. Nếu quay trở lại ngày xưa, ta còn thấy cha ông ta lợp nhà bằng rơm. Trong xã hội phát triển như bây giờ, những ngôi nhà lợp rơm hầu như không còn nữa. Thế nhưng, những chiếc chổi làm bằng rơm thì vẫn còn tồn tại vì nó rất tiện sử dụng. Ngoài ra, rơm cũng là thành phần quan trọng trong việc trồng nấm, giúp nấm phát triển nhanh. Nói chung, xét trên phương diện vật chất, cây lúa có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của người Việt Nam.
Cây lúa cũng là một loài cây có ý nghĩa rất lớn trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Cây lúa tượng trưng cho nền văn minh lúa nước không chỉ của Việt Nam mà còn của cả Đông Nam Á. Cây lúa là biểu tượng cho sự no ấm, đầy đủ. Không chỉ thế, cây lúa còn là nguyên liệu để làm ra các món ăn ngon, các món ăn để cúng lễ tổ tiên vào dịp lễ Tết như bánh chưng, xôi, bánh giày. Chính điều này đã tạo ra một nền văn hoá ẩm thực đặc sắc của Việt Nam với các món ăn đầy ý nghĩa như bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh giầy tượng trưng cho trời. Đó là điều khiến cây lúa gắn với con người Việt Nam về vật chất cũng như tinh thần từ bao đời nay.
Cây lúa đã trở thành một người bạn gần gũi, thân quen với mọi người dân Việt Nam. Con người Việt Nam nói chung và người nông dân Việt Nam nói riêng đều coi trọng cây lúa và những sản phẩm mà nó đem lại. Chắc chắn rằng, cây lúa sẽ luôn tồn tại và gắn bó với con người Việt Nam từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Thuyết minh về cây lúa - mẫu 3
Đến với những vùng thôn quê Việt Nam, không thể không kể đến hình ảnh những đồng lúa bạt ngàn, trải rộng mênh mông, những cây lúa rung rinh trước gió dưới chiều tà cho con người cảm giác bình yên, tự tại. Có thể nói, cây lúa mang lại nhiều giá trị tốt đẹp cho người nông dân và cho xã hội.
Giống lúa tại Việt Nam ngày nay xuất phát từ một loại lúa dại có từ hàng vạn năm trước có thân và hạt nhỏ trải qua nhiều quá trình tiến hóa, lai tạo giống mà từ một loại lúa dại đơn giản hiện đã có hàng chục giống lúa khác. Theo lời truyền miệng của dân gian, nguồn gốc của lúa được phát hiện bởi một đôi vợ chồng do nạn đói kéo dài nên họ đã lánh vào rừng sinh sống, ngày ngày săn bắt chim thú và tình cờ phát hiện ra một loại hạt có thể gieo trồng và giúp người dân thoát khỏi nạn đói kéo dài. Loại hạt đó chính là hạt lúa.
Tuy lúa tại Việt Nam có rất nhiều giống khác nhau nhưng có thể phân loại theo hai nhóm chính: lúa nếp và lúa tẻ. Lúa nếp có nhiều giống, tiêu biểu như lúa nếp cái hoa vàng với chiều cao trung bình khoảng hơn mét, chịu được khí hậu khắc nghiệt, năng suất ra hạt tầm trung, người dân thường dùng lúa nếp để nấu rượu nếp, xay bột nếp, nấu sôi, là nguyên liệu làm bánh chưng. Với nhóm lúa tẻ, nổi tiếng với lúa Nàng Hương, có chiều cao lên tới khoảng 3, 4 m, hạt nhỏ, dẻo, người dân dùng gạo tẻ để nấu cơm ăn theo bữa, nấu cháo, làm bún, phở.
Dù là lúa nếp hay lúa tẻ đều có chung đặc điểm về cấu tạo trong và ngoài của cây. Lúa là cây thân cỏ, có chiều cao từ 1m – 3m, là loại cây rễ chùm đạt chiều cao tối đa khoảng 2 – 3 km. Lá lúa dài, đẹp không có màu cố định mà thay đổi theo từng thời kỳ phát triển của cây lúa. Hoa lúa có màu trắng, xuất hiện từ thời kỳ sinh trưởng sinh thực, có khả năng tự thụ phấn cho cây phát triển thành các hạt thóc nhỏ. Hạt thóc lúc ban đầu xuất hiện có màu xanh, khi chín đổi thành vàng nhạt, nhỏ chỉ dài khoảng 10 – 20 mm.
Mặt khác, từ lúc gieo mạ đến khi phát triển thành lúa chín lại cần một quá trình dài, nhiều giai đoạn. Đầu tiên, người nông dân gieo mạ vào mùa xuân tháng chạp, gần tết, mạ được gieo tại một khu đất riêng biệt với ruộng để ủ tầm 3 – 4 tuần thì người nông dân mới nhổ mạ và đi cấy tại ruộng. Từ mạ sau khi ủ phát triển thành cây con cao khoảng 10cm, gọi là thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng. Tiếp đến là thời kỳ sinh trưởng sinh thực khi từ cây con, lúa dần phát triển chiều cao đến độ dài nhất định, lúa bắt đầu ra những bông hoa trắng, sau đó những bông hoa trắng dần thu vào kết thành các hạt thóc nhỏ màu xanh, vỏ hạt cứng, khó tách khỏi cây. Cuối cùng là thời kỳ lúa chín, các hạt thóc chuyển dần về màu vỏ vàng tươi hay còn gọi là cám, dễ dàng tuốt hạt bằng tay, phần ngọn lúa dần chuyển màu vàng nhạt. Người nông dân thu hoạch lúa, tuốt các hạt thóc, phần lá còn lại sau khi tuốt tạo thành các đống rơm rạ.
Cây lúa mang lại cho người nông dân và cho xã hội nhiều giá trị đặc sắc, to lớn. Về mặt giá trị sử dụng, lúa được đưa vào sản xuất, xuất khẩu ra thế giới, là một nguồn lợi nhuận của người nông dân, lúa còn là lương thực chính trong các bữa ăn hàng ngày của người dân. Hạt gạo được đưa vào chế biến phở, bún, bột mỳ. Về giá trị tinh thần, lúa giúp Việt Nam trở thành nước đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, gắn bó với người dân hàng vạn năm qua.
Như vậy, lúa dù trải qua bao thập kỷ hay bao thăng trầm lịch sử vẫn luôn giữ một vị trí và vai trò quan trọng không hề thay đổi. Hiện nay, diện tích trồng lúa dần bị thu hẹp, công nghiệp hóa đã để lại hậu quả lũ lội quanh năm, tuy thời thế thay đổi nhưng giá trị mà lúa mang lại vẫn vẹn nguyên.
Thuyết minh về cây lúa - mẫu 4
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn”
Từ xa xưa, cây lúa đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân Việt. Lúa không chỉ là nguồn thức dưỡng nuôi sống con người mà còn trở thành biểu tượng của làng quê yên bình, là nét văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam.
Nhiều nhà khoa học cho rằng quê hương của cây lúa nước là vùng Đông Nam Á. Ở Việt Nam, từ thời Hùng Vương, nhân dân ta đã biết cấy lúa. Nghề trồng lúa nước đã truyền từ đời này sang đời khác, là ngành nông nghiệp chính của đất nước ta.
Lúa nước là cây lương thực chính của Việt Nam cũng như nhiều nước châu Á khác, trong khi châu u lại là lúa mì. Lúa thuộc loài thân thảo, có nhiều lóng và mắt. Chiều cao của thân được tính từ gốc đến cổ bông còn chiều cao của cây được tính từ gốc đến bông cao nhất. Lá lúa dài trông như lưỡi kiếm, khi lúa chín ngả sang vàng. Gân lá chạy song song với phiến lá, phiến lá mỏng và có nhiều lông ráp. Rễ lúa là rễ chùm, bám sâu xuống lòng đất để giữ cho cây khỏi đổ và hút dưỡng chất nuôi cây. Hoa lúa cũng chính là hạt lúa sau này. Lúa là loại cây tự thụ phấn, sau thụ tinh phôi nhũ phát triển thành hạt, chất tinh bột từ dạng lỏng qua một thời gian từ 2-3 tháng thành dạng đặc.
Ở miền Bắc thường có hai vụ lúa chính là vụ chiêm và vụ mùa, còn ở miền Nam một năm có 3 vụ lúa. Trồng lúa có nhiều công đoạn. Đầu tiên, người nông dân phải ngâm cho hạt lúa nảy mầm, nhà nông có câu “tốt giống tốt má, tốt mạ tốt lúa”, hạt giống có tốt thì cây lúa sau này mới có năng suất cao. Tiếp theo là công đoạn gieo mạ. Những cây mạ non ban đầu yếu ớt hấp thụ những gì tinh túy nhất của đất trời dần trở nên cứng cáp và xanh tươi mơn mởn. Lúa lúc xanh còn được gọi là lúa đương thì con gái. Đây là giai đoạn người nông dân phải chăm sóc tốt cho lúa: bón phân, làm cỏ, diệt côn trùng gây hại. Rồi lúa đẻ nhánh, lúa làm đòng, hương lúa thoang thoảng khắp cả cánh đồng. Lúa chín, bông lúa vàng trĩu hạt làm cả cây oằn xuống. Giờ đã đến giai đoạn thu hoạch lúa, các bác nông dân gặt lúa, tuốt hạt, phơi cho khô và bảo quản lúa ở nơi khô ráo, thoáng mát.
Lúa có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của chúng ta. Không chỉ cung cấp một lượng tinh bột lớn duy trì năng lượng cho con người, từ hạt gạo, người ta có thể chế biến ra vô vàn món ăn. Bánh chưng, bánh giầy được Lang Liêu làm ra từ gạo nếp để dâng vua Hùng là hai loại bánh truyền thống trong ngày tết. Bánh giầy tượng trưng cho trời còn bánh chưng tượng trưng cho đất. Lúa nếp non được rang thành cốm- là một thức quà quen thuộc của người Hà Nội mỗi khi mùa thu tới. Gạo nếp còn được nấu thành xôi- là món đồ không thể thiếu trong mâm cơm của người Việt vào ngày giỗ tổ tiên hay lễ, tết. Ngoài ra, chúng ta còn có biết bao loại bánh khác nhau được làm từ gạo: bánh cuốn, bánh đa, bánh nếp, bánh tẻ, bánh đúc…. Thân lúa sau khi thu hoạch được phơi khô có thể làm chất đốt hoặc thức ăn cho trâu, bò… Vỏ lúa được dùng làm trấu. Cám là một sản phẩm sau khi người ta xát gạo, dùng làm thức ăn cho gia súc, gia cầm.
Lúa có hai loại chính là lúa nếp và lúa tẻ. Ngày nay, nhờ sự phát triển của khoa học- kĩ thuật, người ta đã tạo ra nhiều loại lúa cho chất lượng và năng suất cao hơn. Đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long là hai vựa lúa lớn nhất nước ta. Việt Nam từ một đất nước đói nghèo đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới. Những cánh đồng lúa rộng bát ngát thẳng cánh cò bay là biểu tượng cho sự bình yên của làng quê, tô điểm cho vẻ đẹp của quê hương đất nước.
Ngày nay, nhiều tòa cao ốc mọc lên thay thế đồng ruộng nhưng cây lúa vẫn chiếm một vị trí quan trọng không thể thay thế trong đời sống của người dân Việt Nam. Cây lúa sẽ mãi là người bạn thân thiết của người nông dân, là nét đẹp bình dị của quê hương yêu dấu.
Thuyết minh về cây lúa - mẫu 5
Lúa là người bạn muôn đời gắn bó với sự cần lao của người nông dân Việt Nam. Nếu hoa sen mang vẻ đẹp thanh khiết, áo dài mang vẻ đẹp thướt tha đặc trưng của người phụ nữ Á Đông, thì cây lúa Việt Nam có một nét đẹp dân dã thân thuộc.
Việt nam là một nước xuất khẩu gạo và có một ngành nông nghiệp trồng lúa từ xa xưa, trên hầu hết cánh đồng lúa rải khắp các vùng đất từ Bắc vào Nam. Và các giống lúa cũng ngày càng đa dạng , phong phú bởi lúa được nghiên cứu nuôi trồng và nhân giống. Lúa có nhiều loại tùy thuộc theo từng vùng miền, khí hậu, mỗi vùng miền có địa hình và đất khác nhau nên lúa cũng phân bố khác nhau, nhưng thích hợp trồng lúa nhất là những vùng có nước ngọt, nếu vùng có nước quá mặn, phèn như vùng Tây Nguyên, lúa không thể lên được và cây lúa sống chủ yếu nhờ nước là loại cây lá mầm rễ chùm. Thân lúa có chiều rộng từ 2-3 cm, chiều cao khoảng từ 60-80 cm. Cây lúa được chia làm ba bộ phận chính , nhờ chúng cây có thể phát triển tốt: rễ cây nằm dưới lớp đất màu mỡ có tác dụng hút chất dinh dưỡng nuôi cơ thể, thân cây là cầu nối con đường đưa dinh dưỡng từ rễ lên ngọn, còn ngọn là nơi bông lúa sinh trưởng và trở thành hạt lúa. Lúa chín rồi có màu vàng và người ta gặt về làm thành gạo. Người nông dân thường trồng các loại giống lúa phổ biến như: lúa nước, lúa tẻ, lúa cạn, lúa nước nông, lúa nước sâu. Lúa nếp người ta thường trồng để làm bánh: bánh trưng, bánh nếp, hoặc để thổi xôi, còn lúa tẻ là lúa trồng làm nguồn thực phẩm chính, đóng vai trò quan trọng trong mỗi bữa ăn của người dân Việt Nam còn lúa non được dùng làm cốm. Theo các nghiên cứu, trước kia ông cha ta trồng giống lúa NN8, ngày nay thì miền Bắc trồng các loại giống lúa C70, DT10, A20.
Hiện nay, Việt Nam đã trở thành nước nông nghiệp và xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới, để có được thành quả ngày hôm nay, người nông dân phải vất vả, lao động chăm chỉ ,thực hiện đúng các công đoạn để có được một vụ mùa bội thu: từ gieo mạ, cấy mạ, bón phân, tưới tắm ,nhổ cỏ và những ngày đông hoặc mưa bão, hạn hán người dân phải khổ cực nhiều lần để che chắn và chăm sóc chúng. Trong suốt thời gian cây lúa sinh trưởng, hàng tuần người nông dân phải ra đồng chăm lúa và lấy nước. Việc thăm lúa giúp người nông dân phát hiện các ổ sâu hại lúa và bón phân để lúa phát triển tốt hơn. Đợt đến khi cánh đồng bắt đầu ngả màu vàng , người nông dân mới thu hoạch. Trước đây người dân thu hoạch bằng tay rất vất vả và tốn kém nhưng bây giờ , công nghệ phát triển tiến bộ hơn, người ta thu hoạch bằng máy nên đỡ phần nào khó nhọc cho con người. Từ thời ông cha ta, nhân dân trồng chỉ có hai vụ lúa: chiêm và mùa. Ngày nay, xã hội phát triển, công nghệ trong sản xuất được nâng cao hơn, mỗi năm có nhiều vụ nối tiếp nhau. Trồng lúa phải qua nhiều giai đoạn: từ hạt thóc nảy mầm thành cây mạ; rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng. Ruộng phải cày bừa, làm đất, bón phân. Ruộng phải sâm sấp nước. Khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi , người dân lại phải làm cỏ, bón phân, diệt sâu bọ. Rồi lúa làm đòng, trổ bông rồi hạt lúa chắc hạt, chín vàng. Người nông dân cắt lúa về tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành hạt gạo. Biết bao công sức của nhà nông để có hạt gạo nuôi sống con người. Những hạt gạo được làm ra không chỉ phục vụ bữa ăn chính của con người mà còn để làm bánh, nấu xôi, đặc biệt vào những dịp lễ hay Tết, gạo để làm bánh chưng truyền thống và còn làm món quà trao nhau. Chính những người nông dân ấy đã góp phần quan trọng giúp Việt Nam có vị thế như ngày hôm nay với ngành lúa nước hay đất nước chúng ta còn được ca ngợi là Văn Minh Lúa Nước.
Cây lúa chính là người bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam và là nguồn lương thực dồi dào của nước ta, có tầm quan trọng đối với phát triển kinh tế, mang lại sự no đủ cho chúng ta và trở thành nét đẹp tinh thần của người dân Việt Nam.
Thuyết minh về cây lúa - mẫu 6
Việt Nam là đất nước có nền văn minh lúa nước từ bao đời nay. Nghề trồng lúa được xem là nghề chính và là niềm tự hào của cha ông ta, là thước đo giá trị tinh thần và kinh tế của Việt Nam. Cho đến bây giờ mặc dù công nghiệp hóa hiện đại hóa song nghề trồng lúa vẫn được coi trọng và đầu tư. Cây lúa nước cũng vì thế mà đi vào đời sống của mỗi con người như một lẽ sống, có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Ở Việt Nam nghề trồng lúa nước có từ rất lâu, kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mỗi thời kỳ lại có những bước tiến và phát minh mới để nâng cao năng suất của cây lúa nước.
Cây lúa nước là cây lương thực chủ đạo của Việt Nam, mặc dù bên cạnh nó còn có các loại cây khác như ngô, khoai, sắn nhưng không loại cây nào có thể thay thế được vị trí, vai trò quan trọng của lúa nước.
Lúa chính là thành quả của một quá trình lao động sản xuất nhiều công đoạn, trải qua nhiều nắng mưa, nhiều mồ hôi và lo toan của người nông dân. Bởi thế người ta vẫn bảo nhau rằng:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
“Cuộc đời” của cây lúa nước cũng như sự phát triển của một đời người, đều có quá trình, có những vất vả và gian nan. Lúa được hình thành nên bởi bàn tay vất vả, khéo léo, hai sương một nắng của người nông dân. KHông phải cứ gieo xuống bùn, cấy xuống bùn là chờ đến ngày trổ bông. Mỗi giai đoạn phát triển của cây lúa nước không chỉ phụ thuộc vào người nông dân mà còn bị chi phối bởi thời tiết.
Từ một hạt lúa sẽ tạo nên thành nhiều hạt lúa chắc mẩm chính là quá trình sinh sôi và phát triển của cây lúa nước. Người nông dân sẽ lựa chọn những hạt lúa tròn và chắc để làm giống, ủ vào nơi kín gió với nhiệt độ phù hợp, tránh sự xâm nhập của sâu bọ, chuột gián. Ủ trong một thời gian vài ngày thì hạt thóc giống sẽ có độ ấm và bắt đầu nhú lên những mầm trắng nhỏ xinh. Những mầm trắng ấy rất yếu ớt nên người nông dân khéo léo không làm gãy chúng, bởi đó chính là cây mạ non sau này khi cấy xuống bùn. Ngay từ công đoạn đầu đã bắt buộc kinh nghiệm, sự khéo léo và tỉ mỉ của bàn tay người nông dân đế tạo ra những cây mạ cứng cáp.
Họ sẽ dùng những hạt tròn nảy mầm đó gieo xuống luống đất sền sệt, vừa đủ nước ở ngoài cánh đồng. Chờ đến một thời đủ dài để hạt giống đó tạo thành những cây mạ non nằm sát vào nhau, màu xanh rất mượt mà. Lúc ấy cả cánh đồng đều bị sắc xanh của đám mạ non bao phủ lấy, tạo nên sự yên bình và êm ả giữa chốn quê nhà.
Khi cây mạ non đã đến thì có thể cấy được thì người nông dân lại thêm một công đoạn tiếp theo. Ruộng đồng được cày bừa và lấy nước đủ đầy thì họ bắt đầu mang đám mạ non đó cấy xuống bùn. Bàn tay khéo léo, thoăn thoắt của các mẹ, các chị đã tạo nên những hàng lúa thẳng tắp, nhìn rất đẹp mắt.
Vậy là đã hoàn thành công đoạn cấy lúa, tiếp sau đó đến giai đoạn chăm sóc lúa theo từng thời kỳ thích hợp nhất. Sau khi cấy thì người nông dân đã phun thuốc để phòng trừ sâu bệnh gây hại, vì đây là thời kỳ lúa còn non, rất dễ bị sâu bệnh xâm nhập. Người nông dân đã trải qua bao nhiêu nắng mưa, nhiều đêm lo âu nghĩ mọi cách tìm ra cách phòng chống sâu bệnh hiệu quả nhất và tiết kiệm nhất. Trồng được một hạt lúa là cả một nỗi dài nhọc nhằn, lo toan. Để chúng ta ta giờ ăn một bát cơm cần phải nâng niu và trân trọng.
Trải qua một quá trình chăm sóc, vun trồng, tưới tiêu và thời tiết ưu ái thì người nông dân sẽ có một vụ mùa thắng lợi, gánh về sân những hạt thóc tròn vàng ươm.
Lúa ở Việt Nam có hai loại chủ yếu là lúa nếp và lúa tẻ. Lúa tẻ là loại lúa hạt dài mà người dân vẫn thường dùng trong các bữa cơm, còn lúa nếp là loại lúa mình tròn nẩy người ta thường dùng để làm xôi, làm bánh. Mỗi loại lúa đều có vai trò và chức năng riêng của nó.
Lúa nước Việt Nam có vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của mỗi gia đình, là “gia vị” không thể thiếu trong mỗi bữa cơm người Việt. Mỗi khi chúng ta ăn hạt cơm trắng tròn, dẻo thơm vẫn không quên được công lao, gian nan của những người nông dân đã làm ra chúng. Trong những bữa tiệc quan trọng thì gạo vẫn chiếm vai trò quan trọng không thể thiếu. Đặc biệt với sự tích Bánh chưng bánh giầy từ thời Hùng Vương đã đề cao vai trò của cây lúa đối với đời sống chúng ta.
Cho đến nay, Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn trên thị trường thế giới. Đây là điều khiến cho chúng ta và hơn hết là người nông dân tự hào vì công sức mà mình bỏ ra được đền đáp. Việt Nam phát triển lên từ ngành trồng lúa nước, và nó mãi mãi là nghề truyền thống không thể thay thế.
Thuyết minh về cây lúa - mẫu 7
Lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới. Đối với người Việt chúng ta cây lúa không chỉ là một loại cây lương thực quý mà còn là một biểu tượng trong văn chương ẩn dưới “bát cơm”,”hạt gạo”.
Việt Nam, một nước có nền kinh tế nông nghiệp từ hàng ngàn năm nay. Từ một nước thiếu lương thực trầm trọng trong những năm chiến tranh nhưng hiện nay, nền nông nghiệp của nước ta không chỉ sản xuất ra đủ một lượng lớn lương thực đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn trên thế giới. Trong đó ngành trồng lúa ở nước ta là một trong những ngành ngành sản xuất lương thực vô cùng quan trọng và đạt được những thành tựu đáng kể, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới.
Đối với người Việt chúng ta, hay phần lớn dân Á châu nói chung, cây lúa (tên khoa học là Oryza sativa) và hạt gạo là một loại thực phẩm hết sức gần gũi và đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong dinh dưỡng. Ngay từ khi còn trong lòng mẹ, chúng ta đã làm quen với cơm gạo, và lớn lên theo cây lúa cùng hạt gạo. Với bản sắc văn hóa nông nghiệp, cây lúa và hạt gạo còn là một biểu tượng của cuộc sống. Ca dao, khẩu ngữ chúng ta có câu “Người sống về gạo, cá bạo về nước”, hay “Em xinh là xinh như cây lúa”, v.v..
Qua hàng nghìn năm lịch sử, lúa đã là cây lương thực chủ yếu nuôi sống các thế hệ người Việt cho đến nay. Trong đời sống tinh thần của con người, cây lúa cũng gắn bó thân thiết vô cùng. Điều đó được thể hiện rất rõ trong ngôn ngữ hàng ngày, trong cách nói, cách đặt tên, gọi tên từ cửa miệng của những người hai sương một nắng.
Bắt đầu từ lúc ném hột mộng xuống đồng. Thông thường ném buổi sáng thì buổi chiều mộng “ngồi” được, tức là rễ đã bám được vào đất và mầm nhọn đã xuôi hướng lên trời. Bác nông dân hoàn toàn có thể yên tâm vì nó đã sống được trong môi trường mới, đích thực của nó.
Qua hôm sau, mầm nhú lên cao hơn, bắt đầu có chút xanh xanh, người ta bảo là mạ đã “xanh đầu”. Mạ cũng có “gan”. “Gan mạ nằm ở thân non, dễ bị gãy nát. Cấy xuống được vài ba hôm thì lúa đâm rễ mới, gọi là bén chân hay “đứng chân”. Cũng như chữ “ngồi” ở trên, chữ “đứng chân” rất chính xác, rất hình tượng, vì chỉ vài ba hôm trước do mới cấy, mọi cây lúa đều ngả nghiêng, xiêu vẹo, thậm chí có cây còn bị nổi trên mặt nước nữa. Giờ đây đã “đứng chân” được, tức là cũng giống như người ta, có một tư thế đứng chân vững vàng, đã chắc chắn bám trên mặt đất.
Khác với lúc nảy mầm, cây lúa sinh sôi bằng cách “đẻ nhánh”. Nhánh “con” nhánh “cái” thi nhau mọc ra, tần vần thành khóm. Vào khoảng tháng hai âm lịch, khắp cánh đồng mơn mởn màu xanh. Dáng cây thon thả, mềm mại, sắc lá non tơ đầy sức sống gợi cái gì đấy tươi trẻ, xinh xắn, dịu dàng. Đó chính là lúc cây lúa “đang thì con gái”, thời đẹp nhất của đời lúa, đời người. Gặp hôm trời quang mây tạnh, đứng ở đầu làng mà trông, cánh đồng trải ra bát ngát, đẹp tựa bức tranh.
Hết thời kỳ xuân xanh, lúa chuyển sang giai đoạn “tròn mình”, “đứng cái” rồi “ôm đòng”. Đòng lúa to nhanh, nắng mưa rồi mỗi ngày mỗi khác. “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ/Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”. Nếu mưa thuận gió hoà chỉ mươi hôm là lúa trổ xong. Nhưng chẳng may gặp kỳ khô hạn thì đòng không trổ lên được, người ta bảo bị “nghẹn”. “Nghẹn” là cực lắm rồi, là có cái gì nó vương vướng, như uẩn ức trong lòng…
Ngoài ra cũng có thể bị “ngã”, bị “nằm” lúc gặp gió lớn mưa to. Ông bà ta sợ nhất cảnh này vì mấy tháng trông cây đã sắp đến ngày hái quả. Nếu chẳng may bị “ngã” non thì hạt thóc sẽ lép lửng, coi như hỏng ăn. Còn lúa “nằm” dưới nước, ngâm độ vài ngày thì hạt thóc trương lên, nứt nanh và nảy mầm ngay trên bông. Mầm nhú trắng trông xót ruột. Xót ruột về khoe vui với nhau, thóc nhà tôi “nhe răng cười” ông ạ!
Người nông dân xưa nay vốn mộc mạc, chất phác. Chẳng phải họ văn vẻ gì đâu. Chỉ vì gần gũi quá, thân quen quá. Ban ngày vác cuốc ra đồng thăm lúa. Ban đêm giấc mơ toàn thấy những cây lúa. Lúa là đói no, là người bạn có thể sẻ chia nỗi niềm, buồn vui tâm sự. Trải qua chiều dài các thế hệ, đời lúa lặn vào đời người. Và rồi, đời người lại chan hoà, gửi gắm vào đời lúa thông qua những từ ngữ nôm na, những tên gọi sinh động kể trên.
Cây lúa gần gũi với người nông dân cũng như bờ tre, khóm chuối. Bởi vậy thấm đẫm tình người và hồn quê, càng nắng mưa, sương gió, càng nồng nàn hoà quyện thân thương.
Nông nghiệp Việt Nam vốn mang dáng dấp một nước – nền công nghiệp lúa nước bao đời nay cho nên cây lúa gắn bó, gần gũi với người Việt, hồn Việt là lẽ dĩ nhiên.
Thuyết minh về cây lúa - mẫu 8
“Việt Nam đất nước ta ơi,
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.”
Từ ngàn đời nay, cây lúa đã gắn bó thân thiết với con người, làng quê Việt Nam. Bằng hạt gạo – hạt ngọc trời ban cho, Lang Liêu đã làm nên bánh chưng, bánh giầy tượng trưng cho trời và đất – để kính dâng vua Hùng. Chính vì thế, cây lúa nước đã trở thành một nét đẹp văn hóa của người Việt. Hình ảnh của cây lúa và người nông dân đã trở thành những mảnh màu không thể thiếu trong bức tranh của làng quê Việt Nam bây giờ và mãi mãi về sau.
Lúa là một thực vật quý giá, là cây trồng quan trọng nhất trong nhóm ngũ cốc, là cây lương thực chính của người Việt Nam nói riêng và người dân Châu Á nói chung. Lúa thuộc loài thân thảo. Thân cây lúa tròn chia thành từng lóng và mắt. Lóng thường rỗng ruột, chỉ có phần mắt là đặc. Lá lúa có phiến dài và mỏng,mọc bao quanh thân, mặt lá nhám, gân lá chạy song song. Tùy thời kì sinh trưởng, phát triển mà lá lúa có màu khác nhau. Khi lúa chín ngả sang màu vàng. Rễ của cây lúa không dài lắm, thường mọc với nhau thành chùm bám chặt vào bùn để giữ cho thân lúa thẳng đồng thời hút dưỡng chất nuôi thân cây. Hoa lúa nhỏ nhắn, mọc thành nhiều chùm dài. Điều đặc biệt của cây lúa mà ít ai để ý đến. Hoa lúa cũng chính là quả lúa đồng thời trở thành hạt lúa sau này. Hoa lúa không có cánh hoa, chỉ có những vảy nhỏ bao bọc lấy nhuỵ ở bên trong. Lúc hoa lúa nở, đầu nhuỵ thò ra ngoài, có một chùm lông để quét hạt phấn. Hoa lúa tự thụ phấn rồi biến thành quả. Chất tinh bột trong quả khô đặc lại dần và biến thành hạt lúa chín vàng.
Trước đây, người Việt chỉ có hai vụ lúa: chiêm và mùa. Ngày nay, khoa học phát triển, mỗi năm có nhiều vụ nối tiếp nhau. Trồng lúa phải qua nhiều giai đoạn: từ hạt thóc nảy mầm thành cây mạ; rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng. Ruộng phải cày bừa, làm đất, bón phân. Ruộng phải sâm sấp nước. Khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi (đang thì con gái) lại phải làm cỏ, bón phân, diệt sâu bọ. Rồi lúa làm đòng, trổ bông rồi hạt lúa chắc hạt, chín vàng. Người nông dân cắt lúa về tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành hạt gạo… Biết bao công sức của nhà nông để có hạt gạo nuôi sống con người.
Hạt gạo có vai trò vô cùng quan trọng đối với đời sống vật chất của chúng ta. Hạt gạo cung cấp chất dinh dưỡng thiết yếu, rất cần thiết cho cơ thể con người. Ngoài việc nuôi sống con người, hạt lúa, hạt gạo còn gắn bó với đời sống tinh thần của người Việt. Có nhiều loại gạo: gạo tẻ, gạo nếp… Gạo nếp dùng làm bánh chưng, bánh giầy là hai loại bánh truyền thống của con người Việt Nam trong dịp Tết Nguyên Đán. Bánh chưng, bánh giầy còn gắn liền với Lang Liêu thời vua Hùng dựng nước. Lúa nếp non còn dùng để làm cốm – một thức quà thanh lịch của người Hà Nội. Gạo nếp dùng để đồ các loại xôi – một món đồ lễ không thể thiếu trên bàn thờ của người Việt Nam trong ngày Tết và ngày cúng giỗ tổ tiên. Đồng thời xôi cũng là thức quà quen thuộc hằng ngày. Từ lúa gạo, người Việt còn làm rất nhiều loại bánh như: bánh đa, bánh đúc, bánh giò, bánh tẻ, bánh nếp, bánh phở, cháo… Nếu không có gạo, thật là khó khăn trong việc tạo nên nền văn hóa ẩm thực mang bản sắc văn hóa Việt Nam.
Ngày nay, nước ta đã lai tạo được gần 30 giống lúa được công nhận là giống lúa quốc gia. Việt Nam từ một nước đói nghèo đã trở thành một nước đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan về xuất khẩu gạo.
Tóm lại, cây lúa có tầm quan trọng rất lớn đối với nền kinh tế nước nhà chủ yếu còn dựa vào nông nghiệp. Cây lúa bao đời là bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam, không chỉ về mặt vật chất mà còn cả về mặt tinh thần. Mãi mãi vẫn còn nghe mọi người nhắc nhau những vần điệu ca dao thấp thoáng bóng hình con trâu và cây lúa:
“Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”.
(Theo: “Các dạng bài tập làm văn và cảm thụ thơ văn lớp 9” NXB Giáo dục Việt Nam.)
Thuyết minh về cây lúa - mẫu 9
“Tôi hát bài ca ngợi ca cây lúa và người trồng lúa cho quê hương. Quê hương ơi, có gì đẹp hơn thế, đồng lúa hẹn hò những mùa gặt. Tình yêu bắt đầu từ đôi mắt, ngày mai bắt đầu từ hôm nay”. Bao đời nay vẫn thế, cánh đồng lúa xanh bất tận, cánh cò trắng phau phau cùng với con trâu, lũy tre làng xanh ngắt đã trở thành hình ảnh quen thuộc, là biểu tượng của nông thôn Việt Nam, thậm chí đó chính là hình ảnh đại diện cho cả một đất nước với những người con anh hùng.
Có thể nói rằng cây lúa Việt Nam đã đóng góp một vai trò vô cùng to lớn, không chỉ trong đời sống vật chất mà còn là đời sống tinh thần của nhân dân ta ngay từ thuở các vua Hùng dựng nước, mà cho đến tận ngày hôm nay những giá trị ấy vẫn còn vẹn nguyên không hề suy chuyển.
Lúa vốn là một loài cây hoang dã, tổ tiên của nó là một loài cây dại thuộc chi Oryza trên siêu lục địa Gondwana cách đây khoảng 130 triệu năm về trước, sau bởi vì quá trình phân tách lục địa mà loài này bị trôi dạt về các vùng đất khác nhau, quá trình tiến hóa đã cho ra nhiều giống lúa có đặc điểm riêng biệt.
Cây lúa Việt Nam, phổ biến nhất chính là loài lúa nước, có nguồn gốc từ Đông Nam Á, cách đây khoảng 10000 năm nó đã được con người nơi đây thuần chủng và đem vào canh tác, trở thành nguồn lương thực chính cho nhiều quốc gia trên thế giới. Như vậy có thể nói Việt Nam chính là một trong những cái nôi của nền văn minh lúa nước, đưa khu vực Đông Nam Á trở thành trung tâm nông nghiệp đầu tiên của thế giới loài người với sự phát triển mạnh mẽ của cây lúa tạo ra nguồn lương thực dồi dào.
Tên khoa học của lúa nước là Oryza sativa thuộc họ Lúa (Poaceae), ở Việt Nam vẫn thường gọi đơn giản là lúa hoặc lúa nước. Ở nước ta lúa nước phân bố chủ yếu ở hai đồng bằng rộng lớn nhất cả nước là Đồng bằng Sông Hồng và Đồng bằng Sông Cửu Long, ngoài ra còn được canh tác ở một số đồng bằng nhỏ hẹp trải dài vùng duyên hải miền trung, cá biệt ở các tỉnh miền núi phía Bắc người ta còn cải tạo địa hình thành các ruộng bậc thang để canh tác loài lúa này.
Lúa nước có thể phân ra làm 2 loại dựa vào hàm lượng amilopectin (thành phần quyết định tính dẻo) trong hạt gạo, lúa tẻ thì amilopectin chiếm khoảng 80%, trong lúa nếp thường cao hơn 90%, chính vì vậy gạo nếp ăn dẻo và dính hơn. Ngoài ra người ta trong quá trình lai tạo, người ta còn dựa vào các đặc tính sinh học như hình dáng cây, hạt, hay khả năng chống chịu bệnh tật mà chia thành nhiều giống khác nhau.
Về ý nghĩa của cây lúa, chủ yếu là xuất phát từ sự gắn bó lâu đời của nó với đời sống nhân dân, trở thành biểu tượng của nông thôn Việt Nam, nhắc đến cây lúa nước người ta thường liên tưởng đến hình ảnh người nông dân với những đức tính tốt đẹp cần cù, chịu khó trong lao động, không quản ngại mưa gió, đồng thời nó cũng đại diện cho sự ấm no, cơm gạo đủ đầy.
Đôi lúc, cây lúa còn khiến chúng ta liên tưởng đến sự nghèo khó vất vả trong cuộc sống của người nông dân. Không chỉ vậy cây lúa chính là đại diện cho nền văn minh lúa nước có bề dày lịch sử của Việt Nam cũng như của cả Đông Nam Á. Trong công cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ hình ảnh cây lúa luôn gắn liền với hình ảnh hậu phương vững chắc, đồng thời là biểu tượng công cuộc xây dựng đất nước sau chiến tranh với mục tiêu lấy phát triển nông nghiệp làm gốc của Đảng và nhà nước.
Chính bởi những ý nghĩa biểu tượng có giá trị sâu sắc như vậy nên cây lúa cũng thường trở thành đề tài chính trong các tác phẩm nghệ thuật và cả trong văn học dân gian. Ví như bài hát nổi tiếng Hát về cây lúa hôm nay của nhạc sĩ Hoàng Vân là bài hát bất hủ ngợi ca cây lúa, đồng thời gián tiếp ngợi ca cách mạng, cổ vũ tinh thần xây dựng đất nước của nhân dân cả nước, hay bài thơ quen thuộc "Hạt gạo làng ta" của nhà thơ Trần Đăng Khoa với những vần thơ giàu ý nghĩa biểu tượng.
Về hình dáng, lúa là cây một lá mầm, rễ chùm, cao tầm 70- 90cm, thân cây dạng ống rỗng, phân làm nhiều đốt như đốt tre, khá mềm dễ gãy và đổ rạp khi tác động ngoại lực. Lá mỏng, hẹp và dài tương đương với thân cây, có màu xanh non, khi lúa chín thì dần chuyển sang màu vàng sẫm, cái màu mà Tô Hoài đã viết trong Quang cảnh làng mạc ngày mùa :“Màu lúa chín dưới đồng vàng xuộm lại”.
Bông lúa hay chùm quả của nó có màu xanh lá mạ dài tầm 35-50cm, sau khi tự thụ phấn thì phát triển thành quả, một thân lúa như vậy cũng phải có đến hơn 20 chục chùm quả đong đưa, mùa lúa chín chùm quả nặng dần, hạt thóc vốn xanh và lép giờ đã chuyển vàng và căng đầy, chuẩn bị cho mùa thu hoạch. Hạt lúa hay còn gọi là hạt thóc, dài 5-12 mm và dày tầm 1-2mm. Lúa là loài cây thân thảo, tuổi thọ là một năm, tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu thu hoạch quãng đời của nó thường bị chấm dứt vào mùa thu hoạch, khoảng 4-5 tháng.
Có nhiều cách chia vụ tùy theo khí hậu và địa hình ở các nơi, lấy ví dụ về vựa lúa lớn nhất nước ta là đồng bằng Sông Cửu Long, một năm gồm có 3 vụ là vụ Hè Thu (tháng 4-8), vụ Đông Xuân (tháng 11-4), và vụ Mùa (tháng 5-11). Cách nhân giống phổ biến nhất đó là gieo mạ, người ta đem những thóc giống đã ủ gieo lên luống mạ đã chuẩn bị sẵn, đợi cây mọc được 5-7 lá thì nhổ lên bó thành bó rồi đem ra ruộng cấy (mặt ruộng phải khô).
Sau khi cây phát triển ổn định, mọc nhánh thì tiến hành dẫn nước vào ruộng, mực nước duy trì từ 1-3cm. Trước thời điểm thu hoạch khoảng 10 ngày thì nên tháo cạn nước để mặt ruộng khô, cho dễ bề thu hoạch. Một vụ lúa như vậy chia ra làm 4 đợt bón lót, tùy vào từng giai đoạn mà chọn loại phân bón thích hợp. Đặc biệt lúa là loài dễ bị bệnh và tốc độ lan truyền rất nhanh do trồng số lượng lớn và sát nhau, một số bệnh cần chú ý là bệnh đạo ôn, vàng lùn xoắn lá, rầy nâu, một số nạn dịch châu chấu, cào cào, sâu cuốn lá và sâu đục thân.
Lúa gạo chính là nguồn lương thực chính của nhân dân ta, và cung cấp lương thực cho khoảng 65% dân số thế giới, đây là nguồn thực phẩm giàu tinh bột khi chứa đến 80% tinh bột trong thành phần, là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho cơ thể con người. Ngoài việc trở thành cơm, khẩu phần chính trong bữa ăn, gạo còn là nguyên liệu để sản xuất ra nhiều loại thực phẩm khác như các loại bánh, bún, phở, hủ tiếu, mì gói,…
Trong nghề nấu rượu truyền thống gạo cũng chính là nguyên liệu chính để cho ra những giọt rượu thơm ngon chất lượng. Các sản phẩm phụ của lúa gạo như cám, trấu, tấm, rơm rạ cũng đóng góp không nhỏ vào các nền công nghiệp sản xuất, chăn nuôi khác. Trong kinh tế, gạo đã trở thành loại hàng hóa được xuất khẩu nhiều nhất nước ta, đứng thứ hai thế giới sau Thái Lan với kim ngạch khoảng 6 triệu tấn/năm, bên cạnh các mặt hàng khác như cà phê, trái cây,…đóng góp một phần không nhỏ trong sự phát triển của nền nông nghiệp và tổng GDP của cả nước.
Cây lúa đã mãi ăn sâu vào tiềm thức và cuộc sống con người Việt Nam với những giá trị to lớn cả về vật chất lẫn tinh thần một cách sâu sắc. Giờ đây mỗi khi về thăm quê, tôi vẫn thường chú ý đến những cánh đồng lúa bát ngát, gió đưa thoang thoảng hương lúa, dù là 10 năm trước đây hay 10 năm sau nữa, có lẽ cái tôi ấn tượng và nhớ nhiều về quê hương nhất vẫn hình ảnh cây lúa, hình ảnh những người nông dân cặm cụi mùa gieo mạ, mùa gặt lúa, hình ảnh những con đường chất đầy rơm rạ, thóc lúa vương vãi.
Thuyết minh về cây lúa - mẫu 10
“Trời cao đất rộng thênh thang
Tiếng hò giọng hát ngân vang trên đồng
Cá tươi gạo trắng nước trong
Hai mùa lúa chín thơm nồng tình quê.”
Những câu thơ trên hàm ý muốn nhắn nhủ cho mỗi chúng ta về tinh yêu quê hương với những cánh đồng lúa bát ngát, mênh mang với hương lúa nồng nàn tình người, tình quê. Cây lúa là một trong những biểu tượng của quê hương Việt Nam, chính vì vậy mỗi người con Việt Nam khi xa quê đều nhớ về quê hương với cánh đồng lúa bao la, bát ngát mênh mông. Cây lúa vừa mang tính biểu tượng, bên cạnh đó nó cũng là nguồn lương thực chính của Việt Nam và hầu hết các nước châu Á.
Cây lúa và hình ảnh con trâu đi trước cái cày đi sau đã là một hình ảnh bình dị, gần gũi thân thuộc và đi vào tiềm thức con người Việt Nam. Cây lúa đã gắn bó với người nông dân chân lấm tay bùn Việt Nam qua hàng bao đời nay. Là một nước nông nghiệp chính vì vậy lúa là loại cây lương thực chính với số lượng lớn ở Việt Nam.
Ở châu Á thì lúa được coi là cây lương thực chính trong năm loại cây lương thực: ngô, lúa mì, sắn, khoai tây và là nguồn lương thực quan trọng cho hầu hết các nước châu Á và trong đó có Việt Nam lúa là cây trồng nông nghiệp gắn bó với người nông dân Việt Nam bao đời nay nên lúa là cây trồng nông nghiệp chủ yếu và là cây trồng đem lại nguồn thu nhập kinh tế chính cho người nông dân. Lúa được xếp vào loại cây ngũ cốc.
Lúa là thực vật được xếp vào các loài cỏ đã thuần dưỡng vì vậy lúa có thân mềm, lá lúa dài mềm, thuôn nhọn về phía đầu lá, cây lúa thường có hình dáng nhỏ và cao khoảng 50cm. Để tạo ra những hạt gạo trắng ngần yêu cầu sự đòi hỏi chăm sóc, tưới tiêu rất cẩn thận của người nông dân. Lúa là loại cây có thời gian sinh trưởng ngắn nên cây lúa có bộ rễ chùm. Lúa là loại cây thân mềm nên được người nông dân trồng sát nhau xếp thành từng hàng, từng lối thẳng hàng.
Người nông dân thường trồng lúa thẳng hàng, thành từng cụm để thuận tiện chăm sóc, tưới tiêu vừa tạo vẻ đẹp bình dị, nên thơ cho cánh đồng lúa và khi những làn gió khẽ lướt qua làm những cây lúa rung rinh, chuyển động, xô nhau theo làn gió tạo nên những làn sóng nhỏ đuổi nhau, khung cảnh ấy đẹp bình dị và thơ mộng biết bao, nó khiến tâm hồn ta trở nên trong trẻo và thuần khiết hơn.
Cây lúa có hai màu lá xanh và vàng. Tùy vào từng giai đoạn sinh trưởng mà cây lúa có màu khác nhau. Khi mới trồng và trong giai đoạn phát triển lúa có màu xanh và khi lúa chín cây lúa tự chuyển sang màu vàng. Đặc biệt trong giai đoạn lúa chín, những bông lúa sẽ tỏa ra hương thơm rất đặc biệt, đó là hương thơm rất khó để có thể diễn tả được, phải tự bản thân mình tận hưởng mùi hương ấy mới có thể thấy hết sự trong trẻo nồng nàn trong hương thơm ấy.
Hạt thóc sau khi được thu hoạch sẽ được phơi khô rồi mang đi xát vỏ ngoài sẽ thu được hạt gạo và các phụ phẩm là cám và trấu. Tuy chỉ là những phụ phẩm nhưng trấu cũng có những công dụng của nó như để lót chuồng ủ làm phân, làm đất trồng cây. Còn cám sẽ được người dân tận dụng làm thức ăn cho gia súc, gia cầm.
Để trồng được một cây lúa cho ra những hạt thóc chắc mẩy ta cần chọn những hạt thóc chắc mẩy không sâu bệnh để làm giống. Rồi lấy những hạt thóc đó gieo xuống vùng đất thích hợp, để một thời gian chờ những hạt thóc đó lên mầm phát triển thành mạ. Khi chúng lên mạ, những cây lúa con (mạ) sẽ được người dân mang ra đồng cấy, chăm bón để trở thành những cây lúa trưởng thành. Trong giai đoạn này yêu cầu người dân chăm sóc cây kỹ lưỡng và chế độ nước tưới tiêu và phân bón hợp lý sau khoảng thời gian cần thiết lúa sẽ trổ bông và chín.
Lúa là loại cây trồng gắn bó với mỗi người nông dân Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử bởi lúa có những công dụng thiết thực trong cuộc sống. Trước hết cây lúa sản sinh ra những hạt gạo nguồn lương thực chính trong mỗi bữa ăn hằng ngày của mỗi chúng ta. Gạo còn là một trong những loại lương thực xuất khẩu ra nước ngoài, đem lại lợi ích kinh tế cho đất nước.
Với những lợi ích kinh tế của việc trồng lúa dần dần trồng lúa trở thành một nghề chính gia tăng kinh tế trong từng hộ gia đình. Gạo không chỉ nấu lên thành cơm, mà ngày nay gạo còn biến thành các món ăn khác nhau. Với những lợi ích công dụng của mình, cây lúa dần dần trở thành cây trồng chính trong các loại cây nông nghiệp ở Việt Nam.
Thuyết minh về cây lúa - mẫu 11
Mỗi một đất nước, một dân tộc, một mảnh đất có những loại cây riêng với quê hương mình. Và ở nước ta cây lúa mộc mạc, bình dị đã trở thành cây nông nghiệp gần gũi, gắn bó nhất trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Cây lúa ấy đã trở thành nguồn cảm hứng của biết bao nhà văn, nhà thơ khi viết về vẻ đẹp quê hương.
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều.”
Cây lúa thuộc loại cây thân mềm, ưa bóng râm. Cây lúa phát triển theo các giai đoạn khác nhau, phải qua quá trình chăm bón và tưới tiêu tỉ mỉ, cần mẫn của người nông dân mới có được bông lúa màu vàng óng. Cây lúa khi còn ở thời kỳ con gái trông giống như một thiếu nữ yêu kiều thướt tha trong bộ cánh xanh non mơn mởn. Cây lúa dài như những thanh kiếm, thỉnh thoảng có làn gió thổi qua lại như các chiến binh đang vung gươm nghe thật vui tai. Thân lúa mảnh và dài, gồm các lớp vỏ bao dầy bọc vào nhau, như những cánh tay đang ôm để bảo vệ bên trong. Cây lúa khi chín mang trên mình diện mạo mới, không phải là màu xanh mướt, trẻ trung đầy sức sống nữa mà lại là màu vàng óng, ngây ngất thơm mùi sữa non. Cây lúa luôn mang trên mình mùi hương thật đặc biệt, đó là mùi của tình quê, của chất quê gần gũi, thân quen, của những tấm lòng cần cù, chịu khó, quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Hạt lúa khi chín được bọc bên ngoài là lớp vỏ màu vàng, bên trong là hạt cơm trắng ngần, chắc mẩy chỉ nhìn thấy là đã mắt. Hạt lúa trắng ngần đó là tinh túy của mồ hôi, công sức những người lao động mang về để dâng lên hương trời. Vậy cho nên hương lúa bao giờ cũng thế, có mùi thơm, vị ngọt, rất riêng. Trước đây, người Việt chỉ có hai vụ lúa: chiêm và mùa. Ngày nay, khoa học phát triển, mỗi năm có nhiều vụ xen kẽ nhau. Trồng lúa phải qua nhiều công đoạn: khi hạt thóc mọc mầm trở thành cây mạ; rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng. Ruộng phải cày, làm bừa, bón phân. Ruộng phải sâm sấp nước. Khi lúa mọc nhánh thành những bông (đang kỳ con gái) lại phải làm cỏ, bón phân, trừ sâu. Khi lúa làm đòng, trổ bông thì hạt lúa đều hạt và chín vàng. Người nông dân cắt lúa về tuốt hạt rồi sấy khô và xay thành hạt gạo, bao công sức của mình để có hạt gạo nuôi sống con người. Hạt gạo có vai trò rất lớn trong đời sống kinh tế của chúng ta. Hạt gạo cung cấp chất dinh dưỡng thiết yếu và vô cùng quan trọng đối với sức khỏe con người. Ngoài việc nuôi sống con người thì hạt lúa, hạt gạo cũng gắn bó với đời sống tâm linh của người Việt. Có nhiều loại gạo: gạo tẻ, gạo nếp. .. Gạo nếp dùng làm bánh chưng và giò là hai loại bánh truyền thống của con người Việt Nam mỗi dịp Tết Nguyên Đán. Bánh chưng và giò cũng gắn liền với Lang Liêu thời vua Hùng mở nước. Lúa nếp non được dùng để làm cốm – một thức quà thanh lịch của người Hà Nội. Gạo nếp dùng để làm các loại xôi – một món đồ lễ không thể thiếu trên bàn thờ của người Việt Nam trong ngày Tết Nguyên đán và ngày giỗ tổ tiên. Đồng thời xôi cũng là món ăn phổ biến mỗi ngày. Giống lúa gạo, người Việt có thể làm ra nhiều loại bánh như: bánh đa, bánh đúc, bánh giò, bánh tẻ, bún, phở, cháo. Nếu không có gạo thì quả là khó trong việc sáng tạo ra nền công nghiệp ẩm thực mang bản sắc văn hóa Việt Nam. Ngày nay, nước ta đã lai tạo ra gần 30 giống lúa và công nhận là giống lúa quốc gia. Việt Nam từ một nước đói nghèo đã trở thành một nước đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái Lan về xuất khẩu gạo. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành nước nông nghiệp và xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới, để có được thành quả ngày hôm nay, người nông dân phải vất vả, lao động cần cù, làm đúng từng bước mới có được một vụ mùa bội thu: từ trồng mạ đến xới mạ, bón phân, tưới, nhổ cỏ vào những ngày đông hoặc mưa bão, khô hạn người dân phải đi lại nhiều lần để bảo vệ và chăm sóc chúng. Trong suốt quá trình cây lúa phát triển, mỗi tuần người nông dân phải ra ngoài đồng ruộng thăm lúa và lấy nước. Việc thăm lúa giúp người nông dân loại bỏ những ổ sâu bệnh trên lúa và bón phân cho lúa phát triển tốt hơn. Đợt đến khi cánh đồng lúa chuyển màu vàng thì người nông dân mới thu hoạch. Trước đây người dân thu hoạch bằng tay khá vất vả và tốn kém nhưng ngày nay nhờ công nghệ phát triển tiến mạnh hơn, người ta thu hoạch bằng máy móc cũng bớt phần cực nhọc cho con người. Từ đời cha ông ta, nhân dân trồng chỉ có hai vụ lúa: chiêm và mùa. Ngày nay, xã hội phát triển, công nghệ trong canh tác được nâng cao hơn, mỗi năm có nhiều vụ kế tiếp nhau. Trồng lúa phải qua nhiều công đoạn: từ hạt thóc nảy mầm đến cây mạ; rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng. Ruộng phải bừa, làm đất và bón phân. Ruộng phải sâm sấp nước. Khi lúa mọc nhánh thành từng khóm, người dân lại phải làm cỏ, bón phân, diệt sâu bệnh. Khi lúa làm đòng, kết hoa thành hạt lúa đều hạt và chín vàng. Người nông dân cắt lúa về tước hạt, phơi khô rồi xay lấy hạt gạo bao công sức của nông dân mới có hạt gạo nuôi sống con người. Những hạt gạo được làm ra không chỉ cho bữa cơm thường nhật của con người mà còn dùng làm chè, đồ xôi, đặc biệt là vào ngày lễ hay Tết, gạo để làm bánh chưng truyền thống và còn làm món quà tặng nhau. Tinh thần những người nông dân đó đã góp phần quan trọng để Việt Nam có vị trí như ngày hôm nay với cây lúa nước hay đất nước ta thường được gọi là Văn Minh Lúa Nước. Cây lúa luôn là những người bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam và là nguồn lương thực dồi dào của nước ta, có vai trò quan trọng đối với phát triển sản xuất, đem đến cuộc sống ấm no cho chúng ta tạo thành nét đẹp văn hóa của người dân Việt Nam.
Thuyết minh về cây lúa - mẫu 12
Đồng bao đời qua người nông dân Việt Nam đã gắn chặt với cây lúa. Từ lúc sinh ra cho tới khi qua đời cây lúa lúc nào cũng ở bên cạnh họ. Trước đây có nhiều gia đình sau khi người thân chết đã đem xác của người đó ra ngoài đồng chôn. Đồng ruộng bởi vậy mà chúng ta có thể cảm nhận được cây lúa có ý nghĩa với người dân Việt Nam thế nào. Ở cây lúa có vẻ đẹp thanh tao như bông hoa, duyên dáng như tà áo dài trắng và cũng rất mộc mạc như hồn quê Việt Nam. Đi dọc từ Bắc vào Nam, đâu đâu chúng ta cũng có thể nhìn thấy những cánh đồng lúa. Nếu như ở vùng đồng bằng trồng lúa ở các ruộng bậc thang thì ở vùng núi cao họ trồng lúa trên nương. Càng ngày các nhà khoa học càng nghiên cứu ra được nhiều giống lúa mới. Nếu như trước đây chúng ta chỉ tập trung sản xuất hai vụ mùa là hè thu và mùa đông thì giờ đây cây lúa được gieo trồng quanh năm. Cây lúa có nhiều loại khác nhau nên tùy thuộc vào các vùng miền khác nhau để chọn từng loại giống lúa khác nhau. Tuy nhiên, vùng trồng lúa tốt nhất là ở vùng có nước ngọt. Ở các vùng nước nhiễm mặn, phèn như vùng Tây Nguyên thì cây lúa không sinh trưởng và phát triển được. Còn cây lúa sinh trưởng chủ yếu nhờ nước và chúng là loại cây nhỏ, thân mềm. Chiều cao của cây lúa 60cm - 80cm và chiều rộng là khoảng 2cm - 3cm. Cũng như nhiều loại cây khác, cây lúa được phân ra thành ba bộ phận chính bao gồm rễ cây, vỏ cây và ngọn cây. Rễ cây nằm dưới lớp đất màu mỡ có khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng của cơ thể. Thân cây là nơi con đường dẫn dinh dưỡng đến ngọn cây. Ngọn cây là nơi bông lúa phát triển và hình thành hạt lúa. Bông cây lúa phát triển theo nhiều hướng khác nhau. Giai đoạn đầu tiên chúng là những cây mạ rất nhỏ và có màu xanh mướt. Sau một vài tháng được chăm bón tốt những cây lúa trưởng thành sẽ bắt đầu trổ bông. Bông lúa chín có màu vàng, cành lúa cong cong giống như lưỡi liềm. Các giống lúa phổ biến ở nước ta có thể kể đến như lúa nước sâu, lúa nước nông, lúa cạn, lúa nếp và lúa nước. Lúa tẻ được trồng trồng để lấy gạo tẻ, thứ gạo mà chúng ta vẫn sử dụng hàng ngày để nấu cơm. Lúa nếp được trồng để lấy gạo nếp, thứ gạo chúng ta vẫn dùng để làm bánh, đồ xôi,… Bông lúa khi còn non được dùng làm cốm. Qua hàng nghìn năm lịch sử, lúa đã là cây lương thực chính nuôi sống bao thế hệ người Việt cho đến nay. Trong đời sống tâm linh của con người, cây lúa cũng gắn bó thân thiết hơn bao giờ hết. Điều đó được biểu hiện rất rõ ràng trong ngôn ngữ hàng ngày, trong cách nói chuyện, cách đọc tên và đặt tên từ cửa miệng của những người sương nắng. Bắt đầu từ lúc thả hạt mộng xuống đồng. chưa ném buổi sáng thì buổi chiều mộng "ngồi" xong, nghĩa là rễ đã chạm được vào mặt đất và mầm cây đã thẳng hướng lên trời. Bác nông dân hoàn toàn có thể yên tâm vì nó đã tồn tại ở trong thế giới mới, đích thực của nó. Qua hôm nữa, mầm mọc lên cao hơn và bắt đầu có màu vàng thì người ta nói là mạ đã "xanh đầu". Mạ cũng có "gan". "Gan mạ nằm ở thân cây nên không bị dập nát. Nhổ khéo, lỡ làm bể "gan" thì mạ sẽ "chết". Cấy xuống thêm vài hôm thì lúa ra rễ mới, gọi là bén đất hoặc "đứng chân". Cũng như chữ "ngồi" ở trên, chữ "đứng chân" là chính xác và khá phổ biến, nhưng chỉ vài hôm trước khi mới gieo, nhiều cây lúa đã nghiêng ngả, xiêu vẹo, thậm chí có cây còn nằm nổi trên mặt nước rồi. bây giờ đã "đứng chân" rồi, nghĩa là cũng tương tự như người khác, có một tư thế đứng chân vững chãi và đã chắc bám trên đất. Khác với lúc mọc mầm, cây lúa sinh sôi bằng cách "đẻ nhánh". Nhánh "con" nhánh "cái" thi nhau đẻ trứng và tần vần trở thành cụm. Vào khoảng tháng hai âm lịch, cả cánh đồng bạt ngàn màu xanh. Dáng cây thon thả, mảnh mai, sắc lá non tơ tràn đầy sức sống gợi điều gì đó trẻ trung, xinh đẹp và quyến rũ. Đó cũng là lúc cây lúa "đang thì con gái", thời kỳ rực rỡ nhất của đời lúa, đời người. Gặp hôm trời quang mây tạnh, đứng ở đầu làng mà nhìn, cánh đồng mở ra mênh mông, đẹp như trong tranh. Đến thời kỳ hè thu thì lúa chuyển qua giai đoạn "tròn mình", "đứng cái" và "ôm đòng". Đòng lúa to nhanh, nắng mưa thì mỗi ngày mỗi khác. "Lúa chiêm lấp ló đầu bờ/Cứ theo tiếng sấm phất cờ mà lên". Nếu mưa có mươi hôm là lúa trổ được. Nhưng chẳng may gặp mùa khô thì đòng lại không trổ lại được, người ta bảo bị "nghẹn". "Nghẹn" là khổ lắm rồi, là có cái gì nó chất chứa, như uẩn ức trong lòng, ăn cũng sẽ bị "ngã" hoặc bị "nằm" lúc có gió và mưa lớn. Ông bà ta sợ nhất cảnh này là vài tháng chăm sóc cây đã gần đến ngày thu hoạch quả. Nếu không may bị "ngã" xuống thì hạt thóc sẽ lép lại và coi như hỏng quả. Còn lúa "nằm" dưới đất, ủ độ vài ba ngày thì hạt thóc phồng to, cứng rồi mọc lên ngay trên bông. Mầm mọc trắng trông ngon mắt. Xót ruột về chia vui với anh em thì thóc nhà mình "nhe răng cười" ông ạ! Người nông dân xưa nay vốn mộc mạc, chân chất. Không phải họ giàu có gì đâu. Mà vì gần gũi quá, thân thuộc quá. Ban ngày vác cuốc ra ngoài đồng để chăm lúa. Ban đêm giấc mơ chỉ thấy được mấy cây lúa. Lúa là ăn no, là những người bạn để sẻ chia nỗi lòng, vui buồn lẫn lộn. Trải qua chiều dài các thời kỳ, đời lúa ngấm vào đời người. Và rồi, đời người cũng chứa chan tình cảm gửi gắm vào đời lúa qua những từ ngữ bình dị, những tên gọi sống động kể trên. Lúa dù nhỏ nhưng có khá nhiều công dụng. Hạt gạo được xem là nguồn thu nhập chủ yếu của người nông dân và một thứ không thể thiếu trong bữa ăn các gia đình Việt, từ đơn giản đến sang trọng. Thân lúa ngày xưa hay được phơi thật khô dùng lợp nhà, bện cây chổi và làm chất đốt. Rơm cũng là thức ăn chủ yếu của trâu, bò trong những ngày đông giá lạnh. Người ta thậm chí còn dùng thân cây để bón đất và trồng nấm. Hạt gạo qua chế biến cũng trở thành những món ăn ngon bổ dưỡng. Hạt gạo xay trở thành nguyên liệu để làm nên các món ăn thơm ngon, bổ dưỡng như bánh trôi, bánh tét, bánh giò. Bột gạo cũng làm nên bánh bao, mì gạo. Nếp còn làm nên thứ bánh ngọt thơm mang hương vị đặc trưng của Hà Nội xưa cũ. Bên cạnh đó, việc đưa gạo ra thị trường thế giới giúp làm gia tăng lợi nhuận của nền kinh tế quốc dân. Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, Việt Nam đã vươn lên thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu và xếp thứ 2 trên toàn thế giới, chỉ sau Thái Lan. Cây lúa gần gũi với người nông dân cũng như bờ tre, khóm trúc. bởi thấm đẫm tình người và hồn đất, càng mưa nắng, gió bão, càng nồng nàn gắn kết thân thương. Nông nghiệp Việt Nam vốn mang dáng dấp một nước – nền công nghiệp lúa nước ngàn đời văn hiến nên cây lúa gắn bó, gần gũi với người Việt và hồn Việt là lẽ đương nhiên. Người dân ta vẫn thường nói với nhau rằng: “Hạt lúa là hạt vàng”. Cây lúa không chỉ là nguồn lương thực nuôi sống con người mỗi ngày mà còn in dấu vẻ đẹp bình dị của hồn quê, vẻ đẹp tảo tần của con người, góp phần làm giàu đẹp cho quê hương Việt Nam yêu dấu.
Thuyết minh về cây lúa - mẫu 13
Việt Nam được thế giới biết đến là một đất nước với một nền nông nghiệp lâu đời và phát triển từ rất xa xưa. Do vậy, từ xa xưa cây lúa đã xuất hiện và trở thành lương thực chủ yếu trong cuộc sống của người Việt. Cây lúa có mặt ở Việt Nam và trên thế giới từ lúc nào vẫn đang là một câu hỏi lớn. Không ai biết được chính xác, rõ ràng thời gian và không gian. Có lẽ chúng xuất hiện cùng với những ngày đầu con người biết về nông nghiệp. Lúa là một trong các cây lương thực quan trọng của Việt Nam nói riêng và châu Á nói chung. Trên chuyến hành trình trải dài từ miền Bắc vào đến phía Nam, không có nơi nào là thiếu hình ảnh những cánh đồng lúa bao la trải dài bất tận. Có rất nhiều những chủng loại giống lúa khác nhau thích hợp với điều kiện thời tiết và thổ nhưỡng của từng vùng miền như: nếp cái hoa vàng, cao cây, gạo tẻ, gạo nhật,..... Dù khác nhau về chủng loại song chúng lại có chung đặc tính. Lúa thuộc họ cây thân mềm, cứng và dài. Thân lúa hay mọc thẳng đứng. Lá lúa dài như lưỡi dao, mép lá nhẵn. Khi còn non thì mang màu xanh mướt, lúc chín, lá lúa khoác trên người bộ áo vàng óng, hương thơm thoang thoảng của mùi lúa chín tạo thành một nét đẹp đồng quê bình dị đến lạ lùng và mang đậm bản sắc dân tộc. Bông lúa nằm phía ngọn cây, kết thành từng cụm, sau thu hoạch tạo nên hạt lúa. Hạt lúa được người nông dân thu hoạch và thành hạt thóc. Cây lúa là loại cây chủ yếu sống dưới đất. Nếu thiếu nước cây lúa không phát triển bình thường được. Quá trình phát triển của lúa chia làm 3 thời kỳ. Khi mới trồng, cây lúa chỉ là những cây mạ non. Người nông dân tiến hành nhổ mạ trên những ruộng bậc thang. Những ngày đầu cây lúa phát triển có phần chậm lại do cơ thể chưa quen với môi trường mới. Thân cây lúc đầu mảnh mai và yếu ớt chỉ dài khoảng 20cm, với 4 đến 5 chiếc lá nhỏ xanh non. Khoảng thời gian sau đó, chừng một tháng thì lúa đã trưởng thành và được người dân ưu ái gọi với cái tên lúa đang trong thời con gái bởi đây là giai đoạn mà cây lúa phát triển nhất: Đẻ nhánh và làm đòng. Chiều cao của chúng giờ đã khoảng 50cm - 60cm với những lá xanh đậm sắc ôm chặt lấy thân. Bên trong là những lá non trắng tinh khiết. Cuối cùng là thời kỳ lúa trổ bông rồi làm đòng. Đây là giai đoạn cây lúa phát triển cao nhất, khoảng 80cm - 100cm, thân cây vững chắc. Mỗi cây lúa cho một bông, chừng 200 hạt, mỗi hạt là một bông hoa. Thời kỳ trổ bông, lúa giữ gìn từng cánh hoa, để chúng nhờ gió thụ phấn cho nhau. Khoảng một tuần sau khi lúa làm xong sẽ chín đều. Từng bông lúa trắng ngần và vàng óng dưới ánh sáng mặt trời khiến cánh đồng trở nên đẹp long lanh như phủ lớp ánh vàng. Lúc này, lúa đã sẵn sàng đợi con người đến thu hoạch đem bán. Để làm được những hạt gạo trắng, dẻo thơm, người nông dân đã phải tần tảo một nắng, hai sương, không ngại khó khăn, vất vả ở mỗi một công đoạn: Từ khi chọn giống lúa sao cho đạt năng suất, chất lượng cao, chống chịu sâu bệnh, chuẩn bị đất: Dọn cỏ, xới bùn cho đến gieo mạ, bón phân, theo dõi và điều tiết nguồn nước tưới phù hợp với từng giai đoạn phát triển của lúa, phòng trừ cỏ dại, sâu bệnh hại. Khi lúa trổ bông và đến ngày thu hoạch, người dân đã tất bật ra ngoài đồng gặt lúa về tách hạt rồi sấy khô, sàng gạo. Chừng ấy công đoạn, chừng ấy nỗi khó khăn, nhọc nhằn, kể làm sao cho hết. Ở Việt Nam có hai vụ lúa là vụ chiêm và vụ mùa. Nhưng sau khi cải tiến và lai tạo thì hiện nay ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có tới 3 vụ mùa một năm. Vụ chiêm thu hoạch vào tháng năm, tháng sáu và vụ mùa vào tháng tám hoặc tháng chín âm lịch. Lúa chia làm nhiều giai đoạn phát triển và từng giai đoạn sẽ có những đặc điểm riêng biệt. Sau khi ngâm thóc để hạt thóc nảy mầm, người nông dân với đôi bàn tay khéo léo sẽ lấy từng nắm hạt giống lúa rải đều trên cánh đồng đã được bừa rất kỹ và láng thật phẳng. Chỉ một vài ngày sau hạt thóc sẽ nhú nên những mầm mạ xanh mướt, biếc rờn và được trồng theo các luống thẳng tắp. Đất là một trong các yếu tố quyết định đến sự phát triển của cây lúa. Bởi lúa chỉ có thể phát triển tốt được ở vùng đất phù sa, với nhiệt độ thích hợp cho cây lúa là từ 20-30 độ C. Trong khoảng nhiệt độ đó lúa sẽ lớn nhanh, hạt lúa sẽ to và mẩy. Lúa càng lớn càng phải chăm bón kỹ vì thời gian này lúa sẽ nhanh bị bệnh hoặc thiếu nước. Người nông dân chăm cây lúa như chăm con, từ cắt cỏ, tưới nước, bón phân đến diệt trừ sâu bệnh, trừ rầy từ khi cây lúa còn ở thời con gái cho đến tận khi cây đã làm đòng và chín vàng. Lúa chín sẽ chuyển sang màu vàng và tỏa mùi hương thơm ngào ngạt. Hạt lúa vàng ươm trĩu nặng kéo cây lúa sà xuống đất như mái tóc óng ả của người con gái đang độ xuân thì. Khi đó cũng là lúc người nông dân gặt lúa. Dưới ánh nắng hè gay gắt, từng bóng nón trắng nhấp nhô trên cánh đồng lúa chín vàng. Lúa được thu hoạch xong xếp vào những bao lớn và tách hạt, phơi hai ba nắng to cho hạt lúa mềm, giữ được lâu hơn rồi say rồi giã, rồi vò, rồi xát, qua nhiều công đoạn mới có được một hạt gạo trắng ngần, thơm phức. Có lẽ cũng vì sự vất vả, nhọc nhằn đó nên ca dao xưa đã có những câu:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”
Hạt gạo trắng, những nồi cơm dẻo thơm nghi ngút khói trong mâm cơm của mỗi nhà được làm nên từ cái nắng gay gắt của vùng nhiệt đới và những giọt mồ hôi nhọc nhằn của người lao động suốt ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Cũng vì thế mà người Việt yêu cây gạo, luôn quý trọng và biết ơn những con người đã góp phần làm nên nó. Cây lúa được trồng ở hầu khắp mọi vùng trên cả nước. Mặc dù không phải đất ở vùng nào cũng thích hợp trồng lúa nước nhưng với sự thông minh, cần cù và khéo léo, người Việt không chỉ trồng được lúa trên các vùng đồng bằng phì nhiêu, màu mỡ mà ngay cả trên những vùng núi cao hiểm trở, thiếu dinh dưỡng họ cũng có thể tạo nên những cánh đồng lúa chín vàng như những bậc thang dẫn từ mặt đất lên tới trời xanh. Lúa là loại lương thực chủ yếu của người Việt nói riêng, người Châu Á nói chung và cũng là loại lương thực phổ biến nhất trong năm loại ngũ cốc. Gạo cung cấp cho con người các chất dinh dưỡng thiết yếu giúp duy trì sự sống còn của con người. Trong mâm cơm của mỗi gia đình Việt, thứ không thể thiếu chính là những hạt cơm gạo trắng, mềm dẻo, thơm lừng và ngọt lịm. Bánh chưng – món ăn cổ truyền của dân tộc trên bàn thờ gia tiên mỗi ngày Tết, là kết tinh của hạt gạo nếp, của thịt mỡ, của tiêu, của hành và được gói trong lá dong xanh mướt đã trở thành tinh hoa trong ẩm thực Việt. Còn có rất nhiều những món ăn khác được làm từ bột gạo: từ món cốm thơm từ lá nếp non cho đến các món xôi ngon lành, đẹp mắt từ đồ nếp tất cả đã trở thành thức quà không thể thiếu trong tâm hồn người Việt. Cây lúa còn có vai trò quan trọng trong tâm thức của người Việt. Với nền văn minh lúa nước có lịch sử 4000 năm, những lễ hội thể hiện sự biết ơn với cây lúa như lễ mừng lúa sinh trưởng của người Mạ, lễ hội “Ăn trâu cúng thần được một ngàn gùi lúa” của người Mạ,… khiến cho ta thấy sự ảnh hưởng, trân trọng và biết ơn của con người đối với cây lúa. Cây lúa cũng đi vào trong thơ ca, hội họa của con người như một lẽ tự nhiên và nó trở thành thi liệu để người nghệ sĩ vẽ lên hình ảnh về đất và người Việt. Ngày nay, lúa gạo trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta và nước ta đã trở thành nước có lượng gạo xuất khẩu lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Thái Lan. Điều đó cũng có nghĩa cây lúa không chỉ là những người bạn mà trở thành nguồn thu chính nuôi sống bao đời người Việt từ ngàn xưa cho đến tận hôm nay. Cây lúa nước mang vẻ đẹp chân chất, mộc mạc trong cái hồn của người Việt và đã gắn với con người Việt từ ngàn đời qua. Và dù cho cuộc sống có hiện đại, văn minh thì cây lúa cũng sẽ giữ một vị trí quan trọng suốt cả đời về thể chất và tinh thần của người Việt Nam.
Thuyết minh về cây lúa - mẫu 14
'Cây lúa – hòn ngọc trời ban thưởng, gắn bó với hình ảnh của đất nước Việt Nam. Hạt gạo, những viên ngọc trắng chính là kho tàng quý giá, tượng trưng cho lòng kiên trì, hy sinh của người nông dân. Từ cảnh đồng lúa mênh mông đến hạt lúa chín vàng, mỗi giai đoạn là một hành trình đẹp đẽ, là sự kết nối giữa con người và thiên nhiên.
Cây lúa không chỉ là nguồn lương thực quan trọng, mà còn là đấng mày râu của văn hóa Việt Nam. Bài văn thuyết minh về cây lúa không chỉ là lời ca ngợi sự trưởng thành của cây lúa mà còn là hình ảnh đẹp của tình yêu quê hương, lòng tự hào dân tộc.
Từ ngàn đời nay, cây lúa đã chứng kiến bao thăng trầm của đất nước, là chứng nhân của sự phồn thịnh, thăng tiến. Hình ảnh người nông dân cật lực làm đất, trồng cây lúa là biểu tượng của sự cố gắng, lao động khó nhọc nhưng đầy ý nghĩa. Bài văn thuyết minh này không chỉ là kể về cây lúa mà còn là câu chuyện về những người con của đất đỏ Việt Nam, người nông dân kiên trinh, bền bỉ.
Hình ảnh hoa lúa nhỏ xinh, mọc thành những chùm dài là biểu tượng của sức sống mới, của tình yêu thương mãnh liệt với đất đai. Cảnh đồng lúa chín vàng, bông lúa nằm phía ngọn cây tạo nên một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, là điểm nhấn tuyệt vời trong văn thuyết minh. Cây lúa không chỉ là người bạn của người nông dân mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho nghệ sĩ, nhà văn.
Hạt gạo, nền tảng của nền kinh tế nước nhà, không chỉ là thức ăn chính mỗi bữa cơm mà còn là nguồn nguyên liệu quan trọng cho nhiều món ăn ngon, truyền thống. Bánh chưng, bánh giầy là những đại diện tiêu biểu cho sự gắn bó chặt chẽ giữa cây lúa và đời sống tinh thần của người Việt. Những mảnh vườn lúa, những đám đông người nông dân chăm sóc, làm đẹp cây lúa là cảnh đẹp tình thần khó có thể phai nhạt.
Bài văn thuyết minh về cây lúa không chỉ là việc diễn đạt về tính chất sinh học của cây mà còn là sự tôn vinh, khám phá những giá trị văn hóa, tâm linh mà cây lúa mang lại. Người đọc sẽ không chỉ hiểu rõ hơn về đặc điểm, quá trình phát triển của cây lúa mà còn cảm nhận được sự ấm áp, mộc mạc và quý báu của nguồn gốc dân tộc.
Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn tự sự
- Mục lục Văn nghị luận xã hội
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 1
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 2
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9 và Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều