5+ Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích (điểm cao)
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích (mẫu 1)
- Dàn ý Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích
- Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích (mẫu 2)
- Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích (mẫu 3)
- Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích (mẫu 4)
- Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích (mẫu 5)
- Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích (mẫu 6)
- Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích (mẫu 7)
- Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích (mẫu 8)
- Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích (mẫu 9)
- Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích (các mẫu khác)
5+ Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích (điểm cao)
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 1
Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những đoạn trích thể hiện rõ nhất tâm trạng đau khổ của Thúy Kiều khi bị cuốn vào vòng xoáy nghiệt ngã của số phận. Đặc biệt, trong tám câu thơ cuối của đoạn trích, tác giả Nguyễn Du đã làm nổi bật được nỗi cô đơn cùng nỗi âu lo và dự cảm không lành về tương lai sóng gió của nàng Kiều. Nhà thơ đã rất khéo léo khi sử dụng điệp ngữ "buồn trông" để làm cho âm hưởng câu thơ trở nên lắng đọng, trầm buồn, qua đó gợi ra dòng suy nghĩ miên man, nỗi buồn như giăng kín trong tâm hồn cô đơn, lạc lõng của Kiều. Hình ảnh cánh buồm thấp thoáng giữa không gian rộng lớn gợi ấn tượng về sự lạc lõng, mờ mịt cũng chính như hoàn cảnh của Thúy Kiều đang bơ vơ nơi đất khách. Cánh hoa nổi trôi gợi ấn tượng về số phận chìm nổi, long đong vô định không biết đi đâu, về đâu. Hình ảnh ngọn cỏ, chân mây, mặt đất dường như cũng thấm đượm tâm trạng của con người mà trở nên "dầu dầu", héo úa, mịt mờ. "Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi", câu thơ kết mở ra âm thanh dữ dội, đó cũng tựa như những sóng gió, tai họa khủng khiếp sắp sửa giáng xuống cuộc đời của nàng Kiều. Qua bút pháp tả cảnh ngụ tình cùng tài năng miêu tả tâm lí xuất sắc, nhà thơ Nguyễn Du đã khắc họa thành công tâm trạng cô đơn, nỗi lo âu, sợ hãi của Thúy Kiều trước tương lai sóng gió.
Dàn ý Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích
1. Mở đoạn:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" và 8 câu cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.
2. Thân đoạn:
a. Hai câu đầu: Nỗi nhớ quê hương, khao khát được đoàn tụ gia đình:
- Mở ra bằng khung cảnh chiều tà, khung cảnh mà con người ta thường hay nghĩ về gia đình.
- Hình ảnh con thuyền với cánh buồm "thấp thoáng" phía xa gợi lên trong lòng Kiều sự cô đơn, lạc lõng.
- Cánh buồm ở xa kia cũng giống như Kiều, lênh đênh, vô định giữa dòng đời rộng lớn.
→ Thúy Kiều càng cảm thấy nhớ quê hương, khao khát được trở về gia đình mình.
b. Hai câu tiếp: Số phận nổi trôi, lênh đênh:
- Kiều nhìn lại gần con nước bên cạnh, mong muốn tìm được sự đồng cảm, sẻ chia, nhưng lại chỉ thấy những cánh hoa đang rơi và trôi vô định trên mặt nước.
- Hình ảnh "hoa trôi": gợi lên số phận hồng nhan của nàng.
- Những cánh hoa trôi đi trong vô định, cũng như Kiều đang ở trong một số kiếp nổi trôi, vô định như thế.
c. Hai câu tiếp: Nỗi buồn chán, vô vọng:
- "Nội cỏ rầu rầu" ngọn cỏ mang vẻ úa tàn, héo lụi, không có chút sức sống.
- Hoà cùng đó là màu "xanh xanh" nối liền chân trời và mặt đất: tạo nên một khung cảnh nhạt nhoà, đơn điệu.
- Đó cũng chính là tâm trạng của Kiều hiện tại: mệt mỏi, chán chường, tuyệt vọng.
d. Hai câu cuối: Dự cảm không lành về tương lai:
- Kiểu tưởng như mình đang ở giữa mênh mông biển khơi, chỉ có những con sóng đang "ầm ầm" gào thét xung quanh.
- Từ láy "ầm ầm": diễn tả sự dữ dội, khủng khiếp của thiên nhiên, đồng thời diễn tả cảm giác lo lắng. bất an, sợ hãi đang trào dâng trong lòng Kiều.
→ Đó là sự dự cảm cho một tương lai đầy giông bão sẽ vây lấy, nhấn chìm kiếp hồng nhan của Kiều.
e. Đánh giá chung:
- Nội dung: Tâm trạng của Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích cùng dự cảm về tương lai đầy giông bão.
- Nghệ thuật: Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình cùng các hình ảnh ẩn dụ đã tạo nên thành công cho đoạn thơ.
3. Kết đoạn:
- Khẳng định giá trị của đoạn thơ và tài năng của tác giả.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 2
"Kiều ở lầu Ngưng Bích" là một đoạn trích đặc sắc về nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong "Truyện Kiều". Qua đó, ta thấy được tâm trạng của Thúy Kiều khi bị giam lỏng trong lầu Ngưng Bích. Ở sáu câu thơ đầu, Nguyễn Du đã sử dụng những hình ảnh thiên nhiên để khắc họa lại hoàn cảnh nhân vật. Trong không gian mênh mông, rộng lớn nhưng lại chia lìa "non xa", "trăng gần", "cồn cát nọ", "bụi hồng kia", ta thấy được sự cô đơn, lẻ loi của cảnh vật cũng như của chính Kiều. Hơn thế nữa, việc phải ở trong vòng tuần hoàn khép kín "mây sớm, đèn khuya" cũng khiến nàng càng thêm chán nản. Nàng chỉ biết nghĩ đến những kỉ niệm bên Kim Trọng để bản thân cảm thấy bớt cô đơn, thế nhưng càng nhớ lại càng đau đớn. Kiều nhớ đến đêm thề nguyền, cùng nâng chén hẹn ước giữa mình với chàng Kim năm xưa rồi lại nghĩ đến cảnh người vẫn còn chờ đợi tin tức của nàng. Thế nhưng tấm thân nàng giờ đây đã bị hoen ố, vấy bẩn, không thể "gột rửa" được nữa. Sau đó, Kiều nhớ đến cha mẹ, lo lắng rằng không biết đã có ai chăm sóc miếng ăn, giấc ngủ cho cha mẹ hay chưa. Càng nghĩ nàng càng buồn tủi. Nỗi buồn thấm lên cảnh vật khiến cho không gian trở nên ảm đạm hơn. Điệp từ "Buồn trông" ở tám câu thơ cuối đã thể hiện rõ điều này. Kiều trông thấy cảnh sông nước, con thuyền phía xa mà không kìm được nỗi nhớ nhà, nhìn hoa trôi mà thương cho số phận trôi nổi lênh đênh của mình. Nàng buồn đến nỗi đâu đâu cũng chỉ thấy một màu xanh tẻ nhạt, chán chường. Rồi khi trông những cơn gió cuốn trên mặt duềnh, nàng bỗng nghe được âm thanh ầm ầm như báo hiệu sóng to gió lớn sắp sửa ập đến. Đó là dự cảm về một tương lai đầy biến động, khó khăn trước mắt. Bằng việc miêu tả khung cảnh thiên nhiên, Nguyễn Du đã khắc họa nỗi cô đơn, bơ vơ, tuyệt vọng của nàng Kiều khi phải chôn vùi tuổi xuân của mình trong lầu Ngưng Bích.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 3
Tâm trạng của Thúy Kiều cô đơn, nàng nghĩ về quá khứ và những người thân, nhưng ý nghĩ đó càng làm cho nàng xót xa hơn. Thúy Kiều rất thương Kim Trọng, nhìn trăng nàng lại nhớ vầng trăng đỉnh ninh hai mặt một lời song song và thương nhớ chàng Kim vẫn mong ngóng tin nàng, không biết nàng đã bên trời góc bể bơ vơ. Nỗi đau đớn của nàng là phải từ bỏ tình yêu, từ bỏ tấm lòng son dành cho mối tình đầu: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Bao giờ thì nàng mới có thể nhạt phai được tình cảm với chàng Kim mà không nhạt phai được thì nàng còn dằn vặt, còn đau khổ. Không chỉ nhớ thương Kim Trọng mà Kiều còn xót thương cho cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng tin mình, không rõ các em có chăm sóc chu đáo không, có ai thay mình quạt nồng ấp lạnh cho cha mẹ không. Vừa mới xa nhà được hơn một tháng mà nàng đã cảm thấy xa lâu lắm. Chỉ bốn câu thơ độc thoại nội tâm, Nguyễn Du đã thể hiện một cách sinh động, cao đẹp và đầy xúc cảm tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều. Ngay lúc mình đau khổ, cô đơn, mất hết những gì quý giá nhất của một đời người mà Kiều vẫn còn thương nhớ, lo lắng cho những người thân đã chứng tỏ nàng là người vị tha, quan tâm đến người thân còn hơn cả chính bản thân mình. Nguyễn Du đặt nỗi nhớ chàng Kim lên trước nỗi nhớ song thân là đã tuân thủ đúng diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều khi ấy. Nhớ chàng Kim trước vì nàng Kiều luôn cảm thấy mình có lỗi, có tội, mắc nợ chàng. Còn nhớ đến cha mẹ sau vì dù sao ông bà Vương cũng đã tạm yên một bề.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 4
Nhớ Kim Trọng, nàng nhớ về kỷ niệm thiêng liêng đêm thề nguyện, đính ước “Tưởng người dưới nguyệt chén đồng”. Nàng tưởng tượng cảnh Kim Trọng không biết cảnh ngộ của mình vẫn đang hướng về mình, đang chờ tin mà uổng công vô ích, vẫn ngày đêm mòn mỏi chờ trông chốn Liêu Dương xa xôi. Kiều nhớ Kim Trọng trong tâm trạng đau đớn, xót xa. Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Có lẽ “tấm son” ấy là tấm lòng Kiều son sắt, thuỷ chung, không nguôi nhớ thương Kim Trọng. Nhớ cha mẹ, nàng thấy “xót” khi tưởng tượng, ở chốn quê nhà, cha mẹ nàng vẫn tựa cửa ngóng chờ tin tức người con gái yêu. Đó còn là nỗi xót thương da diết và day dứt khôn nguôi vì không thể “quạt nồng ấp lạnh”, phụng dưỡng song thân khi già yếu. Lần nào nhớ về cha mẹ, Kiều cũng “nhớ ơn chín chữ cao sâu” và luôn ân hận mình đã phụ công sinh thành, phụ công nuôi dạy của cha mẹ. Điều đó cho thấy 1 tấm lòng hiếu thảo, giàu đức hi sinh. Nguyễn Du đặt nỗi nhớ Kim Trọng trước nỗi nhớ cha mẹ là tuân thủ đúng diễn biến tâm lí của nàng. Như vậy, 8 câu thơ là nỗi lòng thương nhớ của Kiều về người mình yêu- Kim Trọng và về cha mẹ.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 5
Nguyễn Du là một nhà thơ lớn của nền văn học Việt Nam, là danh nhân văn hóa thế giới. Tên tuổi của ông gắn liền với "Truyện Kiều". Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" đã nói lên tâm trạng cô đơn, xót xa, buồn tủi của Kiều, đặc biệt là ở 8 câu thơ cuối. Sau khi nhớ nhà, nhớ cha mẹ, nhớ người tình, Kiều lại nghĩ đến thân phận hẩm hiu, cô đơn của mình. Kiều đưa mắt nhìn ra xa, nơi có cửa bể mênh mang để kiếm tìm một bóng hình, một hơi thở nhân gian. Nhưng Kiều chỉ nhìn thấy một chiếc thuyền nhỏ bé như bị nhấn chìm giữa biển khơi vô tận. Có lẽ, con thuyền ấy cũng chính là cô Kiều cô độc lẻ loi nơi lầu Ngưng Bích. Không tìm kiếm được ở xa, Kiều lại đưa mắt về gần. Kiều nhìn thấy giữ ngọn nước chảy trôi ấy một bông hoa trôi bồng bềnh vô định. Bông hoa ấy cũng tượng trưng cho số phận bấp bênh chìm nổi của Thúy Kiều. Ngọn cỏ ngoài kia xanh tươi là thế nhưng nó vẫn nhuốm màu tâm trạng mang một vẻ rầu rầu. Chân mây, mặt đất, cỏ cây đều xanh đấy nhưng nó chẳng đem lại sự tươi vui tràn đầy sức sống. Đúng thật "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ". Nước biển ngoài kia bị gió cuốn trào, gió xô sóng, sóng va vào nhau tạo nên tiếng ầm ầm. Tiếng sóng biển thét gào phải chăng đang xót thương cho thân phận Thúy Kiều. hay chính lòng Kiều đang thét gào đau thương. Chỉ với 8 câu thơ ta thấy được tâm trạng xót xa đau đớn và cô độc của Thúy Kiều nơi lầu Ngưng Bích và qua đó cũng cảm nhận được giá trị nhân đạo mà tác giả gửi gắm.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 6
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích hay nó đã lột tả được tâm trạng của Thúy Kiều khi phải xa Kim Trọng mối tình đầu thơ mộng, tâm trạng đau đớn khi gia đình lâm biến và bản thân nàng từ chỗ một tiểu thư xinh đẹp khuê các phải sa chân vào chốn thanh lâu nhơ nhuốc. Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tác giả Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng rất nhiều bút pháp điêu luyện nhưng nổi bật lên là tả cảnh, ẩn tình, lấy cảnh vật để nói lên nỗi lòng của con người, người và cảnh vì thế mà tâm đầu ý hợp hòa quyện vào nhau. “Kiều ở lầu Ngưng Bích”là một bức tranh được vẽ lên với những màu sắc xám lạnh, gợi tả tâm trạng vô cùng sống động, nhưng nó cũng nhiều thê lương ai oán. Cảnh và người trong đoạn trích như hòa vào làm một nó thể hiện sự cô đơn, bẽ bàng, buồn tủi của Thúy Kiều trong cảnh đời éo le của mình, nhưng nó cũng thể hiện sự hiếu thuận, sắc son của Kiều đối với cha mẹ và Kim Trọng dù trong biến cố nhưng trong lòng Thúy Kiều vẫn luôn hướng về những người yêu thương.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 7
Tâm trạng của Thúy Kiều cô đơn, nàng nghĩ về quá khứ và những người thân, nhưng ý nghĩ đó càng làm cho nàng xót xa hơn.Nhìn trăng nàng lại nhớ vầng trăng đỉnh ninh hai mặt một lời song song và thương nhớ chàng Kim vẫn mong ngóng tin nàng, không biết nàng đã bên trời góc bể bơ vơ. Nỗi đau đớn của nàng là phải từ bỏ tình yêu, từ bỏ tấm lòng son dành cho mối tình đầu: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Bao giờ thì nàng mới có thể nhạt phai được tình cảm với chàng Kim mà không nhạt phai được thì nàng còn dằn vặt, còn đau khổ. Không chỉ nhớ thương Kim Trọng mà Kiều còn xót thương cho cha mẹ ngày ngày tựa cửa ngóng tin mình, không rõ các em có chăm sóc chu đáo không, có ai thay mình quạt nồng ấp lạnh cho cha mẹ không: Vừa mới xa nhà được hơn một tháng mà nàng đã cảm thấy xa lâu lắm. Chỉ bốn câu thơ độc thoại nội tâm, Nguyễn Du đã thể hiện một cách sinh động, cao đẹp và đầy xúc cảm tấm lòng hiếu thảo của Thúy Kiều. Ngay lúc mình đau khổ, cô đơn, mất hết những gì quý giá nhất của một đời người mà Kiều vẫn còn thương nhớ, lo lắng cho những người thân đã chứng tỏ nàng là người vị tha, quan tâm đến người thân còn hơn cả chính bản thân mình.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 8
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích lột tả sâu sắc tâm trạng của Thúy Kiều khi phải xa lầu Ngưng Bích lạnh lẽo. Đó là một tâm trạng đau đớn khi gia đình lâm biến, nỗi xót xa khi tình đôi lứa chia lìa và bản thân nàng từ chỗ một tiểu thư xinh đẹp khuê các phải sa chân vào chốn thanh lâu nhơ nhuốc. Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, tác giả Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng rất nhiều bút pháp điêu luyện nhưng nổi bật lên là tả cảnh, ẩn tình, lấy cảnh vật để nói lên nỗi lòng của con người, người và cảnh vì thế mà tâm đầu ý hợp hòa quyện vào nhau. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh được vẽ lên với những màu sắc xám lạnh, gợi tả tâm trạng vô cùng sống động, nhưng nó cũng nhiều thê lương ai oán. Cảnh và người trong đoạn trích như hòa vào làm một nó thể hiện sự cô đơn, bẽ bàng, buồn tủi của Thúy Kiều trong cảnh đời éo le của mình, nhưng nó cũng thể hiện sự hiếu thuận, sắc son của Kiều đối với cha mẹ và Kim Trọng dù trong biến cố nhưng trong lòng Thúy Kiều vẫn luôn hướng về những người yêu thương.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 9
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một kiệt tác trong nền thơ ca Việt Nam. Trong đó tám câu cuối của đoạn trích" Kiều ở lầu Ngưng Bích" đã thể hiện thành công tâm trạng của Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích thông qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Hai câu thơ đầu tiên của đoạn thơ là nỗi nhớ quê hương, gia đình của Kiều khi phải một mình cô đơn, lạc lõng ở một nơi xa lạ: "Buồn trông cửa bể chiều hôm/ Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa". Kiều nhìn ra phía xa tìm kiếm một khung cảnh thiên nhiên có thể làm nàng với đi nỗi sầu trong lòng. Thế nhưng nàng lại chỉ bắt gặp một cảnh chiều tà rợn ngợp, cô quạnh, chỉ một con thuyền ở ngoài xa với cánh buồm "thấp thoáng". Cánh buồm ấy đang lênh đênh, xa mờ, bất định giữa dòng nước và nàng cũng vậy đang cô đơn, lạc lõng ở nơi đất khách quê người. "Buồn trông con nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu" mong muốn tìm được khung cảnh giúp nàng vơi đi nỗi sầu, thế nhưng khi thấy những cánh hoa đang xoay tròn, cuốn đi trên mặt nước, Thúy Kiều lại càng xót xa cho thân phận của mình. Hình ảnh "hoa trôi" như là biểu tượng cho số phận hồng nhan của nàng, cũng bé nhỏ, mỏng manh như thế, bị nước cuốn đi không biết về đâu. Nỗi buồn, cô đơn trong lòng Kiều càng dâng tràn, rợn ngợp hơn nữa khi Kiều trong ra những bờ cỏ xanh ngoài kia: "Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh". Những ngọn cỏ "rầu rầu" màu tàn lụi, héo úa, sắc "xanh xanh" nhạt nhoà nối liền một dải cả chân trời và mặt đất càng khiến cho khung cảnh thêm phần tẻ nhạt, đơn điệu. Hai câu cuối của đoạn thơ hiện lên trước mắt chúng ta là khung cảnh của thiên nhiên dữ dội: "Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi". Đó dường như là lời dự cảm của Kiều về số phận của mình. Kiều tưởng như mình đang ngồi giữa mênh mông trời biển, chỉ có tiếng sóng vỗ, gào thét xung quanh như muốn nhấn chìm nàng xuống đáy. Từ láy "ầm ầm" diễn tả sự dữ dội của những con sóng đồng thời cũng diễn tả tâm trạng hoảng loạn, lo sợ của Kiều. Nàng đang dự cảm về tương lai của mình, những bão tố, giông bão của cuộc đời sẽ nổi lên, cuốn lấy và nhấn chìm số phận của chính nàng. Đoạn thơ là tâm trạng của Kiều trong những ngày bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Nàng vừa buồn chán, đau khổ cho số phận nổi trôi của mình, vừa nhớ thương về gia đình, quê hương, vừa dự cảm về số kiếp bi kịch của phận hồng nhan.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 10
Tâm trạng buồn thương da diết của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích được diễn tả vô cùng xúc động qua tám câu thơ cuối đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Đoạn thơ là một đoạn tuyệt bút “tả cảnh ngụ tình” của thiên tài Nguyễn Du. Tám câu thơ với điệp ngữ “buồn trông” lặp đi lặp lại như một khúc hát buồn về cuộc đời cô gái họ Vương. Mỗi câu thơ là một âm hưởng, một giai điệu thấm đẫm tâm trạng nàng Kiều và mở ra một bức tranh tứ bình mới mẻ. Cảnh vật trong buổi chiều hôm “thấp thoáng cánh buồm xa xa” như vời vợi một nỗi nhớ cha mẹ, nhớ quê nhà. Kiều một mình “thui thủi quê người một thân” sao cho khỏi nỗi nhớ ấy. Cuộc đời Kiều như cánh hoa mỏng manh “man mác” giữa dòng cuốn cuộc đời, “ngọn nước mới sa” như mang bao nỗi niềm về thân phận bấp bênh, chìm nổi của người con gái trong xã hội xưa. Nơi “nội cỏ rầu rầu” kia xanh xanh mà sao cũng u buồn thế, đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Có thế ta mới hiểu, mới phục cái tài tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du đã đạt đến mức tuyệt bút. “Chân mây mặt đất một màu xanh xanh” gợi cho Kiều nỗi buồn chán, tủi thân về cuộc đời, lòng người lạnh lùng, vô vị. Ở cảnh cuối, thiên nhiên hiện lên thật dữ dội. Chung quanh Kiều là tiếng sóng như đang kêu gào, làm Kiều cảm thấy hãi hùng trước bão táp cuộc đời sắp ập đến. Câu thơ như một lời dự báo trước về cuộc đời đầy sóng gió, đố kị, ghen ghét, bon chen của nàng. Nàng như một cánh hoa bé nhỏ trôi giữa dòng nước rồi “biết là về đâu?”. Bốn cảnh, bốn bức tranh tứ bình được miêu tả theo trình tự từ xa đến gần, hình ảnh và màu sắc từ màu nhạt đến rõ nét, đậm đà, âm thanh từ tĩnh sang động, buồn man mác đến kinh sợ, hãi hùng. Biện pháp tả cảnh ngụ tình thấm đẫm trong từng cảnh vật. Qua đó ta thấy tài năng và lòng nhân ái, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du lớn biết nhường nào.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 11
Trên lầu Ngưng Bích, nơi Kiều đã từng sống những ngày tháng êm đềm bên gia đình, cô giờ đây chỉ còn một mình, cảm thấy trống rỗng và cô đơn. Trái tim Kiều như bị bóp nghẹt trong nỗi nhớ nhung gia đình và quê hương. Cô nhìn ra khung cửa sổ, nhìn về phía quê hương xa xôi, nơi có cha mẹ, em gái Thúy Vân và người yêu Kim Trọng đang chờ đợi cô. Những giọt nước mắt lặng lẽ rơi xuống, thấm ướt mái tóc dài của Kiều. Cô tự hỏi bao giờ cô mới có thể trở về với cuộc sống yên bình của mình. Tâm trạng của Kiều lúc này rất phức tạp. Cô cảm thấy tuyệt vọng và mất phương hướng. Nhưng sâu thẳm trong trái tim Kiều, vẫn còn chút hy vọng mong manh. Cô tin rằng, dù cuộc sống có khó khăn đến đâu, cô vẫn sẽ không bao giờ từ bỏ. Cô sẽ tiếp tục chiến đấu để tìm lại hạnh phúc cho mình và gia đình.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 12
Tâm trạng của Thúy Kiều đọng mãi trong cô đơn, nỗi buồn vô tận. Cô nghĩ về quá khứ và những người thân yêu, nhưng mỗi suy tư đó chỉ làm lòng cô thêm đau. Nhìn thấy ánh trăng tròn trên bầu trời, nàng nhớ đến vầng trăng ở đỉnh Ninh Hai, một biểu tượng của tình yêu hai mặt và lòng son trái tim. Kiều vẫn chờ đợi tin tức từ chàng Kim, mà không biết liệu nàng đã trở thành một tinh tú trên bãi biển xa cách. Nỗi đau lớn nhất của nàng chính là việc phải từ bỏ tình yêu thương, phải đặt vào một ngăn đỏ tươi những hoài niệm về mối tình đầu. Tấm lòng son vốn đẹp và tươi sáng, nhưng bây giờ nó đã phai màu theo thời gian. Mỗi ngày trôi qua, Thúy Kiều cảm thấy tình yêu của mình với Kim Trọng dần nhạt phai. Nhưng tình cảm đối với chàng không bao giờ giảm đi, chỉ là nàng cảm thấy nó đau đớn và đắng cay hơn. Nỗi lo lắng không chỉ thuộc về mình, mà còn đổ vào cha mẹ và những người thân của mình. Cô thấy mình xa cách quê hương và gia đình quá lâu. Cô lo lắng về việc ai đó có thay mình trên vai quạt nồng, ấp ủ trong những ngày hanh hao giá ret khốc liệt, liệu có ai đứng trước cửa để ngóng tin nàng mỗi khi đêm xuống. Trong bốn câu thơ độc thoại, Nguyễn Du đã tạo nên một bức tranh tinh tế và xúc động về tâm hồn hiếu thảo và quan tâm của Thúy Kiều. Dù bản thân cô đang chịu đựng nhiều khó khăn và cô đơn, Kiều vẫn không bao giờ quên đến người thân yêu của mình. Đó là biểu hiện của tấm lòng vị tha và tình yêu đối với gia đình mà Kiều luôn mang trong mình, vượt qua cả nỗi đau và cô đơn của bản thân.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 13
Nguyễn Du, danh nhân văn học của Việt Nam và một biểu tượng văn hóa toàn cầu, để lại một di sản vô cùng quý báu với tác phẩm vĩ đại "Truyện Kiều". Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là một phần quan trọng của tác phẩm, nó không chỉ phản ánh tâm trạng cô đơn và xót xa của Kiều mà còn mang theo những tầm nhìn sâu xa về cuộc sống và nhân đạo. Trong những dòng chữ của Nguyễn Du, tâm trạng của Thúy Kiều trở nên sống động. Cô đang nghĩ về quê hương, gia đình, và người tình mà cô đã phải từ bỏ. Mỗi ký ức là một vết thương đau đớn trong trái tim cô. Cô thậm chí nhìn ra xa, về phía biển khơi rộng lớn, trong hy vọng tìm kiếm một chút gì đó quen thuộc trong thế giới xa lạ. Nhưng thực tế, cô chỉ thấy một chiếc thuyền nhỏ bị đắm giữa biển khơi bao la, như là tượng trưng cho tình trạng cô đơn của Kiều trong căn phòng tại lầu Ngưng Bích. Cuối cùng, cô quay mắt lại, nhìn gần hơn, và thấy một bông hoa trôi nổi trên một ngọn nước. Bông hoa này thể hiện sự bấp bênh, không ổn định, giống như số phận của Thúy Kiều trong bài thơ. Dù thế giới xung quanh có xanh tươi và sống động, tâm trạng của Kiều vẫn được nhuốm bởi nỗi buồn và cô đơn. Thần thái của biển, với sóng biển xô đổ và gió thét gào, càng làm tăng thêm sự đau đớn của Kiều. Cuốn sóng thần cuốn trôi cuộc đời cô, và tiếng sóng ầm ầm có thể được hiểu như là một loại tiếng thét gào của chính tâm hồn Kiều, đang trải qua nỗi đau khó tả. Câu cuối cùng "người buồn cảnh có vui đâu bao giờ" nói lên sự đan xen của niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống, và cách mà Thúy Kiều phải đối mặt với sự cô đơn và tuyệt vọng.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 14
Trong hồn hướng về quê hương và người thân, bức tranh tâm trạng của Kiều trở nên sâu sắc và xúc động. Nhớ về Kim Trọng, nàng không chỉ gợi lên ký ức về những đêm đầy ý nghĩa và lời thề nguyện đầy thiêng liêng, mà còn là sự chịu chấp nhận với nỗi đau xa cách và trống trải. Nàng tưởng tượng hình ảnh của Kim Trọng, người không biết được rằng tâm hồn Kiều vẫn liên tục hướng về anh, đang chờ đợi những tin tức vô vọng. Sự trung thành và sự hy vọng vẫn mãi cháy bỏng trong trái tim đau đớn của Kiều. Nhớ về cha mẹ, nỗi lòng của Kiều tràn ngập niềm xót xa. Trong tưởng tượng, hình ảnh cha mẹ của nàng vẫn đứng tại cửa, hy vọng và chờ đợi thông tin từ người con gái yêu thương, làm cho tâm hồn Kiều đau lòng. Không thể quạt nồng ấp lạnh, không thể chăm sóc cho họ khi họ già yếu, điều này khiến cho lòng hiếu thảo và lòng bi đạo của Kiều trở nên đau đớn và day dứt không ngừng. Nhìn chặt qua những từ ngữ của Nguyễn Du, chúng ta không chỉ nhìn thấy nỗi lòng thương nhớ đầy mãnh liệt về người yêu và về gia đình, mà còn cảm nhận được sự đắng cay, sự hối hận và lòng hiếu thảo không biên giới của Thúy Kiều. Bằng cách này, Nguyễn Du đã tạo ra một tác phẩm không chỉ về tình yêu đẹp mà còn về lòng trung hiếu và lòng nhân quyết, khiến cho câu chuyện của Kiều trở thành một bức tranh đầy nghệ thuật và lòng người.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 15
Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là một hòa quyện tuyệt vời của tâm trạng và môi trường, là một trang văn mà Nguyễn Du đã khéo léo tạo ra. Trong đó, không chỉ có việc diễn tả một bức tranh xám lạnh của cảnh và con người, mà còn chứa đựng một dòng chảy sâu sắc của tư duy và cảm xúc. Sự lạc quan của tuổi trẻ và hạnh phúc gia đình trong lầu Ngưng Bích đã bị thất thường hoá, biến thành một hình bóng u tối của sự cô đơn và tuyệt vọng khi phải xa lạnh lẽo. Đau đớn khi gia đình tan vỡ, nỗi xót xa khi tình yêu đôi ta bị chia lìa, và đặc biệt là nỗi lòng của Thúy Kiều khi từ một tiểu thư kiêu sa, cô trở thành một phụ nữ mất hạnh phúc ở chốn thanh lâu nát nát. Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở việc mô tả sự cô đơn và bất hạnh, mà ông còn chạm đến lòng hiếu thảo và lòng kiên nhẫn của Kiều. Dù trong hoàn cảnh khó khăn, tâm hồn của Kiều vẫn tràn ngập lòng bi kịch và lòng hiếu thuận, là nguồn động viên cho bản thân mình để đối diện với số phận éo le. Cuối cùng, đoạn trích này không chỉ là sự tường thuật một phần của câu chuyện, mà còn là một bức tranh đầy huyền bí về nhân quyền và lòng trung hiếu trong bức tranh tối tăm của cuộc đời Thúy Kiều. Nguyễn Du đã chạm đến trái tim của người đọc bằng những từ ngữ sâu sắc và bi thương, để lại trong lòng độc giả một ấn tượng không thể phai mờ.
Đoạn văn miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích - mẫu 16
Trong tâm trạng đầy cảm xúc của Thúy Kiều, chúng ta nhận thấy một hình ảnh của sự đau khổ, sự độc đáo, và lòng hiếu thảo tột bậc. Cô đang phải đối mặt với cuộc sống đầy bi thương và xa cách những người thân yêu. Cô xem xét quá khứ và nhớ về những người thân, những kỷ niệm đẹp, nhưng những suy tư ấy chỉ khiến cho nỗi đau càng sâu thêm trong lòng Kiều. Trái tim của Thúy Kiều đang yêu thương một người đàn ông, Kim Trọng, một người mà cô từ bỏ để đáp ứng nghĩa vụ gia đình và để bảo vệ danh dự của người thân. Mỗi lần nhìn thấy trăng, Kiều lại nhớ đến vầng trăng đỉnh Ninh Hai, với sự hai mặt, song song, tượng trưng cho mối tình của họ. Cô vẫn mong đợi thông tin từ Kim Trọng, không biết liệu anh có biết rằng Kiều đang sống trong cảnh đau đớn, hay anh nói đúng khi nàng đã rời bỏ cuộc sống này. Nỗi đau của Kiều còn nói lên trong việc phải từ bỏ tình yêu, cô đành đặt vào bãi rác những kỷ niệm đẹp và tấm lòng son chưa bao giờ bị phai màu. Cô biết rằng tình yêu đầu đời vẫn đọng mãi trong trái tim, và cô không biết bao giờ nó mới có thể phai nhạt đi, trong khi nỗi đau thì không bao giờ biến mất. Thúy Kiều không chỉ nhớ về Kim Trọng mà còn lo lắng cho cha mẹ và các em của mình. Cô đang xa cách gia đình và quê hương hơn một tháng, và nỗi lo lắng cho những người thân yêu đang tự cửa ngóng tin cô. Cô quan tâm đến việc ai đó có chăm sóc và quạt nồng ấp cho cha mẹ hay không, và cô cảm thấy mình đã xa nhà quá lâu. Trong bốn câu thơ độc thoại, Nguyễn Du đã tạo ra một bức tranh tinh tế về tâm hồn của Thúy Kiều, với tất cả sự vị tha, tình yêu và lo lắng cho người thân yêu của cô.
Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn tự sự
- Mục lục Văn nghị luận xã hội
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 1
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 2
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9 và Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều