5+ Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương (điểm cao)

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

5+ Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương (điểm cao)

Quảng cáo

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 1

Tôi là Vũ Thị Thiết, tên thường gọi Vũ Nương quê ở Nam Xương. Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo nhưng cha mẹ tôi luôn dạy bảo tôi chu đáo, ân cần nên mọi người thường khen ngợi tôi thuỳ mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp vì thế có rất nhiều người theo đuổi tôi. Trong đó có chàng Trương Sinh là con của một nhà hào phú xin đem trăm lạng vàng cưới tôi về làm vợ. Cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối này khiến tôi gặp rất nhiều khó khăn, bất hạnh.

Tôi biết chồng mình là người có bản tính hay ghen tuông nên tôi hết sức giữ gìn khuôn phép, vợ chồng trước nay chưa từng xảy ra bất hoà. Hai chúng tôi ăn ở êm ấm, lại chuẩn bị đón đứa con đầu lòng nên chúng tôi đều rất vui và hạnh phúc. Thế nhưn hạnh phúc chẳng được bao lâu, giặc Chiêm xâm lăng, chồng tôi học ít nên bị bắt đi lính, chúng tôi chia tay nhau từ đây. Buổi tiễn đưa chồng tôi lên đường, tôi rót chén rượu đầy bày tỏ nỗi lòng mong chàng bình yên trở về, thấu cảm cho những nỗi đau mà chồng phải chịu.

Quảng cáo

Thời gian thấm thoát trôi qua, ngày tôi chuyển dạ, sinh được một cậu con trai kháu khỉnh, đặt lên là Đản. Chính đứa trẻ này đã làm tôi với bớt nỗi nhứo chồng. Mẹ chồng tôi vì quá nhớ thuong con trai nên đã sinh bệnh, chẳng ăn chẳng uống, tôi đã khuyên mẹ cố gắng mạnh khoẻ để chờ ngày Trương Sinh về. Nhưng rồi mẹ tôi cũng không qua khỏi, trước lúc lâm chung, bà căn dặn tôi: "Sau này ....phụ mẹ"

Tâm lòng của bà thật nhân hậu biết bao! Từ đó trong nhà chỉ còn tôi và bé Đản. Mỗi lức nhớ chồng và muốn bù đắp cho con thiếu vắng hơi cha, mỗi tối tôi thường chỉ vào cái bóng của mình trên tường và bảo con "Cha Đản lại đến kìa". Thằng bé ngây thơ, tin là thật chơi đùa cùng chiếc bóng.

Ba năm trôi qua, chồng tôi bình an trở về. Vợ chồng chúng tôi gặp nhau vừa mừng vừa tủi, hạnh phúc vỡ oà. Biết tin mẹ mất, Trương Sinh bế bé Đản ra mộ thắp nhang cho bà. Nhưng khi chàng vừa trở về và nổi cơn thịnh nộ, chàng mắng tôi không tiếc lời, một mực nói tôi hư thân, mất nết không thuỷ chung. Tôi khóc lóc phân trần: "Thiếp vốn con....như lời chàng nói".

Quảng cáo

Có lẽ tất cả những lời giải thích của tôi, chàng đều coi là gió thoảng, hàng xóm cũng sang bênh vực tôi nhưng chàng không nghe, tôi hỏi ai nói thì chàng giấu, tôi không thể thanh minh.

Lửa ghen tuông trong lòng chàng mỗi lúc một lớn, chàng mắng mỏ và chửi rủa tôi, đuổi tôi ra khỏi nhà. Giờ đây tôi khong còn hạnh phúc, gia đình tan nát, danh dự bị bôi nhọ, tuyệt vọng, cùng đường tôi chỉ biết tìm tới cái chết. Tôi tắm rửa sạch, sau đó ra bến Trường Giang gieo mình tự vẫn.

Người ở hiền khắc sẽ gặp lành, đồng cảm với nỗi oan khuất của tôi, tôi được các nàng tiên cá đưa xuống thuỷ cung của Lương Phi, nơi đây thật là lộng lẫy. Trong một bữa tiệc, tôi gặp lại Phan Lang là người cùng làng. Nghe Phan Lang kể lại, Trương Sinh ngồi bế con bên ngọn đèn dầu, con chỉ bóng chàng nhận cha, chàng mới thấu hiểu nỗi oan bấy lâu tôi phải chịu. Cuộc đời sao lại trớ trêu với tôi như thế, chính đứa con tôi hết mực yêu thương đã gieo mầm hoạ, người chồng tôi hết lòng thuỷ chung lại đưa tôi tới bước đường cùng. Theo lời Phan Lang nói, từ lúc tôi ra đi, nhà tôi tan tác tiêu điều, tôi nghe mà không thể cầm được nước mắt. Mặc dù rất giận Trương Sinh nhưng tôi vẫn tìm về. Tôi nhờ Phan Lang mang chiếc hoa vàng cùng lời nhắn chàng lập đàn giải oan bên bến Trường Giang. Toi được Phan Lang đưa về trong cảnh võng lọng cờ hoa rực rỡ đầy sông nhưng tôi chỉ biết cảm tạ chàng đã giúp tôi minh oan mà không thể trở về trần gian.

Quảng cáo

Cuộc sống cõi trần thật bạc, mong rằng xã hội sẽ xoá bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dung túng cho Trương Sinh có thói gia trưởng đẩy tôi vào oan khuất. Xã hội cần cải tiến xây dựng một cuộc sống bình đẳng, nam nữ bình quyền, tôi mong người đời lấy đó là bài học giữ gìn hạnh phúc bởi hạnh phúc chỉ được xây dựng trên cơ sở tin yêu, tôn trọng lẫn nhau.

Dàn ý Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương

1. Mở bài

Giới thiệu bản thân

Khái quát cuộc đời mình

2. Thân bài

Vì tính chồng đa nghi nên tôi luôn phải giữ gìn phép tắc.

Chồng tôi lên đường ra trận, tôi ở nhà làm tròn bổn phận người mẹ, người con dâu hiếu thảo.

Khi chồng tôi trở về, nghi ngờ tôi không chung thuỷ, đánh mắng và đuổi tôi ra khỏi nhà.

Vì oan ức không thể dãi bày, tôi gieo mình xuống sông Trường Giang.

Tôi được Linh Phi cứu giúp và gặp lại Phan Lang, tôi nhờ chàng nhắn với Trương Sinh mong chàng lập đàn giải oan

Khi lập đàn giải oan, tôi hiện lên cảm ơn và từ biệt chàng rồi trở về thuỷ cung.

3. Kết bài:

Cảm nghĩ của bản thân.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 2

Tôi tên là Vũ Nương, quê ở Nam Xương. Mọi người trong làng yêu mến, thường khen tôi nết na, thuỳ mị, xinh đẹp. Ai cũng cầu mong tôi sẽ lấy được một người chồng xứng đáng và được hạnh phúc. Tối đã gặp gỡ và trở thành vợ của Trương Sinh. Chàng hết mực yêu thương tôi nhưng cũng rất đa nghi, biết tính chồng như vậy nên tôi cố gắng cẩn thận từ lời ăn tiếng nói cho tới hành động đều giữ đúng khuôn phép, nên gia đình luôn được êm ấm.

Cuộc sống của chúng tôi cứ thế êm đềm trôi qua, cho tới một ngày chiến tranh xảy ra, chồng tôi phải lên đường ra trận. Buổi tiễn đưa chồng ra biên ải, lòng tôi nặng trĩu những lo âu, phiền muộn. Nghĩ tới cảnh chàng phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật,.. lòng tôi thương chàng vô cùng. Tôi chỉ mong chàng bình an trở về.

Ngày tháng cứ lặng lẽ trôi, trong lòng tôi chỉ có một nỗi nhớ về chàng đằng đẵng, thường trực trong lòng. Đến kì sinh nở, tôi sinh được một bé trai, đặt tên là Đản. Mẹ chồng tôi vì quá nhớ thương con và sinh bệnh. Dù tôi đã hết sức thuốc thang, động viên nhưng bệnh tình càng ngày càng trầm trọng, bà đã không kịp chờ con trai về phụng dưỡng. Tôi đã làm hết trách nhiệm của một người con dâu, lo ma chay chu tất cho mẹ.

Sau bao chờ đợi mòn mỏi, nhớ thương, cuối cùng Trương Sinh đã bình an trở về. Tôi vô cùng sung sướng và hạnh phúc, nhưng cuộc đời không ai đoán trước được điều gì, chàng về tới nhà, biết mẹ mình đã qua đời, bế cong cùng ra mộ thăm mẹ, ngờ đâu lúc trở về chàng nổi giận đùng đùng, la mắng om sòm, cho rằng tôi đã phản bội chàng, không giữ tình yêu chung thuỷ với chàng. Tôi bàng hoàng và sửng sốt, tôi vừa khóc vừa giải thích: "Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng xum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mình giữ tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin tưởng thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp". Nhưng dù tôi có nói bao nhiêu lời cũng không làm chàng thay đổi suy nghĩ. Hàng xóm thương tôi cũng bênh vực và nói đỡ giúp tôi nhưng cũng chẳng có kết quả gì. Chàng mắng nhiếc tôi thậm tệ và đánh đuổi tôi đi.

Tôi từng mong có một gia đình hạnh phúc với một người con ngoan, một người chồng thương yêu tôi. Nhưng giờ đây, tất cả đều tan biến, trâm gãy tình tan, tôi đâu còn mặt mũi sống trên đời. Nghĩ đoạn, tôi tắm rửa sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: "Con duyên phận hẩm hiu bị chồng ruồng bỏ. Nếu con giữ gìn trinh tiết mà bị oan thì khi thác xuống xin được làm Mị Nương hoặc cỏ Ngu Mĩ. nếu con phản bội chồng con thì chết đi xin làm mồi cho cá tôm, diều quạ và chịu để mọi người phỉ nhổ" sau đó gieo mình xuống dòng sông Trường Giang.

Thấu hiểu cho hoàn cảnh bị oan ức của tôi, thần linh đã cho các nàng tiên dưới thuỷ cung cứu vớt, cho tôi nương nhờ trong cung điện của Linh Phi. Sau đó tôi gặp Phan Lang-người cùng làng, nghe chàng kể gia cảnh chồng con tôi từ sau khi tôi ra đi nhà cửa, vườn tược hoang vu,..lòng tôi xót xa ai oán. Được biết chồng tôi đã tỏ rõ sự tình, và vẫn thương tôi, tôi bèn nhắn Phan Lang khi chàng trở về trần gian cầm theo một chiếc hoa vàng và báo rằng nếu còn nhớ tới chút tình xưa nghĩa cũ xin lập một đang giải oan ở bến sông, tôi sẽ về. Nghe lời dặn, Trương Sinh làm theo, tôi ngồi trên kiệu hoa về gặp chàng, tôi nghe tiếng chàng gọi mà lòng xót xa không tả. Nhưng giữa chúng tôi có một khoảng cách vô cùng lớn kẻ âm người dương không thể hàn gắn. Để bày tỏ lòng biêt ơn, tôi đã nguyện ở lại với đức Linh phi, sau đó tôi tạ ơn chàng đã lập đàn giải oan cho tôi rồi quay về chốn thuỷ cung.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 3

Tôi tên là Vũ Thị Thiết, tên thường gọi là Vũ Nương. Thoe lời mọi người nhận xét nhan sắc của tôi cũng thuộc hành mỹ nhân. Tù nhỏ tôi đã được cha mẹ dạy dỗ những lễ nghi, phép tắc, công dung ngôn hạnh. Đến tuổi lấy chồng, tối được gả vào nhà họ Trương. Chồng tôi tên là Trương Sinh, yêu chiều tôi hết mực, nhưng chàng lại hay ghen. Chính vì vậy tôi luôn giữ chừng mực. Lấy nhau chẳng bao lâu, đất nước lâm nguy, chồng tôi phải lên đường đi lính. Ngày tiênc hồng lên đường, tôi bịn rịn chẳng muốn chia xa, chẳng mong được chức quan hầu mà chỉ mong hai chữ bình yên.

Chồng đi xa, tôi ở nhà hoàn hành trách nhiệm của một người mẹ tốt, người con dâu hiếu thảo. Do tuổi già sức yếu và quá nhớ thương con trai, mẹ chồng tôi lâm bệnh nặng rồi qua đời. Từ đó trong nhà chỉ còn tôi và bé Đản. Thương con, muốn bù đắp cho con sự thiếu vắng hơi cha, mỗi tối tôi thường chỉ lên bóng mình trên tường và nói "Cha Đản lại đến rồi kìa". Tôi chẳng ngờ hành động đó của tôi vô tình trở thành nguyên nhân đẩy tôi tới cái chết sau này.

Thời gian thấm thoát trôi qua, chồng tôi bình an trở về, biết tin mẹ mất, chàng rất buồn. Một buổi nọ, chàng bế Đản ra mộ thắp hương cho mẹ. Đến khi về, chàng nổi cơn thịnh nộ, nói tôi thất tiết, không giữ gìn khuôn phép. Mặc dù tôi đã cố gắng giải thích nhưng với bản tính ghen tuông ăn sâu vào máu, chàng không tin và đuổi tôi ra khỏi nhà.

Danh dự bị bôi nhọ, hạnh phúc gia đình tan nát, tôi chỉ biết tìm tới cái chết ở bến Trường Giang. Thấu hiểu hoàn cảnh của tôi, Linh Phi đã ra tay cứu giúp, đưa tôi về thuỷ cung. Một ngày nọ, tôi gặp Phan Lang là người cùng làng và là ân nhân của Linh Phi. Sau khi nghe kể, tôi mới biết Trương Sinh bế con ngồi bên ngọn đèn dầu, thằng Đản chỉ vào cái bóng nhận cha, lúc đó chàng mới nhận ra đã nghi oan cho tôi. Chàng vô cùng hối hận. Phan Lang khuyên tôi trở về, nhưng vì để trả ân đức cho Linh Phi, tôi nhờ Phan Lang cầm theo chiếc hoa vàng cùng lời nhắn gửi tới chồng tôi, lập đàn giải oan cho tôi tại bến Trường Giang. Tôi trở về giữa dòng sông trên chiếc kiệu hoa, nói vọng vào bờ lời tạ từ chồng con rồi biến mất.

Câu chuyện của tôi là một câu chuyện buồn, dù quá khứ đã qua đi nhưng những người trong cuộc vẫn bị ám ảnh day dứt, nối nhớ chồng con vẫn không nguôi ngày nào.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 4

Đã hơn một năm trôi qua, kể từ khi chàng Trương lập đang giải oan, tôi hiện về nói lời từ biệt rồi ra đi mãi mãi. Tôi dần quen với nhịp sống nơi thuỷ cung của Linh Phi. Nhưng trong sâu thẳm trái tim tôi vẫn đau đáu nhớ về quê nhà, nhớ cuộc sống gia đinh hạnh phúc trước kia.

Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, tuy tôi xuất thân trong gia đình nghèo nhưng từ nhỏ đã được cha mẹ dạy bảo đến nơi đến chốn, nên biết trên biết dưới, cư xử đúng mực. Tới tuổi lấy chồng, cha mẹ tôi không muốn con vất vả nên đã nhận 100 lạng vàng nhà họ Trương và gả tôi cho Trương Sinh. Chồng tôi là một con người rất hay ghen, biết tính chồng là vậy tôi luôn giữ gìn khuôn phép không để vợ chồng bất hoà.

Lấy nhau chưa được bao lâu, đất nước có giặc ngoại xâm. Chồng tôi phải ra trận chiến đấu. Lúc tiễn đưa chồng lên đường lòng tôi bịn rịn không nguôi, chẳng mong chàng ra đi công danh phú quý, chỉ mong trở về bình an. Sau khi chồng đi, tôi hạ sinh được một cậu con trai, đặt tên là Đản.

Mẹ chồng tôi vì quá nhớ thương con trai mà sinh bệnh. Tôi hết lòng chăm sóc, thuốc thang, động viên mẹ chóng khoẻ chờ ngày đoàn tụ. Nhưng tuổi cao sức yếu, mẹ chồng tôi đã qua đời.

Ngày trở về biết tin mẹ qua đời, chông tôi vô cùng đau xót. Một buổi nọ chồng tôi bế bé Đản ra viếng mộ bà. Cứ ngỡ tháng ngày về sau sẽ chỉ là hạnh phúc vui vẻ của cuộc sống ba người, ngờ đâu, chồng tôi trở về và nổi cơn thịnh nộ với tôi. Chàng nói tôi không chung thuỷ, phản bội chàng, cho dù tôi đã hết sức giải thích nhưng chàng vẫn một mực mắng mỏ và đuổi tôi ra khỏi nhà.

Quá oan ức và buòn tủi, tôi đã tìm tới cái chết ở sông Trường Giang. Xót thương cho hoàn cảnh của tôi, Đức Linh Phi đã đưa ta cứu giúp và đưa tôi về thuỷ cung.

Một ngày nọ tôi gặp được một người cùng làng teen là Phan Lang, sau khi nghe Phan Lang kể lại, tôi được biết chồng tôi rất ân hận khi đã vu oan cho tôi, từ khi tôi ra đi nhà cửa vườn tược không ai chăm sóc, vắng vẻ đìu hiu. Mặc dù thương chồng xót con nhưng vì trả ơn đức Linh Phi, tôi chỉ có thể nhắn gửi Phan Lang là báo với Trương Sinh lập đàn giải oan cho tôi ở bờ sông.

Theo lời dặn, Trương Sinh lập đàn giải oan cho tôi, tôi trở về giữa sông cờ hoa kiệu võng linh đình, mờ mờ ảo ảo. Sau khi nói lời cảm tạ và từ biệt với chồng con, tôi biết mất giữa dòng.

Thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến thật bị rẻ rúng coi thường. Còn biết bao những người phụ nữ phải chịu tiếng oan như tôi chưa được giải.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 5

Chàng Trương Sinh vốn là người cùng làng với tôi. Bởi cảm mến, chàng đã đem lòng thương yêu và cùng tôi kết tóc xe duyên, hứa hẹn sẽ cùng chung sống hạnh phúc đến đầu bạc răng long. Biết tính chàng hay ghen nên tôi cũng cố gắng gìn giữ khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến bất hoà.

Năm ấy, quân giặc quấy nhiễu biên cương, chàng tuy là con nhà hào phú nhưng không có học, nên phải đi lính. Trước khi đi mẹ chàng dặn dò cặn kẽ mọi việc, còn tôi chẳng biết nói gì, lòng bịn rịn thương xót chàng, chẳng mong công danh chức trọng, chỉ mong bình an trở về. Lúc chàng lên đường, tôi đang mang trong mình giọt máu của chàng, sau khi chàng đi được ít lâu, tôi sinh con trai đầu lòng đặt tên là Đản.

Thời gian cứ thấm thoát trôi đi, sau khi tiễn con trai ra trận, mẹ chồng tôi lâm bệnh nặng rồi qua đời, trước lúc đi xa, mẹ tôi căn dặn nhiều điều. Là một người con dâu, tôi hoàn thàn trách nhiệm lo ma chay lễ bái cho mẹ chồng chu toàn. Tôi cố gắng nuôi dạy con lên người. Thương con thiếu tình cha, mỗi tối tôi ngồi bế con và chỉ vào bóng của mình nói rằng đó là cha nó, đứa con ngây thơ tưởng thật, chơi đùa cùng bóng.

Chiến tranh qua đi, cũng tới ngày chồng tôi trở về, lúc này Đản đã biết nói bập bẹ. Những tưởng cuộc sống hạnh phúc của ba người bắt đầu từ đây. Ngờ đâu, một buổi nọ, chàng bế Đản ra thăm mộ mẹ, khi trở về, chẳng hiểu cớ nào, chàng đùng đùng nổi giận với tôi, lăng mạ tôi đủ điều, mắng nhiếc tôi không chung thuỷ, bỏ qua mọi lời giải thích của tôi mà đuổi tôi ra khỏi nhà.

Vừa buồn tủi, vừa oan ức, tôi chẳng còn thiết sống trên đời, sau khi tắm rửa sạch sẽ, tôi ra bến Hoàng Giang than rằng: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ". Nói xong tôi gieo mình xuống sông, mong rửa sạch nỗi oan khuất, tấm lòng thuỷ chung, luôn hướng về chồng con.

Thấu cảm cho hoàn cảnh của tôi, tôi được Đức Linh Phi cứu giúp, tôi được sống trong cung của người, nhưng trong lòng vẫn không thể nguôi ngoai nỗi nhớ chồng con. Trong một buổi tiệc, tôi gặp lại Phan Lang trước kia là người cùng làng, nghe chàng kể lại, sau khi tôi đi được ít lâu, Trương Sinh ngồi bế con, con chỉ lên chiếc bóng nhận bố, chàng mới hiểu ra nhưng sự tình đã quá muộn. Khi Phan Lang trở về trần gian, tôi gửi cho Trương Sinh một chiếc hoa vàng cùng lời nhắn nếu còn chút tình xưa thì hãy lập đàn giải oan cho tôi ở bến sông. Nghe lời dặn, Trương Sinh lập một đàn ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Tôi hiện về giưuax dòng, trên chiếc kiệu hoa nói vọng vào "Thiếp cảm ơn đức của Linh phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về trần gian được nữa". Giờ đây tôi sẽ ở chốn cung nước này mãi mãi, không thể trở về trần gian, vì tôi hiểu rằng, nhân gian oan nghiệt không còn chỗ cho mình dung thân.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 6

Tôi tên là Vũ Thị Thiết, người làng Nam Xương. Trước nay vẫn luôn được mọi người yêu quý bởi tư dung tốt đẹp. Do cảm mến dung hạnh, Trương Sinh xin mẹ đem trăm lạng vàng đến nhà hỏi cưới tôi. Được sự chấp thuận của phụ mẫu, tôi trở thành vợ của Trương Sinh. Hạnh phúc chẳng tày gang thì chồng tôi bị gọi đi lính đánh giặc.

Ngày tiễn đưa, ai cũng xúc động nghẹn ngào. Mẹ chồng tôi dặn dò con nơi chiến trường phải cẩn thận. Còn tôi, tôi bùi ngùi rót chén rượu đầy rồi thề nguyện sẽ ở nhà giữ tiết hạnh chờ chồng trở về. Nói dứt lời, tất cả đều ứa hai hàng lệ. Chồng tôi dứt áo ra đi.

Khi chồng đi được mươi ngày, tôi hạ sinh ra một bé trai kháu khỉnh. Tôi đặt tên con là Đản rồi cố gắng nuôi dạy nó khôn lớn.

Vì quá thương nhớ con mà mẹ chồng tôi ngày một già yếu. Dù đã làm mọi cách nhưng bệnh tình không thuyên giảm. Biết mình chẳng sống được bao, bà gọi tôi đến rồi nói lời trăn trối. Bà vừa nói xong thì trút hơi thở cuối cùng. Tôi cố gắng lo liệu việc ma chay tế lễ chu toàn.

Qua năm sau, chồng tôi từ chiến trận trở về. Biết mẹ đã mất, chàng vô cùng đau xót. Chàng dẫn con đến bên mộ mẹ. Đến trưa, hai cha con từ mộ về nhà. Thấy nét mặt chồng hiện lên sự tức giận, tôi toan hỏi thì chàng quát um. Hóa ra, chàng nghi ngờ tôi trăng hoa, trai gái trong lúc xa chồng. Tôi dùng hết lời để minh oan nhưng chàng không tin. Vì quá đau đớn, tôi ngửa mặt lên trời than khóc rồi gieo mình xuống sông.

May mắn thay, tôi được Linh Phi cứu giúp, cho nương náu ở thủy cung. Tại đây tôi gặp được người cùng làng tên là Phan Lang. Phan Lang là ân nhân cứu mạng của Linh Phi nên được người giúp đỡ trong cơn biến loạn. Qua lời kể, tôi biết được hiểu lầm ngày nào đã được hóa giải. Hóa ra, nguồn cơn mọi chuyện là do lời nói ngây thơ của bé Đản. Khi xưa, vì thương con thiếu vắng tình yêu thương của cha, tôi đã trỏ bóng mình trên vách bảo là cha Đản. Vậy nên, khi gặp cha, Đản đã bảo: "Hóa ra ông cũng là cha tôi ư?". Một lần, trong đêm thanh vắng, thấy bóng cha trên vách, Đản liền reo lên. Đến đây, Trương Sinh đã nhận ra lỗi lầm, dù rất ân hận nhưng chàng không thể làm gì khác. Nghe đến đây, tôi thương cảm cho hoàn cảnh đơn côi của hai cha con vô cùng.

Phan Lang khuyên tôi trở về nhưng tôi lấy làm xấu hổ, cảm thấy bản thân không còn mặt mũi nào nhìn mọi người. Phan Lang nhắc đến cảnh hoang vắng, quạnh quẽ nơi quê nhà, tôi liền thay đổi quyết định. Trong ngày Phan Lang trở về, tôi gửi anh ta chiếc hoa vàng và dặn: "Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn chút tình xưa nghĩa cũ, hãy lập đàn giải oan, tôi sẽ quay trở về". Đúng như lời dặn, Trương Sinh lập đàn tràng ở bến Hoàng Giang. Đến ngày thứ ba, tôi ngồi trên kiệu, hiện lên giữa dòng, nói lời cảm tạ rồi từ biệt, quay trở về thủy cung.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 7

Đã hơn một năm trôi qua kể từ khi tôi nói lời tạ từ với Trương Sinh. Mặc dù cuộc sống ở thủy cung rất vui vẻ, náo nhiệt nhưng chưa lúc nào tôi ngừng nhớ về những chuyện đã qua.

Tôi tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương. Mọi người thường nhận xét về tôi là người phụ nữ xinh đẹp, thùy mị, nết na. Đến tuổi lập thất, Trương Sinh đem một trăm lạng vàng đến nhà tôi hỏi cưới. Được sự đồng ý của cha mẹ, tôi nên vợ nên chồng với Trương Sinh. Biết chồng có tính đa nghi, lại hay phòng ngừa quá sức, tôi luôn cố gắng giữ gìn khuôn phép, không để lúc nào gia đình bất hòa. Cuộc sống yên ấm chưa được bao lâu thì chồng tôi bị bắt đi lính đánh giặc.

Trong buổi tiễn đưa, mẹ chồng tôi dặn dò kĩ lưỡng. Còn tôi nâng chén rượu đầy rồi nói với chồng những lời từ tận tâm can. Hai vợ chồng nhìn nhau, trào dâng nước mắt. Tất cả mọi người đều không giấu nỗi buồn bã, xúc động. Nói xong, chàng dứt áo ra đi. Sau khi chồng đi được mười ngày, tôi sinh con trai và đặt tên cho thằng bé là Đản. Tôi ở nhà một mình nuôi con và một lòng thủy chung chờ chồng về.

Mẹ chồng tôi vì thương nhớ con mà dần đổ bệnh. Tôi làm mọi cách từ thuốc thang, lễ bái thần phật đến hết lời khuyên lơn nhưng không được. Biết mình như "ngọn đèn trước gió", bà gọi tôi đến dặn dò rồi từ giã dương gian. Tôi thương xót vô cùng, cố gắng làm ma chay cẩn thận.

Độ một năm sau, khi đã đẩy lùi quân giặc, chồng tôi từ chiến trận trở về. Thấy mẹ đã mất, lòng chàng không khỏi xót xa. Chàng bế con ra mộ mẹ. Đến trưa, hai cha con về. Chàng một mực nghi ngờ tôi thất tiết. Chồng tôi quát um. Tôi vừa khóc vừa nói:

- Xin chàng hãy tin thiếp. Kể từ ngày chàng đi, thiếp luôn một mực thủy chung, chưa từng nghĩ đến chuyện quan hệ trai gái không đứng đắn. Đâu có sự mất nết, hư thân như những lời chàng đã nói. Mong chàng đừng một mực đổ oan cho thiếp.

Dù nói thế nào, Trương Sinh vẫn không tin. Tôi tắm gội sạch sẽ, chạy ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời than rằng: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, bị chồng con rẫy bỏ. Thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ." Nói dứt lời, tôi gieo mình xuống dòng nước.

Sau đó, tôi được Linh Phi cho nương náu ở Thủy Cung. Một hôm, tôi gặp Phan Lang. Phan Lang là ân nhân của Linh Phi nên khi gặp nạn đã được Linh Phi giúp đỡ. Qua trò chuyện, Phan Lang kể rằng: chồng tôi tuy giận nhưng thấy vợ ra đi vẫn động lòng thương xót, cố gắng ra sông vớt xác vợ về. Một đêm nọ, chàng ngồi dưới ngọn đèn khuya, đứa con thấy vậy mới chỉ vào bóng nói cha về. Khi ấy, Trương Sinh mới hiểu ra ngọn ngành câu chuyện. Hóa ra, trong cơn nóng giận, chàng đã hiểu lầm tôi thất tiết vì cái bóng trên vách - "người cha" mà đêm đêm tôi vẫn đùa con lúc chàng vắng nhà. Dù hối hận nhưng mọi chuyện đã muộn màng. Tôi nghe thế cảm thấy đau đớn, nhớ thương hai cha con vô cùng. Ngôi nhà giờ đây chắc trở nên vắng vẻ, quạnh quẽ lắm!

Biết được lòng tôi, Phan Lang khuyên tôi nên trở về dương thế. Ban đầu, tôi không đồng ý vì chẳng còn mặt mũi nào nhìn mọi người. Song cảm vì nỗi nhớ quê nhà, tôi quyết định gửi một chiếc hoa vàng và nhờ Phan Lang nói với Trương Sinh. Đúng như lời dặn, Trương Sinh lập đàn tràng ở bến Hoàng Giang. Đến ngày thứ ba, tôi ngồi trên kiệu hoa, theo sau là năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng hiện lên giữa dòng. Nói xong lời từ biệt, tôi trở về thủy cung.

Câu chuyện buồn ấy vẫn luôn ám ảnh tôi khôn nguôi. Chưa có giây phút nào tôi ngừng nhớ về gia đình, chồng con. Nếu không có hiểu lầm, chắc hẳn bây giờ tôi vẫn hạnh phúc với những người thân yêu.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 8

Tôi tên là Vũ Nương, quê ở Nam Xương, mọi người trong làng yêu mến thường khen tôi là nết na, thuỳ mị, xinh đẹp. Tôi đã gặp và trở thành vợ chàng Trương. Chàng rất mực yêu thương, nhưng lại vốn tính đa nghi. Biết vậy, tôi cố gắng từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên gia đình luôn được êm ấm.

Cuộc sống của tôi đang êm đềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, chồng tôi mặc dù con nhà hào phú nhưng lại ít học, vì vậy phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn chàng ra biên ải, lòng tôi trĩu nặng lo âu, phiền muộn.Tôi không mong chàng lập công lao cao cả để được ấn phong hầu mà chỉ mong chàng có thể bình an trở về. Giờ phút chia tay, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng, mắt nhòa lệ, lòng tái tê chua xót.

Đương thời lúc đó tôi đang mang thai, đến thời điểm, tôi sinh được một bé trai kháu khỉnh và đặt tên con là Đản. Nhưng mẹ chồng tôi, vì nhớ thương con mà ốm đau triền miên. Tôi đã hết lòng thuốc thang, khuyên lơn nhưng vì bệnh tình trầm trọng mẹ không qua khỏi. Tôi đã cố gắng lo ma chay chu tất cho mẹ, thay chồng làm tròn chữ hiếu.

Sau 3 năm chờ đợi mỏi mòn, nhớ thương khôn xiết, cuối cùng Trương Sinh cũng bình an trở về. Tôi vô cùng hạnh phúc. Nhưng cuộc đời, có ai mà đoán trước được số phận.

Lúc bấy giờ, bé Đản đã bập bẹ biết nói. Về đến nhà, hay tin mẹ mất, chàng đau đớn bồng con ra thăm mộ mẹ. Đến trưa trở về, chẳng hiểu vì cơ sự nào, chàng đùng đùng nổi giận, chưa thèm hỏi han một câu đã quát mắng, sỉ nhục đủ điều. Tôi chẳng hay biết chuyện gì cả, gạn hỏi để giãi bày mối nghi ngờ nhưng chàng chẳng thèm nghe lấy một lời, chỉ biết ghen bóng ghen gió, giận hờn rồi đánh đuổi. Chàng cho rằng trong thời gian chàng ở nơi chiến trận, tôi ở nhà đã thất tiết, không giữ trọn đạo vợ chồng. Hàng xóm nghe tiếng hết lời can ngăn, giãi bày hộ tôi nhưng chẳng tiếng nào lọt tai chàng.

Tủi nhục cùng đau xót làm sao, tôi chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, chịu đựng đòn roi và lời lẽ mắng nhiếc của chàng, chỉ mong sao chàng thấy được tấm chân tình của tiện thiếp nhưng có lẽ mọi việc không như tôi mong đợi.

Nỗi oan chẳng thấu, lại mang tiếng thất tiết phụ chồng làm sao gột rửa đây? Tôi nghĩ chỉ có cái chết mới chứng minh sự trong sạch của mình.

Tôi chạy ra bến Trường Giang ngửa mặt lên trời mà thề rằng mình bạc mệnh, duyên phận cũng hết, mong rửa sạch nỗi oan thất tiết, tỏ ra tấm lòng thuỷ chung, trinh bạch, một trái tim luôn hướng về chồng con. Nói xong tôi liền gieo mình xuống sông.

Ngờ đâu, nỗi oan của tôi động lòng chư tiên cứu vớt, rẽ nước cho xuống thủy cung. Tuy cuộc sống giờ đây sung sướng, nhàn hạ chốn nhưng nỗi nhớ thương chồng con da diết vẫn không thể nguôi ngoai trong lòng thiếp.

Không lâu sau, hay tin Linh Phi gặp được ân nhân đã cứu mình thuở xưa. Đến dự tiệc thì tôi ngạc nhiên vì người đó chính là Phan Lang - người cùng làng với tôi. Ông nhận ra tôi và kể lại cho tôi biết cuộc sống hiện tại của gia đình tôi. Ông nói rằng chồng tôi đã biết rằng đã trách oan tôi, vô cùng ân hận, ông cũng khuyên tôi nên trở về cuộc sống trần gian. Tôi gửi trao chiếc hoa vàng và dặn ông nói lại với chàng Trương nếu chàng ấy còn chút tình xưa thì hãy lập đàn giải oan ở bến sông thì tôi sẽ vẽ. Chẳng lâu sau, làm đúng như lời dặn của tôi, chàng Trương lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Trường Giang.

Khi thấy được chồng con tôi thật nghĩ rằng mình muốn trở lại trần gian nhưng liệu rằng cuộc sống vợ chồng có còn được lại như xưa, xã hội này có vì thế mà có thay đổi? Đứng ở giữa dòng trên chiếc kiệu hoa, nói vọng ra: ”Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể về trần gian được nữa”. Giờ đây, tôi đã không trở về trần gian được nữa! Tôi thấu hiểu rằng nhân gian oan nghiệt không còn chỗ nào để cho mình dung thân.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 9

Tôi là Vũ Nương, con gái một gia đình nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần về lễ nghĩa, đức hạnh. Năm ấy, Trương Sinh vì yêu mến dung hạnh mà xin mẹ trăm lạng vàng đến cưới tôi về làm vợ.

Trương Sinh chồng tôi, vốn là người đa nghi, đối với vợ phòng ngừa hết mức. Tôi biết tính chàng như thế nên cũng giữ gìn khuôn phép, không lúc nào vợ chồng phải đến bất hòa. Sum vầy, êm đềm chẳng được bao lâu thì quân Chiêm quấy nhiễu biên cương, chồng tôi tuy là còn nhà hào phú nhưng ít học, nên bị ghi tên đi lính vào loại đầu.

Ngày tiễn chồng nên đường, tôi chỉ biết rót chén rượu đầy tiễn đưa, chỉ cầu mong giặc dữ sớm ngày quy phục, chàng được bình an trở về, không cầu áo gấm, công danh. Nghĩ đến tháng ngày cách biệt, tôi không thể kìm được nước mắt.

Đương thời lúc bấy giờ tôi đang mang thai đầu, chàng đi chẳng được bao lâu tôi bèn sinh con và đặt tên con là Đản. Có con trai, tôi phần nào vơi bớt nỗi nhớ chồng. Nhưng mẹ chồng tôi vì tuổi già, lại nhớ mong con khiến bà sinh bệnh năng. Thay chồng tận hiếu tôi hết mực thuốc thang, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn nhưng mẹ không qua nổi, trước khi đi mẹ để lại những trăn trối tha thiết rồi tắt thở. Tôi đau lòng lo ma chay cho mẹ. Vậy là chỉ còn mẹ con tôi quặn quẽ trong căn nhà lớn nhà.

Mừng rỡ thay, sau 3 năm thì giặc tan, chồng tôi bình yên trở về đúng như mong đợi. Khi biết tin mẹ mất, chàng bèn bế con ra thăm mộ mẹ, tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để cúng bái tổ tiên tạ ơn phù hộ để chồng bình an, vừa để báo cho mẹ biết để yên lòng nơi chín suối cũng là mừng ngày đoàn viên gia đình.

Không ngờ giây phút đó chẳng có, buổi trưa khi hai cha con trở về, tâm trạng của chàng không vui hiện rõ trên nét mặt. Sau đó chàng nặng lời trách mắng tôi mất nết hư thân… tôi không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc. Tôi cố gắng giải thích rằng thân phận mình là con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết.

Thế nhưng, dù hết lời phân giải, làng xóm bênh vực nhưng chàng nhất mực không tin lại nặng lời đuổi tôi đi. Tôi tuyệt vọng đến cùng cực, không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan.

Đứng trên bến Trường Giang, tôi ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. Ngờ đâu, Linh Phi - vợ vua Thủy Tề, thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung và để tôi lưu lại ở đó.

Một hôm tôi gặp Phan Lang - người cùng làng trước đây đã có ơn với Linh Phi, được Linh Phi cứu khi gặp nạn. Phan Lang kể chuyện cho tôi: “Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau nghe con nói về chuyện cái bóng là cha mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi”.

Nghe Phan Lang kể tôi cũng thấy xót xa cho chính mình, lại thương chồng con vì không ai chăm sóc. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, tôi lại mong muốn được giải oan nên tôi nhờ Phan Lang trở về với chiếc hoa vàng và lời nhắn chàng Trương lập đàn giải oan bên bờ Trường Giang.

Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Trường Giang thực sự mong tôi quay về. Thấy vậy Linh Phi cũng có ý khuyên trở về gia đình. Đến ngày thứ ba, Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi biến mất.

Dù giải oan nhưng liệu rằng chuyện quá khứ vẫn còn đó. Bản thân tôi đã quá sợ cuộc sống trần gian cay nghiệt, sự bất công của xã hội phong kiến thối nát. Có lẽ trở về cũng chẳng sống được những tháng ngày bình yên, vì vậy khi được giải nỗi oan này, tôi liền biến mất.

Mong rằng qua câu chuyện của tôi thì các bạn sẽ rút ra được bài học về hạnh phúc gia đình. Hãy tin tưởng lẫn nhau, chia sẻ và thấu hiểu mới có thể duy trì được mái ấm tưởng trừng là cứng cáp nhưng nó thật sự quá mong manh.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 10

Tôi tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, mọi người yêu quý hay gọi tôi là Vũ Nương. Tôi vốn con nhà nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần chu đáo nên người trong làng khen tôi tính tình thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp vì thế có bao nhiêu trai làng bám đuổi. Trong đó có chàng Trương Sinh con nhà hào phú. Và cuộc đời tôi cũng thay đổi từ đó.

Chàng đem lòng yêu mến bèn xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới tôi về làm vợ. Có lẽ, cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối này khiến cuộc sống của tôi gặp bao khó khăn. Có lẽ, số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến này chính là khổ cực biết bao!

Về nhà chồng chẳng được bao lâu, tôi cũng biết tính chồng đa nghi hay ghen với vợ nên tôi hết sức giữ gìn khuôn phép vợ chồng chưa từng xảy ra chuyện bất hòa. Vợ chồng tôi ăn ở êm ấm, lại sắp có đứa con đầu lòng nên càng vui mừng hạnh phúc biết bao. Nhưng cuộc sống không bao giờ như ta trong đời, giặc Chiêm bỗng xâm phạm bờ cõi, chồng tôi ít học nên bị bắt đi sung binh loại đầu, đoàn viên chưa được bao lâu đã phải chia lìa. Buổi tiễn đưa tôi chỉ biết rót chén rượu đầy bày tỏ nỗi lòng chỉ mong chàng bình yên trở về không cầu công danh, áo gấm.

Thời gian chẳng mấy trôi qua, đến ngày tôi sinh bé Đản, đứa con bé bỏng phần nào vơi bớt nỗi cô đơn nhớ mong chồng. Nhưng mẹ chồng tôi vì nhớ mong con trai mà càng ngày sức khỏe càng kém, tôi đã lấy lời khuyên lơn mẹ gắng ăn miếng cơm miếng cháo để chờ chồng về rồi cả thuốc thang lễ bái thần phật mong mẹ mau khỏe. Như mẹ tôi tuổi già lại có nhớ mong quá độ đã không qua nổi. Trước lúc mất bà còn trăn trối lại:

"Sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, mong ông xanh kia chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ."

Mẹ chồng mất, tôi hết lòng ma chay như với mẹ thân sinh vậy. Kể từ đó, tôi chỉ còn bé Đản. Thương con chưa gặp cha lần nào, tôi bèn nghĩ cách trỏ bóng trên tường mỗi tối rồi bảo con "Cha Đản lại đến kia kìa!". Bé Đản ngây thơ tin là thật thường đùa vui cùng chiếc bóng.

Vậy là, thấm thoắt đã 3 năm, giặc Chiêm chịu rút về nước. May mắn biết bao khi thấy chồng bình an trở về. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi, hạnh phúc như vỡ òa. Biết tin mẹ mất Trương Sinh rất buồn, chàng bèn bế con ra thăm mộ mẹ nhưng tôi chẳng ngờ đâu từ khi chàng trở về lại la mắng tôi không tiếc lời một mực bảo tôi hư thân mất nết không thủy chung với chàng. Tự dưng tai họa ở đâu ập xuống đầu, tôi ngỡ ngàng liền phân trần giải thích:

"Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia nghi thất, ….., đâu còn thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa".

Nhưng mọi thứ tôi nói đều không thể lọt tai chàng, họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe. Tôi hỏi thì chàng lại giấu khiến tôi không biết làm sao để thanh minh nữa

Cuối cùng, chàng đuổi tôi ra khỏi nhà. Chẳng thể ngờ sau 3 năm chia cách, 3 năm ngóng trông, để rồi hạnh phúc mà tôi cố vun đắp giờ đây chẳng còn nữa. Tuyệt vọng cùng cực, tôi chẳng thiết gì nữa. Danh dự không còn liền để nước sông Trường Giang chứng giám tấm lòng trong sạch của mình, tôi gieo mình xuống sông tự vẫn.

Không nghĩ tới, nỗi oan khuất của tôi động lòng trời đất, các nàng tiên cá rẽ một đường nước đưa tôi xuống thủy cung của Linh Phi, tôi bèn an cư tại chốn này.

Trong một bữa tiệc Linh Phi khoản đãi người có ơn cứu mạng, không ngờ tôi gặp Phan Lang – người cùng làng với tôi và cũng là ân nhân của Linh Phi. Nghe Phan Lang kể tôi mới biết Trương Sinh đã thấu hiểu nỗi oan của tôi. Thì ra chàng hiểu lầm chỉ vì lời nói vô tư của con nhỏ, chỉ vì chàng đa nghi, ghen tuông hồ đồ mà khiến gia đình tôi ra nông nỗi này.

Phan Lang kể rằng nhà tôi giờ tan tác tiêu điều khiến tôi không thể cầm nước mắt dù vẫn rất giận chồng nhưng tôi vẫn quyết định tìm ngày về. Tôi nhờ Phan Lang mang chiếc hoa vàng cùng lời nhắn kêu Trương Sinh lập đàn giải oan bên bến Trường Giang.

Khi thấy chồng và con tôi thật sự muốn trở về nhưng người chết nào đâu có thể sống lại. Nỗi oan khuất được giải trừ, tôi chỉ được lên hiện loang loáng ở giữa dòng rồi biến mất. Chỉ thương con côi cút không có mẹ chăm nom, thương cho tình nghĩa phu thê chưa tròn.

Tôi chỉ mong rằng xã hội bất công này sẽ bị xóa bỏ, và từ câu chuyện cuộc đời của tôi để người đời lấy đó là bài học giữ gìn hạnh phúc. Hạnh phúc gia đình không chỉ được xây dựng trên cơ sở tình yêu mà nó còn phải ở cả sự tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 11

Đã hơn một năm trôi qua, kể từ khi chàng Trương lập đàn giải oan, tôi hiện về nói lời tạ từ rồi ra đi mãi mãi. Tôi cũng đã bình tâm trở lại mà chấp nhận cuộc sống dưới thủy cung với Linh Phi và các nàng tiên trong cung nước. Tuy nhiên trong sâu thẳm trái tim tôi vẫn không nguôi nhớ trần thế, nhớ quê hương, nhớ cuộc sống gia đình hạnh phúc trước kia, đặc biệt là con trai. Những kỉ niệm ấy vẫn luôn hiện về trong tâm trí tôi.

Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, tuy xuất thân trong gia đình nghèo khó nhưng từ nhỏ đã được cha mẹ dạy bảo đến nơi đến chốn nên hiểu mọi lễ nghĩa, biết cư xử đúng mực. Đến tuổi 18 trong làng đã có vài người đánh tiếng trống hỏi tôi, nhưng vì cha mẹ của tôi không muốn tôi vất vả nên đã nhận 100 lạng vàng rồi gả tôi cho Trương Sinh, con một nhà giàu trong làng, thế là tôi được yên bề gia thất nhưng biết chồng có tính đa nghi, hay ghen, tuy là con nhà giàu nhưng đa nghi ít học nên tôi luôn giữ gìn khuôn phép không từng lúc nào để vợ chồng thất hòa.

Cuộc đoàn viên chưa được bao lâu thì đất nước có giặc. Chồng tôi tuy là con nhà giàu nhưng vì ít học nên phải đi lính loạt đầu. Tôi và mẹ chồng tôi đều rất buồn, trong buổi tiễn đưa mẹ có dặn dò, tôi cũng nói mong chồng ra trận giữ gìn để trở về được bình yên chứ không cần quan cao tước lớn. Chàng nghe vậy xúc động không nói lên lời dứt áo ra đi. Sau khi chồng đi được mươi ngày thì tôi sinh hạ một đứa con trai đặt tên là Đản rồi một mình vừa chăm sóc con, một lòng thủy chung chờ đợi mong chồng sớm về đoàn tụ.

Nhưng mẹ chồng tôi vì thương nhớ con trai mà sinh bệnh. Tôi hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật rồi khuyên như mong mẹ chóng khỏe. Song vì tuổi già bệnh nặng, vận trời khó tránh nên mẹ chồng tôi qua đời. Tước khi mất bà nói: "Sau này trời xét lòng lành ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đầy đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ". Tôi hết lòng thương xót, lo ma chay tế lễ như với cha mẹ đẻ của mình.

Qua năm sau, giặc tan, chồng tôi trở về bình yên đúng như mong đợi, khi buồn vì mẹ không còn nhưng tôi hy vọng gia đình sẽ hạnh phúc như xưa. Nhưng bé Đản vì chưa gặp cha bao giờ nên không chịu nhận dù tôi đã hết sức dỗ dành, có lẽ là còn trẻ con nên ương bướng. Ngay hôm sau, chàng bế con ra thăm mộ mẹ, tôi ở nhà chuẩn bị mâm cơm vừa để cúng tổ tiên tạ ơn vừa để báo cho mẹ biết chàng đã về, cho mẹ yên lòng nơi chín suối cũng là mừng ngày đoàn tụ. Không ngờ ngày vui ngắn chẳng tày gang, buổi trưa hai cha con trở về, tâm trạng của chàng không vui hiện rõ trên nét mặt. Sau đó chàng nặng lời tra hỏi tôi trong thời gian chàng đi xa tại sao làm chuyện xấu xa thất tiết trái đạo lý... tôi không hiểu rõ nguyên nhân vì sao, thấy chàng như vậy chỉ biết khóc. Tôi đã giải thích cho chàng hiểu: Tôi nói đến thân phận mình là con nhà kẻ khó được nương tựa nhà giàu trong thời gian chồng đi lính vẫn một lòng chung thủy chờ đợi, không hề làm chuyện xấu xa, thất tiết. Tôi cũng cầu mong van xin chống đừng nghi oan để cứu vãn hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ.

Nhưng chàng không tin, hỏi chuyện kia do ai nói chàng cũng không nói. Làng xóm bênh vực cho tôi cũng chẳng ăn thua gì, chàng vẫn một mực mắng mỏ rồi đuổi đi. Tôi tuyệt vọng đến cùng cực vì tai họa bất ngờ ập đến nên cố bày tỏ nhưng chàng vẫn lạnh lùng không thay đổi. Biết rằng người có tính cách như chàng thật khó giải thích nên tôi tắm gội chay sạch, suy nghĩ trước sau thấy rằng cuộc đời thật không có ý nghĩa, bao nhiêu vất vả với gia đình, ngay cả tấm lòng thủy chung một mực chăm lo cho mẹ già, con trẻ nhưng bây giờ cũng bị phủ nhận không thương tiếc. Tôi không thể sống mà mang tiếng xấu xa để người đời khinh rẻ nên chỉ còn một cách là lấy cái chết để minh oan. Tôi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời than cầu mong thần linh chứng giám cho tấm lòng thủy chung của mình, xong gieo mình xuống sông. Nhưng các nàng tiên trong cung nước thấu hiểu nỗi oan của tôi rẽ đường nước cho tôi xuống thủy cung.

Một hôm tôi gặp Phan lang, người cùng làng trước đây có ơn với Linh Phi nên khi gặp nạn đã được Linh Phi cứu. Phan Lang kể chuyện cho tôi: "Chàng Trương sau khi thấy vợ chết tuy giận nhưng vẫn động lòng thương cho tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Thế rồi mấy hôm sau mọi người nghe chàng ân hận kể lại rằng: Một hôm phòng không vắng vẻ chợt đứa con chỉ cái bóng trên tường của chàng nói là cha Đản. Chàng lúc ấy mới thấu hiểu nỗi oan của vợ, ân hận nhưng đã muộn rồi".

Nghe Phan Lang kể tôi cũng thấy xót xa thương chồng con vì không ai chăm sóc. Không kiên nhẫn tìm hiểu nguyên nhân mà quá đau đớn tuyệt vọng mà dẫn tới cái chết. Phan Lang khuyên tôi nên trở về, ban đầu tôi đã nói không còn mặt mũi nào quay lại nữa nhưng sau đó vì nhớ quê hương, chồng con, lại mong muốn được giải oan, phục hồi danh dự nên tôi lại nói sẽ quay trở về. Hôm sau Phan Lang trở về dương thế, tôi gửi theo chiếc hoa vàng và lời nhắn chàng Trương tôi sẽ có ngày trở về dương thế. Mấy ngày hôm sau thấy Trương Sinh lập đàn giải oan 3 ngày 3 đêm ở bến sông Hoàng Giang với tình cảm chân thành hối lỗi và thực sự mong tôi quay về. Thấy vậy Linh Phi có ý khuyên tôi nên về với chồng con nhưng tôi vì có nghĩa với Linh Phi và lại hạnh phúc gia đình tan vỡ khó hàn gắn nên không muốn trở về.

Đến ngày thứ ba, giữa trốn trần gian mịt mù khói tỏa thì Linh Phi đã cho 50 chiếc kiệu hoa hiện lên giữa dòng sông, tôi ngồi trên một chiếc kiệu nói vọng vào bờ lời tạ từ với chồng con rồi từ từ biến mất.

Chuyện của gia đình tôi là câu chuyện buồn: Dù quá khứ đã lùi xa nhưng có lẽ những người trong cuộc vẫn bị ám ảnh day dứt. Riêng bản thân tôi dù đã sống cuộc sống trần gian, nhớ chồng con vẫn chôn kín ở trong lòng khó có thể diễn tả bởi chính cuộc sống ấy đã đẩy tôi đến cái chết. Hy vọng rằng đừng gia đình nào rơi vào bi kịch.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 12

Tôi là Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương người đời yêu quí gọi tôi là Vũ Nương. Tôi vốn con nhà nghèo khó nhưng được cha mẹ dạy bảo ân cần chu đáo nên người trong làng khen tôi tính tình thùy mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp vì thế có bao nhiêu trai làng bám đuổi. Trong đó có chàng Trương Sinh con nhà hào phú xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới tôi về làm vợ. Chính cuộc hôn nhân khập khiễng này khiến tôi gặp bao điều khó khăn. Ôi số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến này bất hạnh biết bao!

Ngày ấy tôi cũng biết chồng đa nghi hay ghen với vợ phòng ngừa quá sức nên hết sức giữ gìn khuôn phép vợ chồng chưa từng xảy ra chuyện thất hòa. Vợ chồng tôi ăn ở êm ấm, lại sắp có đứa con đầu lòng vui mừng hạnh phúc biết bao nhưng cuộc sống không bao giờ êm ả xuôi chiều mát mái như ta trong đời. Giặc Chiêm bỗng xâm phạm bờ cõi nước ta chồng tôi ít học nên bị bắt đi lính vào loại đầu, chia lìa mất mát đau thương là những gì chiến tranh mang lại. Buổi tiễn đưa tôi chỉ biết rót chén rượu đầy bày tỏ nỗi lòng mong chàng bình yên trở về. Thấu hiểu khó khăn mà chồng phải chịu. Bày tỏ nỗi khắc khoải nhớ mong của mình.

Thời gian đằm đắm trôi qua đến cữ tôi sinh bé Đản phần nào vơi bớt nỗi cô đơn nhớ mong chồng. Nhưng mẹ chồng tôi nhớ con trai mà sinh ốm tôi đã lấy lời ngọt ngào khuyên lơn mẹ gắng ăn miếng cơm miếng cháo để Trương Sinh về rồi thuốc thang lễ bái thần phật tôi mong mẹ chồng khỏe. Như mẹ tôi đã không qua nổi trước lúc mất bà còn trăn trối lại ghi lại công lao của tôi.

"Sau này… phụ mẹ"

Tấm lòng của bà nhân hậu biết bao! Từ đấy chỉ còn có tôi cùng bé Đản. Nhớ thương chồng và muốn bù đắp cho con. Tôi thường chỏ bóng trên tường mỗi tối rồi bảo con "Cha Đảm lại đến kia kìa!". Bé Đản ngây thơ tin là thật thường đùa vui cùng chiếc bóng.

Thấm thoắt đã 3 năm. May mắn biết bao chồng tôi an lành trở về. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng tủi tủi hạnh phúc như vỡ òa. Biết tin mẹ mất Trương Sinh rất buồn bế con ra thăm mộ mẹ khi chàng vừa trở về "giông tố" đã nổi lên chàng la mắng tôi không tiếc lời một mực bảo tôi hư thân mất nết không thủy chung với chàng. Tai họa ở đâu ập xuống đầu tôi khủng khiếp như vậy tôi khóc lóc phân trần giải thích:

"Thiếp vốn con… như lời chàng nói".

Có lẽ tất cả những lời phân trần của tôi không thể lọt tai chàng họ hàng làng xóm bênh vực tôi chàng cũng không nghe. Tôi hỏi thì chàng lại giấu. Khiến tôi không thể thanh minh.

Lửa ghen trong lòng chàng mỗi lúc bùng phát dữ dội hơn chàng mắng nhiếc rồi đánh đuổi tôi ra khỏi nhà. Ước mơ bé nhỏ mà cả đời tôi theo đuổi là hạnh phúc gia đình giờ đây không còn nữa. Gia đình không còn nữa. Danh dự bị bôi nhọ. Bị tuyệt vọng tột cùng tôi chỉ biết tìm đến cái chết. Tắm rửa chay sạch tôi ra bến Trường Giang than cùng trời đất chứng giám tấm lòng trong sạch của mình rồi gieo mình xuống sông tự vẫn.

Người ta nói ở hiền gặp lành không ngờ nỗi oan khuất của tôi đã động lòng trời đất các nàng tiên cá đã rẽ một đường nước đưa tôi xuống thủy cung của Lương Phi chốn này đến đài cung điện nguy nga lộng lẫy. Người đối xử với nhau nhân hậu vô cùng thật là cuộc sống mong đợi ước ao! Trong một bữa tiệc. Lương Phi khoản đãi người có ơn cứu mạng, không ngờ tôi gặp Phan Lang – Người cùng làng và cũng là ân nhân của Lương Phi. Nghe Phan Lang kể tôi mới biết Trương Sinh bế con ngồi bên ngọn đèn con trỏ bóng nhận cha, chàng mới thấu hiểu nỗi oan của tôi. Cuộc đời sao mà tàn nhẫn đến vậy chính đứa con tôi hết mực yêu thương đã gieo mầm họa. Chính người chồng tôi hết lòng yêu thương thủy chung đã đa nghi hay ghen hồ đồ đẩy tôi vào chỗ chết.

Phan Lang còn kể cảnh nhà tôi tan tác tiêu điều khiến tôi không thể cầm nước mắt dù vẫn rất giận chàng Trương Sinh, nhưng tôi nhất quyết tìm về có ngày. Tôi nhờ Phan Lang mang chiếc hoa vàng cùng lời nhắn khi chàng lập đàn giải oan bên bến Trường Giang tôi được Phan Lang đưa về trong cảnh võng lọng cờ hoa rực rỡ đầy sông nhưng tôi chỉ biết cảm tạ tình chàng đã giúp tôi minh oan triều tuyết giữa thanh thiên bạch nhật mà không thể trở về trần gian vì tôi không muốn phụ ân đức của Phan Lang. Và cũng bởi thực tế ở đời người chết không thể sống lại được lên hiện loang loáng ở giữa dòng rồi biến mất. Xã hội phong kiến bất bình đẳng này không thể có chỗ dung thân cho những người như tôi.

Chao ôi! Cuộc sống ở cõi trần thật đen bạc! Mong rằng xã hội bất công này sẽ bị xóa bỏ chính tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dung túng cho Trương Sinh có thói gia trưởng đẩy tôi vào cuộc đời oan khuất. Xã hội cần cải tiến xây dựng một cuộc sống bình đẳng nam nữ bình quyền kể ra câu chuyện này tôi còn mong người đời lấy đó là bài học giữ gìn hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ được xây dựng trên cơ sở tin yêu tôn trọng lẫn nhau. Ghen bóng ghen gió sẽ khiến gia đình tan vỡ.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 13

Đản à, hôm nay là tròn mười năm kể từ lúc mẹ con mất. Ta nghĩ có thể sẽ ôm bí mật này suốt đời cho đến khi chết nhưng suy cho cùng thì con cũng đã lớn, ta sẽ không giấu con nữa. Hôm nay ta quyết định sẽ kể lại cái chết oan ức của mẹ con cho con nghe.

Mẹ con hồi đó đẹp lắm, nàng thùy mị, nết na , vừa nhìn là ta mê ngay. Lúc đó , ta liền xin bà nội con đem ngay trăm lạng bạc để hỏi cưới mẹ con về. Biết ta có tính đa nghi và hay ghen nên mẹ con cũng luôn giữ khuôn phép, không để gia đình thất hòa.Vì thế mà gia đình chúng ta luôn có tiếng cười hạnh phúc. Chẳng bao lâu sau , do chiến tranh loạn lạc nên cha bị bắt đi lính trong thời gian mẹ con đang mang thai. . Vào cái ngày tiễn đưa, nàng không hề mơ tưởng “đeo ấn phong hầu", chỉ mong ngày đoàn tụ, chồng trở về bình yên.

Trong ba năm ta đi chiến trận, một mình nàng vừa làm con vừa làm cha vừa làm mẹ để chăm sóc phụng dưỡng người mẹ già của ta , sinh và nuôi dạy con .

Với mẹ chồng, mẹ con là một cô con dâu hiếu thảo.Ta đi xa nhà, nàng đã thay ta phụng dưỡng mẹ ta rất chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình.

Khi đi lính trở về, tới nhà thì nghe tin mẹ ta đã mất, con vừa học nói. Tình mẫu tử thiêng liêng, nguồn an ủi vô bờ đối với ta nay không còn nữa. Mẹ mất không được đội tang, ta cảm thấy mình mắc tội bất hiếu, một thứ tội lớn nhất của đời người. Ngay lúc đó, ta đã bế con ra thăm mộ của bà nội con trước . Nhưng dù vậy, ta vẫn là một người con không tròn đạo hiếu. Khát vọng tề gia của ta chẳng khác nào bọt nước chiều mưa.

Trong lúc đó, ta bế con ra mộ bà. Ra đến đồng thì con cứ quấy khóc mãi, ta dỗ cũng không chịu nín. Rồi con bập bẹ nói rằng ban đêm thường có người đàn ông hay lui tới, mẹ con đứng thì đứng, mẹ con ngồi thì ngồi.

Đặt vào hoàn cảnh của ta vừa đi chinh chiến về, quá mệt mỏi, ta đang cần một chỗ dựa là gia đình, bên mẹ, bên vợ và bên con nhưng vừa về đến nhà đã gặp bao khổ đau: không có được giây phút hồi hộp, thiêng liêng đón giọt máu của mình chào đời; mẹ già đã ra đi… Bà con mất, niềm hạnh phúc gia đình nhỏ còn lại của ta là vợ và con trai. Vậy nhưng, con nhất định không chịu nhận ta là cha .

Thế nên với bản tính hay ghen và đa nghi, ta liền về nhà với vẻ mặt giận dữ quát lớn cho hả giận. Sau đó đánh đập, mắng nhiếc thậm tệ và đuổi mẹ con ra khỏi nhà . Mặc cho nàng có khóc lóc cố minh oan, mặc cho hàng xóm có giải thích mẹ con trong sạch nhưng ta đều gạt bỏ ngoài tai. Chính vì quá uất ức nên mẹ con tắm rửa chay sạch , rồi gieo mình xuống sông Hoàng Giang mà tự vẫn.

Trong lòng ta dù giận nhưng biết nàng đi tự vẫn cũng động lòng thương xót mà sai người đi vớt xác nàng nhưng không thấy. Rồi một đêm có gió thổi nhè nhẹ, êm dịu, chiếc đèn dầu sáng mập mờ thì con liền thốt lên cha con đã tới và chỉ tay vào cái bóng trên tường. Ta chợt hiểu trong những ngày ta đi xa, vì thương nhớ chồng, vì không muốn con nhỏ thiếu vắng bóng người cha nên hàng đêm, mẹ con đã chỉ bóng mình trên tường, nói dối con đó là cha .

Cũng tại sự ngu dốt, hồ đồ, sự đa nghi mà ta đã giết nàng, ta thấy hối hận lắm nhưng đã quá muộn rồi. Nếu lúc đó , ta bình tĩnh mà nghe nàng giải thích thì có lẽ giờ gia đình ta đang rất hạnh phúc và mẹ con cũng không bị ta bức tử mà rời xa chúng ta. Kể từ lúc mẹ con đi, căn nhà của chúng ta trở nên trống vắng, con thì đêm nào cũng khóc đòi mẹ, còn ta thì chỉ biết ôm nỗi nhớ nàng một mình và giận chính bản thân.

Vài tháng sau, hay tin của Phan Lang - là người cùng làng kể cho ta nghe mẹ con sống dưới thủy cung cũng đang rất nhớ con và muốn nhắn nhủ ta lập đàn giải oan cho nàng. Thoạt đầu ta nghe không tin nhưng khi nhận được chiếc hoa vàng mà lúc đi mẹ con mang bên mình thì ta liền sợ hãi làm theo lời Phan Lang. Trong vòng ba ngày ba đêm, cuối cùng cũng gặp được mẹ con bên bến sông Hoàng Giang. Ta cố muốn giữ mẹ con lại nhưng lúc này nàng thoắt ẩn , thoắt hiện rồi từ từ biến mất trong làn sương trắng.

Đã quá muộn để ta nói lời xin lỗi với nàng. Cho đến cuối đời, ta cũng sẽ không quên được cái khoảng khắc ta bức tử nàng, ta sẽ phải cô đơn và dằn vặt bản thân và chắc đó chính là quả báo mà ông trời dành cho ta.

Đóng vai Vũ Nương kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 14

Tôi tên là Vũ Nương, quê ở Nam Xương. Mọi người trong làng yêu mến thường khen tôi là nết na, thuỳ mị, xinh đẹp. Họ cầu mong cho tôi sẽ lấy được một người chồng xứng đáng và được hưởng hạnh phúc. Tôi đã gặp và thành vợ chàng Trương. Chàng rất mực yêu thương tôi, nhưng lại cũng rất đa nghi. Biết vậy, tôi cố gắng từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên gia đình luôn được êm ấm.

Cuộc sống của tôi đang êm ềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, chồng tôi phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn chồng ra biên ải, lòng tôi trĩu nặng lo âu, phiền muộn. Nghĩ chàng phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật, việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, lòng tôi thương chàng vô hạn. Tôi không mong chàng lập công để được ấn phong hầu mà chỉ mong chàng bình an trở về là tôi đã thoả nguyện. Giờ phút chia tay đã hết. Chàng dứt áo ra đi, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng, mắt nhoà lệ, lòng tái tê chua xót.

Ngày tháng khắc khoải trôi qua. Trong lòng tôi, mùa xuân tươi vui bướm lượn đầy vườn; hay mùa đông giá băng ảm đạm, mây che kín núi cũng chỉ là một, bởi nỗi nhớ chàng luôn đằng đẵng, thường trực trong lòng. Đến kì sinh nở, tôi sinh được một bé trai và đặt tên cháu là Đản. Nhưng mẹ chồng tôi, vì nhớ thương con mà ốm đau mòn mỏi. Tôi đã hết lòng thuốc thang, động viên nhưng vì bệnh tình trầm trọng, cụ đã qua đời. Cảm động trước tình mẫu tử thiêng liêng mẹ dành cho chồng tôi, xót thương mẹ vô hạn, tôi đã lo ma chay chu tất cho mẹ.

Sau bao nhiêu chờ đợi mỏi mòn, nhớ thương khôn xiết, cuối cùng Trương Sinh đã trở về. Tôi vô cùng sung sướng và hạnh phúc. Nhưng cuộc đời, có ai mà đoán trước được số phận. Chàng về tới nhà, biết mẹ đã qua đời liền bế con đi viếng mộ mẹ. Lúc trở về, chàng bỗng dưng nổi giận la mắng om sòm. Chàng cho rằng tôi đã phản bội chàng, không giữ tình yêu chung thuỷ với chàng. Tôi bàng hoàng sửng sốt. Nước mắt tôi ứa ra. Tôi vừa khóc thổn thức vừa giải thích: "Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp". Nhưng bao nhiêu lời nói chân thành, tha thiết cũng không làm chàng tin. Hàng xóm thương tôi cũng bênh vực và biện bạch giúp nhưng rốt cuộc chẳng có kết quả gì. Chàng mắng nhiếc tôi thậm tệ rồi đánh đuổi tôi đi. Lòng tôi đau đớn, xót xa, cay đắng đến tuyệt vọng.

Tôi đã nương dựa vào chàng những mong có một gia đình đầm ấm, hoà thuận, hạnh phúc. Nhưng giờ đây, trâm gãy bình tan, tình cảm vợ chồng sứt mẻ. Dù vẫn thương chồng, thương con tha thiết, nhưng tôi đâu còn mặt mũi nào mà sống ở trên đời này thêm nữa. Nghĩ vậy, tôi bèn tắm gội sạch sẽ rồi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: "Con duyên phận hẩm hiu, bị chồng con ruồng bỏ. Nếu con giữ gìn trinh tiết mà bị oan thì khi thác xuống xin được làm Mị Nương hoặc cỏ Ngu mĩ. Nếu con phản bội chồng con thì chết đi xin làm mồi cho cá tôm, diều quạ và chịu để mọi người phỉ nhổ". Sau đó, tôi gieo mình xuống sông tự vẫn. Thần linh thấu hiểu và thương tình đã cho các nàng tiên dưới thuỷ cung cứu vớt, cho tôi nương nhờ trong cung điện của Linh Phi.

Xuống thiên cung, tôi gặp lại Phan Lang - người cùng làng. Nghe Phan Lang kể gia cảnh chồng con tôi, nhà cửa, vườn tược hoang vu, phần mộ mẹ cha cỏ gai rợp mắt, lòng tôi xót thương, ai oán. Được biết chàng Trương đã hiểu đúng ngọn ngành sự việc và vẫn thương nhớ tôi, tôi rất vui, bối rối nhưng lại cũng cảm thấy tủi cực bởi mình vẫn chưa được minh oan. Khi Phan Lang trở lại trần gian, tôi bèn gửi cho Trương Sinh một chiếc hoa vàng và nhắn chàng nếu còn nhớ tới chút tình xưa nghĩa cũ xin lập một đàn giải oan ở bến sông, tôi sẽ về. Trương Sinh liền làm theo. Tôi ngồi trên kiệu hoa về gặp chàng. Thấy tôi, chàng vội gọi. Nhìn chàng và nghe tiếng chàng gọi, lòng tôi bồi hồi, xót xa khôn xiết. Nhưng giữa chúng tôi đã có một khoảng cách không sao hàn gắn được. Tôi cũng đã thề với đức Linh Phi nên không thể trở về nhân gian được nữa. Tôi tạ ơn chàng đã lập đàn giải oan rồi quay lại thuỷ cung dù trong lòng còn bao lưu luyến cõi trần.

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH ĐỀ THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 9 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên