5+ Phân tích khổ 3 Việt Bắc (điểm cao)

Phân tích khổ 3 Việt Bắc hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

5+ Phân tích khổ 3 Việt Bắc (điểm cao)

Quảng cáo

Phân tích khổ 3 Việt Bắc - mẫu 1

Tố Hữu, một nhà thơ vĩ đại của dân tộc, đã dành cả cuộc đời của mình cho cách mạng. Thơ của ông luôn kết nối mạch lịch sử hào hùng của cuộc kháng chiến. Vì vậy, khi nhắc đến Tố Hữu, chúng ta thường nghĩ đến một nhà thơ đầy tình yêu quê hương, đam mê và lý tưởng. Điểm đặc biệt trong sáng tạo thơ của ông chính là việc ông kết hợp giữa tình cảm trữ tình và tinh thần chính trị.

Bài thơ "Việt Bắc" được xem là một trong những tác phẩm nổi bật trong hành trình sáng tác vì nước của Tố Hữu. Nó ra đời vào năm 1954, sau khi miền Bắc giải phóng và hòa bình được thiết lập, khi nhà thơ và cả Trung ương Đảng và Chính phủ quay trở lại miền Nam, để lại nơi đại ngàn rừng núi. Bằng thể thơ dân tộc và lối viết nhẹ nhàng mà đầy nét ân tình, "Việt Bắc" trở thành một bản nhạc tình ca chất chứa những ký ức và nỗi nhớ của người cách mạng đối với con người và cảnh vật tại Việt Bắc. Tình cảm sâu đậm mà nhân dân dành cho cán bộ, và của cán bộ dành cho nhân dân, tương hòa quyện vào từng lời thơ. Nhất là 12 câu thơ đầu tiên của khổ thơ thứ 3, chúng thể hiện một cách sâu sắc nhất tình yêu thương ấy.

Quảng cáo

"Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mưa

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai"

Lối xưng hô "mình- ta" thường được sử dụng rộng rãi trong ca dao và dân ca Việt để thể hiện sự thân thuộc và thắm thiết trong tình cảm con người. Trong bài thơ này, tác giả cũng đã khéo léo áp dụng lối xưng hô này để tạo sự gần gũi, đậm đà ân tình giữa người ra đi và người ở lại. Tiếng "mình" trong bài thơ này truyền tải một tâm hồn đong đầy tình yêu thương, nó thật quen thuộc, thân thuộc đến mức khiến người đọc không thể không cảm nhận được.

Những câu hỏi được đặt ra, mặc dù có vẻ như có chút trách móc, nhưng thực chất chúng mang đậm màu sắc của tình yêu và phân vân, lo lắng: "Không biết mình đi rồi có còn nhớ những ngày xưa? Mình có nhớ chăng những ngày cùng nhân dân trải qua những khó khăn, gian khổ do thời tiết và thiên nhiên gây ra để chiến đấu? Mình có nhớ nơi chiến khu yêu dấu, nơi mà bóng dáng con người vẫn còn đọng mãi, đợi chờ và quyến luyến, hay những bữa cơm đơn sơ mà chúng ta cùng nhau chấm muối trong bao gian khó?" Nhịp điệu của bài thơ, với sự thay đổi giữa nhịp 2/4 và 2/2/4, mang lại một cảm giác êm đềm và đều đặn, thể hiện một sự thiết tha đặc biệt trong lòng những người ở lại.

Quảng cáo

Nỗi nhớ thương đối với những người cách mạng ngày xưa càng tràn đầy khi những kí ức về những thời kỳ đầy khó khăn lại được lôi cuốn bằng cách liệt kê những câu chuyện về hành trình cùng nhân dân Việt Bắc. Đó là những tháng ngày tại tiền tuyến mây mù và suối lũ, đầy những thách thức và nguy hiểm, nhưng nhân dân và người chiến đấu không từ bỏ, không sợ hãi, và không chùn chân. Đó là những bữa cơm đơn sơ mà họ cùng nhau san sẻ, và miếng cơm ấy có hương vị ấm áp và đậm đà tình thương. Đó cũng chính là mối thù chung của nhân dân và cán bộ, là mối thù chung của dân tộc khi mà lũ giặc tàn bạo xâm lấn đến đáng sợ. Gánh nặng cộng đồng đè lên vai họ, bao gồm gánh nặng của quân thù, của cách mạng và của nhân dân, tất cả đều gắn kết trong tinh thần đoàn kết và dũng cảm, khi họ bước vào cuộc chiến đấu để đánh bại quân thù, giành lại hòa bình và tự do cho dân tộc. Trong từng lời thơ, ta không cảm nhận sự than vãn hay sự mệt mỏi trước khó khăn và gian khổ, mà thay vào đó, ta thấy sự tự hào rực rỡ của những người ở lại. Họ tự hào về những ngày chiến đấu dũng cảm, về những hành trình vượt qua khó khăn, và về sự đoàn kết mạnh mẽ khi "mình và ta" đồng lòng bên nhau, chiến thắng kẻ thù, và mang lại hòa bình, tự do cho dân tộc.

Sau khi gợi lại những kỉ niệm ngày nào, nhân dân tiếp tục bày tỏ những tình cảm chân thành và nỗi lưu luyến với người đi:

Quảng cáo

"Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già"

Lối xưng hô "mình" và "ai" thật sự đặc biệt, chỉ bằng hai từ nhưng nó đã tạo nên hình ảnh rõ ràng của những người cách mạng đã trở về miền xuôi. "Rừng núi" ở đây là một biện pháp ẩn dụ để chỉ những người dân tại chiến khu Việt Bắc. Các cán bộ đã trở về nơi thủ đô phồn hoa, vậy mà liệu họ còn nhớ những khoảnh khắc trong núi rừng, nắng gió không? Nhưng với những người ở lại, nỗi "nhớ" ấy vẫn còn đọng mãi, nó chạm vào từng chi tiết trong cảnh vật xung quanh: rừng núi, trám bùi, măng mai... Cảm xúc buồn bã bởi việc phải xa nhau mà nhân dân dành cho chiến sĩ thật chân thành, thấm thiết và đầy xúc động.

Nỗi nhớ này càng dâng trào khi họ nghĩ về những người đã ra đi, và nhân dân không thể nào khỏi lo sợ rằng ai đó sẽ quên đi "người ở lại." Chính vì vậy, họ luôn đặt ra những câu hỏi, không biết liệu có ai đó sẽ quên đi, và bằng cách nào đó, họ cất lên những câu hỏi đó để tìm kiếm câu trả lời, để chắc chắn rằng tình cảm và sự hy sinh của họ sẽ được ghi nhớ và trân trọng.

"Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh."

Tác giả lựa chọn hình ảnh của những cánh lau xám hắt hiu, như một đặc điểm độc đáo của thiên nhiên tại Việt Bắc, để đặt câu hỏi về tình cảm mà những người cách mạng dành cho quê hương của họ. Những người đã ra đi, liệu họ còn nhớ không những ngôi nhà xuất hiện mong manh sau những tán lau, những ngôi nhà giữa vùng núi rừng hùng vĩ. Còn liệu họ có nhớ đến những tình cảm ấm áp và đậm đà của những người ở lại? Nhưng đối với nhân dân Việt Bắc, tình cảm của họ với cách mạng và với các cán bộ miền xa vẫn mãi mãi thắm thiết, một mối tình son sắt không bao giờ phai nhạt.

Đoạn thơ kết thúc bằng việc gợi lại những sự kiện lịch sử đáng tự hào của cán bộ và nhân dân:

"Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa."

Hai câu thơ có chỉ 14 tiếng, nhưng "mình" xuất hiện đến 3 lần, đã thể hiện rõ sự hoà quyện và đoàn kết giữa nhân dân và cán bộ. Dường như đã không còn sự phân biệt rạch ròi giữa "mình" và "ta," mà thay vào đó là sự thấu hiểu và hài hoà. "Mình" - người ra đi và "mình" - người ở lại, liệu có còn nhớ những nơi họ đã cùng nhau chiến đấu, liệu có còn nhớ những địa danh quan trọng như "Tân Trào" và "Hồng Thái"? Đó là một câu hỏi, nhưng cũng mang trong đó một lời nhắc nhở về tình cảm đoàn kết, đừng bao giờ quên quá khứ đầy ý nghĩa, những tình cảm thân thuộc đã từng đọng mãi. Đừng bao giờ phản bội sự hy sinh và mất mát của quá khứ, mà hãy sống với trách nhiệm và tôn trọng hôm nay, không ngủ quên trên những chiến tích đã đạt được. Hãy tiếp tục bảo vệ đất nước và xây dựng tương lai.

Mặc dù chỉ có 12 câu thơ lục bát, nhưng chúng ghi lại những tình cảm đẹp đẽ và đáng trân trọng giữa người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Đó không chỉ là mối tình quân dân, mà còn là mối quan hệ thân thiết và gắn kết, đáng quý trọng.

Dàn ý Phân tích khổ 3 Việt Bắc

a. Mở bài:

- Giới thiệu về bài thơ "Việt Bắc" và nhắc đến sự xuất hiện của 12 câu thơ đầy ý nghĩa trong bài thơ.

b. Thân bài:

* Phân tích 4 câu đầu đoạn

- Trình bày cảm xúc thăng hoa của tác giả qua việc sử dụng tiếng "mình" để thể hiện sự gần gũi, thân thuộc với đề tài và nhân dân Việt Bắc.

- Nhấn mạnh tính đa chiều của các câu hỏi trong bài thơ, chúng vừa trách móc vừa thể hiện tâm trạng lo lắng và buồn bã của tác giả đối với cuộc sống của nhân dân Việt Bắc.

- Phân tích nhịp thơ 2/4; 2/2/4 và nhấn mạnh rằng những nhịp này tạo nên sự đều đặn, thể hiện sự thiết tha và đoàn kết trong lòng người ở lại.

* Phân tích 6 câu tiếp theo

- Đặc điểm độc đáo của lối xưng hô "mình" và "ta" trong bài thơ, với ý chỉ rằng hai thực thể này thực ra chỉ là một, tạo nên hình ảnh những người cách mạng đã về xuôi với sự đoàn kết mạnh mẽ.

- Giải thích ý nghĩa của từ "Rừng núi" trong bài thơ, biểu hiện tình yêu và sự kính trọng của tác giả đối với những người dân tại chiến khu Việt Bắc.

- Thảo luận về việc người cách mạng ra đi không chỉ để lại kí ức đọng mãi trong tâm hồn người ở lại mà cảnh vật xung quanh cũng chứng kiến sự buồn bã và quyến luyến qua việc miêu tả trám bùi rụng và măng mai già.

- Nêu rõ tình cảm sâu sắc của nhân dân Việt Bắc đối với cách mạng và cán bộ miền xa, thông qua việc tôn vinh "lòng son" của họ.

* Phân tích 2 câu cuối đoạn

- Đánh giá tầm quan trọng của việc sử dụng ba từ "mình" trong hai câu thơ cuối, thể hiện sự hiệp nhất và thấu hiểu giữa nhân dân và cách mạng.

- Nhấn mạnh thông điệp về sự hài hoà và thâm hiểu lẫn nhau giữa nhân dân và cách mạng.

- Trình bày ý nghĩa của việc gợi nhắc đến những địa điểm lịch sử như Tân Trào và Hồng Thái, nhấn mạnh sự quyết tâm sống thủy chung với quá khứ của nhân dân Việt Bắc.

c. Kết bài:

- Tóm tắt lại giá trị của đoạn trích trong bài thơ "Việt Bắc" và sự tài năng của tác giả trong việc diễn đạt tình cảm và tương tác giữa nhân dân và cách mạng qua lời thơ.

Phân tích khổ 3 Việt Bắc - mẫu 2

Tố Hữu là một nhà thơ lớn của dân tộc, cuộc đời ông gắn bó với cách mạng, thơ văn ông gắn bó với những sự kiện lịch sử hào hùng của kháng chiến. Bởi thế mà khi nhắc đến Tố Hữu người ta thường nghĩ về một nhà thơ yêu nước, giàu nhiệt huyết và lý tưởng. Điểm độc đáo trong thơ Tố Hữu là thơ ông mang phong cách trữ tình, chính trị.

Bài thơ Việt Bắc là một trong những thành công lớn trong sự nghiệp thơ văn yêu nước của Tố Hữu. Tác phẩm được ra đời vào năm 1954, sau ngày miền Bắc giải phóng, hòa bình lập lại, nhà thơ cùng Trung ương Đảng và Chính phủ trở về miền xuôi, tạm biệt nơi đại ngàn rừng núi. Với thể thơ dân tộc cùng lối viết nhẹ nhàng mà da diết ân tình, Việt Bắc như một khúc tâm tình đầy thương nhớ của người cách mạng với con người và núi rừng Việt Bắc. Những tình cảm thấy thiết mà nhân dân dành cho cán bộ, của cán bộ dành cho nhân dân như hòa quyện vào từng lời thơ. 12 câu thơ đầu của khổ 3 tác phẩm đã thể hiện sâu sắc nhất yêu thương ấy.

"Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mưa

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai"

Lối xưng hô " mình- ta " thường được dùng nhiều trong ca dao, dân ca Việt để thể hiện sự thắm thiết trong tình cảm của con người. Ở đây, tác giả cũng đã vận dụng lối xưng hô ấy vào bài thơ tạo sức gần gũi, ân tình của người đi, kẻ ở. Tiếng "mình" cất lên là chứa chan sự yêu thương trong đó, thật quen thuộc, thật gần gũi biết bao. Những câu hỏi vờ như có chút trách móc lại vô cùng ngọt ngào pha chút phân vân, lo lắng của lứa đôi: Không biết mình đi rồi có còn nhớ những ngày xưa? Mình có nhớ chăng những ngày cùng nhân dân trải qua vất vả, khắc nghiệt của thời tiết, thiên nhiên để chiến đấu? Mình có nhớ nơi chiến khu yêu dấu vẫn còn đó bóng dáng con người nơi đây đợi chờ, quyến luyến hay những bữa cơm chấm muối cùng nhau trong gian khó? Nhịp thơ 2/4; 2/2/4 nhịp nhàng, đều đặn lại càng thể hiện được sự thiết tha trong lòng người ở lại. Nỗi nhớ thương người cách mạng càng đong đầy thì những kỉ niệm của buổi năm xưa càng trào dâng xúc động, bằng biện pháp liệt kê quen thuộc trong nghệ thuật, tác giả đã gợi lại những câu chuyện hành quân cùng nhân dân Việt Bắc. Đó là nơi tiền tuyến mây mù, suối lũ, đầy rẫy những thách thức, hiểm nguy dân cùng người chiến đấu, chẳng hề sợ hãi, chùn chân. Đó là những bữa cơm nghèo san sẻ cho nhau miếng cơm chấm muối đầy ấm áp. Đó là mối thù chung của nhân dân và cán bộ, là mối thù chung của dân tộc khi lũ giặc xâm lăng tàn nhẫn đến đáng sợ. Gánh nặng chung trên vai là gánh nặng quân thù, cách mạng cùng nhân dân hòa trong tinh thần chung, dũng cảm bước vào cuộc chiến đấu để giết giặc, cứu nước. Trong từng tiếng thơ, ta không thấy sự than vãn hay mệt mỏi trước khó khăn vất vả mà trái lại ta cảm nhận được cảm xúc tự hào của người ở lại. Họ tự hào vì những tháng ngày anh dũng chiến chiến, về những hành trình vượt khó, mình và ta cùng sát cánh, cùng đồng hành bên nhau đánh tan quân thù, giành lại hoà bình, tự do cho dân tộc.

Sau khi gợi lại những kỉ niệm ngày nào, nhân dân tiếp tục bày tỏ những tình cảm chân thành, nỗi lưu luyến với người đi:

"Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già"

Lối xưng hô "mình", "ai" thật độc đáo, chỉ hai mà một, đó là hình ảnh những người cách mạng đã về xuôi. " Rừng núi" là cách nói hoán dụ để chỉ những người dân nơi chiến khu Việt Bắc. Các cán bộ đã trở về nơi thủ đô của phồn hoa gió mát, còn nhớ chăng chốn núi rừng đại ngàn nắng gió không? Những với người ở lại vẫn sắt son nỗi "nhớ" thiết tha, nỗi nhớ tận sâu trong lòng, thấm trong từng cảnh vật nơi đây: rừng núi, trám bùi, măng mai...Cảm xúc buồn bã vì phải chia xa mà nhân dân dành cho chiến sĩ thật chân thành, thắm thiết, đầy xúc động.

Nỗi nhớ càng trào dâng khi nghĩ về người đi, nhân dân không thể nào nguôi nỗi lo sợ rằng ai đó sẽ lãng quên đi "người ở lại" mà cất tiếng hỏi han:

"Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Mình về, có nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh."

Tác giả chọn hình ảnh lau xám hắt hiu như một đặc trưng riêng của thiên nhiên Việt Bắc để hỏi về tình cảm mà người cách mạng dành cho họ. Người ra đi có còn nhớ chăng những ngôi nhà thấp thoáng sau rặng lau, thấp thoáng giữa núi rừng hùng vĩ. Người ra đi có nhớ chăng những tình cảm ấm áp, đậm đà của người ở lại ? Còn với riêng nhân dân Việt Bắc thì vẫn luôn thắm thiết một mối tình son sắt với cách mạng, với cán bộ miền xa.

Đoạn thơ kết thúc bằng việc gợi lại những sự kiện lịch sử đáng tự hào của cán bộ và nhân dân:

"Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa."

Hai câu thơ có 14 tiếng thôi nhưng "mình" chiếm đến 3 tiếng đã cho thấy được sự hoà quyện giữa nhân dân với cán bộ. Dường như không còn là sự phân biệt rạch ròi "mình", "ta" nữa mà là sự thấu hiểu, hài hoà vào nhau. Mình- người đi, mình- người ở lại, có còn nhớ chăng những nơi đã cùng nhau chiến đấu, còn nhớ chăng những địa danh nơi diễn ra những bước ngoặt kháng chiến của cách mạng như "Tân Trào"; "Hồng Thái" không ? Đó là câu hỏi nhưng cũng hàm chứa một lời nhắc nhở ân tình rằng đừng bao giờ lãng quên đi quá khứ nghĩa tình, những tình cảm thủy chung đã từng gắn bó. Đừng bao giờ quên nhắc nhở những hy sinh, mất mát đã trải qua để sống có trách nhiệm với hôm nay, không được ngủ quên trên chiến thắng, phải tập trung cảnh giác, vừa bảo vệ đất nước vừa dựng xây đời. Đừng bao giờ phản bội quá khứ hào hùng của lịch sử chúng ta.

12 câu thơ lục bát không phải là quá nhiều nhưng ghi vào lòng người biết bao tình cảm tốt đẹp, tình cảm giữa người chiến sĩ cách mạng và người đồng bào Việt Bắc thật đáng quý, đó không chỉ là tình quân dân mà còn là tình cảm gắn bó thân thương, đáng trân trọng.

Phân tích khổ 3 Việt Bắc - mẫu 3

Kháng chiến đã đi qua, hòa bình đã lập lại. Tuy nhiên những kí ức về kháng chiến vẫn còn đó. Đối với thế hệ học sinh chúng ta, hình ảnh cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ trường kì của dân tộc chỉ được thể hiện qua trang sách, bài văn, bài thơ. Dẫu vậy, chúng ta cũng cảm thấy vô cùng xúc động, biết ơn những dòng văn, dòng thơ ấy, nhờ đó mà chúng ta mới biết đến cội nguồn của dân tộc, biết đến những năm tháng trường kì kháng chiến. Và ấn tượng hơn cả chính là tác phẩm Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu, một tác phẩm xuất sắc đã tái hiện lại những hình ảnh gian khó của cuộc kháng chiến chống Pháp, ẩn trong đó là tình đồng đội, đồng bào sâu sắc. Đặc biệt trong khổ 3 của tác phẩm, đây là khổ thơ vô cùng ấn tượng , mang nhiều giá trị nội dung, tư tưởng, nghệ thuật đặc sắc, lưu nhiều dấu ấn xúc động trong trái tim người đọc.

Tố Hữu là nhà thơ Cách mạng, trưởng thành theo cách mạng. Ông cũng là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam với rất nhiều tác phẩm viết về cách mạng, kháng chiến đồ sộ. Trong lời giới thiệu tập thơ của Tố Hữu xuất bản năm 1946 đã viết: “Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song song với lịch trình tiến triển về tư tưởng và trình độ giác ngộ, về sức hoạt động của Tố Hữu. Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí cụ đấu tranh, một công tác vận động của người Cách mạng. Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng ta đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ”. Thơ cách mạng chính là tiếng nói không chỉ của nhà thơ mà còn của đồng bào, của dân tộc, của các chiến sĩ. Nó chính là vũ khí để cổ vũ tinh thần đấu tranh mạnh mẽ dân tộc.

Trong tuyển tập thơ ca năm 1938 – 1963 còn có đoạn ghi: “Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích…Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính…Anh là một con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp”. Qua đây cho thấy, những tác phẩm thơ ca mà Tố Hữu đã viết để lại ấn tượng rất lớn trong diễn đàn văn học nói riêng và trong trái tim người đọc nói chung. Ấn tượng hơn cả chính là bài thơ Việt Bắc được viết trong bối cảnh vô cùng đặc biệt. Đó là khi các cán bộ đầu não trung ương phải rời Việt Bắc để trở về xuôi tiếp tục nhiệm vụ. Bài thơ viết trong hoàn cảnh chia ly nên thấm đẫm tình cảm sự thương nhớ và không nỡ rời xa. Điều đó được thể hiện rất mạnh trong khổ thơ thứ 3 của tác phẩm.

Nếu khổ đầu và khổ 2 bài thơ nói lên tâm trạng lưu luyến bịn rịn chia tay của kẻ ở và người đi, thì sang khổ thứ 3, tâm trạng ấy càng được thể hiện rõ ràng hơn, ẩn sau đó là câu hỏi tu từ:

Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?

Thiên nhiên và con người được tác giả khéo léo sử dụng trong từng câu thơ. Có lẽ, chỉ khi con người được gắn liền với thiên nhiên thì hình tượng mới trở nên đẹp và ấn tượng hơn. Một thực tế cho thấy con người không thể tách rời thiên nhiên. Chính thiên nhiên xung quanh ta mỗi ngày lại là những kỉ niệm không thể quên, luôn tồn tại trong tâm trí ta. Nỗi nhớ mà ta nhắc đến luôn có những cảnh sắc thiên nhiên mà chúng ta đã trải qua. Có con người, có thiên nhiên nên kỉ niệm càng nhớ, càng da diết. Trong hai câu thơ trên, tác giả hỏi: “Mình đi có nhớ những ngày/ Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?”

Đây chính là câu hỏi tu từ, hỏi nhưng đã trả lời. Mình ở đây chính là các chiến sĩ, bộ đội cụ hồ đang được đồng bào Việt Bắc hỏi. Đồng bào hỏi các đồng chí khi rời xa Việt Bắc có nhớ những người bên nhau gian khó, vượt núi băng rừng, dầm mưa lội suối, sớm hôm bên nhau? Đây là những kỉ niệm gắn bó bên nhau những tháng ngày gian khó không thể nào quên. Đồng bào vẫn luôn nhớ những tháng ngày đó, cảm thấy lưu luyến khi phải rời xa cán bộ, vậy hỏi cán bộ có nhớ hay không?

Qua câu thơ không chỉ cảm nhận được tình cảm của người đi và người ở lại thắm thiết nghĩa tình thế nào, họ đã trải qua bao gian khó thế nào. Chỉ có khi cùng nhau vượt qua gian khó mới có thể trân trọng, thương yêu nhau da diết thật lòng như thế. Ngoài ra, câu thơ cũng tái hiện hình ảnh thiên nhiên khắc nghiệt sông núi hiểm trở, mây mù. Cho thấy cuộc sống của cán bộ cũng như đồng bào nơi đây rất vất vả.

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Câu thơ rất thực và đời. Nó thực vì cuộc sống của đồng bào cùng cán bộ ở đây rất gian khó, ăn cơm chấm muối nhưng vẫn luôn một lòng vì tổ quốc quyết sinh, sẵn sàng chiến đấu, chung thủy sắt son với đảng, với cách mạng. Tố Hữu không cần phải ví von những hình ảnh cao siêu gì cả, tất cả vô cùng dung dị, gần gũi thực tế. Đó là cuộc sống mà ông cũng như đồng đội, đồng bào Việt Bắc đã trải qua và nó đã ghi dấu ấn vô cùng ấn tượng trong trái tim. Cuộc sống gian khó đến như thế, chỉ có cơm và muối nhưng không bao giờ chùn bước trước kẻ thù, mối thù dân tộc luôn đè lên vai, trái tim luôn căng tràn ý chí chiến đấu, lúc nào cũng kề vai sát cánh bên nhau một lòng căm thù giặc sâu sắc.

Cách dùng từ của Tố Hữu thật hay, mang tính trừu tượng “mối thù nặng vai” nhưng lại thể hiện được sức nặng của sự căm thù, sức nặng của tội ác của giặc, đây chính là mối thù không đội trời chung.

Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già.

Trám và măng là hai “đặc sản” của núi rừng Việt bắc chiêu đãi các chiến sĩ, các cán bộ. Hai món ăn thường xuất hiện trong bữa cơm của họ, vậy mà giờ đây khi cán bộ đã về xuôi, trám đành để rụng, măng đành để già. Câu thơ nghe mới buồn da diết không nỡ rời xa biết bao. Đồng bào nhìn cảnh vật thiên nhiên lại nhớ đến cán bộ, nhớ những tháng ngày gian khổ cùng nhau. Bởi mới có câu: “Khi ta đến chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Có lẽ đây không chỉ là tâm trạng lưu luyến của người dân Việt Bắc mà cũng là sự lưu luyến của những người chiến sĩ sắp rời xa quê hương thứ 2. Hình ảnh trám bùi, măng mai có lẽ là hình ảnh họ cũng không bao giờ quên được. Hình ảnh núi rừng Việt Bắc đã gắn bó 10 năm sẽ mãi lưu trong trái tim họ.

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son

Câu thơ thể hiện cuộc sống người dân Việt bắc rất vất vả, đơn sơ, hắt hiu. Cuộc sống của họ là thế nhưng tấm lòng của họ thì “đậm đà lòng son”. Họ yêu quý cán bộ như yêu quý người thân trong gia đình, các mẹ yêu quý cán bộ như chính con đẻ của mình: “Bao bà cụ từ tâm như mẹ/ Yêu quý con như đẻ con ra”. Được sống và bao bọc trong tình yêu thương như thế, thì khi rời xa những chiến sĩ của chúng ta sao không khỏi day dứt nhớ thương. Có lẽ, những người “mẹ Việt Bắc” cũng đang lưu luyến, nhớ thương những đứa con mình đã yêu thương, cưu mang suốt 10 năm qua.

Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

Bốn câu thơ cho thấy vai trò to lớn của Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Và trong cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng 8 trước đó. Việt Bắc là nơi đã diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng, tuy lực lượng cách mạng khi đó còn non trẻ nhưng với tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, một lòng chống giặc đã tạo nên những kì tích, thắng lợi vẻ vang và góp phần to lớn và cuộc kháng chiến cả nước. Những địa danh mà Tố Hữu liệt kê trong bài như: Tân Trào, Hồng Thái chính là những trận chiến lịch sử oanh liệt, hào hùng và rất đáng tự hào.

Khi mà thời đó, các chiến sĩ, đồng bào ta còn rất gian khổ trong cuộc sống vậy mà tinh thần chiến đấu chưa bao giờ nguôi. Kẻ thù thua chúng ta chính là thua về cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Chúng thua chúng ta trên mọi mặt trận. Cuộc kháng chiến của chúng là là chính nghĩa còn chúng là phi nghĩa. Chúng ta chiến thắng về tinh thần, đoàn kết, nhất trí một lòng. Dù gian khó, vất vả thế nào nhưng cũng không thể nào dập tắt ý chí chống giặc của nhân dân ta.

Khổ 3 chỉ với 12 câu thơ lục bát nhưng đã tái hiện được những gian khó vất vả mà cán bộ, chiến sĩ cũng như đồng bào Việt Bắc đã trải qua. Đồng thời cũng thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó, yêu thương một nhà, ý chí quyết tâm chống giặc cao độ. Và thành quả vẻ vang chính là những chiến thắng trên mọi mặt trận. Rời xa Việt Bắc chính là rời xa quê hương thứ 2 mà 10 năm gắn bó, có lẽ cả đồng bào, đồng chí không thể quên những tháng ngày gian khó bên nhau. Nhưng chắc chắn họ sẽ luôn tự hào vì được sống và cống hiến, chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp vẻ vang của dân tộc. Thật tự hào thay và cảm ơn nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại những bằng chính lịch sử hào hùng, để thế hệ sau có thể hiểu và luôn cố gắng học tập, góp phần nhỏ công sức vào công cuộc thay đổi, phát triển đất nước.

Phân tích khổ 3 Việt Bắc - mẫu 4

Có thể nói, bài thơ Việt Bắc là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất khẳng định vị trí của Tố Hữu trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Việt Bắc không chỉ là một khúc hùng ca về cuộc kháng chiến vĩ đại, gian khổ và hào hùng của toàn dân tộc mà còn là khúc tình ca ca ngợi tình cảm sâu nặng giữa người cán bộ với quần chúng, giữa người miền ngược với người miền xuôi. Nghĩa tình sâu nặng ấy được thể hiện rất cụ thể, sinh động trong khổ thơ thứ ba.

Toàn bộ khổ thơ là lời của người ở lại, những câu thơ là chứa đựng tình cảm, nỗi nhớ của người ở lại với người ra đi hay chính là của người dân Việt Bắc với người cán bộ cách mạng. Trong bốn câu thơ đầu, người ở lại tái hiện về những kỉ niệm ngày xưa, kỉ niệm của một thời gian khổ đã qua:

"Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?"

Người ở lại đang nhắc về những ngày tháng gian khổ khi phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt của vùng núi Việt Bắc. "Mưa nguồn, suối lũ" là hiện tượng tự nhiên đặc trưng của miền núi, mưa nguồn là những cơn mưa vùng thượng nguồn xối xả, bất chợt, hiện tượng đó thường gây nên tình trạng lũ quét, lũ ống, lũ suối. Hiện tượng tự nhiên khắc nghiệt này chỉ ở vùng núi cao mới có, nó như một thảm họa luôn rình rập, đe dọa cuộc sống của con người. Bên cạnh đó còn có "mây mù", người dân miền núi sống ở độ cao nên mây và sương mù dày đặc tạo nên một không gian giá buốt và cản trở nhiều hoạt động, che khuất tầm nhìn của con người. Cả hai hiện tượng trên đều là khó khăn lớn đối với người miền núi cũng như người miền xuôi, để khắc phục và thích nghi được, người cán bộ đã được người dân vùng chiến khu giúp đỡ, chia sẻ, vì thế những ngày tháng đó trở thành kỉ niệm đẹp của họ. Người ở lại còn nhắc về những kỉ niệm của một thời chiến khu đồng cam cộng khổ, phép tương phản giữa hoàn cảnh và ý chí: "miếng cơm chấm muối" với "mối thù nặng vai". Giữa hoàn cảnh gian khó, thiếu thốn, điều kiện chiến đấu đầy thử thách và vật chất nghèo nàn nhưng quân và dân vẫn vững vàng ý chí, sự đồng lòng, đoàn kết. Mối thù ấy chính là mối thù giặc ngoại xâm, là nhiệm vụ cách mạng lớn lao mà Đảng giao phó, không chỉ là mối thù của cán bộ cách mạng mà đã được nhân dân vùng cao chia sẻ, chung sức, luôn đồng lòng hợp sức nuôi dấu mối thù. Sau khi nhắc lại những kỉ niệm mà người ở lại luôn khắc ghi và nhớ mãi, người ở lại đã bày tỏ nỗi nhớ và tình cảm sâu nặng đối với người ra đi:

"Mình về, rừng núi nhớ ai

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Mình đi, có nhớ những nhà

Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son"

Trong hai câu đầu tiên, ta thấy được nỗi nhớ của người ở lại được diễn tả bằng phép hoán dụ, nói "rừng núi nhớ ai" là muốn nói không chỉ con người mà cả cây cỏ, cả núi cao rừng sâu cũng có chung nỗi nhớ với con người. "Trám bùi" và "măng mai" là những thức ăn quen thuộc của người dân miền núi nhưng theo nỗi nhớ ấy trám đã bị để mặc cho tự rụng, măng cũng tự mọc cho đến già. Câu thơ "Trám bùi để rụng, măng mai để già" diễn tả nỗi nhớ, sự trống vắng, hẫng hụt, lan tỏa khắp núi rừng, chi phối hoạt động sống của con người, nhớ đến mức ngẩn ngơ, thẫn thờ. Bên cạnh đó nỗi còn được thể hiện bằng phép tương phản "hắt hiu lau xám" và "đậm đà lòng son", đó là sự tương phản giữa điều kiện vật chất với tình cảm, tấm lòng con người. Những mái nhà rạ, vật chất sơ sài, xiêu vẹo, hiu hắt nhưng tấm lòng của con người thì không sơ sài, "đậm đà" là một từ láy khẳng định độ sâu sắc, mặn nồng của tình cảm. Hình ảnh tương phản đã nhấn mạnh rằng, người dân Việt Bắc có vật chất nghèo nàn, đơn sơ nhưng không nghèo tình cảm, họ luôn dành cho người cán bộ một ân tình sâu nặng, một tấm lòng thủy chung. Qua lời bày tỏ của người ở lại, ta thấy được nỗi nhớ và tình cảm sâu sắc của người dân chiến khu dành cho cán bộ cách mạng về xuôi, đó là tình cảm lớn thể hiện nội dung yêu nước trong thơ của Tố Hữu. Cuối cùng, trong bốn câu thơ cuối, đó là lời dặn dò, nhắc nhở dành cho người ra đi:

"Mình về, còn nhớ núi non

Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?"

Người ở lại dặn dò người cách mạng phải luôn nhớ về cội nguồn, "nhớ núi non" chính là nhớ tới vùng đất gắn liền với một thời khổ mà hào hùng, "Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh" là nhớ về buổi đầu của cách mạng đầy gian khổ, hy sinh. Phải có những ngày tháng ấy mới có được nền hòa bình, phải có giai đoạn gian khổ mới có được những độc lập, hòa bình, người cán bộ phải luôn nhớ về điều đó, nhớ về cội nguồn của thành quả cách mạng. Đại từ "mình" được dùng ba lần trong câu thơ đều chỉ người ra đi, ý muốn nhắc nhở người cán bộ hãy biết tự nhìn lại mình, phải biết giữ gìn bản chất cách mạng trong con người mình. Những từ chỉ địa danh là đang gọi tên những vùng đất bất tử, Tân Trào, Hồng Thái đều gắn liền với những sự kiện trọng đại, là cái nôi sản sinh và nuôi dưỡng các tổ chức cách mạng và bản lĩnh người cán bộ. Giờ đây cuộc sống đổi thay, cương vị đổi thay nhưng bản chất cách mạng sẽ không bao giờ thay đổi, qua lời dặn dò và nhắc nhở người ở lại muốn người ra đi luôn khắc sâu ân tình với cội nguồn cách mạng. Đọc hết đoạn thơ thứ ba ta cảm nhận được tính dân tộc đậm đà. Thể thơ lục bát với nhịp đều đặn góp phần diễn tả nỗi nhớ thiết tha, cách gieo vần kết hợp vần chân - vần lưng, vần liên tiếp góp phần diễn tả nỗi nhớ miên man không dứt, thể hiện tình cảm tha thiết không dễ chia xa. Tác giả sử dụng đại từ "mình" để chỉ cả hai đối tượng, có khi "mình" là lời xưng với người ở lại, có khi lại là lời gọi người ra đi, cách sử dụng đó nhấn mạnh sự gắn kết bền chặt giữa kẻ ở và người đi. Bên cạnh tác giả còn kết hợp nhiều biện pháp tu từ, điệp từ "mình đi", "mình về" nhấn mạnh sự thật về một cuộc chia ly, "có nhớ" và "còn nhớ" nhấn mạnh độ khắc khoải, độ day dứt của nỗi nhớ. Những từ láy giúp khắc sâu cảm xúc, những phép hoán dụ, tương phản giúp nhấn mạnh những kỉ niệm, kí ức được người ở lại giữ gìn, trân trọng, và cuối cùng là những từ chỉ địa danh giúp người đọc khắc sâu cội nguồn cách mạng.

Chính nội dung cách mạng và hình thức thơ mang tính dân tộc, ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian đã làm cho khổ thơ thứ ba nói riêng và bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu nói chung có hiệu quả to lớn, tác động sâu sắc vào tư tưởng, tình cảm của người đọc. Nhắc nhớ về ân tình chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước, hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhở tâm nguyện thủy chung.

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH ĐỀ THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 9 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên