30+ Phân tích nhân vật bé Thu (hay, ngắn gọn)



Tổng hợp các bài văn Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

30+ Phân tích nhân vật bé Thu (hay, ngắn gọn)

Bài giảng: Chiếc lược ngà - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Dàn ý Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà

Quảng cáo

1. Mở bài:

Giới thiệu về Nguyễn Quang Sáng và truyện Chiếc lược ngà. Nêu hoàn cảnh sáng tác: năm 1966, vào thời chống Mĩ khốc liệt. Cảm nhận chung về nhân vật bé Thu: Tình cảm mạnh mẽ, sâu sắc. Cá tính cứng cỏi đến mức ương ngạnh nhưng vẫn là một đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ.

2. Thân bài:

Khái quát được cảnh ngộ của bé Thu:

Đất nước có chiến tranh, cha đi công tác khi Thu chưa đầy một tuổi, lớn lên em chưa một lần được cha chăm sóc yêu thương, tình yêu Thu dành cho cha chỉ gửi trong tấm ảnh chụp cùng má.

Phân tích diễn biến tâm lý nhân vật bé Thu:

  • Tâm trạng của bé Thu lúc đầu: ngạc nhiên, sợ hãi và bỏ chạy; không nhận ông Sáu là cha vì ông không giống trong bức ảnh; luôn tỏ ra lạnh nhạt, xa lánh ông Sáu; phản ứng quyết liệt, rồi trốn sang nhà bà ngoại kể nồi tức tối của minh (phản ứng rất thơ ngây của đứa trẻ).
  • Tâm trạng của bé Thu lúc sau: buồn rầu nghĩ ngợi thể hiện sự ân hận : nuối tiếc sau khi được bà ngoại giải thích; hối hận và nhận cha đúng lúc phải chia tay cha; bộc lộ tình cảm mãnh liệt và xót xa.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật bé Thu:

  • Tình huống truyện (éo le).
  • Khắc họa tâm lý nhân vật (sự bướng bỉnh trẻ con, khi cha sắp đi).
  • Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ (chân chất, mộc mạc, giàu tình cảm).

3. Kết bài:

Tác phẩm là câu chuyện kể cảm động về tình cha con; thể hiện tấm lòng yêu thương, nhạy cảm của nhà văn đối với con người. Rút ra bài học, liên hệ nêu suy nghĩ bản thân.

Quảng cáo

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 1

Chiếc lược ngà là một trong những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Quang Sáng. Tác phẩm xoay quanh câu chuyện cảm động về tình cảm cha con ông Sáu trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt. Trong tác phẩm nổi bật hơn cả là bé Thu, nhân vật có cá tính mạnh mẽ, có tình yêu thương cha tha thiết, mãnh liệt.

Truyện xoay quanh hai tình huống cơ bản: hai cha con gặp lại nhau sau tám năm xa cách, nhưng bé Thu không nhận ra ba, khi nhận ra thì anh Sáu lại phải tiếp tục lên đường chiến đấu. Đây là tình huống cơ bản giúp bé Thu thể hiện tình cảm mãnh liệt với cha. Ở khu căn cứ ông dồn hết tình yêu làm chiếc lược ngà cho con nhưng chưa kịp đưa ông đã hi sinh. Tình huống này giúp bộc lộ tình yêu của ông Sáu với con.

Thu là cô bé được sinh ra và lớn lên trong chiến tranh nên trong suốt tám năm ròng, cô bé chỉ được sống trong tình yêu thương, sự bao bọc của mẹ, em chưa một lần được gặp ba, mà chỉ nhìn mặt ba qua một tấm ảnh ba chụp chung với má. Thu vẫn luôn mang trong mình khao khát được gặp ba, được sống trong tình yêu của ba. Và có lẽ điều đó sẽ thành hiện thực nếu cuộc gặp gỡ sau tám năm kia không có những éo le trắc trở. Nhưng chỉ vì chiến tranh, một dấu tích để lại trên gương mặt anh Sáu mà con bé nhất quyết không chịu nhận ba. Trước cái dang tay của anh Sáu, Thu thấy vô cùng ngạc nhiên, sau đó là hoảng sợ, mặt nó tái đi, quay đầu bỏ chạy, cầu cứu má. Phản ứng đầu tiên này có thể coi là bình thường, vì sau tám năm vào chiến trường có lẽ anh Sáu đã già dặn đi nhiều nên con bé không nhận ra. Nhưng những ngày sau đó, con bé vẫn luôn tìm cách lảng tránh và nhất quyết không gọi ông Sáu là ba. Bị mẹ ép gọi ba vào ăn cơm nó chỉ nói trống không, khi bị đẩy tới bước đường cùng chắt nước cơm nó cũng linh hoạt tự làm một mình. Nhất là khi ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá, nó hất ra khỏi bát cơm, khiến cơm văng tung tóe. Lúc bị đánh những tưởng nó sẽ khóc, nhìn anh Sáu bằng ánh mắt căm giận, nhưng nó chỉ lặng lẽ gắp cái trứng cá ra rồi bỏ về nhà ngoại. Nó không chấp nhận bất cứ sự quan tâm nào của ông Sáu với nó. Sự ương ngạnh của bé Thu không đáng trách, vì em còn quá nhỏ để hiểu được những ác liệt mà chiến tranh gây ra. Em không tin đó là ba mình vì vết thẹo dài trên má khác với người ba chụp cùng với má trong bức ảnh. Bởi vậy phản ứng quyết liệt của Thu là hợp lí, thể hiện một cá tính mạnh mẽ, tình yêu thương ba vô cùng sâu đậm.

Nhưng khi được nghe bà ngoại giải thích, lí do anh Sáu không giống trong bức ảnh thì bé Thu hiểu ra mình đã sai. Thu đã rất ân hận về hành động của mình, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Bà ngoại chính là người giải đáp mọi thắc mắc, cởi nút trong tâm hồn trẻ thơ của Thu. Phản ứng không nhận anh Sáu quyết liệt bao nhiêu thì khi nhận ra cha tình cảm ấy lại càng sâu nặng, mãnh liệt bấy nhiêu. Trong giờ phút cuối cùng trước khi cha đi, tình cảm dồn nén bấy lâu nay bùng lên thật mãnh liệt, mạnh mẽ: Nó thét tiếng “Ba” xé ruột, xé gan. Đó là tiếng “ba” nó mong chờ bấy lâu nay, tiếng gọi ấy khiến ông Sáu rơi lệ. Rồi nó nhảy tót lên ôm chặt lấy ông Sáu, hôn vào tóc, vai, mặt, mũi và cả vết thẹo dài trên mặt ông. Chân nó quắp chặt lấy ba, như thể không muốn cho ông rời đi. Tất cả những hành động ấy cho thấy Thu yêu thương ba vô cùng, một tình yêu mãnh liệt, chân thành, thắm thiết. Tình yêu đó được bộ lộ một cách cảm động qua hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

Quảng cáo

Tác phẩm có cốt truyện đơn giản những chi tiết được sắp xếp hợp lí, đưa người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác, đồng thời bộc lộ được cá tính nhân vật. Sự lựa chọn người kể chuyện phù hợp, bác Ba người luôn bên cạnh hai cha con, chứng kiến toàn bộ câu chuyện, bởi vậy câu chuyện được thuật lại chân thực, giàu cảm xúc. Ngôn ngữ kể chuyện có sự kết hợp hài hòa các yếu tố miêu tả, biểu cảm, khiến cho câu chuyện không chỉ hấp dẫn bởi cốt truyện mà còn bị rung động vởi những suy nghĩ, trăn trở của người kể chuyện. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật hết sức đặc sắc, nắm bắt tâm lí trẻ con tài tình, chân thực.

Qua nhân vật bé Thu tác giả đã thể hiện một cách cảm động tình yêu cha sâu sắc trong hoàn cảnh khắc nghiệt, éo le của chiến tranh. Đồng thời cũng là lời khẳng định, dù chiến tranh xảy ra cũng không thể làm vơi cạn được tình người, tình cảm gia đình. Ngược lại chính trong hoàn cảnh này, tình cảm gia đình lại càng trở nên sâu nặng, tha thiết và cao đẹp hơn.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 2

Tình cảm gia đình luôn là một chủ đề quan trọng của văn học Việt Nam trong thời kì kháng chiến. Trong thời kì chống Mỹ cứu nước, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khai thác rất hiệu quả mảng đề tài này, ông đã có rất nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó có truyện ngắn “Chiếc lược ngà”. Một trong những yếu tố tạo nên thành công đầy ấn tượng của truyện chính là việc xây dựng thành công nhân vật chính – bé Thu – một cô bé đáng yêu, cá tính và có tình yêu ba tha thiết.

Bé Thu là một cô bé mới lên tám tuổi nhưng cô đã thể hiện rõ tính cách bướng bỉnh, gan góc và rất cá tính của mình. Trong trí nhớ và ấn tượng khắc sâu trong tâm hồn cô bé chỉ có duy nhất một người ba mà nó biết qua tấm ảnh chụp chung với má ngày cưới.

Chính vì vậy mà sau khi ông Sáu đi chiến trường về với chiếc sẹo trên má, nó đã nhất quyết không chị nhận ông Sáu là ba, mặc cho cả nhà, ngay cả bà nội nó cũng thừa nhận điều đó. Mọi người đón ông Sáu với tất cả tấm lòng chân thành, ông cũng vô cùng xúc động khi gặp bé Thu, nhưng bỏ qua tất cả, bé Thu vẫn hét lên sợ hãi và không thừa nhận đó là ba mình.

Phân tích nhân vật bé Thu trong truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn quang Sáng. Những hành động của bé Thu cũng thể hiện rõ tính cách đặc biệt của cô bé, khi mẹ yêu cầu “mời ba vô ăn cơm” nhưng nó lại gọi “trổng” là “vô ăn cơm”. Khi nồi cơm sôi, nó nhất quyết không nhờ ba mà cố tìm cách chắt được nước mà không cần nhờ vả.

Sự rắn rỏi và ngang bướng của trẻ con bộc lộ rất rõ qua hành động hất cả chén cơm khi ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá. Mặc dù bị ba đánh nhưng con bé vẫn ngồi im, cúi gằm đầu xuống, gắp lại miếng trứng vào bát rồi đứng dậy ra khỏi mâm. Đành rằng, trẻ con chỉ biết tin vào những gì chúng nhìn thấy, nhưng bé Thu đã không thể tưởng tượng được sự ác liệt của chiến tranh, dẫn đến những suy nghĩ và hành động kiểu trẻ con ấy.

Quảng cáo

Tuy nhiên phải thừa nhận rằng cô bé có một cá tính mạnh mẽ, sự gan góc, bướng bỉnh đến kì lạ, đó chính là tiền đề để nó trở thành một cô giao liên dũng cảm, lanh lợi sau này. Điều khiến nhân vật đi sâu trong lòng người đọc chính ở tình yêu ba nồng nàn và tha thiết của bé Thu. Càng phản đối và không chấp nhận người “ba giả” kia bao nhiêu càng thể hiện cô yêu ba của mình bấy nhiêu, đó là tình yêu sâu sắc duy nhất, không thể sẻ chia cho bất cứ ai.

Đến khi biết rằng ông Sáu chính là ba thật của mình, bé Thu đã cho thấy con bé thèm được gọi tiếng ba như thế nào, tiếng kêu của nó như tiếng xé lòng xót xa. Tiếng “ba” nó đã cố đè nén trong bao nhiêu năm, nay được vỡ tung ra từ đáy lòng, đó là một tiếng gọi thiêng liêng vô cùng. Thấu hiểu những gì quân giặc gây ra, cô bé Thu đã quyết tâm tiếp bước con đường cha cô đã đi để đánh đuổi kẻ thù của gia đình, dân tộc.

Nhân vật bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một nhân vật trẻ thơ thực sự đầy sống động và gây niềm xúc động sâu sắc trong lòng người đọc với những tính cách đặc biệt khó có thể nhầm lẫn. Nhân vật là một phần quan trọng tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc cho tác phẩm, giành vị trí riêng trong lòng bạn đọc.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 3

“Chiếc lược ngà” là một trong những tác phẩm đặc sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Truyện được sáng tác năm 1966 tại chiến trường miền Đông Nam Bộ khi nhân dân miền Nam đang kiên cường chống Mĩ. Tác phẩm ca ngợi tình cha con sâu nặng, thiêng liêng trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Bé Thu, nhân vật chính trong truyện, hiện lên là một cô bé gan lì, bướng bỉnh, có cá tính nhưng cũng rất yêu thương cha.

Bé Thu là con gái đầu lòng của ông Sáu và cũng là đứa con duy nhất của ông. Bé Thu chưa một lần được sống trong vòng tay yêu thương của ba bởi ông Sáu đi kháng chiến biền biệt từ khi em còn rất nhỏ. Trong suốt tám năm ròng của tuổi thơ, bé Thu luôn khao khát được gặp ba nhưng ước mơ nhỏ bé ấy lại không thực hiện được. Em chỉ có thể nhìn thấy người ba trong tấm hình chụp chung với má. Nhưng khi ông Sáu trở về, bé Thu lại không nhận ba và luôn cự tuyệt mọi tình cảm của ông.

Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, ông Sáu được nghỉ phép ba ngày để về thăm gia đình. Bé Thu không được báo trước điều này nên khi gặp ba ở bến xuồng, với sự vồ vập xúc động của ba, Thu tỏ ra ngờ vực và hoảng sợ. Cô bé giật mình, tròn mắt khi nhìn thấy một người đàn ông với khuôn mặt đáng sợ cùng vết thẹo dài đỏ ửng tiến về phía mình, vừa nói giọng run run: “Thu, ba đây con”.

Nhưng cô bé lại chạy đi và kêu lên gọi má. Tất cả những hành động đó của bé Thu đều trái với niềm mong mỏi của ông Sáu nhưng lại phù hợp với tâm lý trẻ thơ. Bé Thu không nhận ba vì em chờ đợi một người cha khác, một người cha anh hùng, trẻ đẹp giống như trong tấm hình của má.

Tưởng như đó chỉ là những phản ứng ban đầu của em, rồi sau đấy Thu sẽ vô cùng quấn quýt bên ông Sáu ba mình. Vậy mà mấy ngày sau, bé Thu luôn nhìn ông Sáu với cặp mắt xa lạ, cảnh giác. Ông Sáu càng vỗ về thì cô bé càng đẩy ra xa. Khi má kêu mời ba vô ăn cơm thì cô bé nói trống không, thậm chí gọi ông Sáu là “người ta” với thái độ bực tức.

Khi nồi cơm sôi, cô bé tự chắt nước nồi cơm mà không cần nhờ đến sự giúp đỡ, điều đó cho thấy Thu là một cô bé thông minh, đáo để. Khi ông Sáu gắp cái trứng cá để vào chén, Thu lấy đũa xoi vào chén rồi bất thần hất cái trứng cá ra làm cơm văng tung tóe cả mâm. Bị đánh, cô bé gan lì không khóc mà bỏ sang nhà bà ngoại, khi đi còn cố khua dây xuồng kêu lên thật to như là một sự thách thức.

Những phản ứng của bé Thu ngày càng quyết liệt, từ chỗ ngấm ngầm đến rõ ràng, mạnh mẽ. Nhà văn đã thể hiện cá tính khá đặc biệt của Thu trong một tình huống bất ngờ. Thu cứng đầu nhưng rất thông minh. Sự ương ngạnh của em là hoàn toàn có lý và không đáng trách bởi em không biết vết thẹo trên gương mặt ba là do chiến tranh để lại. Tác giả đã tìm ra được nguyên nhân phù hợp với tâm lý trẻ thơ để nêu lên lý do vì sao Thu không nhận ba.

Điều cảm động ở đây là bé Thu càng phản ứng mạnh mẽ càng cho thấy tình yêu thương ba tha thiết. Em chỉ chấp nhận người ba giống như trong tấm hình với má. Chi tiết vết thẹo không chỉ có giá trị lớn trong việc xây dựng tình huống, bộc lộ tình cảm cha con mà còn có giá trị tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm chia cắt từng gia đình, khiến người ta đau đớn cả về vật chất lẫn tinh thần.

Câu chuyện dường như rơi vào bế tắc, ba ngày về phép của ông Sáu tưởng như vô nghĩa vì bé Thu bỏ về nhà ngoại. Nhưng đúng lúc ông Sáu lên đường, bé Thu bất ngờ nhận ba. Đêm hôm trước, nghe bà giảng giải về vết thẹo trên mặt ba, Thu nằm im, lăn lộn, thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn.

Sáng hôm sau, bé theo bà về nhưng chỉ dám đứng nhìn ba từ xa. Vẻ mặt sầm lại buồn rầu, cái nhìn không ngơ ngác lạ lùng mà có vẻ nghĩ ngợi sâu xa. Đến khi, ông Sáu cất tiếng nói: “Thôi ba đi nghe con” thì tình phụ tử bỗng trỗi dậy mạnh mẽ. Thu kêu thét lên: “Ba…a….a…a”. Tiếng kêu như tiếng xé, xé cả sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người. Đó là tiếng gọi mà cô bé cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng gọi ba như vỡ tung ra từ đáy lòng.

Một loạt những cử chỉ, hành động được Nguyễn Quang Sáng miêu tả cụ thể, sinh động: “Nó nhảy thót lên, ôm lấy cổ ba, nó hôn tóc, hôn vai, hôn cổ, hôn cả vết thẹo dài trên mặt ba nó”. Cái vẻ ương ạnh, bướng bỉnh đã biến mất, bây giờ chỉ còn là bé Thu nhõng nhẽo, đang cố ôm chặt lấy ba vì sợ ba đi mất. Rồi cũng rất trẻ con khi Thu nghĩ hai tay không giữ được ba nên dang cả hai chân để ôm chặt lấy ông Sáu.

Đôi vai của nó rưng rưng. Những chi tiết sinh động đầy kịch tính đã diễn tả thành công sự bùng nổ mạnh mẽ, sự đột phá dữ dội của tình cảm. Bao nhiêu yêu thương, mong đợi dồn nén giờ đây vỡ òa trong những giọt nước mắt, giọt nước mắt yêu thương, nghẹn ngào xen lẫn cả sự hối hận.

Thu chỉ được gặp ba một lần duy nhất và sau đó ông Sáu đã ra đi mãi mãi. Tiếng ba mà cô bé đã cất tiếng gọi trở nên thiêng liêng hơn bao giờ hết. Nhưng khi đã hiểu, Thu càng thêm yêu, thêm tự hào về người cha anh hùng để rồi sau này em bước tiếp vào con đường giải phóng dân tộc và trở thành một cô giao liên thông minh và dũng cảm.

Cả đoạn truyện là một bài thơ cảm động về tình cha con bất diệt trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Bé Thu có nét cá tính ương ngạnh nhưng vẫn là đứa trẻ hồn nhiên, ngây thơ, có tình yêu cha nồng thắm. Qua nhân vật bé Thu, Nguyễn Quang Sáng đã gửi một mong ước giản dị, gần gũi của trẻ thơ là được sống trong vòng tay yêu thương êm ấm của gia đình.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 4

Nguyễn Quang Sáng là một trong những cây bút nổi tiếng trong dòng văn học hiện đại. Ông đã từng là người lính nên ông có những cảm nhận sâu sắc về cuộc đời và hoàn cảnh trong chiến tranh. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là tác phẩm chiếc lược ngà. Trong tác phẩm thì nhân vật bé Thu cho ta thấy được khá rõ tình cảm sâu đậm của cha con. Em rất thích nhân vật này, vậy chúng ta cùng tìm hiểu nhân vật bé Thu.

Bé Thu có một người cha đang đi lính. Khi cha bé Thu trở về nhà thì lúc đó bé Thu đã được tám tuổi. Bé Thu không nhận ông Sáu là cha của bé Thu là cha. Vì vết sẹo bên má phải nhìn rất đáng sợ và không giống với hình chụp với mẹ bé Thu mà bé Thu đã biết. Khi ông Sáu phải trở về căn cứ thì lúc đó bé Thu đã nhận ông Sáu là cha. Ông Sáu đã hứa khi trở về sẽ tặng cho bé Thu một chiếc lược.

Xuyên suốt cả tác phẩm thái độ của bé Thu có nhiều thay đổi. Nhưng tính cách của cô bé đã được tác giả khắc họa rất tinh tế và nhạy bén là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và gan góc khi bé Thu kiên quyết không nhận ông Sáu là cha. Lần đầu tiên được gặp ông Sáu và cũng là lần đầu tiên được ông gọi là con nhưng cô bé đã: “giật mình, tròn mắt nhìn” kèm theo đó là: “ngơ ngác, lạ lùng”. Có lẽ, đây là một hành động đổi là bình thường đối với cái suy nghĩ của cô bé bây giờ. Và từ bất ngờ đến hốt hoảng và lo sợ khi thấy vết sẹo trên má của ông Sáu đỏ ửng lên và giần giật. Lúc này bé Thu chỉ biết chạy vào nhà và kêu thốt lên: “Má! Má!” Trong suốt những ngày ông Sáu ở nhà bé Thu vẫn không nhận ông là cha. Vì cô bé quá nhỏ và vẫn chưa chấp nhận được tâm lý nên chưa thể chấp nhận ông Sáu là cha chăng? Khi mẹ bảo bé Thu kêu ba vô ăn cơm thì bé Thu nói trổng: “Vô ăn cơm”. Và cương quyết không nhận ông Sáu và kêu ông Sáu là cha trong mọi tình huống: “Cơm sôi rồi, chắt nước dùm cái.” ,”cơm nhão bây giờ” Khi ông Sáu gắp cái trứng cá vào chén thì : “Nó liền lấy đũa xoi vào chén, để rồi bất thần hất cái trứng ra, cơm văng tung tóe cả bàn” Hành động của bé Thu khi hất cái trứng cá và bị ông Sáu đánh mà vẫn không khóc: “Gấp cái trứng cá vào chén” đã nhấn mạnh tình cảm của cô bé. Tác giả đã dùng rất nhiều chi tiết thách đố cho nhân vật bé Thu như khi cô bé bị mẹ dọa đánh, bị đưa vào thế bí và khi bị ông Sáu đánh. Những hình ảnh xảy ra nhằm thể hiện tình cảm của một cô bé có một tính cách rất bướng bỉnh và cũng rất lì lợm. Nhưng trong cô bé vẫn còn một chút gì đó rất ngây thơ, dễ thương của một cô bé tám tuổi: “xuống bến, nó nhảy xuống xuồng, mở lòi tói cố làm cho dây lòi tói khua rổn rảng, khua thật to” Sau đó chạy sang nhà bà ngoại Thu đã cho bà ngoại là người yêu thương, quan tâm cô nhất nên đã chạy sang nhà bà ngoại mà khóc. Đây là một khía cạnh khác trong nhân vật bé Thu. Ở đây, cô bé là một người rất hồn nhiên, ngây thơ, dễ thương và cần sự yêu thương, dỗ dành. Khác hẳn với một cô bé cứng cỏi, lì lợm của hằng ngày. Nhưng đối với hôm đó khi cô bé đã nghe bà ngoại kể về chuyện nhận vết sẹo và chứng mình được rằng ông Sáu là cha, cô bé im lặng: “thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”.

Đến đoạn cuối khi nhận cha. Bé Thu đã trở thành một cô bé giàu tình cảm. Tình cha con mà bé Thu giữ gìn ấp ủ bấy lâu nay giờ đã trỗi dậy. Sáng hôm đó, bé Thu đã được bà ngoại dẫn về nhà. Trong đầu bé Thu lúc này là những ý nghĩ rất hỗn loạn. Hình ảnh người cha lí tưởng, đáng tự hào mà ấp ủ và vun đắp trong tám năm trời đã ngăn cho nó không nhận người đàn ông xa lạ kia là ba. Những suy nghĩ này đã khiến một cô bé cứng cỏi lại như thể bị bỏ rơi. Bé Thu đã đứng dõi theo tất cả những hành động của mọi người. Đến khi ông Sáu nói lời tạm biệt thì tình cảm của bé Thu đã trỗi dậy một cách mãnh liệt. Cô bé đã kêu ông Sáu là: “Ba!”. Tiếng kêu của cô bé như làm xé đi không gian yên tỉnh, xé đi lòng người. Vừa kêu, con bé chạy tới ôm lấy ba nó: “Nó dang cả chân câu chặt ba nó.” Có thể nó nghĩ đôi bàn tay đó không thể giữ ba nó ở lại. Tiếp theo là một hành động khiến mọi người xúc động: “nó hôn lên tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn lên vết sẹo dài trên má của ba nó” Hành động này cho ta thấy bé Thu rất thương ba mình và yêu cả vết sẹo. Vết sẹo như là một chứng minh cho sự yêu nước của ông Sáu và việc hôn lên vết sẹo cũng là sự minh chứng cho sự tự hào của bé Thu đối với ba của mình. Trước khi ông Sáu trở về căn cứ bé Thu đã kêu ông Sáu tặng cho cô bé một chiếc lược. Chiếc lược ở đây là món quà duy nhất mà bé Thu muốn được ba mình tặng. Đây cũng chính là món quà duy nhất mà ông Sáu có thể tặng cho con của mình. Chiếc lược ngà như một kỉ vật nói lên tình cha con của cô bé.

Nhân vật bé Thu thể hiện tính cách kiên quyết và lì lợm của một cô bé có những suy nghĩ lớn hơn tuổi. Cô rất thương cha mình mặc dù hai người xa cách nhau từ khi cô một tuổi. Trước khi nhận ông Sáu là cha, cô bé đã rất cứng rắn, quyết định không nhận ông Sáu là cha, cô bé đã rất cứng rắn, quyết định không nhận ông Sáu là cha nhưng khi tiếng tạm biệt từ ba của mình cô bé đã dành tất cả tình cảm vào giây phút cuối cùng. Tình cảm của cô bé như “giọt nước tràn ly” và tiếng nói của ông Sau như chất xúc tác để tình cảm của cô bé được bộc lộ. Bằng việc sáng tạo tình huống bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý, đoạn trích chiếc lược ngà đã thể hiện thật cảm động tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.Truyện đã thành công trong việc miêu tả tâm lý nhân vật và xây dựng tính cách nhân vật, đặc biệt là nhân vật bé Thu. Nhan đề “Chiếc lược ngà” đã nhấn mạnh chiếc lược làm bằng ngà mà bé Thu đã nhờ ba của mình ông Sáu tặng cho mình khi trở về thăm con. Chiếc lược như một kỉ vật để tiếp thêm sức mạnh, nghị lực cho bé Thu. Chiếc lược là nhân chứng cho tình yêu và nhân chứng cho sự tàn khốc của chiến tranh.

Qua tác phẩm và đặc biệt là nhân vật bé Thu đã cho ta thấy được tình cảm rất thiêng liêng giữa phụ tử. Dù trong cả chiến tranh thì tình yêu đó vẫn được trong chính người cha là ông Sáu và đứa con gái là bé Thu. Bây giờ, khi đất nước đã hòa bình, chúng ta đang có một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Vậy chúng ta nên trân trọng những gì ta đang có và cái cần trân trọng nhất đó là tình cảm gia đình.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 5

Có những trang viết khiến người đọc rơi nước mắt khi chứng kiến những giằng xé, đau đớn và cả nước mắt. Có những nhân vật dù chỉ được vẽ qua nét bút của tác giả nhưng có sức ám ảnh. Nhân vật bé Thu trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà" của Nguyễn quang sáng là một hình tượng luôn khiến người đọc xúc động mạnh khi lật giở từng trang viết của tác giả.

“Chiếc lược ngà” được sáng tác năm 1966, trong lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra ác liệt, nhiều cam go. Ông Sáu lên đường ra chiến trận khi bé Thu chưa tròn một tuổi, nhưng khi ông trở về thăm con thì bé đã lớn và nhất quyết không nhận ba. Những day dứt, sự giằng xé, nước mắt, tủi hờn, mâu thuẫn nội tâm trong một đứa bé đã khiến cho cốt truyện được đẩy đến cao trào. Ba ngày ở cạnh ba nhưng bé Thu nhất quyết không chịu nhận, chỉ khi nghe bà ngoại kể về vết thẹo trên gương mặt ba thì lúc đó bé mới ôm chặt ông Sáu, không cho đi. Tình cảm cha con vỡ òa, cảm xúc trong lòng người đọc cứ thế tan chảy.

Mặc dù mới lên 8 tuổi nhưng bé Thu được xây dựng rất sắc nét, cá tính mạnh, bướng bỉnh. Trong tâm trí của bé Thu chỉ có một tấm hình duy nhất của ba chụp với má vào ngày cưới. Đó là những gì nó có để gìn giữ và đợi chờ ba trở về. Khi ông Sáu nhất quyết gọi “Thu! Ba đây con” thì bé vẫn nhất quyết không chịu nhận, cự tuyệt một cách thẳng thừng. Ông Sáu luôn dành tình cảm yêu thương chân thành và sâu sắc nhất cho bé Thu nhưng ông nhận lại là sự lạnh lùng, xa lánh. Chỉ bởi về vết thẹo dài trên mặt, chỉ vì chiến tranh, vì những tàn khốc mà nó đã gây ra. Cá tính mạnh của một cô bé 8 tuổi được Nguyễn Quang Sáng thể hiện rất sắc nét và táo bạo. Qua đó giúp người đọc hình dung được sự kiên định, vững chắc trong trái tim con người Nam Bộ.

Sự bướng bỉnh, lạnh lùng của bé Thu dành cho ông Sáu còn thể hiện qua cử chỉ và lời nói. Khi mẹ bảo mời ba vô ăn cơm thì nó chỉ nói cộc lốc “vô ăn cơm”. Đặc biệt qua chi tiết chắt nước ở nồi cơm ra, bé Thu không chắt được nhưng nhất quyết không để cho ông Sáu chắt. Bướng bỉnh, lạnh lùng, hờ hững đã khiến cho ông Sáu đau lòng. Cao trào của tính cách bé Thu thể hiện qua bữa cơm, khi ông Sáu gắp cho bé Thu cái trứng cá vào bát, bé hất đổ cả chén cơm. Ông Sáu đánh đòn, và tất cả mọi người cứ tưởng Thu sẽ giãy nảy lên và bỏ đi, nhưng không, ”Nhưng không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm”.

Suy nghĩ đã thôi thúc, đẩy thành hành động quyết liệt, khước từ mọi tình cảm và yêu thương của ba dành cho mình. Vì với bé Thu, đó không phải là ba. Có lẽ chính cá tính mạnh, sự ngang bướng như thế này đã thôi thúc cô trở thành cô giao liên kiên cường trong cuộc kháng chiến về sau.

Nguyễn quang sáng không chỉ dừng lại ở việc miêu tả tâm lí nhân vật của một đứa trẻ lên 8 mà lấy tính cách đó làm tiền để cho tình yêu thương ba tha thiết và mãnh liệt như thế nào. Suốt 3 ngày ở cạnh ba nhưng bé Thu nhất quyết không nhận ba, chỉ đến khi nghe bà ngoại kể về vết thẹo trên mặt ba do chiến tranh gây nên thì lúc đó bé thu mới vỡ òa. Gương mặt nó buồn rầu như nghĩ ngợi gì, khi ông Sáu lên đường ra trận, không dám lại gần vì sợ nó lại giãy nảy như lần trước. Chỉ dám nói rằng “Ba đi nghe con” nặng nề, đau đớn, dằn vặt của một người ba nhưng không làm cách nào để thuyết phục con gái.

Lúc ấy một cảnh tượng xúc động diễn ra. Nó khóc thét lên “ba”, tiếng “ba” như vỡ òa, trào ra từ tận trong tim mà nó đã dồn nén bao nhiêu năm qua. Tiếng “ba” đó như khiến người đọc nghẹn đắng ở cổ họng, cho một tình yêu bền bỉ và sâu nặng. Tiếng kêu của bé Thu như tiếng xé, xé tan không khí tĩnh lặng, xé ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Bao nhiêu năm rồi, bé Thu vẫn luôn khát khao được gặp ba, được gọi tiếng ba. Tình cảm của bé Thu hoàn toàn đối lập với những ngày ông Sáu còn ở đây. Đó chính là niềm khao khát, tình yêu ba tha thiết.

Sự ngang tàng, bướng bỉnh và tình yêu ba tha thiết là đặc điểm hội tụ để bé Thu có thể xác định cho mình con đường đi trong tương lai, sẽ nối bước cha, đánh đuổi kẻ thù xâm lược

Như vậy việc xây dựng nhân vật bé Thu với những tính cách, tâm tư tình cảm đã khiến người đọc thêm xúc động về tình phụ nữ, tình cảm thiêng liêng nhất. Qua đó, tác giả còn muốn lên án, tố cáo chiến tranh đã khiến cho nhiều gia đình rơi vào cảnh nước mất nhà tan.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 6

Tình cảm gia đình thiêng liêng, cao cả với mỗi người nhưng trong chiến tranh tình yêu thương ấy còn cao đẹp hơn bao giờ hết. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng khắc họa tình cảm phụ tử cảm động giữa anh Sáu và bé Thu trong truyện ngắn “ Chiếc lược ngà”. Tác giả thành công xây dựng hình ảnh nhân vật bé Thu với cá tính và lòng yêu ba sâu nặng.

Hình ảnh bé Thu hiện lên ngây thơ mà cũng đầy bản lĩnh được nhà văn khắc tạc một cách chân thực. Ngay từ lúc chưa đầy một tuổi, em đã sống xa vòng tay yêu thương của ba bởi ba em đi kháng chiến. Giữa sự chở che của bà, của mẹ. em vẫn khao khát được gặp ba. Nét hồn nhiên của lứa tuổi khiến em tin rằng ba phải là người giống với cái hình chụp chung với má. Hình ảnh cô bé tám tuổi chơi ở nhà chòi cho thấy Thu là cô bé ngoan, biết nghe lời.

Khi bắt gặp tiếng gọi của anh Sáu, chứng kiến những cử chỉ hồ hởi và đặc biệt là vết thẹo dài, đỏ ửng, giần giật trên gương mặt người lạ, bé Thu từ ngỡ ngàng chuyển sang hoảng sợ và bỏ chạy kêu má. Trong phút đầu gặp gỡ, trước tình cảm dạt dào của anh Sáu lúc ấy cô bé đâu ngờ đã cứu một vết thương rỉ máu lên trái tim giàu tình thương của người cha. Ba ngày ngắn ngủi “anh càng vỗ về con bé càng đẩy ra.

Anh mong một tiếng “ba” của con bé nhưng nó chẳng bao giờ chịu gọi”. Sự ngang ngạnh được thể hiện một cách trực tiếp bởi con bé luôn nói trổng “Vô ăn cơm, cơm chín rồi”. Ngay cả khi bị dồn vào thế bí: nồi cơm sôi, mẹ dặn nó ở nhà phải chắt nước nếu không cơm nhão, nhưng cái nồi to quá mà con bé nhất quyết không gọi anh Sáu là ba để anh chắt nước giùm như lời gợi nhắc của anh Ba.

Cô bé “luýnh quýnh, loay hoay, nhón lấy cái vá múc từng vá nước”, giúp ta hình dung bé Thu không chỉ khéo léo, đáo để mà còn dũng cảm luôn giữ vững lập trường của mình. Những tưởng tình cảm yêu thương, sự săn sóc của anh Sáu bộc lộ rõ nét trong bữa cơm, khi anh gắp cho nó một cái trứng cá to vàng. Bé Thu “lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hất tung cái trứng cá ra, cơm văng tung tóe cả mâm”, sự đối kháng quyết liệt đẩy mâu thuẫn giữa hai cha con lên đỉnh điểm.

Con bé bị anh Sáu đánh có lẽ anh hoàn toàn bất lực nhưng bé Thu không giãy nảy lăn ra khóc mà một loạt động từ “ngồi im, đầu cúi gằm xuống, gắp lại cái trứng cá để vào chén, lặng lẽ đứng dậy, lấy dầm bơi qua sông sang bên ngoại”. Hành động của cô bé phần nào phản ánh tính cách của tuổi nhỏ và cá tính mạnh mẽ, rắn rỏi.

Đằng sau hình ảnh một cô bé ương bướng, bé Thu còn hết mực yêu cha. Sau đêm ngủ với ngoại, bé Thu không nhận anh Sáu là ba không phải vì lâu không gặp em quên ba mất rồi mà vì trên mặt anh Sáu có một thẹo khác với người chụp chung với má. Nghe bà lí giải nguyên nhân của vết thẹo, cô bé khẽ thở dài và đưa tay lên trán suy ngẫm. Phải chăng nó đang nghĩ về lỗi lầm của mình, về đau khổ của ba nó phải hứng chịu?

Ngày anh Sáu lên đường, nó núp sau cánh cửa và nhìn với cái nhìn xa xăm, dịu dàng hơn thực chất trong tâm hồn đó đang có một sự thay đổi lớn. Tình cảm vỡ òa khi bé Thu kêu tiếng ba nghẹn ngào trong tiếng nấc: “ Ba...a...ba!”. Tiếng kêu như tiếng xé, xé không gian và xé trái tim mọi người.

Đó là tiếng gọi thân thương nó dồn nén bao nhiêu năm nay mới được bật ra thành lời. Nó chất chứa bao nỗi niềm nhớ thương và cả sự ăn năn. Nó nhanh như con sóc, ôm chặt lấy ba, quặp chặt hai chân và hôn ba cùng khắp, hôn cả vết thẹo của anh Sáu. Những cái hôn vội vã cùng những giọt nước mắt xúc động, hạnh phúc em đều mong mỏi dành tặng người cha kính yêu, dũng cảm của mình.

Nhưng thời gian thật ngắn ngủi cho niềm hạnh phúc ấy bởi anh Sáu phải lên đường. Lời nói của cô bé “ Ba ở nhà với con nghe ba” một lần nữa khẳng định tình cảm sâu nặng mà trong sáng. Món quà bé Thu muốn ba tặng là chiếc lược ngà thực chất cũng vì mong ba bình yên và trở về từ cuộc kháng chiến đầy gian nan, nguy hiểm.

Chiến tranh tạo thành bức tường vô hình ngăn cách hai cha con anh Sáu và bé Thu nhưng tình phụ tử thiêng liêng, cao đẹp của bé Thu vẫn ngời sáng hơn. Nhà văn xây dựng nhân vật bé Thu với vẻ đẹp cá tính, đầy bản lĩnh nhưng ở đó tình yêu ba luôn thường trực.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 7

Có một nhà văn đã nói rằng: "Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc sống viết ra". Cuộc chiến tranh chống Mĩ của dân tộc ta với biết bao câu chuyện đã trở thành huyền thoại được các nhà văn ghi lại như những câu chuyện cổ tích hiện đại. Trong số ấy phải kể đến "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng. Nhân vật bé Thu trong truyện đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc về tình thương cha mãnh liệt và có cá tính mạnh mẽ.

Ra đời năm 1966, những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của đồng bào Nam bộ trong 30 năm chiến tranh, “Chiếc lược ngà” được kể lại qua sự chứng kiến của bác Ba, người đồng đội của anh Sáu. Người đã lặng lẽ dõi theo từ đầu đến cuối câu chuyện cảm động của cha con anh Sáu- bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của bác Ba, chúng ta mới thấm thía hết nỗi đau của người dân Nam bộ trong chiến tranh và sức mạnh của tình cha con thiêng liêng, bất tử.

Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Lần về phép ba ngày của anh Sáu là cơ hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử. Nhưng nhà văn lại đặt bé Thu vào một tình huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận anh Sáu là ba, đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần gặp mặt ấy, là lần gặp mặt đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con em.

Tuy nhiên, từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra đặc điểm riêng, cá tính riêng của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi nhận ra ba.

Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, Thu là một cô bé trẻ con, bướng bỉnh và đáo để đến nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ tình thương ba dành cho em. Phút đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột và suy nghĩ của anh Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”. Trong ba ngày anh Sáu ở nhà, anh không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiếu thốn trong 8 năm qua cho nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù chỉ một lần. Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả tâm lí, thái độ rất trẻ con, cố chấp của bé Thu. Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, dọa đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”. Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lòng đến mức “không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”. Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Sự im lặng của anh Sáu và cả sự gợi ý của bác Ba đều không thể làm cô bé gọi tiếng “ba” đơn sơ, giản dị. Tiếng gọi mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu tiên trong cuộc đời mình. Đỉnh điểm của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của anh Sáu trong bé Thu là chi tiết cái trứng cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lòng thương con của người cha, anh Sáu gắp cái trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con bé bất thần hất nó ta khỏi chén cơm. Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, anh Sáu đánh con, Thu không khóc, lầm lì bỏ trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà bà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây tiếng cho thật to. Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em.

Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu. Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Sự ương ngạnh của Thu không hoàn toàn đáng trách. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá nhỏ để có thể hiểu được những tình thế éo le, khắc nghiệt của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường. Chính thái độ ngang ngạnh , quyết liệt của bé Thu lại thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương dành cho ba. Đơn giản Thu không nhận ra cha là vì người tự nhận là ba kia không hề giống người cha mà em đã thấy trong bức ảnh. Ba em trong ảnh không có vết sẹo dài trên mặt như thế. Cô bé không tin, thậm chí là ngờ vực. Không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng của Thu, nghĩa là bé Thu chỉ dành tình cảm cho người cha duy nhất trong bức ảnh. Sự bướng bỉnh của Thu phải chăng còn là mầm sâu kín, sau này làm nên tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên kiến định có lập trường.

Sự nghi ngờ của Thu được giải tỏa khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vết thẹo dài trên má. Nghe những điều ấy, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Bởi thế, tình yêu ba trong Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút ông Sáu lên đường. Cái tiếng “ba” mà ông Sáu đã chờ đợi từ lâu bất ngờ vang lên “Nhưng thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, đến lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên: - Ba...a...a...ba! Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba. Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc: -Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”.Tình cảm con với ba được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối hận. Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡ òa ra: “Ba bế nó lên. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Bà con và người kể chuyện cũng như người đọc không thể kìm được nỗi xúc động như có ai đang nắm chặt tim mình bởi vì cái éo le của tình cha con ở đây. Lúc cha con nhận nhau lại cũng chính là lúc người cha phải ra đi. Sự níu kéo của đứa con càng khắc nhấn sự éo le của chiến tranh: “Con bé hét lên, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Những nỗ lực của Thu không giữ được ba nó. Ông Sáu vẫn phải ra đi dù giây phút cha con nhận nhau thật ngắn ngủi! Xót thương thay cho Thu bởi cô đâu hiểu rằng cuộc gặp gỡ đầu tiên này cũng là lần cuối cùng. Ba cô đã hi sinh trong một trận càn. Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình.

Xuyên suốt đoạn trích, trong hai hoàn cảnh và hai cách ứng xử hoàn toàn khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một tấm lòng yêu cha sắt son của bé Thu – một em bé mới chỉ tám tuổi. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử.

Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu trước lúc hy sinh nhờ bác Ba trao cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương “yêu nhớ tặng Thu con của ba” là kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng, tấm lòng người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu. Khi bác Ba tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược, thì cô bé bướng bỉnh cá tính ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu là tình yêu ba, tình yêu đất nước.

Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật bé Thu - một nhân vật trẻ em có tính cách cứng cỏi , mạnh mẽ , dứt khoát (đến nỗi, nhìn thoáng qua, người ta có thể cho là ương ngạnh, bướng bỉnh, khó bảo nhưng cũng hết sức hồn nhiên, đáng yêu, ngoan ngoãn và có tình yêu cha sâu sắc. Có thể kể đến cách tạo tình huống bất ngờ, sự am hiểu tâm lí và tính cách trẻ em, cách chọn chi tiết nghệ thuật “đắt” (như chi tiết bé Thu không gọi ba, chi tiết bé Thu loay hoay chắt nước cơm, hất cái trứng cá ba gắp cho,chi tiết cây lược mà Thu xin ba trước lúc ba đi. Nhờ những thành công nghệ thuật này mà nhân vật bé Thu để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tình người – tình cha con trong những năm tháng chiến tranh xa cách, thương đau;để lại ấn tượng về một em bé Nam bộ thời chiến với tính cách đáng yêu, đáng mến.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 8

Sinh ra và lớn lên ở mảnh đất Nam Bộ, Nguyễn Quang Sáng luôn dành những những trang viết mộc mạc, bình dị cùng giọng văn đậm chất Nam Bộ về con người và cuộc sống ở nơi đây. Mỗi trang viết của ông đều để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc và truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một trong số những tác phẩm như thế. Ra đời trong những năm tháng cuộc kháng chiến chống Mĩ diễn ra ác liệt, tác phẩm đã thể hiện thành công tình cảm cha con sâu nặng trong hoàn cảnh chiến tranh éo le. Và qua nhân vật bé Thu sẽ giúp chúng ta hiểu thêm về tình cảm thiêng liêng, cao quý ấy.

Cũng như bao người khác, Thu là một đứa bé giàu lòng yêu thương cha và bởi vậy, trong cô gái nhỏ bé ấy vẫn luôn hiện hữu khao khát đến ngày được gặp cha, được sà vào vòng tay cha vỗ về, che chở. Và rồi, ngày tháng ấy cũng đã tới sau tám năm dài đằng đẵng xa cách. Những tưởng, Thu sẽ vui lắm, sẽ hạnh phúc lắm mà ôm lấy cha, nhưng không, ngày gặp cha, Thu có một thái độ rất khác thường, trước sự ngỡ ngàng của mọi người. Ông Sáu xuống bến xuồng, ông dồn hết bao nỗi nhớ thương con vào tiếng gọi thiêng liêng “Thu! Con!” nhưng trước nỗi niềm xúc động ấy của ông Sáu, Thu từ sự ngạc nhiên này sang đến ngạc nhiên khác, “tròn mắt nhìn”, cô bé thấy “lạ quá, chớp chớp mắt” như muốn hỏi là ai rồi vội chạy đi tìm sự giúp đỡ từ mẹ. Trong suốt ba ngày được nghỉ phép ở nhà, ông Sáu luôn cố gắng tìm mọi cách để bù đắp cho con với mong muốn sẽ làm con thay đổi, kiên nhẫn chờ đợi tình cảm từ con. Nhưng đáp lại tình cảm ấy của ông Sáu chỉ có sự lạnh nhạt của Thu, ông Sáu “càng vỗ về con bé càng đẩy ra” và thậm chí cô bé còn tỏ ra ngang ngạnh và ương bướng. Sự ương bướng ấy của Thu thể hiện rõ nét ở việc cô bé nhất quyết không chịu gọi một tiếng ba, lúc cần thiết phải nói thì lại lựa chọn cách nói trống không với ông Sáu. Thậm chí, ngay cả trong những tình huống cấp bách như phải chắt nước của một nồi cơm to thì cô bé vẫn cố loay hoay, tự tìm cách làm chứ nhất định không chịu nhờ tới sự giúp đỡ của ông Sáu. Bé Thu cố từ chối mọi sự yêu thương, vỗ về mà ông Sáu dành cho mình, khi ông Sáu gắp trứng cá vào chén cho bé Thu thì cô bé “liền lấy đũa xoi vào chén, để đó rồi bất thần hất cái trứng ra”, làm cho cơm văng hết cả ra mâm. Và đỉnh điểm, khi bị ông Sáu đánh, bé Thu không phản ứng gì mà bỏ về nhà bà ngoại. Có thể thấy, bé Thu là một cô bé rất ngang ngạnh, bướng bỉnh nhưng sự bướng bỉnh ấy của cô bé không hề đáng trách. Bởi Thu không nhận ba không phải vì không yêu ba mà bởi trong suốt những năm tháng chiến tranh, cô chỉ nhìn ba qua tấm ảnh để rồi đến ngày gặp gỡ, vết thẹo trên mặt của ông Sáu khiến cho ông khác lạ so với trong ảnh, điều đó khiến bé Thu không nhận ba. Những hành động và phản ứng của bé Thu hoàn toàn là tất yếu, bởi cô bé còn quá nhỏ để hiểu được sự dữ dội và tàn ác mà cuộc chiến tranh để lại.

Nhưng rồi, mọi chuyện đã thực sự thay đổi khi bé Thu được bà ngoại kể cho câu chuyện về vết thẹo trên gương mặt của ba và khi cô bé hiểu ra mọi thứ cũng chính là lúc ông Sáu phải lên đường nhận nhiệm vụ. Hoàn cảnh gặp gỡ ấy đã khiến cho tình cảm cha con có dịp được thể hiện rõ nét và xúc động hơn bao giờ hết. Khác với một bé Thu ngang ngạnh, cau có, bướng bỉnh trong ba ngày trước, hôm nay khuôn mặt bé Thu “sầm lại buồn rầu” và “nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Và khi cô bé bắt gặp ánh mắt buồn rầu của ông Sáu thì “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”. Có lẽ, giờ đây, bao nhiêu niềm yêu thương cha của cô bé gửi cả vào trong ánh mắt và cô cất tiếng gọi ba – một tiếng kêu đến xé lòng khi ông Sáu khẽ cất lời từ biệt. Không dừng lại ở đó, bé Thu còn chạy tới ôm thật chặt lấy ba, hôn ba và hôn lên cả vết thẹo. Nụ hôn ấy, nụ hôn của tình yêu vô bờ bến và còn là nụ hôn của nỗi nhớ không nguôi. Hơn bao giờ hết, chắc hẳn bé Thu muốn giây phút này sẽ còn lại mãi mãi, để cô có thể được ở cạnh ba, được ba ôm chặt trong vòng tay của mình. Rồi trong phút giây ấy, bô bé cất lời giữ ba ở lại với mình “Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!” Một ước mơ, một lời nói rất đỗi trẻ con nhưng lại chất chứa trong đấy tình cảm sâu đậm của bé Thu dành cho ba, đó là tình cảm thiêng liêng, cao quý. Cô bé chia tay ba với hi vọng ba sẽ tặng cho mình một chiếc lược ngà, để cô luôn cảm thấy ấm áp như có ba luôn bên mình. Như vậy, trong khoảnh khắc chia li, mọi khoảng cách đã bị xóa bỏ, chỉ còn lại ở đó tình cảm sâu đậm mà bé Thu dành cho ba.

Như vậy, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng đã miêu tả thành công những biến đổi tinh tế trong tình cảm của bé Thu, qua đó cho chúng ta thấy bé Thu là một cô bé ngang ngạnh, bướng bỉnh nhưng yêu thương ba đến vô ngần. Đồng thời, qua đó cũng cho thấy tình cảm cha con sâu đậm trong cuộc chiến tranh cam go, ác liệt của dân tộc.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 9

Tình cảm gia đình là một đề tài quan trọng của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Khai thác mảng đề tài này, Nguyễn Quang Sáng đã có một số tác phẩm đặc sắc như “Chiếc lược ngà”, “Bông cẩm thạch”,.. Trong đó, “Chiếc lược ngà” tạo được nhiều ấn tượng hơn cả. Một trong những yếu tố làm nên thành công của tác phẩm là nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật chính - nhân vật bé Thu - một cô bé cá tính, đáng yêu và có tình yêu ba tha thiết.

“Chiếc lược ngà” ra đời năm 1966 rồi được đưa vào tập truyện cùng tên (Chiếc lược ngà) của Nguyễn Quang Sáng. Câu chuyện được xây dựng trên một tình huống hiểu lầm tạo nhiều bất ngờ cảm động: Anh Sáu đi kháng chiến chống Pháp từ khi đứa con duy nhất của anh chưa đầy một tuổi. Từ đó hai ba con chưa hề gặp lại nhau, cho đến khi kháng chiến kết thúc, anh trở về, đứa con gái tám tuổi không chịu nhận ba. Trong ba ngày ở nhà, bằng đủ mọi cách mà con bé vẫn không chịu gọi lấy một tiếng ba. Đến lúc phải ra đi nhận nhiệm vụ mới, bé Thu mới gọi anh bằng ba. Thật bất ngờ. Thì ra, nó không chịu nhận ba là vì vết thẹo trên má đã khiến anh không còn giống như trong bức ảnh chụp ngày cưới. Con bé chỉ gọi ba khi bà ngoại giải thích cho nó rõ điều này. Giây phút anh nghe được tiếng gọi mà anh chờ đợi đã bao năm ấy cũng là lúc cha con xa nhau. Anh Sáu hứa sẽ mang về tặng con một cây lược. Những ngày chiến đấu trong rừng, anh Sáu cặm cụi làm chiếc lược bằng ngà cho con gái. Chiếc lược đã làm xong nhưng chưa kịp trao cho con gái thì anh hi sinh.

Nhân vật cô bé tám tuổi ấy là Thu, mới có tám tuổi nhưng cô đã bướng bỉnh, gan góc và rất có cá tính. Trong tâm hồn trẻ thơ của bé Thu, chỉ có duy nhất hình ảnh một người ba mà nó biết qua bức ảnh chụp với má ngày cưới. Nó nhất quyết không chịu nhận ông Sáu là ba dù cả nhà - trong đó có bà nội - thừa nhận điều đó. Họ đón ông với tất cả tấm lòng chân thành, yêu thương của con người Nam Bộ. Chẳng những thế, ông còn vô cùng xúc động khi gặp nó. Nhưng bỏ qua tất cả, Thu vẫn hét lên sợ hãi khi ông Sáu lập cập đến với nó và lắp bắp gọi: “Thu! Ba đây con...”. Có điều đó bởi Thu thấy ba nó trong bức ảnh không hề có vết thẹo trên má còn người cứ gọi nó là con, bắt nó gọi bằng ba bây giờ lại có vết thẹo dài trên má.

Không chỉ vậy, qua nhiều chi tiết miêu tả hành động của bé Thu Nguyễn Quang Sáng vừa thể hiện được tính cách đặc biệt của cô bé vừa tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ. Khi mẹ yêu cầu “mời ba vô ăn cơm", Thu gọi "trổng" “vô ăn cơm”. Nồi cơm sôi, không tự chắt được con bé nhất quyết không chịu gọi ba để được giúp đỡ. Nó tìm mọi cách chắt nước không cần nhờ vả. Đặc biệt, tính cách rắn rỏi, ngang bướng vô cùng trẻ con của Thu được thể hiện qua chi tiết bé hất đổ cả chén cơm khi anh Sáu gắp cho nó cái trứng cá. Bị ba đánh, tưởng đâu "con bé sẽ lăn ra khóc, sẽ giãy, sẽ đạp đổ cả mâm cơm, hoặc sẽ chạy vụt đi. Nhưng không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm.". Đành rằng trẻ con chỉ tin vào những gì chúng thấy, đành rằng bé Thu không thể biết được sự ác nghiệt của bom đạn là thế nào, và nó có cách suy nghĩ theo kiểu trẻ con của nó, nhưng phải thừa nhận rằng cô bé này có một cá tính mạnh mẽ. Sự bướng bỉnh, gan góc đến kì lạ của bé Thu đã trở thành tiền đề để sau này trở thành lòng dũng cảm, sự lanh lợi của cô giao liên Thu.

Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, Thu cùng “Chiếc lược ngà" sẽ nằm lẫn vào vô vàn tác phẩm khác viết cho thiếu nhi. Điều khiến nhân vật cùng tác phẩm đi xa hơn trong lòng người đọc là ở chỗ bé Thu có một tình yêu ba nồng nàn, tha thiết.

Cô bé không nhận ba bởi cô hiểu nhầm về vết sẹo trên mặt ba. Cô đã nghĩ rằng “người ta” mang đến cho mình một người “ba giả"! Và vì thế, Thu càng phản đối quyết liệt người “ba giả” ấy bao nhiêu càng thể hiện cô bé yêu ba mình bấy nhiêu. Cái tình yêu ấy thật sâu sắc: nó chỉ có một, không thể chia sẻ cho bất kì ai khác, ngay cả khi đó là người được tất cả mọi người thừa nhận là ba của nó, là người yêu thương và quan tâm đến nó rất chân thành.

Khi biết rằng ông Sáu là ba thật của mình, và vết sẹo trên mặt ông là do thằng Mĩ gây nên, buổi sáng cuối cùng trong những ngày phép của ba "Con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó, vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sẩm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương. Với đôi mi dài uốn cong, và như không bao giờ chớp, đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa. " Không hiểu con bé “nghĩ ngợi sâu xa” điều gì, chỉ biết rằng khi ông Sáu buồn rầu quay lại nhìn nó - không dám lại gần sợ nó lại bỏ chạy như lần trước - nói: “Ba đi nghe con” thì nó bất ngờ lao đến thét lên: Ba, a... a...ba! Rồi ôm chặt lấy ông nức nở “Con không cho ba đi”. Đến đây, người đọc mới vỡ lẽ ra rằng Thu thèm được gọi ba như thế nào. "Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng "ba" mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng "ba" như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó.". Bé Thu là đứa trẻ giàu tình cảm. Thái độ của bé Thu với ba bây giờ trái ngược trong những ngày đầu khi ông Sáu về thăm nhà. Song, trái ngược mà vẫn nhất quán. Vì quá yêu ba, quá khao khát được có ba nên khi nhận định không phải ba nó thì nó nhất định không chịu nhận, nhất định không gọi "ba" lấy một tiếng. Cho nên, khi tiếng gọi như xé kia cất lên ta thấy nó thiêng liêng vô cùng. Tiếng gọi ấy càng trở nên thiêng liêng, quý giá bởi đón chờ nó là cả tấm lòng cao đẹp, thương yêu con vô hạn của người cha.

Trong quá trình thể hiện diễn biến tâm lí nhân vật bé Thu có một chi tiết vô cùng quan trọng: chi tiết cái thẹo. Chính cái thẹo là nguyên nhân gây ra những hiểu lầm trong tình cảm của cha con mà Thu dành cho ba. Cái thẹo là vết thương mà giặc Mĩ gây ra cho ba Thu. Sự chia cắt gia đình không chỉ riêng gia đình bé Thu mà còn hàng triệu gia đình người Việt cũng là do giặc Mĩ gây ra. Thấu hiểu sâu sắc điều đó, sau này, Thu đã trở thành một nữ giao liên dũng cảm, can đảm. Cô đã quyết tâm tiếp bước con đường cha cô đã đi để đánh đuổi kẻ thù của gia đình, kẻ thù của dân tộc.

Xây dựng nhân vật bé Thu - một cô bé bướng bỉnh, cá tính nhưng có tình cảm yêu ba tha thiết cảm động - Nguyễn Quang Sáng đã tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ bởi vậy nhà văn đã tạo nên được một nhân vật trẻ thơ thực sự sống động gây nhiều niềm xúc động sâu xa trong lòng người đọc. Bên cạnh đó, tác phẩm đã tạo nên một tình huống hiểu lầm độc đáo mà chi tiết quan trọng nhất là chi tiết cái thẹo. Chi tiết này có giá trị giống như một “cái bóng” trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ hay “chiếc lá cuối cùng” trong truyện ngắn cùng tên của Ô Hen-ri,...

Nhân vật bé Thu trong “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc bởi một tính cách đặc biệt khó có thể nhầm lẫn. Nhân vật này đã góp phần tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc cho tác phẩm. Và vì vậy, cùng với tác phẩm, nhân vật bé Thu đã giành được một vị trí riêng trong lòng độc giả yêu truyện ngắn Việt Nam.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 10

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn có rất nhiều những tác phẩm hay viết về những người dân Nam Bộ. Bởi ông vừa là một nhà văn nhưng cũng là một người chiến sĩ nên ông hiểu rõ những góc sâu trong tình cảm của những con người chiến sĩ luôn gần gũi bên cạnh mình. Những tác phẩm của ông mang lại rất nhiều dấu ấn trong lòng người đọc như Con chim vàng, Người quê hương, Chiếc lược ngà,… Trong số đó, tác phẩm mà em thích nhất chính là Chiếc lược ngà (1966). Câu chuyện đã làm cho chúng ta xúc động về tình cha con thắm thiết của bé Thu và anh Sáu trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt.

Bé Thu là một cô bé ương ngạnh và bướng bỉnh. Từ nhỏ, bé Thu đã không được gặp anh Sáu- cha của mình mà chỉ biết cha qua tấm ảnh cưới của cha mẹ. Bởi thế, trong lòng của cô bé, anh Sáu là một chiến sĩ cứu nước đẹp trai và thật yêu thương nó. Mãi cho tới khi bé Thu được bảy tuổi, anh mới có thời gian để về thăm nhà vài ngày. Những tưởng bé Thu sẽ nồng nhiệt đón chờ anh, thế nhưng, bé lại xa lánh người cha của mình và nhất quyết không chịu gọi một tiếng “ Ba” nào cả. Lần đầu tiên gặp anh, bé chỉ “ tròn mắt nhìn”,”ngơ ngác, lạ lùng” sau đó là “ vụt chạy và kêu thét lên”. Trong lòng anh Sáu luôn khao khát có thể có được một tiếng gọi của con gái, thế nhưng, bé Thu nhất quyết không chịu gọi anh một tiếng nào. Thậm chí, bé còn có những hành động chống đối lại anh. Khi mẹ bảo gọi cha ăn cơm, bé chỉ nói trống không những câu như “ Thì má cứ kêu đi”,”Vô ăn cơm”, “Cơm chín rồi”. Ngay cả lúc lâm vào tình huống khó xử cần nhờ giúp đỡ của anh Sáu mà bé Thu cũng nhất quyết không chịu gọi anh một tiếng ba mà chỉ hì hục một mình làm công việc. Những khi anh Sáu ân cần chăm sóc, bé cũng không chấp nhận. Bé hất miếng trứng cá anh Sáu gắp cho mình. Và trong những phút nóng giận, anh đã đánh vào mông bé “ Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?”. Có lẽ tới đây, ai cũng nghĩ rằng, bé sẽ khóc to hay giẫy lên nhưng tình huống không hề như vậy. Bé Thu chỉ im lặng rồi sau đó bé đi sang bên nhà bà ngoại,” mét với ngoại và khóc ở bên đó”. Ở tình huống này, có rất nhiều người sẽ trách mắng bé Thu. Thế nhưng, tới đây, chúng ta mới hiểu được lí do tại sao bé Thu lại không chịu gọi anh Sáu một tiếng “Ba”.

Tất cả chỉ bởi vết sẹo ở trên mặt anh. Đây có lẽ là kết quả mà không ai có thể ngờ được. Thì ra trong bức ảnh của anh khi đưa cho bé Thu xem là khi anh chưa đi kháng chiến nên không hề có vết sẹo nào ở trên mặt. Trong khi giờ đây, khi anh đứng trước mặt của bé thì mặt của anh lại có một vết sẹo dài. Mỗi lần xúc động, vết sẹo ấy lại giật giật trông rất đáng sợ. Chính bởi lí do như vậy mà bé Thu nhất quyết không nhận người cha của mình bởi trong trí óc non nớt của bé, người cha không hề có vết sẹo đáng sợ ấy. Nghe được lời giải thích của bà, lúc này, bé mới có thể hiểu được những điều đó và cũng hiểu thêm về người cha của mình.

Tới lúc chia tay, anh Sáu chỉ khẽ nói với con:” Thôi! Ba đi nghe con!” Cứ nghĩ rằng cho tới lúc chia tay, anh cũng không thể nghe được tiếng gọi ba, thế nhưng một điều không ngờ đã xảy tới. Thu bỗng thét lên “ Ba!…Ba!” Tiếng kêu như gào xé cả bầu không gian. Bé vội chạy tới, ôm chầm lấy người cha của mình mà hôn lên khắp khuôn mặt của người cha, hôn cả lên vết sẹo mà bé vẫn thường sợ ấy. Bé khóc nấc lên, đòi giữ lấy người cha ở cạnh mình, không cho ba đi vì thời gian nhận ra nhau của họ quá ngắn ngủi. Không còn cách nào, bé đành xin ba làm cho bé một chiếc lược. Đây cũng chính là yêu cầu duy nhất của bé.

Đây cũng là lần cuối cùng của bé Thu được gặp người cha của mình. Qua đây, chúng ta thấy được tình cảm của cả hai cha con. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, tác phẩm cũng kín đáo lên án chiến tranh, bởi chiến tranh đã tàn phá và để lại vết thương trên cơ thể anh Sáu và cũng làm cho cha con anh không thể gặp được nhau mới gây nên những tình huống như lúc này. Và hình ảnh của bé Thu mãi mãi là hình ảnh đẹp trong tâm trí của mỗi chúng ta.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 11

Chiếc lược ngà là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Với cảm hứng viết về tình cha con và nỗi đau do chiến tranh, chuyện đã để lại cho người đọc những rung động thấm thía. Đặc biệt là diễn biến tâm lý và tình cảm tính cách của bé Thu trong lần gặp cha cuối cùng khi ông Sáu về thăm nhà.

Bằng nghệ thuật kể chuyện mang phong cách Nam Bộ với những tình huống bất ngờ. Tác giả đã để cho một nhân vật kể về nhân vật chính nhằm làm cho câu chuyện thêm khách quan và tin cậy. Đó là cách kể chuyện lồng trong chuyện, từ đó ta thấy rõ được những diễn biến tâm lý của nhân vật bé Thu.

Bé Thu là một cô bé có cá tính độc đáo mạnh mẽ. Bởi xa cha biền biệt và cũng chỉ vì một vết sẹo mà em vô tình không nhận ra cha, khi nhận ra cha thì mãi mãi em phải xa cha. Tình thương nỗi đau và sự uất hận đã giúp bé Thu sau này trở thành cô giao liên dũng cảm.

Cha đi chiến đấu biền biệt xa nhà. Đến khi Thu lên tám tuổi hai cha con mới được gặp lại nhau. Cô bé tóc ngang vai, mặc quần đen, áo hoa đỏ, hồn nhiên, xinh đẹp, mới nhìn ông Sáu đã nhận ra ngay con gái mình. Nhưng niềm vui sau bao năm xa cách là được gặp lại con thì thật trớ trêu đáp lại sự vồ vập ấy của người cha bé Thu tỏ ra ngờ vực lảng tránh. Bé Thu hốt hoảng, mặt tái đi, vụt chạy kêu thét lên, nói trống. Trong suốt ba ngày ở bên cha bé Thu đã không nhận ra cha của mình, bé ương ngạnh, cư xử vùng vằng. Bé nhất định không nhờ ông Sáu chắt nước nồi cơm, nó hất cái trứng cá mà ông gắp cho. Bị ông Sáu đánh nó bỏ về nhà ngoại khua loảng xoảng dưới xuồng. Đó là thái độ rất ương ngạnh của một đứa bé mới tám tuổi. Nhưng thái độ đó không hề chê trách được bởi tất cả vì chiến tranh. Chiến tranh đã gây ra những mất mát và đau thương. Mà một đứa trẻ như Thu còn quá bé bỏng để có thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le mà ngay cả người lớn cũng không kịp chuẩn bị cho nó. Chỉ vì một vết sẹo trên mặt người cha cộng với bức ảnh mà nó biết về cha, nó đã không nhận cha. Vết thương do chiến tranh đã trở thành vết thương lòng sâu nặng của tình cảm cha con.

Ngày cuối cùng, trước phút giây ông Sáu lên đường, thì tình cảm thiêng liêng của bé Thu dành cho cha đã bùng cháy. Mọi thái độ và hành động của bé Thu bỗng đột ngột thay đổi. Khi nhìn thẳng, đối diện với người cha “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”. Đằng sau đôi mắt mênh mông ấy chắc đang xao động biết bao ý nghĩ, tình cảm. Lần đầu tiên bé cất tiếng gọi “Ba…ba” và tiếng kêu như tiếng xé “chạy nhanh như sóc ôm lấy cổ ba nó” cùng với cử chỉ hôn khắp mọi nơi: nó hôn tóc hôn cổ, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba. Tâm lý ngờ vực chỉ vì vết sẹo đã được giải tỏa. Vì thế trong phút chia tay với cha tình yêu và nỗi mong nhớ suốt bao năm trời bị dồn nén nay trở nên mạnh mẽ và có cả sự hối hận. Cảnh tượng ấy diễn ra xúc động trong lòng mọi người. Và khi ông Sáu nói “Ba đi rồi ba về với con”, bé Thu đã hét lên là “không”, rồi hai tay siết chặt cổ, dang cả hai chân quặp lấy ba, đôi vai nhỏ run run. Chắc cô bé đã khóc, khóc vì sự ân hận của mình đã không nhận ra cha, khóc vì xót thương người cha vì chiến tranh mà phải xa gia đình.Chỉ vì bom đạn quân thù, mà ba đã mang sẹo trên mặt. Đó là điều đau khổ.Vậy mà, bé Thu đã không hiểu, lại còn xa lánh cha khiến cha đau khổ. Được bà ngoại giảng cho, bé đã hiểu. Nhưng có lẽ khi bé hiểu ra thì… muộn rồi. Cha bé đã phải xa gia đình trở về chiến trường, phải chịu bao gian khổ của mưa bom bão đạn. Vì vậy, mà bé Thu mới siết cổ cha, níu chặt lấy người cha, như muốn đền bù những hành động sai lầm của bé. Từ giây phút bé thu thức tỉnh, tình cảm tính cách của bé đã thay đổi sự ương ngạnh của cô bé tám tuổi đã không còn, mà thay vào đó là tình yêu cha, thương cha, tự hào về cha. Cuộc chia tay của bé Thu trong những giây phút cuối cùng này có ai biết được rằng đó là cuộc chia tay lần cuối là lúc cha xa em vĩnh viễn, không thực hiện lời hứa “ba đi rồi ba về với con”. Nhưng lòng yêu cha thành kính đã tạo nên một sức mạnh thôi thúc, rèn giũa để Thu trưởng thành sau này, khi cô trở thành một chiến sĩ giao liên gan dạ, dũng cảm.

Tóm lại, qua diễn biến tâm lý của bé Thu ta thấy được bé là người có tình cảm mạnh mẽ, sâu sắc, hồn nhiên, ngây thơ. Cá tính ấy của bé được tập trung thể hiện trong tình cảm cha con đằm thắm. Nhân vật bé Thu đã để lại trong ta những ấn tượng sâu đậm về tình cảm mà bé dành cho cha. Người đọc thêm yêu mến bé Thu với tình cảm mạnh mẽ ấy.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 12

Đề tài tình cảm gia đình là một đề tài vô cùng quan trọng trong kháng chiến của Việt Nam. Nhiều tác giả đã khai thác đề tài này, những tác phẩm “Chiếc lược ngà” của tác giả Nguyễn Quang Sáng là một tác phẩm để lại nhiều ấn tượng sâu sắc cho người đọc.

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” kể về nhân vật bé Thu một đứa trẻ dễ thương nhưng vô cùng cá tính, gai góc và có nội tâm vô cùng phức tạp.Tác giả đã vô cùng tinh tế khi mà đặt ra những tình huống vô cùng độc đáo.

Anh Sáu một người chiến sĩ cách mạng, đi bộ đội chiến đấu khi con gái mình vừa mới sinh xong. Ngày anh Sáu về phép thì con gái đã 7-8 tuổi. Bé Thu là người chỉ biết mặt ba qua những bức ảnh gia đình, nên trong tâm thức của bé, không có nhiều kỷ niệm với ba.

Rồi một ngày anh Sáu về phép cô bé khó mở lòng tiếp nhận một người cha bằng xương bằng thịt được.

Trong ba ngày phép ở nhà anh Sáu làm đủ mọi cách tiếp cận cô bé nhưng bé Thu không chịu gọi một tiếng ba. Cho tới khi anh phải lên đường đi là nhiệm vụ thì tiếng ba mới được thốt ra nghẹn ngào xúc động.

Nhân vật bé Thu là một cô bé mới chỉ tám tuổi nhưng có cá tính mạnh mẽ, gai góc và ương ngạnh. Tuy nhiên trong tâm của bé Thu thì vô cùng trong sáng, thể hiện tình yêu của mình với ba. Bởi em bé chỉ nhìn hình ba trong bức ảnh ba mẹ chụp với nhau trong ngày cưới. Nên khi nhìn thấy ông Sáu ngoài đời nó không thể nghĩ đó là ba mình.

Ông Sáu là một chiến sĩ dũng cảm, đã trải qua nhiều trận đánh ác liệt gương mặt của ông không còn được như xưa mà có nhiều biến đổi theo thời gian, nên khi bé Thu nhìn ba ngoài đời không còn giống ba trong bức hình chụp ngày cưới ba mẹ nữa. Đó là chuyện bình thường.

Qua những tình tiết miêu tả của tác giả ta thấy bé Thu có cá tính và suy nghĩ vô cùng đáng yêu. Những suy nghĩ vừa rất trẻ con vừa người lớn. Nó thể hiện tình cảm của một người con dành cho ba của mình thể hiện tình cảm gia đình thắm thiết. Khi cả nhà bảo ra mời ba vào ăn cơm. Bé thu cứng đầu chỉ nói trống không “Vô ăn cơm”.

Dù ai có nói thì thì cô bé cũng không chịu gọi một tiếng ba, chỉ cho tới khi biết tin ông Sáng phải lên đường đi đánh trận, tiếng ba mới nức nở vỡ òa lên trong lồng ngực của cô bé. “Không cho ba đi. Ba phải ở nhà với con” những tiếng ba mong chờ từ lâu được cô bé thốt ra một cách trơn tru, từ đáy lòng của một đứa trẻ mong chờ có ba.

Rồi kèm theo hành động đó là việc Thu ôm chầm lấy ba của mình khóc nghẹn nức nở. Thu không muốn rời xa ba thêm nữa cô bé đã phải chờ đợi suốt tám năm mới được gặp ba, giờ này cô bé không muốn lại phải tiếp tục chờ đợi, không muốn xa cách.

Qua diễn biến tâm lý nhân vật ta thấy Thu là cô bé giàu tình cảm, dù bên ngoài cô bé là người gai góc, nhưng bên trong lại yếu đuối, trẻ con, và mong muốn có ba hơn bao giờ hết.

Tình cảm của Thi dành cho ba là tình cảm thiêng liêng của một đứa trẻ khát khao có ba như những đứa trẻ khác. Bất kỳ đứa trẻ nào sinh ra cũng cần tình thương, sự chăm sóc của cả ba và mẹ, có như vậy chúng mới phát triển và trưởng thành đúng nghĩa.

Qua tác phẩm của mình tác giả Nguyễn Quang Sáng muốn tố cáo tội ác của chiến tranh, chính chiến tranh đã làm cho bao gia đình ly biệt, những đứa con không được gần cha, vợ không được gần chồng, biết bao gia đình sinh ly tử biệt bởi chiến tranh tàn ác.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 13

Nhắc đến chiến tranh, người ta thường nghĩ đến những mất mát, những đau thương, những cuộc chia ly và cảnh hoang tàn khốc liệt mà nó gây ra. Chiến tranh không chỉ có thể, không chỉ là nơi con người nhận ra sự tàn ác mà trên mảnh đất chết này những bông hoa đẹp vẫn mọc trên tình cảm gia đình. Nguyễn Quang Sáng đã cho ta thấy giữa nỗi đau vẫn còn đau, những cảm xúc của tâm hồn, giữa cuộc chia tay, vẻ đẹp của mỗi cá nhân vẫn tỏa sáng trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Và trên hết, chiếc lược ngà đã về, khắc họa tính cách vừa trẻ con vừa đáng yêu Thu, một đứa trẻ hiểu chuyện. Bé Thu và bố đã tạo nên một tình huống cảm động. Nguyễn Quang Sáng là nhà văn chuyên viết về cuộc sống và con người Nam Bộ với nhiều thể loại khác nhau như tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch,... Trong đó truyện ngắn "Chiếc lược ngà" là một trong những tác phẩm kinh điển giúp tên tuổi của ông để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả khi viết về chiến tranh.

Tác phẩm được sáng tác năm 1966 trên chiến trường miền nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt. Một câu chuyện cảm động về tình cảm cha con sâu nặng, cao cả trong hoàn cảnh khó khăn của chiến tranh. Qua lời kể của ông, người ta có thể thấy được tài năng của nhà văn Nguyễn Quang Sáng trong việc tạo dựng những tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật thể hiện tâm lí, nhân vật điêu luyện. Truyện lấy điểm nhìn của nhân vật tôi - ông Ba, cũng là bạn của anh Sáu, nhân vật cùng anh Sáu trở về ngôi nhà, nơi mà người cha đã bảy tám năm xa cách con. Điểm trần thuật này giúp nhà văn có cái nhìn khách quan về nhân vật, giúp nhà văn gửi gắm thông điệp trong tác phẩm. Truyện kể về tình cảnh anh Sáu và bé Thu được đoàn tụ sau tám năm xa cách. Ngày trở về từ chiến trường, cô không nhận ông là cha vì vết sẹo dài trên má. Đến khi Thu hiểu ra mọi chuyện thì ông Sáu lại lên đường. Niềm vui đoàn viên không trọn vẹn kéo theo nỗi nhớ suốt chặng đường hành quân nối tiếp sau đó. Ở căn cứ, anh dành tất cả tình yêu của mình để tỉ mỉ biến mảnh ngà voi thành chiếc lược mà anh định làm quà cho bé Thu nhân ngày trở lại. Nhưng ước nguyện ấy chưa thành, bom đạn giặc đã quật ngã anh giữa rừng cùng chiếc lược ngà gửi lại cho đồng đội mang về. Đọc Chiếc lược ngà, người ta cảm nhận được tình cảm gia đình đặc biệt là tình cha con thật cao đẹp biết bao. Đó là một tình cảm thiêng liêng không bom đạn nào có thể hủy diệt được.

Nhà văn đã đặt bé Thu vào một tình thế khó khăn khi Thu chưa trong 8 tuổi. Xa cha từ nhỏ, chỉ biết cha mình qua một tấm ảnh. Cũng vì hiểu lầm trẻ con mà không nhận cha và  tới khi chợt hiểu ra mọi chuyện, cũng đã đến lúc ông Sáu phải ra đi. Cái hay của tác phẩm là ở chỗ viết về tình phụ tử, nhà văn không những không làm mờ đi nét độc đáo của nhân vật trong tình cảm lớn lao mà còn thể hiện được nhân cách của nhân vật. Bé Thu không chỉ hiện lên là một đứa con hết mực yêu thương cha, mà còn là một cô gái hiền lành, mạnh mẽ trong tình yêu nhưng cũng rất trẻ con, hồn nhiên và đáng yêu. Tình cảm ấy, tính cách này được thể hiện qua hai hoàn cảnh trái ngược nhau trước và sau khi bé Thu nhận ra cha mình.

Trước khi biết ông Sáu là ba, bé Thu trong mắt người đọc là một cô bé có tính cách trẻ con nhưng rất đáo đẻ. Chính sự bướng bỉnh của một đứa trẻ lên bảy đã làm những điều ấy như xát muối vào lòng của một người cha chờ con suốt bảy tám năm dài đắng cay. Dù chiến tranh có khốc liệt đến đâu, đường sá xa xôi đến đâu, anh Sáu cũng không biết từ gian nan. Trên chiến trường, một người cha như anh từng là anh hùng, nhưng giờ đây anh trở thành người cha bất lực trước sự chối bỏ của con gái mình. Bé Thu đáp lại mọi sự mong đợi của cha với thái độ bỡ ngỡ, bất ngờ, dửng dưng, trái ngược với mọi nỗi mong nhớ như cháy bỏng trong lòng cha. Giá như bé Thu dửng dưng như với người không quen biết thì ông Sáu đã không quá đắng cay. Đằng này Thu còn tỏ ra sợ hãi khi nhìn thấy anh và chạy đi gọi "má, má". Phút đầu tiên ấy, Thu đâu biết được rằng cánh tay người cha buông thông, nét mặt sa sầm thất vọng.

Ở nhà được ba ngày, ông Sáu đã có tình dành hết thời gian bên con, mọi người trong gia đình cũng tạo điều kiện để Thu được ở gần cha. Đã bao lần mọi người và anh Sáu tạo cơ hội cho bé Thu gọi một tiếng “ba”. Vậy mà bấy nhiêu lần đều khiến anh thất bại. Thu thể hiện rõ mình là một đứa trẻ cố chấp, không phải Thu không thương, không hiểu ba mà vì Thu có những suy nghĩ của riêng mình. Cô tôn thờ hình tượng người cha trong con người cũ của mình. Cô yêu cha mình bằng một tình yêu duy nhất và không thể thay thế. Thử hỏi khi đặt mình vào tâm lý của một đứa trẻ đã bắt đầu hình thành những tính cách nhất quán của người lớn nhưng về cơ bản vẫn là một đứa trẻ, thì thật khó để đồng ý mở lòng với một người đàn ông lạ mặt, đến nhà mình rồi bảo mình gọi là ba. Càng để ý đến những chi tiết nhỏ của câu chuyện, ta càng thấy Nguyễn Quang Sáng đúng là một nhà văn lắt léo. Tinh tế ngay cả với những chuyển biến tâm trạng, thái độ và cử chỉ của nhân vật.

Bé Thu mặc cho mẹ dọa đánh, bắt Thu phải gọi ba vào ăn cốm, Thu kiên quyết từ chối thể hiện tiếng gọi thiêng liêng này. Thu vẫn nói trống không "con kêu rồi mà người ta không nghe”. “Người ta" là tên Thu gọi bố. Đó không phải là tiếng gọi của ba mà được định danh bằng hai tiếng hờ hững "người ta". Biết trong lòng con gái mình chẳng khác nào người dung, nên anh Sáu không khóc được, mà chỉ lắc đầu cười.

Thêm một tình hướng khó khăn khiến Thu lưỡng lự: khi má bảo cơm sôi thì gọi ba chắt nước dùm. Một đứa trẻ 7 tuổi đối mặt với tình huống sắp bị mắng nếu để nồi cơm nhão khi bản thân không tự làm được, chỉ cần gọi ba là có thể giải quyết được. Vậy mà Thi cố chấp đến cùng. Thu lờ đi gợi ý của ông Ba, chẳng thèm lo lắng nỗi buồn rầu dài trên khuôn mặt cha, Thu vẫn giữ nguyên thái độ ban đầu và gọi trỏng “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Lại tiếp tục, Thu gieo thêm cay đắng vào lòng ba khi thẳng thừng từ chối cái trứng cá mà ba gắp cho trong bữa cơm. Một đứa trẻ bình thường sẽ thích thú khi được gắp cho vì đó là phần ngon của con cá, nhưng một đứa trẻ cứng đầu như Thu sẽ không thể sẽ không thể mặc nhiên đón nhận tình cảm của một người con bé coi là người lạ. Trong suy nghĩ của mình, nếu Thu vô tư ăn cái trứng cá kia, điều đó mặc nhiên với việc con bé chấp nhận rằng anh ta là ba mình. Cuộc chiến giữ vững tư tưởng của Thu  được con bé kiên định cho đến phút cuối cùng. Vì nỗi nóng ruột, vì chờ đợi trong vô vọng và cũng vì bất lực, anh Sáu đã đánh con, điều đó dằn vặt ông mãi. Không còn nhiều thời gian nữa mà Thu vẫn chưa nhận ra cha thì coi như mục đích của chuyến thăm này chưa đạt được. Éo le hơn là cuộc chiến tranh vẫn còn ở trước mặt mà anh Sáu không biết mình sẽ đi hay được ở lại thêm. Trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, giây phút gặp gỡ nào cũng có thể là giây phút cuối cùng. Thấm thía được điều này, anh Sáu quý từng giây phút bên con. Vậy mà… Bé Thu bị đánh cũng không kêu ca, khóc lóc. Con bé lặng lẽ bỏ món trứng cá vào bát cơm rồi sang bên nhà ngoại. Chi tiết Thu cố tình khua dây xuồng thật mạnh để cho mọi người biết mình đang đi, đó thực sự là tâm lý của một đứa trẻ.

Dù không khóc nhưng Thu vẫn thể hiện rằng cô bỏ đi vì tức giận. Thu luôn muốn được người lớn chú ý, quan tâm như bất kỳ đứa trẻ nào. Đọc đến đây, tuy có đôi chút thương cảm cho a nhSáu và đôi chút thương hại cho người cha chưa đạt được ước nguyện của mình, nhưng vì thế mà ông không thể ghét bỏ Thu. Bởi suy cho cùng, sự cố chấp của bé Thu cũng là  xuất phát từ tình yêu, sự tôn trọng cho hình ảnh người cha mà con bé tôn thờ trong lòng. Sự cương quyết khờ dại của một đứa trẻ không cho phép Thu gọi ai là "ba" ngoài người đàn ông trong bức ảnh của mẹ nó. Người đàn ông với vết sẹo dài trên mặt và người cha trong trí tưởng tượng của Thu hoàn toàn khác nhau.

Đến lúc này, có lẽ anh Sáu đã hết hy vọng con mình sẽ gọi “ba”. Ngày chia tay đã đến, Bé Thu vẫn còn cả đêm ngủ bên nhà bà ngoại. Ngay cả cơ hội được ngắm đứa con yêu ngủ ngon, Thu cũng không cho ba mình. Trong khi mọi người trao nhau những cái ôm thân tình, những lời nhắn nhủ ước hẹn thì bé Thu dường như bị lãng quên. Không ai có thể mong đợi điều gì ở đứa trẻ nhiều ngày không chịu nhận ba. Thế nhưng chính trong giây phút tiễn biệt lịch sử ấy, Thu đã cất tiếng gọi "ba" như thổ lộ hết nỗi niềm của đứa con xa cha, xà vào hơi ấm trong vòng tay ôm cha và khao khát được muốn gọi ba. Ông Ba thật tinh tế khi nhận thấy sự thay đổi tâm lý của Thu. "Vẻ mặt sấm lại buồn rầu”, "đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩa ngợi sâu xa“. Sự phát triển tâm lý này rất phù hợp với một đứa trẻ nhạy cảm như Thu. Không chỉ người lớn, mà những đứa trẻ như Thu cũng cảm nhận được hoàn cảnh ngày hôm đó. Sẽ không lâu nữa ba mình phải ra đi, cái dự cảm chẳng lành về việc sắp phải rời xa người thân và những gì Thu biết về cuộc chiến này đã thôi thúc con bé bộc lộ tình thương đang âm ỉ cháy sâu trong lòng. Con bé đâu phải đứa vô tâm, cũng chẳng ngỗ ngược hay ương ngạnh. Mỗi hành động bé Thu làm đều có lý do. Điều này sau đó đã được bà ngoại tiết lộ sau đó, mọi người mới biết lý do tại sao Thu từ chối nhận cha mình. Tất cả chỉ vì vết sẹo lớn trên mặt bố. Sau khi được ngoại giải thích, bé Thu mới nhận ra chiến tranh, bom đạn tàn khốc, thậm chí cả tính mạng nhưng vẫn khó giữ được chứ đùng nói là một vết thương sâu.

Qua câu chuyện của ngoại, người ta cũng có thể hình dung ra tiếng thở dài, sự im lặng của Thu khi em quay người sang một bên. Chắc Thu đã hối hận lắm vì đã làm bố buồn., vì để vuột mất những ngày lẽ ra đã được ở bên bố. Cô bé chỉ là một đứa trẻ, nhưng khi được nghe và hiểu chuyện, bé Thu trở nên giống như một người lớn. Thu nhận ra rằng mình đã sai và chuyến tiễn đưa này là cơ hội cuối cùng của cô.

Thu là một đứa trẻ, mà trẻ con thì luôn muốn được yêu thương và thể hiện tình yêu của mình với người khác bằng những hành động mãnh liệt nhất. Lời từ biệt của cha giống như giọt nước tràn ly. Thu thốt lên một tiếng đau lòng, tiếng gọi mà Thu đã ấp ủ từ nhỏ giờ đã được toại nguyện. “Baa....a....a". Gọi mãi vẫn là chưa đủ để giải tỏa nỗi nhớ mong ấy, Thu cuống cuồng chạy tới. Con bé đã dùng cả cơ thể mình để đón lấy tình phụ tử thiêng liêng. Hàng loạt động từ diễn tả hành động của Thu như chạy xô tới, hét lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc hôn cổ, và hôn cả vết sẹo mà cô bé từng né tránh. Đối với Thu, vết sẹo này thực sự oai phong làm sao, nó là chiến tích của một người anh hùng. Trong lòng Thu bây giờ ắt hẳn cảm thấy có lỗi khi đã để mặc cảm về vết sẹo đó là bằng chứng để Thu xa lánh ba mình. Cô bé thấm thía tất cả tình yêu trong nụ hôn và vòng tay ôm chặt cho thỏa những ngày nhớ mong. Thu trở lại như một đứa trẻ, không gai góc, không bướng bỉnh, nguyên vẹn là một đứa trẻ háo hức tình cha, một đứa trẻ không muốn ba mình phải rời đi. Khoảnh khắc tiếng “ba” bật ra khỏi đôi môi bé bỏng của bé Thu cũng là khoảnh khắc cảm động nhất trong câu chuyện.

Những người xung quanh người này đều im lặng và xúc động khi chứng kiến cảnh chia ly của hai cha con. Giá như có thể kéo dài thời gian, thì đâu có cái gọi là hoài niệm. Anh Sáu không thể ở lại lâu hơn được nữa, thời gian đã hết, việc ra quân không thể chậm trễ. Anh Sáu phải làm nhiệm vụ của một người lính nên chẳng thể níu kéo thêm thời gian với con gái mình. Thu không cho bố đi cho đến khi bố hứa mua cho em một chiếc lược. Món quà mà bất cứ cô gái nhỏ nào cũng muốn có. Tuy nhiên, đâu chỉ là món quà, thứ mà chỉ cần cho Thu là con bé sẽ ngoan ngoãn nghe lời để ba đi. Điều Thu chờ đợi là sự trở về của ba mình. Chiếc lược chi là cái cớ cho lần gặp sau. Điều Thu muốn là lời hứa của ba cô bé. Với một đứa trẻ, lời hứa cũng là một món quà đáng để hy vọng. Không chỉ vậy, chiếc lược với bé Thu còn là cách để bố thể hiện tình cảm của mình với bé.

Tâm lý của một đứa trẻ luôn muốn người mình yêu thương quan tâm đến mình để thể hiện mình bằng cách tặng quà. Sau tất cả, điều Thu mong chờ nhất vẫn là tình yêu thương và sự trở về an toàn của cha, điều mà anh Sáu không thể hứa với con gái mình. Câu chuyện kết thúc bằng sự ra đi đau buồn của anh cùng chiếc lược ngà khắc tám chữu tậm đáy long người cha "yêu nhớ tặng Thu con của bà". Chiếc lược chứa đựng bao ước vọng, tâm huyết, cũng là món quà duy nhất anh Sáu để cho lại con mình. Thế nhưng, có lẽ sau khi cầm chiếc lược được trao từ tay ông Ba, cô giáo Thu đã nhận được món quà còn vĩ đại hơn thế nữa, đó là tình cha con sâu nặng, động lực để Thu vững bước trên con đường mình chọn.

Không phải tự nhiên mà Nguyễn Quang Sáng được mệnh danh là cây đại thụ của văn học Nam Bộ. Cũng như cả cuộc đời gắn bó với người dân Nam Bộ, sáng tác của ông mang đậm dấu ấn của dòng sông Tiền hiền hòa, chân chất như một sự tôn thờ nhỏ bé của cuộc đời. Đọc văn Nguyễn Quang Sáng, người ta có cảm giác sở dĩ cuốn sách trở nên sống động là bởi nhà văn chọn cho mình một phong cách phản ánh hiện thực xuyên suốt hành trình sáng tạo. Đối với anh, văn chương hay và trí tưởng tượng giống như xa xỉ phẩm. Anh chọn cách để từng nhịp cầu chữ chìm vào dòng sông quê hương để tự nó thấm đẫm phù sa.

Thành công của Chiếc lược ngà không chỉ dừng lại ở nghệ thuật xây dựng cốt truyện độc đáo, ngôn ngữ giản dị, giàu cảm xúc mà Chiếc lược ngà còn gây tiếng vang ở cách nhà văn lựa chọn những chi tiết rất đắt như vết sẹo trên mặt anh Sáu, cho toeets anh gắp chứng cá cho con, đặc biệt là hình tượng đa nghĩa chiếc lược ngà. Không thể bỏ qua nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật trẻ con vừa mâu thuẫn, vừa mạch lạc dựa trên sự hiểu biết của nhà văn. Tất cả những thành công đó là bàn đạp để Chiếc lược ngà gửi gắm thông điệp về tình phụ tử và tạo nên hình ảnh một cô bé Thu vừa lém lỉnh, thông minh, ngang tàng nhưng lại rất mực yêu thương, kính trọng cha.

Sự khắc nghiệt của thời gian luôn song hành với sự xói mòn của những giá trị tinh thần hay vật chất dẫn đến việc thuộc về một thời đại. Văn học cũng không nằm ngoài quy luật này. Tuy nhiên, với tính cách của mình, qua lăng kính của chính ông về cuộc sống., Nguyễn Quang Sáng đã để Chiếc lược ngà và hình ảnh bé Thu vượt lên trên sự quy luật này. Cho đến hôm nay, dù đất nước không còn tình cảm, không vết sẹo nào chia cắt được tình yêu xa nhau, nhưng mỗi khi nghĩ đến hình ảnh bé Thu giàu cá tính, lòng người lại dậy lên bao cảm xúc đẹp đẽ về gia đình. Mọi thứ đều có thể qua đi, chỉ có tình người là còn mãi cùng năm tháng. Một ngày nào đó chúng ta có thể quên đi vài chi tiết trong tác phẩm, nhưng chỉ còn lòng còn cảm xúc thì tác phẩm vẫn làm dấy lên niềm trắc trở, đồng điều, thông cảm và yêu thương của những đấng sinh thành.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 14

Có một nhà văn đã nói rằng: "Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng chính cuộc sống viết ra". Cuộc chiến tranh chống Mỹ của dân tộc ta với biết bao câu chuyện đã trở thành huyền thoại được các nhà văn ghi lại như những câu chuyện cổ tích hiện đại. Trong số ấy phải kể đến "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng. Nhân vật bé Thu trong truyện đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc về tình thương cha mãnh liệt và có cá tính mạnh mẽ.

Ra đời năm 1966, những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của đồng bào Nam bộ trong 30 năm chiến tranh, "Chiếc lược ngà" được kể lại qua sự chứng kiến của bác Ba, người đồng đội của anh Sáu. Người đã lặng lẽ dõi theo từ đầu đến cuối câu chuyện cảm động của cha con anh Sáu - bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của bác Ba, chúng ta mới thấm thía hết nỗi đau của người dân Nam bộ trong chiến tranh và sức mạnh của tình cha con thiêng liêng, bất tử.

Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Lần về phép ba ngày của anh Sáu là cơ hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử.

Nhưng nhà văn lại đặt bé Thu vào một tình huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận anh Sáu là ba, đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần gặp mặt ấy, là lần gặp mặt đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con em.

Tuy nhiên, từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra đặc điểm riêng, cá tính riêng của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi nhận ra ba.

Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, Thu là một cô bé trẻ con, bướng bỉnh và đáo để đến nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ tình thương ba dành cho em. Phút đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột và suy nghĩ của anh Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu "má, má" để lại anh Sáu đứng một mình "nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy".

Trong ba ngày anh Sáu ở nhà, anh không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiêu thốn trong 8 năm qua cho nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng "ba" dù chỉ một lần. Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả tâm lí, thái độ rất trẻ con, cố chấp của bé Thu.

Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, dọa đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không "vô ăn cơm! cơm chín rồi", "con kêu rồi mà người ta không nghe". Hai tiếng "người ta" mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lòng đến mức "không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười". Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không "cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái".

Sự im lặng của anh Sáu và cả sự gợi ý của bác Ba đều không thể làm cô bé gọi tiếng "ba" đơn sơ, giản dị. Tiếng gọi mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu tiên trong cuộc đời mình. Đỉnh điểm của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của anh Sáu trong bé Thu là chi tiết cái trứng cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lòng thương con của người cha, anh Sáu gắp cái trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con bé bất thần hất nó ta khỏi chén cơm.

Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, anh Sáu đánh con, Thu không khóc, lầm lì bỏ trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà bà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây xuồng cho thật to. Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu.

Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Sự ương ngạnh của Thu không hoàn toàn đáng trách. Trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá nhỏ để có thể hiểu được những tình thế éo le, khắc nghiệt của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường.

Chính thái độ ngang ngạnh , quyết liệt của bé Thu lại thể hiện sâu sắc tình cảm yêu thương dành cho ba. Đơn giản Thu không nhận ra cha là vì người tự nhận là ba kia không hề giống người cha mà em đã thấy trong bức ảnh. Ba em trong ảnh không có vết sẹo dài trên mặt như thế. Cô bé không tin, thậm chí là ngờ vực. Không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng của Thu, nghĩa là bé Thu chỉ dành tình cảm cho người cha duy nhất trong bức ảnh.

Sự bướng bỉnh của Thu phải chăng còn là mầm sâu kín, sau này làm nên tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô giao liên kiến định có lập trường. Sự nghi ngờ của Thu được giải tỏa khi nghe bà ngoại giải thích vì sao ba lại có vết thẹo dài trên má. Nghe những điều ấy, "nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn".

Bởi thế, tình yêu ba trong Thu đã trỗi dậy mạnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút ông Sáu lên đường. Cái tiếng "ba" mà ông Sáu đã chờ đợi từ lâu bất ngờ vang lên "Nhưng thật lạ lùng, đến lúc ấy, tình cha con như bỗng nổi dậy trong người nó, đến lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu thét lên: - Ba...a...a...ba! Tiếng kêu của nó như tiếng xe, xé sự im lặng, xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa.

Đó là tiếng "ba" nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay như vỡ tung từ đáy lòng nó". Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba. Nó vừa kêu, vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó.

Nó vừa ôm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc: "Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!".Tình cảm con với ba được thể hiện một cách mãnh liệt, mạnh mẽ, cuống quýt, hối hả và có xen lẫn phần hối hận. Đó là những cảm xúc đã dồn nén từ lâu bỗng vỡ òa ra: "Ba bế nó lên. Nó hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa".

Bà con và người kể chuyện cũng như người đọc không thể kìm được nỗi xúc động như có ai đang nắm chặt tim mình bởi vì cái éo le của tình cha con ở đây. Lúc cha con nhận nhau lại cũng chính là lúc người cha phải ra đi. Sự níu kéo của đứa con càng khắc nhấn sự éo le của chiến tranh: "Con bé hét lên, hai tay nó siết chặt lấy cổ, chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân rồi câu chặt lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run".

Những nỗ lực của Thu không giữ được ba nó. Ông Sáu vẫn phải ra đi dù giây phút cha con nhận nhau thật ngắn ngủi! Xót thương thay cho Thu bởi cô đâu hiểu rằng cuộc gặp gỡ đầu tiên này cũng là lần cuối cùng. Ba cô đã hi sinh trong một trận càn. Chứng kiến những biểu hiện tình cảm ấy trong cảnh ngộ cha con ông Sáu phải chia tay, có người không cầm được nước mắt và người kể chuyện thì cảm thấy như có bàn tay ai nắm lấy trái tim mình.

Xuyên suốt đoạn trích, trong hai hoàn cảnh và hai cách ứng xử hoàn toàn khác nhau, nhưng thực chất chỉ là một tấm lòng yêu cha sắt son của bé Thu - một em bé mới chỉ tám tuổi. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử.

Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu trước lúc hy sinh nhờ bác Ba trao cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương "yêu nhớ tặng Thu con của ba" là kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng, tấm lòng người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu. Khi bác Ba tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược, thì cô bé bướng bỉnh cá tính ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu là tình yêu ba, tình yêu đất nước.

Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công trong việc xây dựng nhân vật bé Thu - một nhân vật trẻ em có tính cách cứng cỏi , mạnh mẽ, dứt khoát (đến nỗi, nhìn thoáng qua, người ta có thể cho là ương ngạnh, bướng bỉnh, khó bảo nhưng cũng hết sức hồn nhiên, đáng yêu, ngoan ngoãn và có tình yêu cha sâu sắc.

Có thể kể đến cách tạo tình huống bất ngờ, sự am hiểu tâm lí và tính cách trẻ em, cách chọn chi tiết nghệ thuật "đắt" (như chi tiết bé Thu không gọi ba, chi tiết bé Thu loay hoay chắt nước cơm, hất cái trứng cá ba gắp cho,chi tiết cây lược mà Thu xin ba trước lúc ba đi. Nhờ những thành công nghệ thuật này mà nhân vật bé Thu để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tình người - tình cha con trong những năm tháng chiến tranh xa cách, thương đau;để lại ấn tượng về một em bé Nam bộ thời chiến với tính cách đáng yêu, đáng mến.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 15

Chiếc lược ngà là truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Với cảm hứng viết về tình cha con và nỗi đau do chiến tranh, chuyện đã để lại cho người đọc những rung động thấm thía. Đặc biệt là diễn biến tâm lý và tình cảm tính cách của bé Thu trong lần gặp cha cuối cùng khi ông Sáu về thăm nhà.

Bằng nghệ thuật kể chuyện mang phong cách Nam Bộ với những tình huống bất ngờ. Tác giả đã để cho một nhân vật kể về nhân vật chính nhằm làm cho câu chuyện thêm khách quan và tin cậy. Đó là cách kể chuyện lồng trong chuyện, từ đó ta thấy rõ được những diễn biến tâm lý của nhân vật bé Thu.

Bé Thu là một cô bé có cá tính độc đáo mạnh mẽ. Bởi xa cha biền biệt và cũng chỉ vì một vết sẹo mà em vô tình không nhận ra cha, khi nhận ra cha thì mãi mãi em phải xa cha. Tình thương nỗi đau và sự uất hận đã giúp bé Thu sau này trở thành cô giao liên dũng cảm.

Cha đi chiến đấu biền biệt xa nhà. Đến khi Thu lên tám tuổi hai cha con mới được gặp lại nhau. Cô bé tóc ngang vai, mặc quần đen, áo hoa đỏ, hồn nhiên, xinh đẹp, mới nhìn ông Sáu đã nhận ra ngay con gái mình. Nhưng niềm vui sau bao năm xa cách là được gặp lại con thì thật trớ trêu đáp lại sự vồ vập ấy của người cha bé Thu tỏ ra ngờ vực lảng tránh.

Bé Thu hốt hoảng, mặt tái đi, vụt chạy kêu thét lên, nói trống. Trong suốt ba ngày ở bên cha bé Thu đã không nhận ra cha của mình, bé ương ngạnh, cư xử vùng vằng. Bé nhất định không nhờ ông Sáu chắt nước nồi cơm, nó hất cái trứng cá mà ông gắp cho. Bị ông Sáu đánh nó bỏ về nhà ngoại khua loảng xoảng dưới xuồng. Đó là thái độ rất ương ngạnh của một đứa bé mới tám tuổi. Nhưng thái độ đó không hề chê trách được bởi tất cả vì chiến tranh.

Chiến tranh đã gây ra những mất mát và đau thương. Mà một đứa trẻ như Thu còn quá bé bỏng để có thể hiểu được những tình thế khắc nghiệt, éo le mà ngay cả người lớn cũng không kịp chuẩn bị cho nó. Chỉ vì một vết sẹo trên mặt người cha cộng với bức ảnh mà nó biết về cha, nó đã không nhận cha. Vết thương do chiến tranh đã trở thành vết thương lòng sâu nặng của tình cảm cha con.

Ngày cuối cùng, trước phút giây ông Sáu lên đường, thì tình cảm thiêng liêng của bé Thu dành cho cha đã bùng cháy. Mọi thái độ và hành động của bé Thu bỗng đột ngột thay đổi. Khi nhìn thẳng, đối diện với người cha "đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao". Đằng sau đôi mắt mênh mông ấy chắc đang xao động biết bao ý nghĩ, tình cảm. Lần đầu tiên bé cất tiếng gọi "Ba...ba" và tiếng kêu như tiếng xé "chạy nhanh như sóc ôm lấy cổ ba nó" cùng với cử chỉ hôn khắp mọi nơi: nó hôn tóc hôn cổ, hôn cả vết thẹo dài trên má của ba.

Tâm lý ngờ vực chỉ vì vết sẹo đã được giải tỏa. Vì thế trong phút chia tay với cha tình yêu và nỗi mong nhớ suốt bao năm trời bị dồn nén nay trở nên mạnh mẽ và có cả sự hối hận. Cảnh tượng ấy diễn ra xúc động trong lòng mọi người. Và khi ông Sáu nói "Ba đi rồi ba về với con", bé Thu đã hét lên là "không", rồi hai tay siết chặt cổ, dang cả hai chân quặp lấy ba, đôi vai nhỏ run run.

Chắc cô bé đã khóc, khóc vì sự ân hận của mình đã không nhận ra cha, khóc vì xót thương người cha vì chiến tranh mà phải xa gia đình. Chỉ vì bom đạn quân thù, mà ba đã mang sẹo trên mặt. Đó là điều đau khổ. Vậy mà, bé Thu đã không hiểu, lại còn xa lánh cha khiến cha đau khổ. Được bà ngoại giảng cho, bé đã hiểu. Nhưng có lẽ khi bé hiểu ra thì... muộn rồi. Cha bé đã phải xa gia đình trở về chiến trường, phải chịu bao gian khổ của mưa bom bão đạn.

Vì vậy, mà bé Thu mới siết cổ cha, níu chặt lấy người cha, như muốn đền bù những hành động sai lầm của bé. Từ giây phút bé Thu thức tỉnh, tình cảm tính cách của bé đã thay đổi sự ương ngạnh của cô bé tám tuổi đã không còn, mà thay vào đó là tình yêu cha, thương cha, tự hào về cha.

Cuộc chia tay của bé Thu trong những giây phút cuối cùng này có ai biết được rằng đó là cuộc chia tay lần cuối là lúc cha xa em vĩnh viễn, không thực hiện lời hứa "ba đi rồi ba về với con". Nhưng lòng yêu cha thành kính đã tạo nên một sức mạnh thôi thúc, rèn giũa để Thu trưởng thành sau này, khi cô trở thành một chiến sĩ giao liên gan dạ, dũng cảm.

Tóm lại, qua diễn biến tâm lý của bé Thu ta thấy được bé là người có tình cảm mạnh mẽ, sâu sắc, hồn nhiên, ngây thơ. Cá tính ấy của bé được tập trung thể hiện trong tình cảm cha con đằm thắm. Nhân vật bé Thu đã để lại trong ta những ấn tượng sâu đậm về tình cảm mà bé dành cho cha. Người đọc thêm yêu mến bé Thu với tình cảm mạnh mẽ ấy.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 16

Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết:

Thêm một người trái đất sẽ trật hơn

Nhưng thiếu mẹ thế giới đầy nước mắt".

Vượt qua khuôn khổ trật hẹp của câu chữ, câu thơ trên đề cao vai trò, ý nghĩa lớn lao của bậc sinh thành đối với con cái. Thật hạnh phúc biết bao với những ai sinh ra và lớn lên luôn có cha, có mẹ bên cạnh. Nhưng cũng thật bất hạnh biết bao khi ai đó sinh ra trên đời đã thiếu vắng tình cảm của mẹ cha. Và bé Thu trong truyện ngắn "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng là một con người phải chịu cái cảnh bất hạnh như thế.

Bé Thu sinh ra trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, sinh ra và lớn lên trong tình yêu thương bao bọc của mẹ nhưng lại thiếu đi bóng dáng của người cha. Bởi cha bé Thu – ông Sáu đi lính chiến đấu chống giặc, hai cha con chỉ giao tiếp với nhau, nhìn nhận nhau qua một tấm ảnh chụp.

Và sau tám năm dòng xa cách, ông Sáu – cha của bé đi lính trở về khi hòa bình lập lại, niềm khát khao của người cha dâng đầy trong lòng ông, lòng nôn nóng vồ vập mong được gặp con và ôm con vào lòng. Nhưng thật trớ trêu thay, bé Thu lại không nhận ông là cha và tỏ thái độ lảng tránh ông. Cảnh gặp gỡ diễn ra trong phút chốc nhưng cũng khiến người đọc không cầm được nước mắt.

Đang chơi ở ngoài sân, từ phía xa xa, bỗng có người gọi tên mình, lại xưng là “ba”, Thu “giật mình tròn xoe mắt”. Nó ngơ ngác, lạnh lùng, mặt tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên “má, má”. Phản ứng đó của bé Thu là phản ứng rất bình thường và hợp lí. Bởi trước mắt bé bây giờ là hai người đàn ông hoàn toàn xa lạ.

Từ khi mới lọt lòng, bé chưa hề biết mặt cha ngoài đời ra sao, tình cảm cha con chỉ được thông qua một tấm ảnh chụp với má nó, nay bỗng có người có một vết sẹo dài trên mặt lại giần giật đỏ ửng lên trông thật dễ sợ (khác với ảnh chụp chung với má) lại xưng “ba”, gọi mình là "con” nên phản ứng của bé chạy vụt đi và thất thanh gọi mẹ là điều rất dễ thông cảm.

Chẳng phải người lớn vẫn dặn dò con trẻ, không được nghe theo lời người lạ, bởi đó là những ông ba bị chuyên đi lừa và bắt cóc trẻ con hay sao? Vì thế phản ứng của bé Thu là một thái độ vô cùng chân thực của một đứa trẻ ngây thơ, bé bỏng. Ba ngày được nghỉ phép ở nhà, ông Sáu dồn hết tình cảm của người cha cho bé Thu. Ông tìm mọi cách để vỗ về, chiều chuộng con chỉ để nghe một tiếng gọi “ba” của con bé.

Nhưng ông càng gần con, bé Thu lại càng xa lánh, thậm chí là phản ứng quyết liệt: Khi mẹ bảo gọi ba vào ăn cơm hay chắt nước nồi cơm to đang sôi sùng sục trên bếp, bé chỉ nói trổng, nói trống không. Khi ông Sáu gắp cái miếng trứng cá vào chén của bé thì bé lấy đũa soi soi vào chén rồi bất thần hất miếng trứng cá ra ngoài, làm cơm bắn tung tóe ra cả mâm.

Bị cha đánh đòn, bé không khóc mà chạy sang nhà ngoại, cố ý khua dây cột xuồng cho thật to. Bé Thu thật là bướng bỉnh, cứng đầu và gan lì. Đến bác Ba – người ngoài cuộc cũng phải nghĩ “con bé đáo để thật”, còn ông Sáu thì không nén được tức giận nên đánh và quát con “Sao mày cứng đầu quá vậy?”

Tuy nhiên, thái độ của bé Thu hoàn toàn không đáng trách. Bởi đơn giản là vì bé thấy người cha của hiện tại trước mắt khác với tấm hình chụp chung với má của bé quá. Vả lại Thu còn quá bé bỏng để có thể thấu hiểu được sự khắc nghiệt của cuộc sống, của chiến tranh và người lớn cũng chưa kịp giải thích cho bé hiểu nên bé không tin là người có vết sẹo trên mặt kia là ba của mình. Đồng thời, điều đó cũng chứng tỏ tình cảm sâu sắc của bé dành cho ba. Bé chỉ yêu, chỉ nhận ba khi biết chính xác đó là ba của bé mà thôi.

Trong đêm bỏ sang nhà ngoại, Thu được bà giải thích về vết sẹo dài trên má của ba đã làm thay đổi cả khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ được giải tỏa, con bé nằm im nghe bà kể rồi “thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Vì thế, suốt cả một đêm bé không ngủ được, có lẽ vì cảm thấy ân hận và nuối tiếc đã đối xử không tốt với cha mình.

Buổi sáng chia tay ấy, trước lúc ông Sáu lên đường, thái độ và hành động của bé khác hoàn toàn mọi khi: “nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu”. Khi đối diện với ông Sáu, “đôi mắt mông mông của con bé bỗng xôn xao”, “tình cảm cha con như bỗng trỗi dậy trong người nó”, “nó kêu thét lên: “Ba…a…a…ba!”.

Sự khao khát tình cảm cha bị kìm nén suốt mấy năm, nay bỗng bật lên xé tan cả sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, “nghe thật xót xa”. Thế rồi, nó vừa kêu, vừa chạy tới, nhanh như một con sóc, “nó chạy thót lên và dang hai tay ôm lấy cổ ba nó”. Sự xúc động ngẹn ngào đã khiến “làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Nó hôn khắp người ông Sáu, “hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”.

Sợ cha đi mất, “chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân câu lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Sau khi nghe ông Sáu nói: “Ba đi rồi ba về với con”, bé Thu thét lên: “không!”. Vừa khóc vừa không cho cha đi. Giọt nước mắt ấy là biểu hiện của tình cha con ấm áp, của sự hạnh phúc vỡ òa khi nhận ra cha sau tám năm xa cách, lại vừa xen lẫn cả sự ăn năn, hối hận vì không kịp nhận ra cha sớm hơn chút nữa…

Chứng kiến cảnh ngộ ấy, có người đã không cầm được nước mắt, còn bác Ba thì cảm thấy như có bàn tay nắm lấy trái tim mình mà bóp thắt lại… Qua thái độ và hành động của bé Thu trước và sau khi nhận ra ông Sáu là cha mình, người đọc thấy được đằng sau sự hồn nhiên, ngây thơ và cứng đầu, bướng bỉnh của bé là tình cảm cha con sâu nặng, bền chặt, thiêng liêng. Đồng thời, người đọc cũng thấy được Nguyễn Quang Sáng là nhà văn rất am hiểu tâm lí và yêu thích trẻ thơ nên mới có những trang văn thật sinh động và cảm động về tình cha con đến như vậy!

Tóm lại, qua hình tượng nhân vật bé Thu, chúng ta thấy thật sự thấm thía xót xa và cảm động trước tình cảm cha con họ dành cho nhau. Dù khoảng cách của chiến tranh, của không gian và thời gian sau tám năm ròng xa cách vẫn không thể nào giết chết được tình cảm mà cha con họ hướng về nhau, để rồi khi gặp gỡ, tình cảm bất thử thiêng liêng ấy trỗi dậy mạnh mẽ, khiến người đọc cũng phải cảm động mà rơi nước mắt.

Chẳng thế mà, trước khi ông Sáu hi sinh, dù không còn đủ sức trăng trối lại điều gì nhưng tình cảm cha con là không thể chết được, ông Sáu đã rút chiếc lược trong túi áo ra mà đưa cho ông Bà, như muốn nhắn nhủ lời gì đó mà ông không thể cất được thành lời.

Và sau ba năm ông Sáu mất, lúc này bé Thu đã trở thành cô giao liên xinh đẹp, dũng cảm, nhận được chiếc lược ngà mà ông Ba đưa cho, lòng cô không kìm được lòng mình. "Hai giọt lệ sắp rơi xuống bỗng vỡ ra tràn đầy qua đôi mắt". Và những giọt nước mắt ấy của Thu là giọt nước mắt cho tình phụ tử sâu nặng, bất biến, vĩnh hằng!

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 17

Có thể nói được rằng chính tình cảm thiết tha, gắn bó - tình cảm gia đình được xem như là một đề tài quan trọng của văn học Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến, đặc biệt là kháng chiến chống Mỹ. Minh chứng cho thấy trong những thời kỳ này có rất nhiều tác phẩm nổi danh đó chính là “Chiếc lược ngà”, “Bông cẩm thạch”,… Nhưng “Chiếc lược ngà” vẫn là một tác phẩm nổi trội hơn cả, làm lên sự thành công đó chính là nhân vật bé Thu.

Tác phẩm “Chiếc lược ngà” ra đời năm 1966 rồi được đưa vào tập truyện cùng tên của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Câu chuyện dường như cũng đã như được xây dựng trên một tình huống hiểu lầm đã có thể đạt được một hiệu quả nghệ thuật cao. Chính sự hiểu lầm như đã tạo nhiều bất ngờ cảm động. Đó là nhân vật anh Sáu đi kháng chiến chống Pháp từ khi đứa con duy nhất của anh chưa đầy một tuổi.

Và dường như cũng từ đó hai ba con chưa hề gặp lại nhau, cho đến khi kháng chiến kết thúc thì lúc này đây anh trở về, nhưng đáng nói là cái đứa con gái tám tuổi không chịu nhận ba. Ba ngày trở về dù tìm đủ mọi cách đi chăng nữa thì con bé vẫn không gọi cha.

Cho đến ngày cuối cùng thì tình cha con mới mãnh liệt, bé Thu đã gọi ba và ôm chặt lấy cha không cho cha đi. Ông Sáu xúc động và trong những ngày chiến đấu ở chiến trường ông vẫn không nguôi nhớ về con và kỳ công làm cho con chiếc lược ngà đẹp. Và trớ trêu ông Sáu hi sinh khi vừa kịp dặn dò người đồng đội của mình đưa món quà - chiếc lược này cho bé Thu.

Người đọc quả không quên được bé Thu với tính cách bướng bỉnh, gan góc và rất có cá tính. Dường như chính trong tâm hồn trẻ thơ của bé Thu, chỉ có duy nhất hình ảnh một người ba mà bé Thu đã được biết qua bức ảnh chụp với má ngày cưới. Nó dường như cứ nhất quyết không chịu nhận ông Sáu là ba dù cả nhà – trong đó có bà nội – thừa nhận điều đó. Họ dường như cũng đã đón ông với tất cả tấm lòng chân thành, yêu thương của con người Nam Bộ.

Và điều đó như chẳng những thế, ông còn vô cùng xúc động khi gặp nó. Nhưng dường như ông đã bỏ qua tất cả, Thu vẫn hét lên sợ hãi khi ông Sáu lập cập đến với nó và lắp bắp gọi trìu mến rằng: “Thu! Ba đây con…”. Dường như ta thấy được có điều đó bởi Thu thấy ba nó trong bức ảnh không hề có vết thẹo đáng sợ kia trên má còn người cứ gọi nó là con, bắt nó gọi bằng ba bây giờ lại có vết thẹo dài trên má làm nó không nhận ba.

Không chỉ vậy, chính với việc mà đã qua nhiều chi tiết miêu tả hành động của bé Thu Nguyễn Quang Sáng dường như cũng đã như vừa thể hiện được tính cách đặc biệt của cô bé vừa tỏ ra rất am hiểu tâm lí trẻ thơ. Đặc biệt hơn đó chính là khi mẹ yêu cầu “mời ba vô ăn cơm", Thu lúc này lại gọi "trổng" “vô ăn cơm”.

Cho dù rằng là nồi cơm sôi, không tự chắt được nhưng bé Thu vẫn ương ngạnh nhất quyết không chịu gọi ba để được giúp đỡ. Tất cả những hành động của bé Thu như khước từ mọi sự quan tâm của ông Sáu, ông Sáu cũng rất buồn vì chỉ có 3 ngày ngắn ngủi muốn quan tâm con mà nó lại không nhận ba.

Có thể thấy được cô bé không nhận ba bởi cô hiểu nhầm về vết sẹo trên mặt ba. Cô dường như cũng đã nghĩ rằng “người ta” mang đến cho mình một người “ba giả"! Và chính vì thế, bé Thu lúc này dường như lại càng phản đối quyết liệt người “ba giả” ấy bao nhiêu càng thể hiện cô bé yêu ba mình bấy nhiêu.

Người đọc như thấy được cái tình yêu ấy thật sâu sắc biết nhường nào. Bởi nó dường như cũng chỉ có một, mà dường như lại không thể chia sẻ cho bất kì ai khác, ngay cả khi đó là người được tất cả mọi người thừa nhận là ba của nó, hay đó cũng chính là người yêu thương và quan tâm đến nó rất chân thành.

Và đặc biệt hơn khi biết rằng ông Sáu là ba thật của mình, và vết sẹo trên mặt ông là do thằng Mĩ gây nên điều này. Cho đến buổi sáng cuối cùng trong những ngày phép của ba "Con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa cửa và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó, vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sẩm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương.

Với đôi mi dài uốn cong, và như không bao giờ chớp, đôi mắt nó như to hơn, cái nhìn của nó không ngơ ngác, không lạ lùng, nó nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Và quả thật bất ngờ khi không hiểu con bé “nghĩ ngợi sâu xa” điều gì, chỉ biết rằng khi ông Sáu buồn rầu quay lại nhìn nó - không dám lại gần sợ nó lại bỏ chạy như lần trước.

Lúc này ông Sáu nói: “Ba đi nghe con” thì bé Thu bất ngờ lao đến thét lên một tiếng gọi như thật vỡ òa ra: Ba., a… a…ba! Rồi ôm chặt lấy ông nức nở rằng “Con không cho ba đi”. Đến đây, quả thật rằng những người đọc chúng ta mới vỡ lẽ ra rằng Thu thèm được gọi ba như thế nào. Có thể thấy được chính "Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa.

Đó dường như cũng chính là những tiếng "ba" mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay. Và đó cũng chính là những tiếng "ba" như vỡ tung ra từ đáy lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó dường như cũng đã chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó."

Bé Thu quả thật là một đứa trẻ giàu tình cảm. Nhưng cũng thật dễ hiểu vì nó yêu ba nên nó không chấp nhận một ai khác lại nhận làm ba nó. Nhất là khi người ba trong tâm trí nó là bức ảnh để lại, ba nó không có vết thẹo kia. Khi đã hiểu được mọi chuyện thì cảm xúc mới vỡ oà như vậy.

Có thể nhận thấy được chính trong quá trình thể hiện diễn biến tâm lí nhân vật bé Thu có một chi tiết vô cùng quan trọng đó chính là chi tiết cái thẹo. Chính cái thẹo được đánh giá chính là một nguyên nhân gây ra những hiểu lầm trong tình cảm của cha con mà Thu dành cho ba.

Cái thẹo dường như cũng chính là vết thương mà giặc Mĩ gây ra cho ba Thu. Ta dường như có thể thấy được những sự chia cắt gia đình không chỉ riêng gia đình bé Thu mà còn hàng triệu gia đình người Việt cũng là do giặc Mỹ gây ra. Khi mà đã thấu hiểu sâu sắc điều đó, sau này, Thu đã trở thành một nữ giao liên dũng cảm, can đảm cũng như cha của mình.

Quả thực nhân vật bé Thu trong “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng đã để lại trong lòng người đọc chúng ta biết bao nhiêu là những ấn tượng sâu sắc bởi một tính cách đặc biệt khó có thể nhầm lẫn. Nhân vật này dường như cũng đã góp phần tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc cho tác phẩm. Và cũng chính vì vậy, cùng với tác phẩm, nhân vật bé Thu đã giành được một vị trí riêng trong lòng độc giả yêu truyện ngắn Việt Nam từ trước đến nay.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 18

Có những trang viết khiến người đọc rơi nước mắt khi chứng kiến những dằng xé, đau đớn và cả nước mắt. Có những nhân vật dù chỉ được vẽ qua nét bút của tác giả nhưng có sức ám ảnh. Nhân vật bé Thu trong truyện ngắn "Chiếc lược ngà' của Nguyễn quang sáng là một hình tượng luôn khiến người đọc xúc động mạnh khi lật giở từng trang viết của tác giả.

"Chiếc lược ngà" được sáng tác năm 1966, trong lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra ác liệt, nhiều cam go. Ông Sáu lên đường ra chiến trận khi bé Thu chưa tròn một tuổi, nhưng khi ông trở về thăm con thì bé đã lớn và nhất quyết không nhận ba. Những day dứt, sự dằng xé, nước mắt, tủi hờn, mâu thuẫn nội tâm trong một đứa bé đã khiến cho cốt truyện được đẩy đến cao trào. Ba ngày ở cạnh ba nhưng bé Thu nhất quyết không chịu nhận, chỉ khi nghe bà ngoại kể về vết thẹo trên gương mặt ba thì lúc đó bé mới ôm chặt ông Sáu, không cho đi. Tình cảm cha con vỡ òa, cảm xúc trong lòng người đọc cứ thế tan chảy.

Mặc dù mới lên 8 tuổi nhưng bé Thu được xây dựng rất sắc nét, cá tính mạnh, bướng bỉnh. Trong tâm trí của bé Thu chỉ có một tấm hình duy nhất của ba chụp với má vào ngày cưới. Đó là những gì nó có để gìn giữ và đợi chờ ba trở về. Khi ông Sáu nhất quyết gọi "Thu! Ba đây con" thì bé vẫn nhất quyết không chịu nhận, cự tuyệt một cách thẳng thừng. Ông Sáu luôn dành tình cảm yêu thương chân thành và sâu sắc nhất cho bé Thu nhưng ông nhận lại là sự lạnh lùng, xa lánh.

Chỉ bởi về vết thẹo dài trên mặt, chỉ vì chiến tranh, vì những tàn khốc mà nó đã gây ra. Cá tính mạnh của một cô bé 8 tuổi được Nguyễn Quang Sáng thể hiện rất sắc nét và táo bạo. Qua đó giúp người đọc hình dung được sự kiên định, vững chắc trong trái tim con người Nam Bộ.

Sự bướng bỉnh, lạnh lùng của bé Thu dành cho ông Sáu còn thể hiện qua cử chỉ và lời nói. Khi mẹ bảo mời ba vô ăn cơm thì nó chỉ nói cộc lốc "vô ăn cơm". Đặc biệt qua chi tiết chắt nước ở nồi cơm ra, bé Thu không chắt được nhưng nhất quyết không để cho ông Sáu chắt. Bướng bỉnh, lạnh lùng, hờ hững đã khiến cho ông Sáu đau lòng.

Cao trào của tính cách bé Thu thể hiện qua bữa cơm, khi ông Sáu gắp cho bé Thu cái trứng cá vào bát, bé hất đổ cả chén cơm. Ông Sáu đánh đòn, và tất cả mọi người cứ tưởng Thu sẽ giẫy nẩy lên và bỏ đi, nhưng không, "Nhưng không, nó ngồi im, đầu cúi gằm xuống. Nghĩ thế nào nó cầm đũa, gắp lại cái trứng cá để vào chén, rồi lặng lẽ đứng dậy, bước ra khỏi mâm".

Suy nghĩ đã thôi thúc, đẩy thành hành động quyết liệt, khước từ mọi tình cảm và yêu thương của ba dành cho mình. Vì với bé Thu, đó không phải là ba. Có lẽ chính cá tính mạng, sự ngang bướng như thế này đã thôi thúc cô trở thành cô giao liên kiên cường trong cuộc kháng chiến về sau.

Nguyễn quang sáng không chỉ dừng lại ở việc miêu tả tâm lí nhân vật của một đứa trẻ lên 8 mà lấy tính cách đó làm tiền để cho tình yêu thương ba tha thiết và mãnh liệt như thế nào. Suốt 3 ngày ở cạnh ba nhưng bé Thu nhất quyết không nhận ba, chỉ đến khi nghe bà ngoại kể về vết thẹo trên mặt ba do chiến tranh gây nên thì lúc đó bé thu mới vỡ òa.

Gương mặt nó buồn rầu như nghĩ ngợi gì, khi ông Sáu lên đường ra trận, không dám lại gần vì sợ nó lại giãy nảy như lần trước. Chỉ dám nói rằng "Ba đi nghe con" nặng nề, đau đớn, dằn vặt của một người ba nhưng không làm cách nào để thuyết phục con gái.

Lúc ấy một cảnh tượng xúc động diễn ra. Nó khóc thét lên "ba", tiếng "ba" như vỡ òa, trào ra từ tận trong tim mà nó đã dồn nén bao nhiêu năm qua. Tiếng "ba" đó như khiến người đọc nghẹn đắng ở cổ họng, cho một tình yêu bền bỉ và sâu nặng. Tiếng kêu của bé Thu như "tiếng xé, xé tan không khí tĩnh lặng, xé ruột gan mọi người, nghe thật xót xa".

Bao nhiêu năm rồi, bé Thu vẫn luôn khát khao được gặp ba, được gọi tiếng ba. Tình cảm của bé Thu hoàn toàn đối lập với những ngày ông Sáu còn ở đây. Đó chính là niềm khao khát, tình yêu ba tha thiết. Sự ngang tàng, bướng bỉnh và tình yêu ba tha thiết là đặc điểm hội tụ để bé Thu có thể xác định cho mình con đường đi trong tương lai, sẽ nối bước cha, đánh đuổi kẻ thù xâm lược.

Như vậy việc xây dựng nhân vật bé Thu với những tính cách, tâm tư tình cảm đã khiến người đọc thêm xúc động về tình phụ nữ, tình cảm thiêng liêng nhất. Qua đó, tác giả còn muốn lên án, tố cáo chiến tranh đã khiến cho nhiều gia đình rơi vào cảnh nước mất nhà tan.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 19

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn, là chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Ông viết nhiều về con người Nam Bộ trong chống và chiến đấu, trong những năm chiến tranh ác liệt. “Chiếc lược ngà” là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn. Ông đã thể hiện trọn vẹn vẻ đẹp của tình cha con trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Kể về mối quan hệ cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Tác giả đã làm nổi bật lên hình ảnh bé Thu – một cô bé đầy cá tính, có tình yêu thương cha thật thắm thiết, mãnh liệt. Nhân vật bé Thu đã gieo vào lòng mỗi người về nỗi đau, sự mất mát và khát vọng yêu thương của tuổi thơ.

Nhân vật bé Thu được khắc họa trong một tình huống truyện thật độc đáo, sau tám năm dài xa cách, ngày hội ngộ bé Thu đã không chịu nhận ông Sáu là ba. Bé Thu còn có những phản ứng quyết liệt, xa lánh ông Sáu, thậm chí là biểu hiện vô lễ với ông. Nhưng bất ngờ đến lúc chia tay, bé Thu lại cất tiếng gọi ba cùng với những cử chỉ quyến luyến, không muốn xa ba. Những biểu hiện của bé Thu đã làm cho mọi người xung quanh phải xót xa, thương cảm cho một đứa bé sống trong chiến tranh thiếu vắng tình cha con. Có lẽ ai trong chúng ta khi đọc tác phẩm cũng đều không thể quên được hình ảnh của bé Thu vừa ương bướng, hồn nhiên, đáng yêu, vừa có tình yêu thương cha thắm thiết.

Từ nhỏ, bé Thu đã phải sống trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, hết chống Pháp rồi đến chống Mỹ. Chưa đầy một tuổi thì em phải xa cách người cha suốt tám năm dài, chưa hề được gặp cha một lần. Bé Thu khao khát tình cảm của người cha biết bao nhiêu. Đến khi gặp lại, em hụt hẫng vì cái vết sẹo dài trên mặt, em như lại phải xa ba thêm một lần nữa. Niềm hạnh phúc cứ xa mãi trong tầm tay của em vì chiến tranh, ba lại phải lên đường theo tiếng gọi của non sông trong kháng chiến chống Mỹ. Nỗi khao khát được gần ba theo ngày tháng vẫn cứ nồng nàn, cháy bỏng, mãnh liệt. Mọi lời lẽ, cử chỉ của bé Thu đều gợi lên trong người đọc nỗi nhức nhối xen lẫn sự yêu thương, sự đồng cảm.

Bé Thu là một đứa bé ương bướng nhưng hồn nhiên, đáng yêu. Thu kiên quyết không chịu nhận ông Sáu là ba, không chịu gọi ba ngay từ lúc gặp ông Sáu lần đầu. Phản ứng của bé Thu thật bất ngờ, làm ông Sáu phải sững sờ, nó nghe ông Sáu gọi, nó giật mình tròn mắt nhìn ngơ ngác, nó hét lớn cầu cứu. Nó vụt chạy và kêu thét lên “Má! Má”. Chẳng những nó không nhìn nhận ông Sáu mà nó còn tỏ ra sợ hãi vì bỗng dưng có một người xa lạ tự xưng là ba nó. Trong tâm hồn non nớt của trẻ thơ, nó chỉ ghi khắc hình ảnh của người ở trong tấm ảnh chụp chung với má nó. Vết sẹo dài ửng đỏ trên khuôn mặt của người đàn ông kia trong cái nhìn của một đứa trẻ như nó thì hình ảnh đó thật đáng sợ. Ba nó có khuôn mặt đẹp không có vết sẹo. Chính cái nghĩ hồn nhiên ấy càng làm rõ hơn tình yêu cha thắm thiết của cô bé. Nó ương bướng không chịu gọi tiếng ba và luôn tìm cách xa lánh ông Sáu trong ba ngày phép của ông ở nhà. Nó nói trổng, nó hất tung cái trứng cá khi ông Sáu muốn thể hiện sự yêu thương, chăm sóc đối với con gái. Ông Sáu càng muốn gần gũi nó thì nó càng lùi xa, ông càng tỏ ý chiều thương thì nó lại càng lảng tránh. Nó không chấp nhận sự chăm sóc của người đàn ông mà nó cho là xa lạ, nhất định không phải là cha.

Bé Thu có những thái độ và suy nghĩ rất ngây thơ, rất đáng yêu. Đó là khi nó do dự gọi ba hay không lúc nó muốn nhờ ông Sáu chắt nước cơm giùm. Tiếng ba đối với nó rất quan trọng, nên nó rất phân vân và nó rất chắc lòng, chắc dạ khi quyết định không gọi tiếng ba. Rồi khi bị ông Sáu đánh, nó bỏ sang nhà ngoại mét với ngoại, nó như trút tất cả sự giận dỗi vào hành động khua sợi dây lò tói, xô mạnh chiếc xuồng ra… Những hành động ương bướng của Thu có thể làm cho người đọc nghĩ rằng nó ngỗ nghịch, nhiễu sách. Thế nhưng, nếu hiểu sâu xa hơn thì tất cả mọi biểu hiện ấy đều xuất phát từ tình yêu thương cha quá đỗi thắm thiết. Có hiểu được hoàn cảnh gia đình thời chiến, hiểu được khát vọng yêu thương của trẻ thơ thì mới cảm nhận được tình yêu cha của bé Thu nồng nàn đến dường nào.

Bé Thu có sự so sánh giữa người trong ảnh với người ở ngoài đời khác nhau ở vết sẹo, đó là nguyên nhân nó không nhận ông Sáu là ba. Tâm hồn, trái tim nó ấp ủ một hình ảnh duy nhất và không muốn ai thay thế. Nó chối từ cái dang tay của ông Sáu trong lần hội ngộ đầu tiên khiến ông Sáu bàng hoàng. Nó không gọi tiếng ba bởi vì tiếng ba ấy rất thiêng liêng, chỉ dành cho người ba đích thực. Đối với nó, ông Sáu là ba “giả”, những đau buồn, khổ tâm của ông Sáu không làm nó bận tâm. Không ai có thể tháo gỡ được những vướng mắc thầm kín trong lòng của cô bé. Tại sao phải gọi người đàn ông xa lạ kia là ba? Nó là đứa bé có lập trường, chính tình cảm yêu thương cha mãnh liệt đã khiến cho cô bé rất kiên định, quyết liệt. Và đây cũng chính là cái mầm sâu kín để làm nên tính cách cứng cỏi, ngoan cường của một cô giao liên mưu trí, dũng cảm sau này.

Tưởng chừng như tình cảm cha con không thể nối kết được nhưng khi Thu được nghe bà ngoại giải thích nguyên nhân vết sẹo trên má ông Sáu thì bé Thu hoàn toàn thay đổi thái độ, từ xa lánh nó lại khao khát được gần gũi, từ hờn giận nó chuyển sang yêu kính, tự hào. Trước lúc ông Sáu đi xa, tình cảm thiêng liêng giữa con với cha bỗng cháy bùng lên. Vết sẹo trên mặt ba nó là vết tích chiến tranh bị Tây bắn, vết thương chắc làm ba nó đau đớn lắm, thái độ lạnh lùng, xa cách của nó trong mấy ngày nay chắc làm ba nó đau lòng lắm. Nó đã gây ra vết sẹo trong trái tim của người cha. Cho nên trong buổi chia tay, nó đứng lặng lẽ ở góc nhà hướng về người cha với vẻ mặt “sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của bé trông rất dễ thương”, ấy chắc là có biết bao xúc động, ý nghĩ, tình cảm. Khi ông Sáu khoác ba lô lên đường, nói lời từ biệt, tiếng kêu ba của bé Thu vang lên chất chứa sự hối lỗi “Ba… a… a… ba !”, tiếng kêu xé lòng, “xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa” cùng cử chỉ nhảy thót lên, ôm chặt lấy cổ ba, “hôn ba nó cùng khắp. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết sẹo dài trên má của ba nó nữa”. Đó là biểu hiện tình yêu ruột thịt nồng nàn của đứa con đối với cha, bé Thu muốn chuộc lại lỗi lầm và muốn thỏa tình cảm nhớ thương sau tám năm xa cách. Và khi nghe ông Sáu hứa hẹn “Ba đi rồi ba về với con” thì cô bé lại hét lên “Không !”, hai tay nó xiết chặt lấy cổ ba nó, rồi nó dang cả hai chân câu chặt lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run. Những dòng chữ trong câu chuyện đến đây chắn đã làm xốn xang trái tim bao bạn đọc. Mọi người lặng đi, con tim thổn thức, dường như nước mắt không thể chảy ra được mà chỉ có thể chảy ngược vào tim. Thương cho bé Thu trong cảnh ngộ éo le, tình yêu thương cha của bé Thu dường như đã xóa đi vết sẹo trong trái tim của người cha, để lại niềm vui trong hành trang người chiến sĩ khi ông Sáu lên đường. Tình cảm cha con thật thiêng liêng, vượt lên sự hủy diệt của chiến tranh.

Tình huống truyện kịch tính giữa không nhận và nhận ba là cả một quá trình diễn biến tâm lý đầy phức tạp. Nhưng thông qua đó, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn trẻ thơ hồn nhiên, vô tư và cả sự ương ngạnh, đáng yêu nhất là tình cha con thắm thiết. Kết hợp với phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả, biểu cảm, ngôn ngữ đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm… Tác giả đã khắc họa nhân vật bé Thu là một đứa trẻ điển hình cho biết bao đứa trẻ trong chiến tranh phải trải qua những đau thương, mất mát, phải sống trong những năm dài xa cách người thân. Qua truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, ta có thể thấy Nguyễn Quang Sáng đã rất thành công trong việc miêu tả tâm lý trẻ thơ.

Nhân vật bé Thu đã để lại một dấu ấn đậm nét trong tâm hồn của bạn đọc. Càng yêu thương bé Thu bao nhiêu, chúng ta càng cảm thấy căm ghét chiến tranh bấy nhiêu. Chúng ta cần biết quý trọng những mất mát to lớn mà các thế hệ đi trước đã hy sinh cho cuộc sống hôm nay. Để đáp lại tình cảm, sự hy sinh ấy chúng ta phải cố gắng học tập để góp phần xây dựng cuộc sống này ngày càng tươi đẹp.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 20

“Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ như ta thường thấy ở văn của Nguyễn Quang Sáng. Đoạn trích trong sách giáo khoa đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử.

Truyện xoay quanh một kỉ vật đơn sơ mà vô giá đó là chiếc lược ngà. Nhưng suốt cả câu chuyện, suốt những quãng đời, suốt cả cuộc đời ấy chỉ có một tiếng kêu, một tiếng kêu bình dị và thiêng liêng bậc nhất cõi đời này: tiếng cha!. Câu chuyện “Chiếc lược ngà” đã kể lại thật cảm động về cuộc gặp gỡ và những tình cảm của cha con anh Sáu. Hình ảnh anh Sáu đã để lại trong lòng người đọc nỗi cảm thông, yêu mến và những ấn tượng sâu sắc.

Cũng như bao người khác anh Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu. Sự xa cách càng làm dâng lên trong anh nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi anh đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng anh. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần anh hỏi “Sao không cho con bé lên cùng?’’. Không gặp được con anh đành ngắm con qua ảnh vậy … Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng anh luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Còn đối với con gái Thu của anh thì sao? Từ nhỏ đến hồi tám tuổi nó chỉ được biết ba nó qua ảnh và qua lời kể của bà ngoại và mẹ. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở của người cha. Chắc bé Thu từng giờ từng phút trông chờ ba nó lắm nhỉ? Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẵng ấy cũng làm tăng lên trong lòng hai cha con anh sáu nỗi nhớ nhung, mong chờ, anh Sáu ao ước gặp con, còn bé Thu ao ước gặp bố.

Hình ảnh bé Thu là nhân vật trọng tâm của câu chuyện, được tác giả khắc họa hết sức tinh tế và nhạy bén, là một cô bé giàu cá tính, bướng bỉnh và gan góc. Bé Thu gây ấn tượng cho người đọc về một cô bé dường như lì lợm đến ghê gớm, khi mà trong mọi tình huống em cũng nhất quyết không gọi tiếng “Ba”, hay khi hất cái trứng mà ông Sáu gắp cho xuống, cuối cùng khi ông Sáu tức giận đánh một cái thì bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã khéo léo xây dựng nhiều tình huống thử thách cá tính của bé Thu, nhưng điều khiến người đọc phải bất ngờ là sự nhất quán trong tính cách của bé, dù là bị mẹ quơ đũa dọa đánh, dù là bị dồn vào thế bí, dù là bị ông Sáu đánh, bé Thu luôn bộc lộ một con người kiên quyết, mạnh mẽ. Có người cho rằng tác giả đã xây dựng tính cách bé Thu hơi “thái quá”, song thiết nghĩ chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện vô cùng đẹp đẽ mà đứa con dành cho người cha yêu quý. Trong tâm trí bé Thu chỉ có duy nhất hình ảnh của một người cha “chụp chung trong bức ảnh với má”. Người cha ấy không giống ông Sáu, không phải bởi thời gian đã làm ông Sáu già đi mà do cái thẹo trên má. Vết thẹo, dấu tích của chiến tranh đã hằn sâu làm biến dạng khuôn mặt ông Sáu. Có lẽ trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, nó còn quá bé để có thể biết đến sự khốc liệt của bom lửa đạn, biết đến cái cay xè của mùi thuốc súng và sự khắc nghiệt của cuộc sống người chiến sỹ. Cái cảm giác đó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà là sự kiên định, thẳng thắn, có lập trường bền chặt, bộc lộ phần nào đó tính cách cứng cỏi ngoan cường của cô gian liên giải phóng sau này.

Dường như sự lạnh lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương những tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông. Vì quá yêu thương con nên anh Sáu không cầm nổi cảm xúc của mình. Trong bữa cơm, cưng con, anh gắp cho nó cái trứng cá nhưng bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, anh đã vung tay đánh và quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn của ông. Tất cả cũng chỉ là do anh quá yêu thương con. Có thể coi việc bé Thu hất cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay anh dồn nén và chất chứa trong lòng.

Nhưng khi ta hiểu ra thì lại thấy rằng: Chính cái hành động đáng ghét ấy lại vô cùng đáng quý. Chính thái độ ngang ngạnh đó lại là biểu hiện tuyệt vời của tình cảm người con dành cho cha. Đơn giản vì lúc bấy giờ trong trí nhớ thơ ngây của Thu thì cha em đẹp lắm. Vì bom đạn quân thù, cha mang sẹo trên mặt. Đấy là điều đau khổ vậy mà nó không hiểu, lại xa lánh khiến cha đau khổ thêm. Cô bé không tin, thậm chí còn ngờ vực, điều đó chứng tỏ cô bé không dễ tin người. Cả bạn của cha, cả mẹ xác nhận là cha nhưng không ai tháo gỡ được thắc mắc thầm kín trong lòng mình thì cô bé vẫn chưa gọi. Nó không đơn thuần là sự bướng bỉnh của một cô bé đỏng đảnh, nhiễu sách mà đó là sự kiên định, quyết liệt của một người có lập trường. Đây chính là cái mầm sâu kín sau này làm nên tính cách cứng cỏi, ngoan cường của cô giao liên giải phóng. Đến khi được bà ngoại giảng giải về cái thẹo trên má ba, thì Thu mới vỡ lẽ đó thực là ba mình. Hình ảnh người cha thân yêu trên ảnh, người cha kính mến mà cô ghi sâu trong lòng, đến lúc ấy mới nhập vào người đang xưng ba có vết thẹo dài đây. Đã vỡ lẽ thì tình yêu ba nhân lên gấp bội nhưng … đã muộn rồi. Song đến giây phút cuối cùng, trước khi anh Sáu đi xa thì tình cảm thiêng liêng ấy bỗng cháy bùng lên. Lúc ra đi, chân anh ngập ngừng không muốn bước. Hẳn rằng anh Sáu muốn ôm con, hôn con nhưng sợ nó lại giẫy đạp và bỏ chạy nên anh chỉ đứng đấy nhìn nó với cặp mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu. Trong ánh mắt của anh, chất chứa bao yêu thương mà anh muốn trao gửi tới con. “Thôi ba đi nghe con”. Phải chi bé Thu hiểu được ánh mắt của ba nó, hiểu được tâm trạng của ba nó lúc này nhỉ? Rồi bỗng nó chạy đến kêu thất thanh “Ba…a….a…ba!”. Tiếng kêu như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa. Tiếng kêu bật lên sau bao năm kìm nén, chờ đợi khắc khoải. Đó cũng là cái tiếng ba mà anh Sáu đã chờ đợi suốt tám năm trời xa con, đã chờ đợi suốt mấy ngày về bên con, ông đã tưởng chẳng thể còn được nghe thì bất ngờ nó thét lên. Nó vỡ ra còn lòng người đọc thì nghẹn lại.

Ai có thể ngờ được một người lính dạn dày nơi chiến trường, quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng yếu mềm trước con gái mình. Những giọt nước mắt hiếm hoi của một cuộc đời từng trải nhiều gian khổ vất vả, song lại rơi khi lần đầu tiên ông cảm nhận được sự ấm áp của cha con thực sự! (“Không ghìm được xúc động và không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”). ”Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha thì đó là mơ ước đầu tiên và duy nhất, cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng ông. Tình cảm ông Sáu dành cho bé Thu trở nên thiêng liêng, cao cả và mãnh liệt hơn biết bao khi ông tự tay làm chiếc lược ngà cho con. ”Khi ông Sáu tìm được khúc ngà sung sướng như trẻ con vớ được quà”, ”Ông thận trọng, tỉ mỉ…”, ”Ông gò lưng khắc từng nét…”. Một loạt hành động cảm động như khẳng định tình cha con sâu đậm. Tất cả tình yêu, nỗi nhớ con dồn cả vào công việc làm chiếc lược ấy. Ông nâng niu chiếc lược như nâng niu đứa con bé nhỏ của mình. Lòng yêu con đã biến một người chiến sỹ trở thành một nghệ nhân sáng tạo tài tình, dù chỉ sáng tạo một tác phẩm duy nhất trong đời. Cuối truyện có chi tiết ông Sáu đưa tay vào túi, móc lấy cây lược, đưa cho bác Ba và nhìn một hồi lâu. Ông Sáu hi sinh mà không kịp trăn trối điều gì, chỉ có một ánh mắt với niềm ước nguyện cháy bỏng mong người bạn của mình sẽ là người thực hiện nốt lời hứa duy nhất của mình với con. Tình cảm của ông Sáu khiến người ta phải thấy ấm lòng và cảm động sâu sắc.

Người mất, người còn nhưng kỷ vật duy nhất, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại, chiếc lược ngà vẫn còn ở đây. Chiếc lược ngà là kết tinh tình phụ tử mộc mạc, đơn sơ mà đằm thắm, kỳ diệu, là hiện hữu của tình cha con bất tử giữa ông Sáu và bé Thu; và là minh chứng chứng kiến lòng yêu thương vô bờ bến của ông Sáu với con. Có thể chiếc lược ấy chưa chải được mái tóc của bé Thu nhưng lại gỡ rối được tâm trạng của ông. Chiếc lược ngà xuất hiện đánh dấu một kết cấu vòng tròn cho câu chuyện, và cũng là bài ca đẹp tồn tại vĩnh cửu của tình cha con.

“Chiếc lược ngà” như một câu chuyện cổ tích hiện đại, thành công trong việc xây dựng hình tượng bé Thu và gửi gắm thông điệp đẹp về tình cha con. Nhân vật ông Ba - người kể chuyện hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng, phải là người từng trải, sống hết mình vì cách mạng kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với những con người giàu tình yêu, nhân hậu mà rất kiên cường, bất khuất, nhà văn mới có thể nhập hồn được vào các nhân vật, sáng tạo nhiều hình tượng với các chi tiết sinh động, bất ngờ, hơn nữa lại có giọng văn dung dị, cảm động!

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 21

Tình phụ tử thiêng liêng cao đẹp là đề tài muôn thuở trong thơ ca, với mỗi thời kỳ, chúng ta sẽ có những tác phẩm nghệ thuật gắn liền với thời đại đó. Tác phẩm "Chiếc lược ngà" của nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã kể câu chuyện về tình phụ tử trong chiến tranh đầy xúc động. Bé Thu, nhân vật người con, chính là điểm sáng trong câu chuyện này.

Ba bé Thu đi chiến trường từ em còn chưa đầy 1 tuổi, cũng vì thế mà em gần như chẳng có ký ức nào về ba. Cô bé cũng không nhớ rõ mặt ba, chỉ được nhìn trong tấm ảnh ba chụp chung với má. Hình ảnh người đàn ông trẻ trung, khuôn mặt rạng ngời đứng bên má đó cũng là ấn tượng duy nhất của em về ba.

Khi ông Sáu, ba của bé Thu được về nhà, tưởng như hai cha con sẽ rất yêu thương, quấn quýt nhau nhưng cô bé không chịu nhận cha. Trong lần gặp đầu tiên, khi ba bé Thu đang xúc động chỉ muốn chạy đến ôm chầm lấy nó thì nó bỗng hoảng sợ, hét lên và chạy vụt đi. Trong những ngày ông Sáu ở nhà, dù mọi người có làm cách nào thi con bé cũng không chịu gọi "ba". Khi má bảo gọi ba vào ăn cơm, con bé chỉ nói trổng "vô ăn cơm". Thậm chí khi má nổi giận quơ đũa định đánh, bé Thu vẫn nhất định không chịu gọi một tiếng "ba". Hay lúc bị dồn vào thế bí, dáng người nhỏ bé của Thu không thể bê nồi cơm để chắt nước, em quyết không gọi "ba" mà vẫn nói trổng. Nhờ không được, con bé lì lợm đành lấy cái vá múc từng vá nước ra ngoài. Không những không gọi cha, Thu còn khước từ sự quan tâm của ông Sáu. Ông Sáu đã gắp miếng trứng cá ngon nhất vào bát nó nhưng nó lại hẩy ra, khiến ba nó tức giận đánh đòn, nó vẫn im im rồi bỏ đi. Tất cả những hành động đó cho thấy Thu là một cô bé mạnh mẽ, cá tính, gan lì. Em không gọi người đàn ông trước mặt là ba vì em vẫn đinh ninh người trong tấm ảnh chụp với má mới chính là người ba thực sự. Đó là người còn trẻ trung và không có vết thẹo dài trên mặt cơ. Tất cả mọi việc làm của bé Thu đều để chứng minh cho tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Cũng chính vì lẽ đó, em đã vô tình làm tổn thương ba mình.

Khi nhận ra ông Sáu chính là ba mình thì cũng là lúc ông Sáu lên phải lên đường. Em đã hét gọi ba. Tiếng nói từ tận trong tim ấy đã dồn nén bao nhiêu năm rồi được bật ra vào thời khắc chia tay. Tiếng thét gọi như cứa vào tâm can của ông Sáu và của cả mọi người. Tiếng ba đó tuôn ra cùng những cái ôm, cái hôn yêu thương quấn quýt không muốn ba đi chính là minh chứng rõ ràng nhất cho tình cảm của bé Thu dành cho ba. Không thể giữ ba ở lại bên mình, con bé chỉ biết ôm siết ba mình thật chặt rồi mếu máo "Ba về ! Ba mua cho con một cây lược nghe ba". Đây không chỉ là một yêu cầu về món quà giữa hai cha con mà điều bé Thu mong muốn hơn nữa là ba mình sẽ sống sót trở về từ chiến trường. Từ đây, ta thấy được Thu là cô bé thông minh, hiểu chuyện. Tuy rất yêu thương và nhớ ba nhưng vẫn quyết định tạm biệt để ba trở về với đồng đội.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng hình tượng bé Thu rất thành công, bằng giọng văn gần gũi giản dị, bé Thu hiện lên là một cô bé mạnh mẽ, bướng bỉnh nhưng lại yêu thương ba tha thiết sau này đã trở thành một cô giao liên dũng cảm, tiếp bước cha bảo vệ dân tộc.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 22

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ mẹ kính cha

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”

Một trong những tình cảm thiêng liêng nhất của con người trong cuộc đời là tình phụ tử, tình mẫu tử. Trong vườn hoa văn học Việt Nam, tình mẫu tử luôn được đến với thái độ tôn trọng, tôn kính nhất. Tuy không nổi bật trong các tác phẩm như tình mẫu tử nhưng tình phụ tử cũng là một thứ tình cảm thiêng liêng, đáng quý, đáng trân trọng. Xuôi theo dòng chảy văn học của Việt Nam, ta bắt gặp tình cha con trong bài thơ “Nói với con” của tác phẩm Y Phương, tình cảm giữa người con trai đi làm xa và lão Hạc trong tác phẩm “Lão Hạc” của Nam Cao,... những tình cảm đó đều diễn ra theo chiều hướng tốt đẹp với tình cảm sâu sắc mà cha và con dành cho nhau. Hiếm có một tác phẩm nào như “Chiếc lược ngà” của tác giả Nguyễn Quang Sáng viết về tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu lại gây ấn tượng với người đọc như vậy. Một bé Thu không yêu quý cha từ đầu nhưng đến cuối tác phẩm lại khiến người đọc trào nước mắt cảm động khi nhận ba, khi bộc lộ tình yêu thương với ba trước lúc ba lên đường qua đoạn trích: “Đến lúc chia tay, mang ba lô lên vai,… bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm lấy trái tim tôi.”

Nguyễn Quang Sáng là nhà văn chuyên viết về cuộc sống và con người Nam Bộ với rất nhiều thể loại khác nhau như tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch,.. Tác phẩm “Chiếc lược ngà” được sáng tác vào năm 1966 tại chiến trường miền Nam trong thời kì kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt. Truyện thể hiện thật thấm thía, cảm động tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Qua đó, chúng ta thấy được tài năng xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật khắc họa miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật khéo léo của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.

Câu chuyện kể về cuộc trùng phùng đầy nước mắt của hai cha con anh Sáu. Anh Sáu đi kháng chiến, sau một khoảng thời gian dài tám năm thì được nghỉ ba ngày phép để về thăm nhà. Bao nhớ thương, khao khát dồn nén mong nhớ gặp lại con, thèm được nghe con gọi một tiếng ba nhưng thật trớ trêu thay, bé Thu không nhận ra cha mình do vết sẹo trên gương mặt của anh Sáu. Đến khi hai cha con gặp gỡ và nhận nhau thì đó cũng là lúc anh Sáu phải trở về đơn vị. Giữ lời hứa với bé Thu, anh làm cho con chiếc lược ngà nhỏ xinh để chải tóc với bao tình yêu thương gửi gắm trong đó nhưng cuộc đời thật trớ trêu, ông trời đã không cho anh gặp được con lần cuối. Trước khi nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng, anh chỉ kịp trao chiếc lược lại cho bác Ba - người bạn thân của mình.

Truyện gây ấn tượng mạnh mẽ với bạn đọc qua nhân vật bé Thu. Thu là một cô bé đầy tình cảm, những hành động của cô bé lúc này khác hẳn với những ngày đầu khi anh Sáu trở về. Trái ngược nhưng lại nhất quán bởi nó quá yêu ba, quá nhớ ba, không cho phép ai thay đổi hình ảnh ba trong tâm trí nó. Khi hiểu được nguyên nhân của sự việc, nó muốn giữ ba ở lại, muốn thời gian ngắn ngủi còn lại kéo dài mãi mãi. Có lẽ chưa bao giờ cô bé mong thời gian ngừng trôi như bây giờ để níu kéo cuộc trò chuyện, cuộc gặp gỡ với ba. Nó ôm chầm lấy anh, “hôn lên mặt, lên tóc, lên cả vết sẹo trên má của anh”, dường như nó hiểu ra ba nó vẫn là ba của nó, vết sẹo ấy không những không làm ba mất đi mà còn làm ba trở nên đáng nể trong lòng nó. Có lẽ vì vậy mà sau này, khi lớn lên, Thu tiếp tục bước tiếp bước chân của ba trên hành trình bảo vệ Tổ quốc. Cô bé tám tuổi ngang bướng ngày nào giờ trở thành cô giao liên nhanh nhẹn, linh hoạt, lặng lẽ, âm thầm chiến đấu trả thù cho Tổ quốc, cho gia đình, cho tình cha con bất diệt.

Thu là cô bé có tình yêu thương cha sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu thương ấy được thể hiện qua sự thay đổi về thái độ của em trước giờ phút chia tay... Trong đêm trước hôm ba lên đường, bà ngoại đã giảng cho nó nghe, phân tích cho nó hiểu. Con bé đã biết rằng chính ông Sáu là cha của mình. Nó hiểu rằng cái vết thẹo xấu xí trên mặt kia của ông là do chiến tranh gây nên. Ba nó cũng dũng cảm và hiên ngang như bao người khác ấy chứ. Sau khi hiểu được nguồn gốc vết thẹo, bé Thu lặn lội suốt một đêm không ngủ được: "Nghe bà kể nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Có lẽ nó hối hận lắm vì đã từng đối xử không tốt với ba. Lúc này, bé Thu không chỉ yêu ba mà còn thương ba nữa. Người đọc được chứng kiến cuộc chia tay cảm động vào buổi sáng hôm sau trước khi ông Sáu lên đường. Bé Thu cũng có mặt ở buổi đưa tiễn nhưng lại mang một tâm trạng khác: “Vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác, nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu, cái vẻ buồn trên gương mặt ngây thơ của con bé trông rất dễ thương”. Thu không ngơ ngác, không lạnh lùng nữa mà nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa. Phải chăng đó là ánh mắt của cô bé ngây thơ bối rối xen lẫn sự hối hận. Hối hận vì không yêu ba sớm hơn, hối hận vì đã trách lầm cha. Khi đối diện với ông Sáu, “đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao”.

Độc giả cảm nhận được ẩn sâu trong đôi mắt mênh mông xôn xao ấy đang xáo động biết bao tình cảm. Khi ông Sáu chào mọi người, nói với bé Thu: “Thôi! Ba đi nghe con”. Tình thương cha bấy lâu đã đè nén trong lòng cô bé đã trỗi dậy mạnh mẽ, bé Thu cất tiếng gọi. Sự khao khát tình cha con bấy lâu nay bị kìm nén bỗng bật lên thành tiếng - tiếng thét gọi: “Ba… ba…. a… ba”. Tác giả sử dụng từ “kêu thét” mà không phải là kêu gào, kêu lớn, đã phần nào diễn tả tâm trạng của bé Thu: lo sợ, buồn tủi. Bé kêu thét - sự đột ngột, sự dồn nén cảm xúc đã từ lâu giờ mới có cơ hội để thổ lộ. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, nghe thật xót xa”, tiếng kêu đó xé cả bức tường mỏng manh ngăn dòng cảm xúc của người đọc, tất cả như vỡ òa. Người đọc thổn thức cùng bé Thu, thổn thức với tình cảm của bé. Tình cảm trong sáng, chân thành từ một đứa trẻ vô cùng yêu ba. Miêu tả những biến đổi tình cảm của bé Thu, tác giả đã một lần nữa tô đậm tình yêu thương ba của cô bé. Qua đó, ta thấy bé Thu bướng bỉnh, gan góc nhưng cũng giàu tình cảm. Những đau đớn thay, giây phút nhận ra ba lại là giây phút chia xa. Có lẽ cũng chính vì thế mà cô bé hiểu không còn nhiều thời gian bên ba nữa nên mới khóc nấc lên như vậy. Tình phụ tử trong giây phút này thật thiêng liêng biết bao nhiêu. Nó khiến người đọc phải suy ngẫm đến tình cảm của bản thân với ba mẹ: “Liệu mình đã làm đủ tốt chưa? Mình có phải hối hận vì điều gì không?”

Tiếng “ba” này em đã ấp ủ lâu biết bao nhiêu, nuôi dưỡng nó lớn lên từng ngày, tiếng “ba” như “vỡ tung ra từ đáy lòng”. Tình cảm dồn nén biết bao năm nay vỡ tung qua tiếng gọi “ba”, qua hành động của bé: “nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc”, em chạy thật nhanh vì sợ ba đi mất, người ba mà em đã chờ thật lâu chuẩn bị phải chia xa, chuẩn bị đi rồi. Nó hôn ba nó cùng khắp, hôn cả vết thẹo dài trên má, cái vết thẹo mà trước kia nó thấy ghê sợ và xấu xí vô cùng. Đến bây giờ hiểu được vì sao ba có vết thẹo ấy, Thu thương ba lắm. Hành động của bé Thu như muốn xoa dịu đi nỗi đau đã gây ra cho ba. Em leo lên người ba, vòng tay qua cổ ba, ôm thật chặt rồi như sợ không giữ được ba, em còn giữ chặt bằng cả hai chân. Một suy nghĩ trẻ thơ đánh mạnh vào trái tim người đọc, em dùng tất cả sức mình để giữ chặt ba lại.

Những giọt nước mắt lăn trên má bé Thu. Em khóc vì thương cha, vì ân hận, vì đã không phải với người ba của mình, vì không biết đến bao giờ mới được gặp lại ba. Tất cả những hành động của bé Thu lúc này đều gấp gáp dồn dập chẳng muốn mất đi một điều gì. Tác giả tinh tế chỉ ra điểm đặc biệt, điểm nổi bật của tình cảm mà bé Thu dành cho ba: “Tôi thấy làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Tóc tơ rất nhỏ, rất mảnh, mềm và thường khó thấy nhưng tác giả lại thấy nó như dựng đứng lên - sự run rẩy, sợ hãi của một đứa trẻ đến tột độ, đến ngay cả sợi tóc tơ dường như cũng có cảm xúc. Bên cạnh tình yêu thương ba thì cô bé còn có niềm tự hào vô bờ, niềm kiêu hãnh về một người cha chiến sĩ, người cha ấy đã hi sinh cả tuổi thanh xuân, đã cống hiến cả cuộc đời mình cho độc lập dân tộc và giờ đây người cha ấy lại lên đường theo con đường vinh quang mà cả dân tộc đang đi. Tình yêu thương cha của bé Thu đã trao cho ông Sáu niềm tin, sức mạnh vượt qua mọi xa cách và gieo niềm hi vọng về ngày đoàn tụ.

Thu là một cô bé Nam Bộ ngây thơ hồn nhiên, trong sáng, cá tính mạnh mẽ. Vì đang ở độ tuổi hồn nhiên, trong sáng nên khi thấy anh Sáu không giống cha mình, em đã kiên quyết không nhận ba. “Ba không giống cái hình ba chụp với má”, “Cũng không phải già, mặt ba con không có cái thẹo trên mặt như vậy”. Nó không cho phép ai mạo nhận làm ba nó - một người ba đáng kính mà nó ngưỡng mộ xưa nay, phải là người ba trong bức hình chụp cùng với má. Bởi vậy, người đọc hoàn toàn có thể thông cảm trước sự ương bướng của bé Thu, và còn thương em thật nhiều. Một cô bé Nam Bộ có cá tính mạnh mẽ, là người yêu ghét rạch ròi, rõ ràng. Khi Thu chưa nhận cha, cô bé kiên quyết từ chối mọi sự quan tâm của ông Sáu. Khi được ông Sáu quan tâm trong bữa ăn giấc ngủ, thể hiện tình yêu thương nhưng Thu đã gạt phắt đi, thẳng tay chối bỏ những tình cảm của ba mình. Nhưng khi hiểu được ông Sáu là cha, Thu chủ động tìm về với cha, kiên trì chờ đợi, trực tiếp bộc lộ tình cảm mãnh liệt, sâu sắc.

Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí và xây dựng tính cách nhân vật đặc sắc, từ chỗ Thu ngạc nhiên hoảng sợ đến lạnh lùng, cuối cùng là sự bùng nổ những yêu thương do bị dồn nén. Phải yêu trẻ con nhiều lắm, am hiểu tâm lí trẻ em nhiều lắm, yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ thì tác giả Nguyễn Quang Sáng mới có thể làm nên tác phẩm thành công, ấn tượng với độc giả như vậy. Cùng với ngôn ngữ giản dị đậm chất Nam Bộ và tình huống bất ngờ hợp lí đã bộc lộ tình yêu thương tha thiết bé Thu dành cho ba của mình. Qua đó, đoạn trích cũng như tác phẩm đã thể hiện một cách chân thực và cảm động tình cảm yêu thương sâu nặng của hai cha con trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.

Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” là một áng văn bất hủ ca ngợi tình phụ tử giản dị mà thiêng liêng, với những con người giàu tình cảm và đẹp đẽ, như nhân vật bé Thu và ông Sáu. Câu chuyện không chỉ ca ngợi tình cha con sâu nặng thắm thiết, mà còn gợi cho chúng ta những suy ngẫm và thấm thía được tình sự đau thương, mất mát của chiến tranh tàn khốc gây ra. Vì thế mà ta càng quý cuộc sống thanh bình của ngày hôm nay, quý tình cha cao thượng và vĩ đại. Mỗi người đều lưu giữ trong trái tim mình hình ảnh một người cha, hãy biết trân trọng tình yêu và sự hy sinh vô điều kiện mà cha đã dành cho ta. Vòng đời mới ngắn ngủi làm sao, đừng mãi sống ích kỷ, chỉ biết nhận tình cảm thương yêu từ cha mẹ mà chẳng bao giờ đền đáp lại. Nếu bạn còn cha và một người cha đúng nghĩa thì hãy cảm ơn thượng đế vì bạn đã được sinh ra trong cuộc sống này.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 23

Benjamin Franklin từng cho rằng: “Chiến tranh không được trả giá trong thời chiến, hóa đơn sẽ đến sau đó”. Cái giá của chiến tranh không chỉ đắt đỏ và dã man khi nó xảy ra, mà hậu quả của nó là vết thương rỉ máu hàng thập kỉ sau đó nữa. Và có lẽ một trong những nhân vật khắc họa rõ nét vết thương, vết sẹo luôn bỏng rát của chiến tranh là nhân vật bé Thu trong tác phẩm truyện ngắn “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết năm 1966.

Không lựa chọn chất liệu là sự kịch liệt, đẫm máu trên chiến trường miền Nam như nhiều tác phẩm khác, Nguyễn Quang Sáng khai thác một khía cạnh khác của chiến tranh, một nỗi niềm tang thương cá nhân khác của những người nơi hậu phương, chưa một lần được trọn vẹn bên người cha, người chồng hay người con của mình. Bé Thu là nhân vật đại diện cho sự mất mát, thiếu thốn ấy. Khi bé Thu chỉ vừa mới một tuổi, ba em - ông Sáu đã phải đi kháng chiến và xa nhà. Đây là hoàn cảnh chung của hầu hết gia đình Việt Nam trong cuộc kháng chiến, có lẽ họ không chỉ tiễn người thân mình đi một hai lần mà là rất nhiều lần, từ người nọ đến người kia. Dù vậy, già trẻ gái trai, mặc kệ, họ đều quyết tâm ra đi để tìm được cống hiến cho tổ quốc thân thương, như Tố Hữu đã từng ca ngợi tinh thần ấy:

“Lớp cha trước lớp con sau

Đã thành đồng chí chung câu quân hành”

Ròng rã tám năm, không đủ để đứa con quên đi người ba của mình, nhưng đủ để chiến tranh tàn phá hình dáng một con người. Ông Sáu trở về thăm gia đình, nhưng gương mặt ông giờ đây đã mang theo một vết thẹo khiến bé Thu có những phản ứng làm cho cả ông lẫn người đọc cảm thấy hụt hẫng, bất ngờ. Trước tiếng gọi đầy thân thương mà gan ruột từ xa của ông Sáu “Thu! Con”, bé Thu “tròn mắt ngơ ngác nhìn lạ lùng”. Chỉ một ánh mắt, một cử chỉ cũng đủ để thấy sự xa cách giữa người và người, mà có lẽ ta phải dùng đến từ “người dưng” mà Nguyễn Duy đã dùng trong “Ánh trăng”. Khi ông Sáu đưa tay về phía nó, nói liên tiếp: “Ba đây con! Ba đây con!” thì nó lại có một phản ứng vô cùng quyết liệt “mặt nó bỗng tái đi, rồi vụt chạy và kêu thét lên: “Má! Má!”. Từ đó tạo nên hai luồng tâm lý đối lập nhau gay gắt giữa ông Sáu và bé Thu, một bên là sự vồ vập, cuống quýt của một người ba vì đã ngóng chờ con bao lâu nay, còn một bên là sự đáp trả thờ ơ, lạnh lùng, hoảng sợ của bé Thu, cốt bởi tình yêu dành cho người “ba” của nó quá to lớn. Đây chính là khởi đầu éo le dẫn đến mâu thuẫn phức tạp giữa hai cha con.

Sự ương ngạnh, bướng bỉnh của bé Thu thể hiện rõ rệt trong ba ngày nghỉ phép của ông Sáu ở nhà. Mặc cho ông muốn lại gần con bé bao nhiêu, nó lại càng đẩy ông ra xa, nhất quyết không chịu gọi ông là “ba”. Nó luôn tìm cách nói trổng hoặc gọi ông là “người ta”. Thử thách lớn nhất là khi nó phải chắt nước ra khỏi nồi cơm to đang sôi, nó “nhăn nhó”, “luýnh quýnh”, “loay hoay”, tâm lý bối rối của một đứa trẻ tám tuổi hiện lên rõ mồn một. Một là nó phải chịu khuất phục và gọi ông Sáu là “ba” để được giúp đỡ, hai là nó phải tìm cách làm một mình, sẽ rất khó khăn và nguy hiểm. Chao ôi, trên đời làm gì có ai thích chọn những thứ trắc trở hơn những thứ đơn giản, dễ dàng, trừ khi họ có thứ quý giá hơn cần phải bảo vệ, không thể đánh đổi. Và với bé Thu, một cô bé mới tám tuổi, tiếng “ba” nó cất giữ trân trọng ấy là điều đắt giá nó không thể tùy tiện gọi một người lạ chỉ đột nhiên xuất hiện trong đời nó. Nó càng yêu “người ba” của nó bấy nhiêu, thì nó càng ngang ngược, lạnh nhạt với người ba thực sự đang ở trước nó bấy nhiêu. Vì yêu, vì kính trọng nên càng không thể đem ra để đối lấy sự giúp đỡ. Nó phải giữ gìn tiếng gọi thiêng liêng ấy cho người ba thực sự mà nó được biết tới. Dù biết sẽ nguy hiểm, sẽ khó khăn, nó vẫn dùng cái vá để múc từng vá nước ra ngoài. Sự kiên quyết, thông minh của nó cũng khiến bác Ba, ông Sáu và cả người đọc đôi phần ngỡ ngàng.

Không chỉ không muốn trao cho ông Sáu tiếng gọi “ba” mà nó còn một mực cứng rắn, không tiếp nhận tình cảm ông dành cho nó. Trong bữa cơm cuối cùng với ông Sáu, bữa cơm mà nó có lẽ sẽ hối hận suốt đời, ông Sáu âu yếm thể hiện tình cảm của mình bằng cách “gắp một cái trứng cá to vàng để vào chén nó”. Nó đã phản ứng mạnh mẽ có phần thái quá, nó lấy cái đũa hết cái trứng ra khỏi chén làm cơm văng tung tóe cả mâm. Hành động ấy như thách thức giới hạn của ông Sáu - người vốn vì thương con nên đã rất bao dung, nhẫn nại và cả người đọc. Nhưng nếu đã đọc hết tác phẩm và thực sự đặt mình vào vị trí của một cô bé tám tuổi, ta mới có thể mở lòng và cảm thông được cho hành động này. Cách biểu hiện tình cảm và bảo vệ hình tượng người cha trong lòng của bé Thu chỉ thật bộc trực, trực tiếp, thậm chí là hồn nhiên đến mức đáng giận. Đối với cô bé, sự xuất hiện của ông Sáu như đang đe dọa đến hình tượng của người ba trong bức ảnh mà cô bé vẫn luôn ấp ủ trong lòng bấy lâu, một đứa trẻ tám tuổi sao có thể kịp thích nghi với những thay đổi bất thường lớn như thế trong cuộc đời chúng? Càng giữ khoảng cách với ông Sáu tức là càng giữ được nguyên vẹn hình ảnh người cha trong tâm trí nó, và đó cũng là cách duy nhất. Sự cương quyết, dữ dội kia thực chất chỉ là hình hài khác của một tình yêu cha vô cùng mãnh liệt.

Sự bướng bỉnh, gai góc ấy còn ươm mầm cho phẩm chất kiên cường, mạnh mẽ của cô giao liên trong tương lai. Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã lột tả rõ nét chân dung của một cô bé tám tuổi có cách thể hiện tình cảm thiêng liêng, chân thành dành cho ba mình một cách vô cùng đặc biệt, độc đáo. Ở bé Thu, người ta nhìn thấy bóng dáng của Việt trong “Những đứa trẻ trong gia đình” hay Tnú trong “Rừng Xà Nu”. Nó tạo nên một vẻ đẹp kiên cường, gan góc của thế hệ trẻ Việt Nam trong kháng chiến, cái vẻ đẹp “Đừng đốt. Bản thân nó đã có lửa rồi!” mà Đặng Thùy Trâm đã viết trong nhật ký của mình: “Ước mơ bây giờ là đánh thắng giặc Mỹ, là Độc lập, Tự do của đất nước. Mình cũng như những thanh niên khác đã lên đường ra tiền tuyến và tuổi trẻ qua đi giữa tiếng bom rơi đạn nổ Tuổi trẻ của mình đã thấm đượm mồ hôi, nước mắt, máu xương của những người đang sống và những người đã chết. Tuổi trẻ của mình đã cứng cáp trong thử thách gian lao của chiến trường, tuổi trẻ của mình cũng đã nóng rực vì ngọn lửa căm thù đang ngày đêm hun đốt. Và gì nữa, phải chăng mùa xuân của tuổi trẻ cũng vẫn thắm đượm thêm vì màu sắc của mơ ước và yêu thương vẫn ánh lên trong những đôi mắt nhìn mình”. Hay như khi nhà thơ Nam Hà cũng đã viết “Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi”:

“Đất Nước
Của những người con gái con trai
Đẹp như hoa hồng cứng như sắt thép
Xa nhau không hề rơi nước mắt
Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt”

Người đọc chỉ thực sự thấm thía tình cảm ẩn sau sự xù xì của bé Thu dành cho ba khi nó được bà giải thích về sự thay đổi của ba mình do chiến tranh. Vết thẹo đã khiến bé Thu không thể nhận ra người ba trên tấm ảnh chính là ông Sáu. Chi tiết vết thẹo cũng mang tính mấu chốt như chi tiết chiếc bóng trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của nhà văn Nguyễn Dữ. Vì vết thẹo mà nó không nhận ra người ba đáng kính mà nó hằng khao khát được đoàn tụ. Đêm hôm ấy, cái đêm được nghe bà gỡ rối, “nó nằm im, lăn lộn và thỉnh thoảng lại thở dài như người lớn”. Tình cảm trong nó dành cho ông Sáu được nhen lên mạnh mẽ, nó cũng biết ăn năn, day dứt, hỗn loạn trong đó là tình yêu to lớn nó dành cho ba và sự ngưỡng mộ.

Sáng hôm sau, lẫn lộn với niềm vui nhận ra ba là sự tủi thân dâng trào cùng nỗi buồn xa xôi của nó trong ngày ông Sáu phải trở về chiến trường. Bởi những phản ứng quyết liệt trước đây mà giờ đây nó ngại ngần, xấu hổ, chỉ dám đứng tựa cửa nhìn mọi người vây xung quanh ba nó. Mọi thứ nhanh và dào dạt đến độ nó chưa kịp cảm thấy tiếc nuối vì đã bỏ lỡ khoảng thời gian vốn đã ngắn ngủi với ba nó thì còn lại đã chỉ là một mảnh hỗn loạn bị bác Ba bắt gặp qua đôi mắt của nó: “Tôi thấy đôi mắt mênh mông của con bé bỗng xôn xao.” Từ “xôn xao” vốn là từ tượng thanh nay được nhà văn tinh tế dùng để miêu tả khoảng không gian bất tận trong đôi mắt của bé Thu. Nó bao la, lạc lõng và lẻ loi kì lạ so với một đứa trẻ mới chỉ tám tuổi. Có lẽ đó là nỗi niềm nó tích tụ trong tám năm thiếu vắng hình bóng người cha mà mình con bé không tài nào che giấu nổi nữa. Thế nên nó vỡ òa.

Tiếng gọi “ba” xé toạc thinh không, xé toạc cả những ngăn cách ngại ngùng, xấu hổ mà con bé ngần ngừ trước đó. Tiếng gọi ấy tưởng chừng rất quen thuộc, gần gũi, có khi là lời nói đầu tiên của con người trong cuộc đời. Vậy nhưng với bé Thu nó lại là âm thanh đã phải dồn nén bao lâu nay, chứa chan biết bao nhớ nhung mong đợi dồn cả vào tiếng “ba” ấy. Nhưng cũng chính vì thế mà tiếng gọi “ba” ấy trở nên thiêng liêng và đong đầy cảm xúc hơn bao giờ hết. “Nó nhanh như một con sóc chạy tót lên và dang hai tay ôm cổ ba nó. Nó vừa ôm vừa nói trong tiếng khóc:

- Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!”

Rồi nó hôn ba nó: hôn tóc, hôn vai, hôn cả lên vết thẹo dài. Vết thẹo từng là thứ chia cắt cha con nó, giờ lại là thứ nó tự hào nhất, thứ hiện thân cho sự dũng cảm và can trường của cha nó, như một huy chương cho tấm lòng nhiệt thành đã xả thân vì tổ quốc mà nó sẽ trân trọng, kiêu hãnh hết đời này. Con bé vội vàng, vồ vập như vậy vì muốn được cảm nhận tình cảm của cha con bằng hết trước khi ông Sáu lại phải đi xa, chẳng biết bao giờ mới quay trở lại. Cách bộc lộ tình cảm có phần tham lam này đã thể hiện rõ tấm lòng muốn bù đắp lại sự lạnh nhạt trong những ngày qua của nó mà còn xuất phát từ nỗi sợ sệt sẽ còn rất lâu nữa, thậm chí là lần cuối bé Thu được gặp ông Sáu. Những cái hẹn trở về không rõ ngày nhưng người ta vẫn nguyện chờ mong, hi vọng vì đó là cách duy nhất thắp lên ánh sáng và chỉ có thế ngày hẹn ấy mới thành hiện thực. Nó chợt khiến ta nhớ lại cảnh đoàn tụ xúc động của bé Hồng với mẹ mình trong văn bản “Trong lòng mẹ”. Sau cuộc chia tay ấy, đáng trân trọng hơn cả là khi bé Thu đã noi gương theo người cha đáng kính, trở thành người chiến sĩ quả cảm viết tiếp những trang sử vẻ vang, vàng son của Việt Nam. Sự kế thừa ấy đã được đã được Hoàng Trung Thông kết tinh thành những câu thơ:

“Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Người hôm nay viết tiếp người hôm qua.”

Giây phút chia tay trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của hai cha con ông Sáu và bé Thu tuy ngắn ngủi nhưng đã phản ánh được tư tưởng nhân văn sâu sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, cũng như cách nhà thơ Trần Đăng Khoa nhắc đến ông là hoàn toàn đúng đắn: “Đọc Nguyễn Quang Sáng, không hiểu sao, tôi cứ hình dung nhà văn có nét gì đó của một người nông dân Nam Bộ ngang tàng, coi những chuyện nguy hiểm chết người cũng bông phèng như trò chơi con trẻ, có thể chống xuồng lao ve vé giữa lúc bom đạn đang vây bủa mù mịt, cũng có thể ngồi thì lì trong một cái quán rượu tạm bợ, dựng tồng tềnh bên vệ cỏ, ngoảnh ra phía sông nước mà nhậu lai rai, nhậu tối ngày. Con người ấy hình như vừa đơn giản, lại vừa phức tạp đến bí hiểm. Hình như đó là một phần của thiên nhiên Nam Bộ, do thiên nhiên chắt ra, bởi thế có lúc hồn nhiên như cỏ dại, có lúc ương ngạnh như vách đá.” Bằng chất văn mộc mạc, thân thương, chân thực, ông đã “chạm tới những rung động vi nhiệm của tình yêu” và hơn hết, ông vẽ bức tranh về chiến tranh không phải bằng máu của những người lính ngã xuống mà bằng nước mắt của những người còn ở lại. Hình ảnh nhân vật bé Thu của ông như gói gọn cả quá khứ, hiện tại và thậm chí là tương lai của đất nước. Dù chiến tranh tàn phá rất nhiều thứ nhưng nó vĩnh viễn không thể tàn phá được trái tim con người.

(Tác giả: Việt Hà)

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 24

Bên cạnh tình mẫu tử, tình phụ tử luôn là đề tài sâu sắc, không ngừng được luận bàn trong các tác phẩm văn học. Mỗi nhà văn lại có cho mình lối đi riêng, khai thác những khía cạnh khác nhau của đề tài muôn thuở này. Đặc biệt, nhà văn Nguyễn Quang Sáng lại khai thác về tình cảm cha con trong chiến tranh. Điều này được nhà văn thể hiện rõ nhất qua tác phẩm "Chiếc lược ngà". Truyện đã xây dựng thành công nhân vật bé Thu với những nét diễn biến tâm lí hết sức tinh tế, đặc biệt là trong giây phút chia tay cha.

“Chiếc lược ngà” được viết năm 1966 - khi tác giả hoạt động ở chiến trường Nam Bộ những năm kháng chiến chống Mĩ và được đưa vào tập truyện cùng tên. Truyện ngắn đã diễn tả một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Ông Sáu ở chiến khu về thăm nhà với hy vọng gặp lại đứa con sau tám năm xa cách, hai cha con chưa hề gặp mặt. Mấy ngày đầu, do vết sẹo trên mặt ông Sáu khác với tấm hình chụp ở nhà nên bé Thu không nhận cha. Đến hôm ông Sáu phải lên đường, nghe bà ngoại giải thích về vết sẹo, bé Thu đã nhận ba của mình. Ở khu căn cứ, người cha dồn hết tình cảm yêu quý, nhớ thương đứa con vào việc làm cho con gái một chiếc lược chải tóc bằng ngà. Lúc hấp hối do bị trúng đạn máy bay Mĩ ông đã nhờ đồng đội chuyển chiếc lược ngà cho con.

Tác giả đã đặt nhân vật vào một hoàn cảnh ngặt nghèo nhất để bộc lộ tình yêu cha của mình. Đó là vào buổi sáng hôm sau, khi ông Sáu phải lên đường trở lại chiến trường cũng là lúc bé Thu nhận ra cha. Giây phút chia tay ấy chính là tình cảm trong bé trỗi dậy một cách thật mãnh liệt. Buổi sáng cuối cùng trong những ngày phép của ba "Con bé như bị bỏ rơi, lúc đứng vào góc nhà, lúc đứng tựa của và cứ nhìn mọi người đang vây quanh ba nó, vẻ mặt của nó có cái gì hơi khác. Bác Ba là người đầu tiên nhận ra những sự thay đổi trong tâm trạng của cô bé. Khi ông Sáu nói "Ba đi nghe con" thì nó bất ngờ lao đến thét lên: Ba., a... a...ba! Rồi ôm chặt lấy ông nức nở "Con không cho ba đi". Tiếng kêu như tiếng xé, rồi "nó vừa kêu vừa chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó". Đi liền với tiếng gọi là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của Thu: chạy xô tới, nhảy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má, khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi… Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao mong mỏi mà Thu dành cho ba. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm được nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim mình”.

Xây dựng nhân vật bé Thu - một cô bé bướng bỉnh, cá tính nhưng có tình cảm yêu ba tha thiết cảm động - Nguyễn Quang Sáng đã có biệt tài trong miêu tả tâm lí nhân vật, đồng thời xây dựng tình huống truyện đặc sắc. Qua đó khiến người đọc cảm động về tình cha con thắm thiết sâu nặng của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

Phân tích nhân vật bé Thu trong Chiếc lược ngà - mẫu 25

Nhà văn Nga Ai-ma-tôp có lần đã viết “không thể nói về chiến tranh một cách giản đơn, không thể xem nó như câu chuyện cổ tích nhẹ nhàng ru ta vào giấc ngủ. Chiến tranh đọng lại thành máu trong sâu thẳm trái tim con người và kể chuyện về nó không phải là điều dễ dàng”. Quả đúng như vậy, kể chuyện về chiến tranh với các nhà văn Việt Nam là điều không dễ dàng, nhất là trong cuộc kháng chiến chống Mĩ 30 năm trường kì của nhân dân Nam Bộ. Tuy nhiên, nhà văn Nguyễn Quang Sáng, cây bút trưởng thành từ trong cuộc chiến tranh chống Mĩ ở Nam bộ lại nhìn về hiện thực đau thương đó bằng một cái nhìn nhân văn, cao đẹp.

Vượt lên những mất mát, đau thương của con người, nhà văn ngợi ca về vẻ đẹp của tình cha con, tình đồng đội. Điều này được thể hiện trọn vẹn trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” qua nhân vật bé Thu và câu chuyện cảm động của hai cha con bé Thu - anh Sáu. Ra đời năm 1966, những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của đồng bào Nam bộ trong 30 năm chiến tranh, “Chiếc lược ngà” được kể lại qua sự chứng kiến của bác Ba, người đồng đội của anh Sáu. Người đã lặng lẽ dõi theo từ đầu đến cuối câu chuyện cảm động của cha con anh Sáu - bé Thu. Qua sự quan sát tinh tế, sâu sắc của bác Ba, chúng ta mới thấm thía hết nỗi đau của người dân Nam Bộ trong chiến tranh và sức mạnh của tình cha con thiêng liêng, bất tử.

Bé Thu trong câu chuyện, cũng như bao cô bé miền Nam khác đều thiếu thốn tình cha từ nhỏ do cuộc chiến tranh. Khi anh Sáu ra đi, em chưa đầy một tuổi, tám năm trời, cha con em chỉ biết nhau qua hai tấm ảnh. Lần về phép ba ngày của anh Sáu là cơ hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ nhau, bày tỏ tình phụ tử. Nhưng nhà văn lại đặt bé Thu vào một tình huống đầy éo le: vì một sự hiểu lầm trẻ con, Thu không chịu nhận anh Sáu là ba, đến lúc nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tập kết. Và lần gặp mặt ấy, là lần gặp mặt đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con em.

Tuy nhiên, từ tình huống truyện éo le ấy, người đọc vẫn nhận ra đặc điểm riêng, cá tính riêng của nhân vật bé Thu: một cô bé tám tuổi bướng bỉnh nhưng dễ thương và đặc biệt có tình yêu ba sâu sắc, mãnh liệt. Tình yêu ấy được thể hiện trong hai hoàn cảnh trái ngược nhau, trước và sau khi sự hiểu lầm trong em được bà ngoại giải đáp.

Lúc chưa chịu nhận anh Sáu là ba, Thu là một cô bé trẻ con, bướng bỉnh và đáo để đến nỗi làm anh Sáu đau lòng vì thái độ khước từ tình thương ba dành cho em. Phút đầu tiên hai ba con gặp mặt, trái ngược với nỗi mong nhớ, sự sốt ruột và suy nghĩ của anh Sáu, bé Thu vụt chạy đi, nét mặt đầy sợ hãi kêu “má, má” để lại anh Sáu đứng một mình “nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai cánh tay buông xuống như bị gãy”.

Trong ba ngày anh sau ở nhà, anh không dám đi đâu vì muốn ở bên con, vỗ về, chăm sóc và bù đắp sự thiêu thốn trong 8 năm qua cho nó nhưng bé Thu lại tỏ ra cứng đầu, không chịu nhận anh, cũng không chịu gọi anh một tiếng “ba” dù chỉ một lần. Nhà văn đã xây dựng một loạt các chi tiết để miêu tả tâm lí, thái độ rất trẻ con, cố chấp của bé Thu. Khi má bắt kêu ba vô ăn cơm, doạ đánh để cô bé gọi ba một tiếng, Thu vẫn chỉ nói trống không “vô ăn cơm! cơm chín rồi”, “con kêu rồi mà người ta không nghe”.

Hai tiếng “người ta” mà Thu thốt lên làm anh Sáu đau lòng đến mức “không khóc được, chỉ khe khẽ lắc đầu cười”. Thậm chí, ngay cả khi bị má đặt vào một hoàn cảnh khó khăn để buộc Thu gọi anh Sáu một tiếng ba là chắt nước nồi cơm to đang sôi, Thu cũng lại nói trống không “cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái”. Sự im lặng của anh Sáu và cả sự gợi ý của bác Ba đều không thể làm cô bé gọi tiếng “ba” đơn sơ, giản dị. Tiếng gọi mà mỗi đứa trẻ đều ghi nhớ và bập bẹ lần đầu tiên trong cuộc đời mình.

Đỉnh điểm của sự kiên quyết chối từ tình yêu thương của anh Sau trong bé Thu là chi tiết cái trứng cá trong bữa cơm gia đình. Bằng lòng thương con của người cha, anh Sáu gắp cái trứng cá ngon nhất vào chén cơm của Thu nhưng con bé bất thần hất nó ta khỏi chén cơm. Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, anh Sáu đánh con, Thu không khóc, lầm lì bỏ trứng cá lại vào chén cơm và bỏ sang nhà bà ngoại, lúc đi còn cố ý khua dây xuồng cho thật to.

Những chi tiết bình thường mà tinh tế này chứng tỏ nhà văn rất thấu hiểu tâm lí trẻ em. Trẻ con vốn rất thơ ngây nhưng cũng đầy cố chấp, nhất là khi chúng có sự hiểu lầm, chúng kiên quyết chối từ tình cảm của người khác mà không cần cân nhắc, nhất là với một cô bé cá tính, bướng bỉnh như Thu. Người đọc nhiều khi thấy giận em, thương cho anh Sáu. Nhưng thật ra em vẫn là cô bé dễ thương. Bởi nguyên nhân sâu xa của sự chối từ ấy vẫn là tình yêu ba. Tình yêu đến tôn thờ, trung thành tuyệt đối với người ba trong tấm ảnh chụp chung với má. Người ba với gương mặt không có vết thẹo dài do tội ác của kẻ thù. Khi đã có hình ảnh người ba ấy, em ngây thơ và rất trẻ con cho rằng ba không thay đổi và mình không thể gọi ba với bất kì một người nào khác.

Thế nhưng, tình yêu ba trong bé Thu đã trỗi dậy mãnh liệt vào cái giây phút bất ngờ nhất, giây phút anh Sáu lên đường trong nỗi đau vì không được con đón nhận. Bằng sự quan sát tinh tế, bác Ba là người đầu tiên nhận ra sự thay đổi của Thu trong “vẻ mặt sầm lại buồn rầu”, “đôi mắt như to hơn nhìn với vẻ nghĩ ngợi sâu xa”. Điều đó cho thấy trong tâm hồn đứa trẻ nhạy cảm như Thu đã có ý thức về cảm giác chia li, giây phút này em thèm biểu lộ tình yêu với ba hơn hết, nhưng sự ân hận về những gì mình đã làm ba buồn khiến em không dám bày tỏ. Để rồi tình yêu ba trào dâng mãnh liệt trong em vào khoảnh khắc ba nhìn em với cái nhìn trìu mến, giọng nói ấm áp “thôi, ba đi nghe con!”.

Đúng vào lúc không một ai ngờ tới, kể cả anh Sáu, Thu thốt lên tiếng kêu thét “Ba...a...a...ba!”. “Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và ruột gan mọi người nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” nó cố kìm nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ đáy lòng nó”. Tiếng gọi thân thương ấy đứa trẻ nào cũng gọi đến thành quen nhưng với cha con Thu là nỗi khát khao của 8 năm trời xa cách thương nhớ. Đó là tiếng gọi của trái tim, của tình yêu trong lòng đứa bé 8 tuổi mong chờ giây phút gặp ba.

Đi liền với tiếng gọi là những cử chỉ vồ vập, cuống quýt trong nỗi ân hận của Thu: chạy xô tới, chạy thót lên, dang chặt hai tay ôm lấy cổ ba, hôn ba cùng khắp, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai, hôn cả vết thẹo dài trên má, khóc trong tiếng nấc, kiên quyết không cho ba đi...Cảnh tượng ấy tô đậm thêm tình yêu mãnh liệt, nỗi khát khao mong mỏi mà Thu dành cho ba. Phút giây ấy khiến mọi người xung quanh không ai cầm được nước mắt và bác Ba “bỗng thấy khó thở như có bàn tay ai nắm chặt trái tim mình” vì nó khiến ta bồi hồi xúc động, không muốn cắt đi khoảnh khắc đẹp nhất của tình cha con trong bé Thu, anh Sáu.

Cả hai cha con anh đã đợi chờ trong tám năm chỉ để có vài phút ngắn ngủi này. Dường như nhà văn Nguyễn Quang Sáng cũng muốn kéo dài thêm giây phút chia ly của cha con Thu trong cảm nhận của người đọc bằng cách rẽ mạch truyện sang một hướng khác, để bác Ba nghe bà ngoại Thu kể lại cuộc chuyện trò của hai bà cháu đêm qua. Chi tiết này vừa giải thích cho ta hiểu thái độ bướng bỉnh không nhận ba hôm trước của bé Thu và sự thay đổi trong hành động của em hôm nay.

Như vậy, trong lòng cô bé, tình yêu dành cho ba luôn là một tình cảm thống nhất, mãnh liệt. Dù cách biểu hiện tình yêu ấy thật khác nhau trong hai hoàn cảnh, nhưng nó vẫn xuất phát trừ một cội nguồn trong trái tim đứa trẻ luôn khao khát tình cha. Tuy nhiên, Thu trước sau vẫn chỉ là một cô bé ngây thơ, em đồng ý cho ba đi để ba mua một chiếc lược, món quà nhỏ mà bất cứ em bé gái nào cũng ao ước. Bắt đầu từ chi tiết này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một chứng nhân âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử.

Đoạn trích kết thúc trong ánh mắt thiết tha của anh Sáu trước lúc hy sinh nhờ bác Ba trao cây lược ngà cho Thu. Với bé Thu, cây lược nhỏ mang dòng chữ đầy yêu thương “yêu nhớ tặng Thu con của ba” là kỉ vật chứa đựng tình thương, nỗi nhớ, hình bóng, tấm lòng người cha. Chiếc lược ngà đã động viên em vững vàng trong cuộc chiến đấu. Khi bác Ba tình cờ gặp lại Thu và trao cây lược, thì cô bé bướng bỉnh cá tính ngày nào đã trở thành cô giao liên dũng cảm. Và nguồn sức mạnh tiếp thêm cho Thu là tình yêu ba, tình yêu đất nước.

Bé Thu là nhân vật gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc và làm ta xúc động khi đọc “Chiếc lược ngà”. Thông qua câu chuyện của anh Sáu và bé Thu, tác giả muốn ngợi ca vẻ đẹp của tình phụ tử trong hoàn cảnh chiến tranh đau thương mất mát. Vì thế, tác phẩm là bài ca bất tử về sức mạnh tình cha con trong cuộc đời mỗi con người. Đồng thời, quabé Thu và câu chuyện cảm động của cha con em, ta càng hiểu thêm những đau thương mà người dân Nam bộ phải hứng chịu trong cuộc chiến tranh chống Mĩ. Chính vì thế, truyện ngắn “Chiếc lược ngà” không chỉ thành công trong việc miêu tả tâm lí trẻ em mà còn mang giá trị nhân văn cao đẹp.

Có một nhà văn đã từng nói “không có gì nghệ thuật vươn tới hơn là tình yêu thương cao đẹp của con người”. Và thành công lớn nhất của nhà văn Nguyễn Quang Sáng trong truyện ngắn “Chiếc lược ngà” chính là ông đã đem đến cho ta cảm xúc mãnh liệt về tình người. Tình cha con thiêng liêng, bất tử sáng lên trong hoàn cảnh chiến tranh đau thương, khốc liệt.

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH ĐỀ THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


chiec-luoc-nga.jsp


Giải bài tập lớp 9 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên