20+ Phân tích nhân vật ông Sáu (hay, ngắn gọn)
Phân tích nhân vật ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà hay, chọn lọc. Mời các bạn đón đọc:
- Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 1
- Dàn ý Phân tích nhân vật ông Sáu
- Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 2
- Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 3
- Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 4
- Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 5
- Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 6
- Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 7
- Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 8
- Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 9
- Phân tích nhân vật ông Sáu (mẫu khác)
20+ Phân tích nhân vật ông Sáu (hay, ngắn gọn)
Bài giảng: Chiếc lược ngà - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 1
Ông cha ta vẫn thường có câu:
Công cha như núi ngất trời
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển đông
Quả thực công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ là trời biển, cả đời này những người con cũng không thể báo đáp hết. Trong bất kì thời điểm nào, tình cảm phụ tử cũng thật thiêng liêng và đáng trân trọng. Và đặc biệt là trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, tình cảm ấy như một viên ngọc quý, sáng ngời. Và tất cả thứ tình cảm thiêng liêng ấy, đã được Nguyễn Quang Sáng dồn tụ trong nhân vật ông Sáu với tác phẩm Chiếc lược ngà.
Trong thời đại kháng chiến vĩ đại, ông Sáu cũng như bao thanh niên khác, theo tiếng gọi tổ quốc lên đường nhập ngũ. Lập gia đình không được bao lâu, ông Sáu đã lên đường, còn chưa kịp nhìn đứa con gái yêu quý của mình. Những ngày ở chiến khu lòng ông lúc nào cũng đau đáu nhớ về gia đình và bé Thu. Ba ngày nghỉ phép như một phép màu, giúp ông thỏa nỗi nhớ quê hương, đặc biệt là được gặp đứa con thân thương của mình.
Lòng ông háo hức hồi hộp, trên chiếc xuồng mắt ông dõi về hướng nhà mình, và khi xuồng chưa cập bến ông đã vội nhảy lên bờ. Lòng ông hồ hởi, hạnh phúc, ông đã mong chờ giây phút gặp con này biết bao lâu rồi. Tiếng gọi con vừa nồng nàn, vừa ấm áp, chỉ hai tiếng “Thu!con” mà chất chứa biết bao tình yêu thương ông dành cho bé Thu. Nhưng trái ngược với dòng tình cảm nồng cháy của ông, bé Thu lạnh nhạt, sợ hãi quay đầu bỏ chạy. Bé Thu không nhận ra anh, nó như một nhát dao cứa vào trái tim anh Sáu, anh lắp bắp gọi con, vết thẹo ở má đỏ ửng lên, con bé vụt bỏ chạy, anh đau đớn khôn cùng, “hai tay buông xuống như bị gãy”. Trông anh vô cùng đáng thương. Có lẽ anh Sáu cũng hiểu phần nào phản ứng của bé Thu với mình, nhưng với thân phận một người cha làm sao anh có thể không đau đớn, xót xa.
Ba ngày nghỉ phép ở nhà, là cơ hội hiếm có để anh đi thăm bà con, hỏi han họ hàng, nhưng anh dành riêng ba ngày đó cho đứa con yêu của mình. Anh quanh quẩn bên nó với chỉ một mong muốn duy nhất, bé Thu nhận ra cha và gọi anh là ba. Cái điều mà những tưởng người ta chẳng cần ước, nhưng anh dành cả tâm sức, thời gian mà bé Thu vẫn không hề lay chuyển. Đặc biệt trong bữa cơm, bé Thu càng tỏ ra ương ngạnh, bướng bỉnh hơn, đỉnh điểm là khi anh gắp cái trứng cá vào bát nó, Thu đã hất miếng trứng đi. Vừa giận, vừa đau đớn, anh Sáu không thể kiềm chế bản thần mà đã vung tay đánh vào mông Thu. Không nói ra nhưng chúng ta cũng có thể hiểu rằng, đằng sau phút giây nóng giận ấy là trái tim tràn đầy tình yêu thương, là khao khát cháy bỏng nhận được một cử chỉ, một lời yêu thương từ đứa con.
Mọi sự cố gắng của ông Sáu đã được đền đáp. Trong giờ khắc cuối cùng của cuộc chia tay, bé Thu đã nhận ra anh. Niềm hạnh phúc, sự sung sướng, cảm động đã kết đọng thành giọt nước mắt đầy yêu thương. Dù thời gian của hai cha con vô cùng ngắn ngủi, nhưng anh cũng đã cảm nhận được hết tình yêu thương con dành cho mình. Tình yêu thương đó cũng là động lực để anh chắc tay súng, bảo vệ quê hương và trở về bên con.
Những ngày ở chiến khu tình yêu thương của anh dành cho bé Thu được bộc lộ mạnh mẽ và sâu sắc nhất. Ông luôn ân hận, dày vò bản thân vì đã lỡ đánh con. Nhớ những lời bé Thu dặn anh đã tìm cho được chiếc ngà. Anh thận trọng, tỉ mỉ, cố công như một người thợ bạc để cưa từng chiếc răng lược rồi gò lưng tẩn mẩn khắc từng nét chữ Yêu nhớ tặng Thu, con của ba. Anh làm chiếc lược bằng tất cả tình yêu thương dành cho con. Nhưng anh Sáu chưa kịp trao cho con chiếc lược ngà đã hi sinh trong một trận càn lớn của giặc. Nhưng hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, dù không đủ sức để trăng trối lại bất cứ điều gì, nhưng ông Sáu đã thu hết chút lực tàn để lấy cây lược đưa cho người đồng đội của mình trao cho bé Thu. Dù không một lời nói ra, nhưng nó vô cùng thiêng liêng, bởi đây là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử cao cả, thiêng liêng, sâu sắc.
Với việc lựa chọn ngôi kể phù hợp, bác Ba người thân thiết gần gũi bên cạnh ông Sáu đã giúp cho câu chuyện trở nên chân thực, đáng tin cậy. Câu chuyện về tình phụ tử thiêng liêng trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt càng cho thấy rõ hơn những nỗi đau mà chiến tranh gây ra đối với con người. Nhưng cao cả hơn, đó chính là tình cảm phụ tử thiêng liêng, bất diệt.
Dàn ý Phân tích nhân vật ông Sáu
1. Mở bài:
Giới thiệu về truyện ngắn "Chiếc lược ngà" và nhân vật ông Sáu.
2. Thân bài:
a) Ông Sáu là người lính dũng cảm:
Ông Sáu đi lính từ khi con gái chưa tròn một tuổi.
Trong những năm chiến đấu ông đã có một vết thẹo trên mặt -> Minh chứng của chiến tranh và dấu vết của lòng can đảm.
Tuy rất muốn ở cùng con thêm vài ngày nhưng ông vẫn quay lại chiến trường đúng thời gian quy định.
b) Ông Sáu là người cha rất yêu thương con:
- Khi nhìn thấy con: Ông Sáu háo hức, mong chờ được đến ôm con nhưng chỉ nhận được sự cự tuyệt của bé Thu khiến ông đau đớn, thất vọng.
- Trong những ngày ở nhà:
Tuy ông Sáu rất cố gắng để được gần gũi con nhưng bé Thu luôn từ chối khiến ông bất lực, không biết nên làm thế nào.
Trong bữa cơm, ông Sáu gắp miếng trứng cá cho con, con bé liền hất đi. Không kiểm soát được cơn giận, ông liền đánh con.
- Trong buổi chia li: Ông Sáu bất ngờ, xúc động, không nén nổi xúc động vì tình cảm con gái dành cho mình.
- Khi ở chiến trường:
Ông Sáu rất ân hận vì đã lỡ tay đánh con.
Tự tay làm chiếc lược ngà để tặng con.
Dồn hết tình cảm thương nhớ con của mình vào chiếc lược ngà.
=> Ông Sáu là một nhân vật cực kì yêu thương con gái của mình
b) Nghệ thuật:
Xây dựng nhân vật: Nhân vật có rất ít lời thoại nhưng những hành động, biểu cảm, suy nghĩ của nhân vật được tác giả miêu tả rất rõ nét nhằm khắc họa tâm lí nhân vật.
Sử dụng ngôn ngữ Nam Bộ giản dị, quen thuộc khiến cho nhân vật trở nên gần gũi hơn.
3. Kết bài:
Khái quát lại về nhân vật ông Sáu.
Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 2
"Chiếc lược ngà" là một truyện ngắn xuất sắc của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Câu chuyện về tình cha con trong chiến tranh đã khiến cho người đọc không khỏi cảm động. Nhân vật người cha - ông Sáu trong tác phẩm này đã được nhà văn xây dựng rất thành công. Đó là một người lính gai góc nhưng cũng là người cha hết mực yêu thương con gái mình.
Ông Sáu là một người lính đã cống hiến hết mình cho Tổ quốc. Trong những năm khói lửa ác liệt, ông đã bị lính Mỹ bắn bị thương, để lại vết thẹo dài trên mặt. Mỗi lần ông xúc động, vết thẹo lại giật giật trên mặt trông rất đáng sợ, dữ dằn. Đó là minh chứng của chiến tranh để lại, cũng là chiến tích được lưu trên gương mặt của người lính anh dũng, quả cảm. Khi về thăm nhà, tuy rất muốn được ở cùng con thêm vài ngày nhưng cuối cùng ông Sáu quay lại chiến trường đúng thời hạn được giao. Không vì việc riêng mà làm chậm trễ nhiệm vụ của đất nước. Từ đó, ta có thể thấy ông Sáu là người dũng cảm, gan dạ, luôn hết mình vì sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc.
Thế nhưng người lính nào cũng có nỗi niềm riêng. Ông Sáu cũng vậy, ông có một đứa con gái nhưng phải xa con khi bé Thu chưa đầy một tuổi. Khi được nghỉ phép về thăm nhà, ông Sáu nôn nao trong lòng, mong chờ được gặp bé Thu. Xuồng vào bến, ông thấy một bé gái chơi ở trước sân nhà và đinh ninh rằng đó là con mình. Không thể chờ xuồng cập bến, ông vội nhảy lên bờ, chạy về phía con và gọi to tên con. Ông Sáu xúc động, giang tay đưa về phía con giọng run run: "Ba đây con! Ba đây con!". Tưởng rằng con bé sẽ nhận ra ba nó, sẽ chạy lại ôm lấy ba nhưng sự thật khiến ông Sáu hoàn toàn hụt hẫng. Bé Thu có vẻ sợ hãi, chạy đi rồi hét gọi má. Ông Sáu thất vọng, hai tay buông thõng, dường như có gì đó mất đi trong trái tim.
Mấy ngày ở nhà, dù làm thế nào con gái cũng không chịu gọi ông Sáu là ba: Bảo gọi ba ra ăn cơm thì con nói trổng. Có hôm nồi cơm đang nấu phải chắt nước, con bé không là được phải nhờ người lớn. Nó cũng không chịu kêu ba mà chỉ nói: "Cơm sôi rồi, chắt nước giùm cái", "Cơm sôi rồi, nhão bây giờ!". Tuy ông Sáu luôn luôn tìm cách để hai ba con được gần gũi, thân thiết nhưng bé Thu luôn tránh né, khiến cho ông vô cùng buồn rầu. Trong bữa cơm, ông Sáu thấy miếng trứng cá ngon nên đã gắp cho con. Thấy vậy, con bé hất cái trứng ra trong sự ngỡ ngàng của mọi người. Ông Sáu vừa tức giận, vừa xấu hổ, không nghĩ rằng tình yêu thương mà ông dành cho con bé lại bị đáp trả như thế. Quá giận dữ, ông vung tay đánh vào mông con và hét lên "Sao mày cứng đầu quá vậy, hả?". Con bé ngồi im, không nói, đầu cúi gằm xuống. Ông Sáu bỗng hối hận, chỉ vì vài giây nóng giận không suy nghĩ mà lỡ đánh con.
Hôm sau, khi ông Sáu phải quay lại chiến trường. Vì vẫn đau đáu chuyện tối qua nên ông Sáu chỉ nhìn con rồi nói khẽ: "Thôi! Ba đi nghe con!". Con bé bỗng thét lên "Ba" rồi chạy đến ôm chặt lấy cổ, không cho ba đi. Ông Sáu vỡ òa trong niềm hạnh phúc, niềm sung sướng, nhớ thương và nỗi ân hận đan xen hóa thành những giọt nước mắt. Ông rút khăn lau nước mắt, hôn lên mái tóc con rồi nói "Ba đi rồi ba về với con". Thật lòng, ông rất muốn ở lại với con bé, tận hưởng một chút tình cảm cha con nhưng chiến trường đang sôi sục, phải lên đường ngay. Ông Sáu đã hứa rằng khi trở về sẽ mua cho con một chiếc lược ngà. Cha con ông chia tay trong sự luyến tiếc, con bé ở lại, ông Sáu ra chiến trường.
Trong những ngày ở rừng, lòng ông Sáu đau đáu nỗi nhớ con và niềm ân hận khôn nguôi vì đã không kìm được tức giận mà đánh bé Thu. Cho đến một ngày, ông Sáu tìm được khúc ngà voi trong rừng. Ông vui sướng quyết định sẽ tự tay làm cho con một chiếc lược. Chiếc lược ngà làm xong, ông nâng niu nó như vật quý không bao giờ rời. Những đêm nhớ con, ông mang lược ra ngắm, trong lòng cũng nguôi đi phần nào nỗi ân hận, chỉ mong ngày thống nhất đến thật nhanh để cha con ông được đoàn tụ. Thế nhưng, số phận trớ trêu, ông Sáu đã hi sinh trong một trận càn của địch. Bé Thu chưa kịp cảm nhận hơi ấm tình cha đã mất đi mãi mãi.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng nhân vật rất thành công nhờ những hành động, cử chỉ cùng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với người dân Nam Bộ. Có thể khẳng định rằng, "Chiếc lược ngà" là một truyện ngắn xuất sắc, làm nổi bật lên tình cha con ấm áp giữ bom đạn của chiến tranh.
Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 3
Chiếc lược ngà là truyện ngắn xuất sắc viết về tình cảm gia đình trong chiến tranh của nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Qua nhân vật ông Sáu, nhà văn không chỉ mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về sự khốc liệt và những đau thương mà chiến tranh mang lại mà còn khơi dậy những cảm xúc thật mềm mại, tha thiết về tình cảm gia đình trong trái tim của mỗi người qua câu chuyện cảm động của ông Sáu và bé Thu.
Trong hàng loạt các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cả trước và sau cách mạng tháng tám, bên cạnh các chủ đề xuyên suốt như chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sự tàn khốc của chiến trường đổ lửa thì câu chuyện về những nỗi đau và nỗi bất hạnh mà con người phải gánh chịu trong chiến tranh cũng là một trong những đề tài được nhiều tác giả quan tâm, đặc biệt là những tác giả trẻ trưởng thành sau cách mạng. Trong đó Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất.
Ông Sáu tham gia kháng chiến khi con gái đầu lòng của ông - bé Thu còn chưa đầy một tuổi. Ông Sáu đi là biền biệt suốt 7, 8 năm trời, không có điều kiện để thăm đứa con bé bỏng của mình, chính điều đó đã kéo theo một loạt những bi kịch đến với cuộc đời lính đầy gian khổ của ông.
Khi được về thăm nhà, thăm con sau bao năm xa cách, mọi chuyện lại không như mong đợi, sự xa lạ, lạnh lùng của bé Thu là điều ông Sáu không thể ngờ tới, cái khoảnh khắc ông mong ngóng, đợi trông bấy lâu đã không xảy ra. Khi ông nhún chân nhảy lên bờ, bước những bước dài về phía đứa bé mặc áo bông đỏ, mái tóc ngắn ngang vai đang đứng bên kia bờ, tiếng kêu to "Thu, con!", chỉ khiến con bé "giật mình tròn mắt nhìn", "ngơ ngác, lạ lùng". Không có cái cảnh đứa bé xô vào lòng ông, ôm chặt lấy cổ ông như mọi người và ông Sáu vẫn tưởng. Nhưng ông Sáu vì quá xúc động và nhớ con, vẫn chưa kịp nhận ra sự khác lạ ấy, ông vẫn tưởng con bé chỉ là chưa nhận ra ông, nên vẫn tiếp tục tiến đến gọi bé Thu bằng chất giọng run run cùng khuôn mặt với vết sẹo đỏ bừng giật giật theo từng cơn xúc động của ông "Ba đây con!".
Trước cảnh tượng ấy, bé Thu bỗng tái mặt, chạy vụt đi vừa chạy vừa kêu thét lên đầy sợ hãi "Má! Má!". Cảnh tượng ấy đã giáng một đòn thật mạnh vào trái tim chất chứa đầy tình thương yêu của ông Sáu, khiến ông đau đớn, chua xót không thôi, "mặt anh sầm lại, hai tay buông xuống như bị gãy", đó là một cảm giác bất lực, thất vọng đến cùng cực của một người cha vốn dành trọn tình yêu cho con nhưng lại bị từ chối phũ phàng, đau đớn. Người lính đứng trước mưa bom bão đạn chưa từng nản chí, sợ hãi, nhưng đứng trước bi kịch gia đình, bi kịch tình cảm phụ tử lại trở nên yếu đuối và đáng thương, điều khiến người ta không khỏi thấy chạnh lòng, tủi phận.
Tuy nhiên tấn bi kịch của ông Sáu chưa dừng lại ở đó, mà nó còn tiếp diễn suốt trong ba ngày nghỉ phép ngắn ngủi, giày vò trái tim người lính tội nghiệp. Dù bé Thu từ chối nhận mình là ba, thế nhưng bằng tình yêu thương con sâu sắc, ông vẫn luôn tìm mọi cách để gần gũi con bé "suốt ngày anh chẳng đi đâu xa, cứ ở bên cạnh vỗ về con bé". Nhưng thật xót xa canh càng vỗ về, càng cố gắng tiến lại con bé càng đẩy ông ra xa, ông chỉ mong con bé gọi một tiếng "ba", nhưng nó chưa từng mở lời lấy một lần, mà luôn tìm cách chống đối. Thậm chí để tránh phải gọi ông Sáu là "ba", khi bị mẹ ép gọi ba vào ăn cơm, bé Thu còn nói trổng "Vô ăn cơm!", ông Sáu giả vờ không nghe thấy để đợi con bé gọi tiếng ba thì trái lại bé Thu lại đổi cách gọi khác "Cơm chín rồi".
Trước sự ngang bướng và có phần hỗn hào của con bé ông Sáu không thấy tức giận mà chỉ "nhìn con rồi khe khẽ lắc đầu cười". Ông cười nhưng lòng đau đớn đến tột cùng, cái cảm giác nghẹn ngào không khóc được, nên đành phải cười vậy, cười cho bi kịch kỳ lạ của cuộc đời mình, bi kịch con không nhận cha, cười cho nỗi mong mỏi tiếng "ba" đến đáng thương của mình. Nhưng không vì thế mà ông Sáu tức giận, không vì thế mà thôi không cố gắng gần gũi con, ông vẫn kiên nhẫn để mong con bé thay đổi và đáp lại tình cảm của mình trong ba ngày phép ngắn ngủi.
Trong bữa cơm hiếm hoi có mặt đầy đủ cả gia đình sau bao năm xa cách, ông Sáu cố tìm cách quan tâm bé Thu bằng việc gắp cho con bé cái trứng cá. Nhưng con bé lại cầm đũa hất ra, làm vung vãi cơm ra khắp cả mâm. Có lẽ rằng sự vô tình và ngang bướng của bé Thu đã khiến ông Sáu không thể kiềm chế được mà ra tay phát vào mông nó "Sao mày cứng đầu quá vậy hả?". Nhưng có ai biết rằng, sau cái hành động ấy là biết bao nỗi đau đớn, tủi hờn của một người cha, một người đàn ông đang quằn quại trong bi kịch cuộc đời mình, bé Thu đau một, thì có lẽ ông đau mười, nỗi đau ấy không nằm trong da thịt mà quặn xoắn vào trái tim vốn đã có nhiều tổn thương của ông.
Như vậy đến một bữa cơm êm ấm quây quần gia đình, ôngh Sáu cũng không có được, những ngày phép của ông cũng đến hồi hết, ông lại phải đi hòa mình vào cuộc chiến, mà không biết rằng đến tháng năm nào ôngh mới lại có thể trở về, hoặc là mãi mãi không về nữa. Càng nghĩ càng xót xa cho thân phận người lính.
Đến lúc chuẩn bị lên đường trở về căn cứ, khi đã chia tay hỏi han hết người thân, bạn bè, ông Sáu quay lại nhìn con, nhưng nhớ đến sự xa cách, chối bỏ của con bé với mình, ông Sáu lại cố kìm nén cái khao khát được ôm hôn con bé trước khi đi xa, mà chỉ lặng nhìn con bé "với đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu" cùng lời từ biệt "Thôi ba đi nghe con!". Có lẽ ông cũng không mong mỏi con bé sẽ đáp lại ông điều gì đó nữa. Những tưởng rằng con bé vẫn sẽ lạnh lùng, nhìn ông ra đi cũng như lúc nhìn ông về thì bất ngờ một tiếng "Ba...a...a...ba!" như xé nát không gian, xé vào tâm can mọi người, nghe thật xót xa. Con bé chạy đến nhào vào lòng ông Sáu, ôm chặt lấy cổ ông, vừa nói vừa khóc "Ba! Không cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!". Còn hạnh phúc nào hơn giây phút này nữa, tình phụ tử thiêng liêng bao trùm khắp trong căn nhà bé nhỏ, ông Sáu mừng vui quá đỗi, những giọt nước mắt xúc động chảy dài, ông lau nước mắt rồi hôn lên tóc con bé một cách đầy trân trọng và yêu thương. Hóa ra, bé Thu không nhận ba là vì trên mặt ba nó có vết sẹo dữ tợn quá, khác xa với tấm ảnh mà mẹ đưa cho nó, khi con bé sang nhà bà ngoại, biết được căn nguyên của vết sẹo là do bị thương trong khi chiến đấu, nó mới vỡ lẽ, quay trở về nhận ba.
Nhưng một lần nữa bi kịch lại xảy đến, hạnh phúc ngắn chẳng tày gang, ngay cái lúc cha nhận nhau cũng là lúc ông Sáu phải ra đi, mà chuyến đi này lại là chuyến đi mãi mãi, cũng là lần cuối bé Thu được nhìn thấy cha mình. Ông Sáu ra đi với lời hứa làm cho bé Thu một chiếc lược ngà, và một nỗi khổ tâm day dứt mãi trong lòng, ông ân hận nghĩ mãi sao ngày ấy mình lại đánh con bé. Cả nỗi nhớ và nỗi ân hận, khiến ông làm chiếc lược ngà càng tỉ mỉ và thận trọng hơn, dường như mỗi một chiếc răng lược, mỗi một vết cắt đều thấm đẫm tình yêu của ông dành cho con. Nhưng đáng buồn thay, ông vĩnh viễn không thể trở về như lời ông hứa "Ba đi rồi ba về với con", cũng không thể tận tay trao cho đứa con gái yêu dấu chiếc lược mà ông dày công chế tạo.
Có thể nói rằng cả cuộc đời của ông Sáu đã bị chiến tranh hủy hoại, mang đến cho ông tấn bi kịch gia đình với những tổn thương sâu sắc. Nó không chỉ để lại trên thân thể ông những dấu tích kinh hoàng, cướp đi sinh mạng của ông mà còn cướp đi của ông những giây phút êm ấm bên gia đình, chia cắt tình cha con, vợ chồng, để lại trong tim ông những nỗi đớn đau tột cùng. So với những gì đã mất, thứ ông Sáu nhận lại chỉ là vài giây phút được gần vợ, con ngắn ngủi, cùng với nỗi nhớ thương, ân hận da diết đến tận lúc hi sinh.
Không có hạnh phúc nào cho người lính, đó là câu nói dành cho cả những người đã nằm xuống và những người còn may mắn sống sót sau những cuộc chiến khốc liệt. Chiến tranh đã lấy đi của họ quá nhiều, những người ra đi không hối tiếc một lời, dành cả thanh xuân cho đất nước, dân tộc, cống hiến vì hai chữ hòa bình, tự do, còn bản thân nhận lại hết những tấn bi kịch, bất hạnh không nói thành lời. Nhân vật ông Sáu và tác phẩm Chiếc lược ngà, không chỉ phản ánh sự khốc liệt và đau thương của chiến tranh mà còn nói lên số phận của những người lính, nhắc nhở chúng ta phải biết trân trọng độc lập, tự do của dân tộc, những thứ đã được đánh đổi bằng máu thịt, nước mắt của cha ông trong suốt chiều dài lịch sử. Tác phẩm cũng khắc họa sâu sắc tình cha con của các nhân vật, thể hiện sự thiêng liêng, gắn kết máu thịt, dù trong hoàn cảnh chia cắt đôi nơi, nhưng thứ tình cảm ấy vẫn đong đầy, vẹn nguyên, thậm chí sâu đậm hơn trong trái tim của ca hai cha con ông Sáu.
Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 4
“Ê-mi-ly, con đi cùng cha
Sau khôn lớn con thuộc đường, khỏi lạc…
- Đi đâu cha?
- Ra bờ sông Pô-tô-mác
- Xem gì cha?
Không con ơi, chỉ có lầu Ngũ Giác.
Ôi con tôi, đôi mắt tròn xoe
Ôi con tôi, mái tóc vàng hoe
Đừng có hỏi cha nhiều con nhé!
Cha bế con đi, tối con về với mẹ…”
(Tố Hữu)
Người đàn ông tên Mo-ri-xơn ấy bế cô con gái nhỏ trên tay, nhằm thẳng hướng lầu Năm Góc bước tới cùng vẻ mặt đăm chiêu. Đứa bé ấy vẫn hồn nhiên mà chẳng biết rằng đó là cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam khốc liệt đang diễn ra mà chính người bố dũng cảm của cô bé quyết phản đối. Người bố ấy đã có thể đặt chiếc hôn cuối cùng lên má cô con gái bé bỏng của mình trước khi tự thiêu, thế nhưng ông Sáu trong tác phẩm “Chiếc lược ngà” của tác giả Nguyễn Quang Sáng chưa một lần được âu yếm, ôm ấp đứa con vào lòng. Tác giả là một trong những cây bút sáng tác nhiều truyện ngắn giá trị trong những năm kháng chiến, là cây đại thụ của văn học Nam Bộ với các tác phẩm truyện ngắn nổi bật như: “Con chim vàng”, “Người quê hương”, “Chiếc lược ngà”,… Màu sắc bi tráng với bao sự tích anh hùng, những tình huống hấp dẫn đầy kịch tính và giàu chất thơ tạo nên cốt cách và vẻ đẹp trang văn Nguyễn Quang Sáng. Và nhân vật ông Sáu chính là sự thành công vang dội, để lại cho độc giả bao ấn tượng mãi không phai. Suốt tám năm ròng rã vì lý tưởng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” mà ông đành gác lại hạnh phúc của mình ở sau. Bé Thu – con gái ông lạ lẫm và chẳng nhận đấy là cha mình. Là một người cha, ông Sáu thông cảm cho cảm giác của con mình và luôn muốn bù đắp. Người đàn ông mạnh mẽ, dũng cảm đến đâu cũng sẽ yếu lòng trước vợ con, lúc này đây tình thương lớn dần, nếu không có chiến tranh thì có lẽ ông đã được bên cạnh con mỗi ngày, nuôi dạy và chăm sóc nó lớn.
Cũng như bao người khác, ông Sáu đi theo tiếng gọi của quê hương đã lên đường chiến đấu, để lại người vợ và đứa con thân yêu ở hậu phương. Sự xa cách càng làm dâng lên trong ông nỗi nhớ nhung tha thiết đứa con gái mà khi ông đi nó chưa đầy một tuổi. Nỗi nhớ ấy đã trở thành niềm khao khát, mơ ước cháy bỏng trong lòng ông sau tám năm xa cách. Chính vì vậy mỗi lần vợ lên thăm là một lần ông hỏi “Sao không cho con bé lên cùng?’’. Không gặp được con ông đành ngắm con qua ảnh vậy… Mặc dầu tấm ảnh đó đã rách nát, cũ kĩ lắm rồi, nhưng ông luôn giữ gìn nó vô cùng cẩn thận, coi nó như một báu vật. Còn đối với con gái Thu của ông thì sao? Từ nhỏ đến hồi tám tuổi nó chỉ được biết ba nó qua ảnh và qua lời kể của bà ngoại và mẹ. Dù được sống trong tình yêu thương của mọi người nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu hụt một tình thương, sự che chở của người cha. Chắc bé Thu từng giờ từng phút trông chờ ba nó lắm nhỉ? Và tám năm trời là những năm tháng dài đằng đẵng ấy cũng làm tăng lên trong lòng hai cha con ông Sáu nỗi nhớ nhung, mong chờ, ông Sáu ao ước gặp con, còn bé Thu ao ước gặp bố.
Thế rồi niềm ao ước ấy đã trở thành hiện thực. Ông được nghỉ phép. Ngày về thăm con, trên xuồng mà ông Sáu cứ nôn nao cả người. Ông đang nghĩ tới đứa con, nghĩ tới giây phút hai cha con gặp nhau như thế nào. Những điều ấy choáng hết tâm trí khiến ông không còn biết mình đang ngồi trên xuồng với người bạn. Khi xuồng vừa cập bến, ông Sáu đã nhón chân nhảy thót lên bờ. Người bạn đi cùng cũng rất hiểu ông nên không hề trách, bởi đó giây phút vô cùng thiêng liêng và trọng đại của ông Sáu, là giây phút người cha mong chờ đứa con sẽ chạy tới ôm siết lấy mình, là bước trở về sau bao xa cách… Ông đã “xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài rồi dừng lại kêu to: Thu! Con”. Ông vừa bước vào vừa khom người đưa tay đón chờ con… Ông không ghìm nổi xúc động…. Nhưng trái ngược với dòng tình cảm nồng cháy của ông, bé Thu lạnh nhạt, sợ hãi quay đầu bỏ chạy. Bé Thu không nhận ra ông, nó như một nhát dao cứa vào trái tim ông Sáu, ông lắp bắp gọi con, vết thẹo ở má đỏ ửng lên, con bé vụt bỏ chạy, ông đau đớn khôn cùng, “hai tay buông xuống như bị gãy”. Trông ông vô cùng đáng thương. Có lẽ ông Sáu cũng hiểu phần nào phản ứng của bé Thu với mình, nhưng với thân phận một người cha làm sao ông có thể không đau đớn, xót xa.
Mấy ngày ông Sáu ở nhà, ông chẳng dám đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con, ông mong được nghe một tiếng “ba” của con bé nhưng tất cả đều không trọn vẹn. Ông Sáu càng tỏ ra gần gũi con bao nhiêu thì con bé tỏ ra lạnh nhạt bấy nhiêu. Khi mẹ bảo nó gọi ba vào ăn cơm thì con bé đã nói trổng: “Vô ăn cơm!”. Câu nói của con bé như đánh vào tâm can anh, nhưng anh vẫn ngồi im giả vờ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm.” Thế nhưng Thu vẫn bướng bỉnh không chịu gọi ba, đã vậy còn bực dọc nói mấy câu “Cơm chín rồi!” và “Con kêu rồi mà người ta không nghe”. Nó nhất định không chịu gọi ông là “ba”, không nhờ ông chắt nước nồi cơm đang sôi, những lúc như vậy ông khổ tâm biết mấy, yêu con ông không nỡ mắng mà chỉ “nhìn con bé vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười”. Nụ cười lúc này không phải là vui mà có lẽ vì khổ tâm quá đến nỗi không khóc được, nên đành phải cười vậy thôi. Dường như sự lạnh lùng và bướng bỉnh của bé Thu đã làm tổn thương những tình cảm đang trào dâng tha thiết nhất trong lòng ông. Vì quá yêu thương con nên ông Sáu không cầm nổi cảm xúc của mình. Trong bữa cơm, ông gắp cho nó cái trứng cá nhưng bất ngờ nó hất tung cái trứng ra khỏi chén cơm. Giận quá, ông đã vung tay đánh và quát nó. Có lẽ việc đánh con bé là nằm ngoài những mong muốn của ông. Tất cả cũng chỉ là do ông quá yêu thương con. Có thể coi việc bé Thu hết cái trứng ra khỏi chén như một ngòi nổ làm bùng lên những tình cảm mà lâu nay ông dồn nén và chất chứa trong lòng.
Hôm chia tay, nhìn thấy con đứng trong góc nhà, ông muốn ôm con, hôn con nhưng “sợ nó giãy lên lại bỏ chạy” nên “chỉ đứng nhìn nó” với đôi mắt “trìu mến lẫn buồn rầu”… Cho đến khi nó cất tiếng gọi Ba, ông xúc động đến phát khóc và “không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con,một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con”. Mọi sự cố gắng của ông Sáu đã được đền đáp. Giọt nước mắt của ông là giọt nước mắt của vui sướng, hạnh phúc. Và không muốn cho con thấy mình khóc, ông Sáu một tay ôm con một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con…Thế là con bé đã gọi ông bằng ba. Ai có thể ngờ được một người lính đã dày dạn nơi chiến trường và quen với cái chết cận kề lại là người vô cùng mềm yếu trong tình cảm cha con. Sau bao năm tháng mong chờ, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận một niềm vui vô bờ. Bây giờ ông có thể ra đi với một yên tâm lớn rằng ở quê nhà có một đứa con gái thân yêu luôn chờ đợi ông, từng giây từng phút mong ông quay về.
Tình cảm của ông Sáu dành cho bé thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết là việc ông tự tay làm chiếc lược nhà cho con gái. “Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Xa con, ông luôn nhớ con trong nỗi day dứt, ân hận ám ảnh vì mình đã lỡ tay đánh con, vì vậy, bao tình cảm của ông đều dồn hết vào việc chế tạo chiếc lược ngà, mong một ngày có thể trao tận tay món quà này cho con. Kiếm được khúc ngà voi, ông hớn hở như đứa trẻ được quà: “từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Rồi ông dồn hết tâm trí và công sức vào việc làm cho con cây lược: “anh cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc”. Trên sống lưng lược, ông đã gò lưng, tẩn mẩn khắc từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Ông gửi vào đó tất cả tình yêu và nỗi nhớ. Nhớ con “anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”. Ông không muốn con ông đau khi chải lược. Yêu con, ông Sáu yêu đến từng sợi tóc của con. Chiếc lược trở thành vật thiêng liêng đối với ông Sáu, nó làm dịu đi nỗi ân hận, nó chứa đựng bao tình cảm yêu mến, nhớ thương, mong ngóng của người cha với đứa con xa cách. Cây lược ngà chính là sự kết tinh của tình phụ tử thiêng liêng. Nhưng trớ trêu thay, khi không thể đợi đến ngày về, ông Sáu đã hi sinh trong trận càn lớn của quân Mĩ – Ngụy khi chưa kịp trao cây lược cho con gái. “Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho ông làm một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời nhưng nó thiêng liêng hơn cả những lời di chúc. Nó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử. Và bắt đầu từ giây phút ấy, cây lược của tình phụ tử đã biến người đồng đội của ông Sáu thành một người cha thứ hai của bé Thu.
Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng và cao đẹp của cha con ông Sáu trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí. Cốt truyện được xây dựng khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp. Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, đặt vào nhân vật bác Ba, người bạn chiến đấu của ông Sáu và cũng là người chứng kiến, tham gia vào câu chuyện. Với ngôi kể này, người kể chuyện xen vào những lời bình luận, suy nghĩ, bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với nhân vật ông Sáu hơn hết. Từng câu cảm thán tha thiết, từng dòng chảy trôi tâm sự, trải lòng như vết dao cứa vào vết thương cứ thế rỉ máu. Thứ tình cảm thiêng liêng, tình cha con mãi chẳng thể bù đắp. Chiến tranh qua đi để lại bao mất mát khôn tả, thứ cướp đi người chồng của vợ, người cha của con và người chiến sĩ của Tổ quốc.
Nguyễn Quang Sáng là một trong những cây đại thụ sáng tác nhiều truyện ngắn giá trị trong những năm kháng chiến. Ông sở hữu cho chính mình kho tàng những tặng phẩm mang dấu ấn Nam Bộ. Qua nhân vật ông Sáu trong tác phẩm “Chiếc lược ngà”, người đọc không chỉ cảm nhận tình yêu con tha thiết sâu nặng của người cha chiến sĩ mà còn thấm thía bao đau thương mất mát đối với những em bé, những gia đình. Tình yêu thương con của ông Sáu còn như một lời khẳng định: Bom đạn của kẻ thù chỉ có thể hủy diệt được sự sống của con người, còn tình cảm của con người – tình phụ tử thiêng liêng thì không bom đạn nào có thể giết chết được. Sự băng hoại khốc liệt của thời gian cũng chẳng thể nào xóa nhòa “thước phim tua ngược” mang tên “chiếc lược ngà” ấy. Đó là nơi chúng ta luôn cảm nhận được những điều ấm áp từ trái tim đến với trái tim và cả thứ tình cảm gia đình thiêng liêng. Chẳng những thế, bao mất mát đau thương từ chiến tranh cũng là để chúng ta biết ơn, động lực biết phấn đấu vì tương lai nước nhà mà không quên rằng họ đã “đổ máu” đổi lấy sự bình yên này.
Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 5
Câu chuyện về tình cha con của ông Sáu trong tác phẩm Chiếc lược ngà gây xúc động cho người đọc vô cùng. Tình cha con ấy được đặt thử thách trong hoàn cảnh chiến tranh nên càng có nhiều điều đáng nói. Sự khốc liệt của chiến tranh, của thời gian không thể làm tàn lụi đi tình cảm ấy. Hơn hết càng khiến cho tình cảm ấy thêm thiêng liêng khi những con người trong câu chuyện nhìn nhận được tình cảm, tình nghĩa, sự quan trọng của tình cảm gia đình.
Trong tác phẩm nhân vật chính là bé Thu, nhưng còn một nhân vật trung tâm, nhân vật mang tư tưởng rất lớn lao cho tác phẩm, đó là nhân vật ông Sáu. Chiến tranh thực sự là một điều đáng sợ. Cũng chỉ vì chiến tranh mà gia đình nhỏ ba người của ông Sáu thật khó khăn trong việc đoàn viên đoàn tụ. Ông Sáu làm lính, cả đời nguyện hiến dâng cho Tổ quốc, cống hiến hết mình cho nhân dân và dù biết gánh được trách nhiệm là phải bỏ bê trách nhiệm nhỏ, ông hiểu và luôn đau đáu trong lòng nỗi buồn vì không bù đắp nhiều tình cảm cho vợ con. Ông suy nghĩ rất nhiều, đặc biệt là về đứa con gái bé bỏng, lần gặp cuối cùng là từ khi con còn nhỏ xíu, thấm thoắt đã 8 năm. Nỗi nhớ thương con trong ông ngày càng da diết, ông mong ngóng từng ngày được trở về thăm con. Không được gặp con, không được gần gũi bên cạnh chăm sóc, bao bọc, bảo vệ con gái suốt bao nhiêu năm chính là nỗi day dứt lớn lao nhất trong trái tim của ông.Tại nơi chiến trường, không ngày nào ông không nhớ về gia đình, nhớ về vợ, nhớ về đứa con gái bé bỏng thân yêu. Ông cứ hình dung mãi không biết dáng hình của cô con gái của mình hiện giờ ra sao, cao lớn thế nào, có luôn nhớ tới ông như nỗi nhớ dào dào, mòn mỏi của ông hướng về nó. Bao nhiêu câu hỏi được đặt ra, bao nhiêu sự suy tư được thể hiện. Với ông Sáu, chẳng có gì sung sướng hơn nếu một ngày nào đó ông được trở về thăm nhà. Được gặp lại con, được nghe con gái mình gọi một tiếng “ba” chính là niềm mơ ước lớn lao nhất hiện giờ của ông Sáu.
Và rồi niềm mong mỏi đó cũng có ngày trở thành hiện thực, tuy nhiên, mọi chuyện không như ông mong muốn. Ông mòi mỏi, háo hức vô cùng để được gặp mặt con gái, được ôm con gái vào lòng, được hôn lên tóc nó….nhưng cuối cùng chỉ nhận được sự ghẻ lạnh của cô con gái bướng bỉnh. Cô bé chạy trốn khỏi ông, ông càng đến gần thì nó lại càng bỏ ra xa, khước từ mọi sự gần gũi, vỗ về, quan tâm, âu yếm của ông. Và điều khiến ông đau đớn hơn cả là nó nhất quyết không chịu gọi ông bằng “ba”, phản kháng lại tất cả những việc mà ông dành cho nó, làm cho nó.
Ông Sáu càng gần gũi con, con càng đẩy ông ra xa, ông xót xa vô ngần. Ước nguyện không trọn vẹn, đó là điều ông đau đớn một. Nhưng chuyện sắp phải ra đi trong khi đó không được ôm con gái một lần, không được cảm nhận trọn vẹn, trong khi đó, ông còn lo sợ lần gặp này cũng sẽ là lần gặp cuối cùng vì sự nguy hiểm của chiến tranh là khôn cùng. Ông bất lực nhìn con gái, đau khổ, tuyệt vọng, tưởng chừng người đàn ông mạnh mẽ và can trường đó sẽ phải rơi nước mắt.
Cũng không trách cứ được bé Thu con gái ông, bởi con bé lưu giữ cho mình một tình cảm về cha đặc biệt quá. Đối với bé Thu, nó chỉ có một người ba duy nhất, nó thương ba của nó vô cùng. Hiểu được và thấm thía được những nỗi vất vả của ba nó. Chính bởi vậy, tình cảm của nó chỉ dành cho người ba thực sự của nó mà thôi. Chỉ vậy và không ai khác. 8 năm không phải quãng thời gian quá dài nhưng cũng không hề ngắn. 8 năm là quãng thời gian cho một đứa trẻ lớn khôn và cho một người đàn ông càng ngày càng già đi. Ba không giống trong bức ảnh chụp cùng mẹ, người đàn ông trước mặt Thu bây giờ khác biệt quá lớn, con bé có nhiều mối lo lắng và sự nghi ngờ.
Bé Thu – con gái ông, không chịu nhận ông là ba, hơn hết lại với thái độ rất cương quyết và chính khiến. Ông Sáu rất buồn, nhưng ông Sáu cũng không trách con, hơn hết ông thương con hơn vì sự thiếu thốn tình cảm của người cha. Đoạn văn nói về cảnh cha con nhận nhau gây xúc động mạnh mẽ cho người đọc. Thấm thía vô cùng sức mạnh của tình phụ tử. Con gái ôm chặt ba mà hôn lên má ba, hôn lên cả vết thẹo dài trên má – nguyên nhân của việc khó nhận ra ba. Đau đớn, xót xa nhưng cũng ngập tràn sự hạnh phúc. Đối với ông Sáu, giây phút đó khiến ông mãn nguyện cả cuộc đời rồi. Để khi ra chiến trường, nỗi nhớ thương con của ông càng thêm da diết, ông tự mình làm ra cây lược kỷ niệm cho con gái thân yêu, bé bỏng của mình.
Chiến tranh rất khốc liệt và tàn nhẫn, nó phá hủy biết bao hạnh phúc của con người. Trong tác phẩm Chiếc lược ngà, chiến tranh khiến cho hạnh phúc gia đình của ông Sáu không trọn vẹn, vợ xa chồng,con xa cha để rồi dẫn đến có cuộc kỳ ngộ nhiều đau đớn, xót xa nhưng cũng cảm động và ấm áp vô cùng.
Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 6
"Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một truyện ngắn viết về tình phụ tử sâu nặng của cha con ông Sáu sau chiến tranh. Đây là một truyện ngắn giản dị nhưng chứa đầy sức bất ngờ. Đoạn trích trong SGK Ngữ Văn 9 đã cho thấy một khoảnh khắc nhỏ mà trong đó có sự cao cả thiêng liêng về tình phụ tử.
Tình cảm của anh Sáu dành cho bé Thu trở nên mãnh liệt hơn, cao cả, thiêng liêng và cảm động hơn bao giờ hết là việc anh tự tay làm chiếc lược ngà cho con gái. “Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!”, đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên và cũng là duy nhất cho nên nó cứ thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây lược trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Anh bật dậy như bỗng lóe lên một sáng kiến lớn: làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, anh không thể mua được cây lược nên làm lược từ ngà voi là một cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quý hiếm – chiếc lược cho con của anh phải được làm bằng thứ quý giá ấy. Và anh không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Anh sẽ đặt và trong đấy tất cả tình cha con của mình. Kiếm được ngà voi, mặt anh “hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Vậy đấy, khi người ta hoá thành con trẻ lại chính là lúc người ta đang hiện lên cái tư cách người cha cao quý của mình. Rồi anh “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc”, “gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Anh thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng thêm mượt”. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ trở thành một nghệ nhân – nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời cho nên chiếc lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kỳ diệu làm sao!
Nhưng ngày ấy đã vĩnh viễn không bao giờ đến nữa. Anh không kịp đưa chiếc lược ngà đến tận tay cho con thì người cha ấy đã hi sinh trong một trận đánh lớn của giặc. Nhưng “hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Không còn đủ sức trăng trối điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho anh làm được một việc “đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cứ nhìn bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều trăng trối không lời, nó rõ ràng là thiêng liêng hơn cả một lời di chúc, bởi đó là sự uỷ thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân, ước nguyện của tình phụ tử! Bắt đầu từ giây phút ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đã biến người đồng đội thành một người cha – người cha thứ hai của cô bé Thu.
Các bạn ạ! Trong những ngày đen tối ấy, người sống phải sống bí mật cũng đã đành một lẽ còn người chết cũng phải chết bí mật nữa. Mộ của anh không thể đắp cao lên được, vì tìm thấy mồ mả bọn chúng sẽ đào lên và tìm ra dấu vết, cho nên ngôi mộ của anh là ngôi mộ bằng, bằng phẳng như mặt rừng vậy. Bác Ba bạn của anh đã lấy dao khắc vào một gốc cây rừng cạnh chỗ anh nằm làm dấu cho dễ nhớ. Sống như thế và chết như thế hỏi vậy làm sao mà chịu được. Chúng ta buộc phải cầm súng. Và bé Thu không còn là cô bé ngày xưa nữa mà là một cô giao liên thông minh, quả cảm. Thu đi theo con đường mà ba cô đã chọn. Thu đi để trả thù cho quê hương, cho cha mình đã bị bọn giặc giết hại.
Tuy anh Sáu đã hi sinh nhưng câu chuyện về hai cha con anh sẽ còn sống mãi. Hình ảnh chiếc lược ngà với dòng chữ sẽ mãi là kỉ vật, là nhân chứng về nỗi đau, bi kịch của chiến tranh. Cảm ơn nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa rõ nét tâm hồn, tình cảm của anh Sáu và bé Thu. Truyện dẫn người đọc dõi theo số phận và lòng quả cảm, dõi theo tâm tình của cha con một người chiến sĩ diễn ra hàng chục năm trời đi qua hai cuộc chiến tranh. Người còn, người mất những kỷ vật, gạch nối giữa cái mất mát và sự tồn tại của chiếc lược ngà vẫn còn đây. Đây là minh chứng đối với chúng ta “cái mất mát lớn nhất mà thiên truyện ngắn đề cập đến là người đã khuất, là tổ ấm gia đình không còn tồn tại trọn vẹn trong thực tại. Đó là tội ác, là những đau thương, mất mát của chiến tranh xâm lược mà các thế hệ bạo tàn gây ra cho chúng ta. Song cái được mà chúng ta nhìn thấy là không có sự bi luỵ xảy ra, sức mạnh của lòng căm thù đã biến cô bé Thu trở thành một người chiến sĩ thông minh, dũng cảm, đã gắn bó cuộc đời con người có ít nhiều mất mát xích lại gần nhau để cùng đứng lên viết tiếp bản ca chiến thắng.
Gấp sách lại, chia tay với ông Ba, câu chuyện về “Chiếc lược ngà” với lời nói cuối cùng của ông – giọng trầm ấm khoan thai – cứ âm vang mãi trong bạn đọc chúng ta, như sự âm vang của một truyện cổ tích. Truyện cổ tích hiện đại đó đã thành công trong việc tạo tình huống truyện, miêu tả tâm lý, tình cảm nhân vật và giọng kể nhẹ nhàng, thấm thía truyền cảm. Ông Ba – người kể chuyện – hay chính là nhà văn Nguyễn Quang Sáng? Phải là người từng trải sống hết mình vì công cuộc kháng chiến của quê hương, gắn bó máu thịt với những con người quê hương giàu tình nghĩa, rất nhân hậu mà kiên cường, bất khuất, bất diệt, nhà văn mới nhập được vào các nhân vật, sáng tạo được nhiều hình tượng, chi tiết sinh động, bất ngờ, có được giọng văn dung dị và cảm động như vậy. Đồng thời truyện đã làm sống lại quãng thời gian giữ nước để thông qua đó tác giả muốn người đọc phải suy nghĩ và thấm thía nỗi đau, sự mất mát mà chiến tranh mang đến. Tình cảm cha con sâu sắc của cha con ông Sáu đã vượt qua bom đạn của chiến tranh để ngày càng thiêng liêng, ngời sáng và gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương, đất nước. Qua cuộc đời nhân vật, từ cô bé Thu đến ông Sáu, ông Ba, Nguyễn Quang Sáng như muốn nói rằng trong cuộc kháng chiến gian khổ chống ngoại xâm vừa qua của dân tộc ta, tình nghĩa con người Việt Nam, nhất là tình cha con, đồng đội, sự gắn bó thế hệ già với thế hệ trẻ, người chết và người sống… mãi mãi bất diệt. Như chiếc lược ngà ba tặng lại không bao giờ có thể mất, tình cha con của bé Thu cũng sẽ mãi mãi bất diệt!.
Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 7
Văn học từ cổ chí kim luôn tồn tại một mạch nguồn xuyên suốt, đó là tình cảm thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái. Đã có biết bao khúc ca ấm áp vang lên như sự tri ân của những người con dành cho cha mẹ. Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng cũng là một bài ca đẹp về tình phụ tử thiêng liêng, sâu nặng, bao năm qua luôn là một tiếng ngân sâu lắng trong lòng độc giả Việt Nam.
Chiếc lược ngà là câu chuyện về tình cha con sâu nặng, tha thiết của ông Sáu và cô con gái tên Thu. Một câu chuyện đẹp nhưng buồn, có sức lay động sâu xa, gợi lên trong lòng độc giả bao thế hệ nỗi niềm xót xa, thương cảm, day dứt khôn nguôi về chiến tranh và sự tàn phá của nó. Những ám ảnh ấy như khắc sâu vào tâm khảm mỗi người, khiến ta thấm thía hơn sự hi sinh của những người chiến sĩ của một thời chiến tranh gian khổ và ta biết yêu kính hơn, trân trọng họ hơn. Bằng lời văn dung dị, nhẹ nhàng, nhiều âm vang với những cung bậc cảm xúc khác nhau, nhà văn đã thể hiện thật sâu sắc và cảm động tình cảm cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Phải chăng sức nặng của những ám ảnh đó chính là bởi tình phụ tử thiêng liêng, sâu nặng toát ra từ mỗi lời văn, va đập vào trái tim độc giả, lắng đọng và day dứt mãi không thôi ?
Ngay từ đầu câu chuyện, người đọc đã có thể cảm nhận sâu sắc tình yêu con tha thiết của ông Sáu. Người lính đã trải qua khói lửa chiến tranh, gió sương núi rừng, có một khuôn mặt lạnh, một ý chí thép nhưng trái tim người cha trong ông thì vẫn ấm nóng. Vì vậy mà, mới chỉ nghĩ đến việc được gặp con thôi, ông đã thấy “nôn nao mãi“. Hành động vội vàng: “không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra”, “bước vội vàng với những bước chân dài, rồi dừng lại, kêu to: “Thu ! Con” đã khắc họa rõ nét nỗi lòng khao khát, mong mỏi của người cha. Tiếng gọi con lần đầu như vỡ oà trong tình yêu quá lớn bị dồn nén bao năm. Hình ảnh “vết thẹo dài trên má phải đỏ ửng lên, giần giật…” là biểu hiện của sự xúc động tột độ. Tiếng xưng “ba” sau bao ngày nhớ mong, mòn mỏi, vừa muốn vỡ oà, vừa lại như bị dòng cảm xúc quá lớn kìm xuống, khiến nó nghẹn lại trong “giọng run run”: “Ba đây con”. Nhưng chính nỗi mong mỏi, niềm hạnh phúc, mong chờ quá lớn ấy lại khiến ông đau đớn bội phần khi đứa con gái không đáp lại sự vồ vập của ông, “mặt nó tái đi, rồi vụt chạy”. Cả bầu trời như sụp xuống trước mắt người cha. Niềm đau, sự hụt hẫng bóp nghẹt trái tim ông. Ông “đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.
Không nản lòng, trong ba ngày ở nhà, ông Sáu dành hết tình cảm cho bé Thu. Ông ân cần, nhẹ nhàng chăm chút con bé. Trước sự cự tuyệt, bướng bỉnh của cô con gái, người cha ấy vẫn hết sức bền bỉ, nhẫn nại. Đó là sự bao dung của một người làm cha, của nỗi niềm khao khát “mong được nghe một tiếng gọi ba của con gái”. Và rồi, khi tình cảm quá lớn lại gặp phải sự cự tuyệt kiên quyết của bé Thu, nó như bị thúc ép, khiến ông không giữ được bình tĩnh “vung tay đánh mạnh vào mông" con bé và hét lên: ‘‘Sao mày cứng đầu quá vậy ?”. Ông Sáu đánh con vì tức giận, đau đớn và bất lực. Thời gian ông có thể ở bên con không còn nhiều, vậy mà con bé vẫn không chịu thừa nhận ông. Hành động đánh con của ông là một sự kìm nén của nỗi lòng mong mỏi quá lớn. Nhưng cũng chính điều đó đã giày vò tâm trí ông, trở thành mối khổ tâm suốt những năm tháng sau này khi phải xa con.
Vào thời khắc cuối cùng được ở nhà, được nhìn thấy con gái, trái tim của người cha đã được xoa dịu khi bé Thu nhận ra ba. Lúc chia tay, ông Sáu cố nén lòng, kìm giữ cảm xúc của mình. Ông “cũng muốn ôm con, hôn con, nhưng cũng lại sợ nó giãy lên, lại bỏ chạy, nên anh chỉ đứng nhìn nó“. Chỉ cần nhìn thấy sự hiện diện của con thôi, ông cũng cảm thấy được an ủi phần nào. Và bao nhiêu tình yêu ông dồn cả vào ánh mắt nhìn con – “đôi mắt trìu mến lẫn buồn rầu“. Ánh mắt ấy vừa muốn bộc lộ hết tình yêu tha thiết với con, vừa thể hiện nỗi khao khát bị kìm nén, nỗi buồn của sự chia xa và cả nỗi đau của sự bị khước từ. Để rồi, tất cả như vỡ oà theo tiếng gọi “ba” bất ngờ của bé Thu: “Ba… a… a… ba !”. Tiếng gọi ông Sáu khao khát, trông chờ, tưởng chừng mòn mỏi bao lâu đã vang lên, khiến tim ông như muốn vỡ ra vì hạnh phúc. Người đọc như cũng lạc nhịp tim trong giây phút âm thanh yêu thương ấy cất lên. Ông Sáu “không ghìm được xúc động”, “một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt”. Những dòng nước mắt tuôn trào từ trái tim yêu thương cháy bỏng của người cha.
Có thể nói, Nguyễn Quang Sáng đã thật tài tình khi xây dựng nhân vật ông Sáu. Toàn bộ câu chuyện về người chiến sĩ ấy đều gắn với sự bộc lộ tình yêu con. Từ những hành động đến những chi tiết miêu tả ngoại hình, tâm trạng. Vì thế mà trong tâm trí người đọc, hình ảnh ông Sáu hiện lên với tình yêu con thiết tha, sâu nặng. Những ngày ở chiến trường, tình yêu con được ông Sáu dồn vào việc làm cây lược tặng con. Dõi theo quá trình làm chiếc lược của ông Sáu, từ vẻ mặt “hớn hở” khi nhặt được khúc ngà đến khi tỉ mỉ ngồi giữa cây lược “như người thợ bạc”, ta có thể cảm nhận được tình yêu sâu nặng của ông. Dòng chữ khắc trên cây lược “yêu nhớ tặng Thu con của ba‘’ thể hiện trọn vẹn nỗi lòng người cha đối với cô con gái ngàn lần dấu yêu nơi quê nhà. Chiếc lược ngà ấy đã “gỡ rối đi phần nào tâm trạng” của ông. Lời hứa của ông đối với con đã thành hiện thực. Chiếc lược là chỗ dựa tinh thần mỗi khi ông nhớ con. Đó là kỉ vật cuối cùng lưu giữ tình yêu sâu nặng của ông Sáu dành cho con, ông khao khát được tận tay trao cho con gái. Sự khốc liệt của cuộc chiến tranh đã khiến nguyện ước của ông không thành nhưng cây lược sẽ là minh chứng cho tình yêu con của ông.
Tình yêu của ông Sáu dành cho con thật sâu sắc. Bao cung bậc cảm xúc của ông được người đọc thấu cảm, sẻ chia. Trong chiến tranh, có những việc tưởng chừng rất bình dị như nghe một tiếng con gọi “ba”, tự tay tặng cho con một món quà nhỏ, được ôm con trong vòng tay,… cũng trở thành mơ ước của rất nhiều người và cũng rất nhiều người trong số họ giống như ông Sáu đã không thực hiện được ước nguyện đó. Nhưng cũng chính trong sự khốc liệt của chiến tranh, tình cảm tha thiết, trái tim ấm nóng của người cha lại được bộc lộ rõ nhất. Nó lắng đọng ngân vang mãi trong lòng ta.
Sức ám ảnh của truyện ngắn Chiếc lược ngà được tạo nên bởi nội dung câu chuyện. Ngòi bút của Nguyễn Quang Sáng thật tinh tế trong việc thể hiện mọi cung bậc của cảm xúc, xây dựng tình huống truyện, sử dụng ngôn từ,… Tất cả những điều đó đã góp phần làm nên sức sống của câu chuyện.
Tác phẩm khép lại nhưng tình phụ tử ấm áp, thiêng liêng, cao cả sẽ mãi là ngọn lửa lấp lánh sáng, sưởi ấm trái tim độc giả.
Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 8
Có thể nói, ông Sáu là một người cha yêu thương con vô bờ bến. Ông anh dũng tham gia hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc. Ngày tạm biệt quê hương bước chân vào chiến trường đứa con gái bé bỏng của ông mới lên một tuổi. Bảy năm ròng rã ngoài chiến trường đã dấy lên trong ông khao khát được gặp lại vợ con, được nghe con gọi một tiếng “ba”. “Xuồng vào bến, thấy một đứa bé độ tám tuổi, tóc cắt ngang vai, mặc quần đen, áo bông đỏ đang chơi nhà chòi dưới bóng cây xoài trước sân nhà, đoán biết là con, không thể chờ xuồng cập lại bến, anh nhún chân nhảy thót lên, xô chiếc xuồng tạt ra, khiến tôi bị chới với. Anh bước vội vàng với những bước dài, rồi dừng lại kêu to: Thu! Con!”.
Thế nhưng trước tình cảm đó bé Thu – con gái bé bỏng của ông lại tỏ ra xa lánh, ngờ vực ông, nó nhất quyết không chịu gọi một tiếng “ba”. Dù vậy, trong suốt ba ngày về phép ông Sáu luôn tìm cách vỗ về, gần gũi con. Ông quan tâm, yêu chiều nó hết mực. Trong bữa cơm, ông gắp cho nó một miếng trứng cá vàng ươm nhưng nó lại bất ngờ hất văng miếng trứng khỏi bát. Vì quá tức giận ông đã ra tay đánh nó nhưng chính hành động đó lại khiến ông day dứt cho đến mãi về sau.
Hết ba ngày phép, trước khi quay trở về chiến trường ông muốn ôm con, hôn con nhưng lại sợ nó giãy lên bỏ chạy nên chỉ biết đứng đó nhìn nó với đôi mắt trìu mến xen lẫn buồn rầu. Khi đứa con bất ngờ chạy đến ôm ông thật chặt và gọi một tiếng “ba” ông đã không kìm được xúc động. Đó là tiếng “ba” mà ông đã chờ đợi ngần ấy thời gian. Ông Sáu một tay ôm chặt con, một tay rút khăn lau nước mắt rồi hôn lên mái tóc con. Còn gì cảm động hơn giờ phút cha con nhận lại nhau lại chính là giờ phút phải chia tay. Tiếng “ba” ấy của bé Thu cất lên không chỉ gây xúc động cho người cha mà nó còn như một tiếng thét xé tan im lặng, xé lòng tất thảy mọi người.
Trở về chiến trường, nhớ lại lời hứa với bé Thu, ông Sáu đã ngày ngày làm tặng con gái một chiếc lược ngà xinh xắn. Có cây lược ông càng mong gặp lại con. Chiếc lược ngà đã trở thành vật quý giá thiêng liêng đối với ông Sáu. Nó xoa dịu nỗi đau chiến tranh, nó chứa đựng biết bao tình cảm cha con sâu sắc. Nhưng rồi ông Sáu chưa kịp trao chiếc lược cho bé Thu đã hi sinh nơi chiến trường ác liệt. Trong giờ phút cuối cùng, tình cha con bỗng bừng lên, anh đưa tay vào túi, trao lại cho người đồng chí của mình chiếc lược ngà rồi vĩnh viễn ra đi.
Một người cha mong ngóng con suốt bảy năm chiến trường ròng rã, một người cha chỉ mong một lần được con mình gọi một tiếng “ba”, một người cha dành trọn nhớ thương để dành tặng con gái một món quà vậy mà đã mãi mãi nằm xuống nơi chiến trường lạnh giá. Chiến tranh quả thật đã quá tàn khốc với tất cả mọi người. Chiến tranh đã cướp đi sinh mạng biết bao người vô tội, khiến cho bao gia đình sống trong cảnh mẹ mất con, vợ mất chồng, con mất cha. Cái giá mà chiến tranh để lại sẽ hằn sâu trong mỗi người cho đến mãi về sau.
Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, lối miêu tả nội tâm nhân vật sắc bén cùng với những tình cảm hết sức chân thành Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa nên hình tượng một người cha thật đẹp. Dường như ông Sáu cũng chính là nhân vật đại diện cho biết bao thế hệ cha anh thời đó. Họ vì tình yêu quê hương đất nước mà sẵn sàng lên đường ra đi bảo vệ Tổ quốc, để lại sau lưng là gia đình thân yêu của mình để rồi anh dũng hi sinh.
Câu chuyện còn là bản cáo trạng đanh thép tố cáo tội ác mà chiến tranh đã gây ra cho biết bao người dân vô tội. Nó cũng là lời khẳng định rằng dù bom đạn chiến tranh có tàn khốc, quyết liệt đến đâu thì cũng không thể dập tắt được tình cảm cha con thiêng liêng trong trái tim mỗi người chiến sĩ. Vừa mang giá trị hiện thực, vừa toát lên chất nhân đạo ở từng câu chữ đã khiến “Chiếc lược ngà” trở thành tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Quang Sáng đồng thời cũng làm nên tên tuổi của ông.
Truyện “Chiếc lược ngà” và hình ảnh ông Sáu đã khơi gợi trong lòng ta bao ý nghĩa về sự hi sinh và hạnh phúc ở đời do các thế hệ cha anh đã đổ xương máu làm nên. Và bài học “uống nước nhớ nguồn” càng thêm thấm thía.
Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 9
Nguyễn Quang Sáng là cây bút chuyên viết về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc kháng chiến cũng như sau hòa bình. Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" ra đời năm 1966, những năm tháng gian khổ, đau thương nhất của đồng bào Nam Bộ trong 30 năm chiến tranh. Truyện thể hiện cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Đọng lại trong tâm hồn người đọc khi cảm nhận câu chuyện chính là ấn tượng khó quên về nhân vật ông Sáu là người cha, người chiến sĩ chịu nhiều thiệt thòi nhưng có tình phụ tử thiêng liêng sâu nặng.
Truyện ngắn "Chiếc lược ngà" xoay quanh tình huống gặp mặt của bé Thu và ông Sáu. Khi ông Sáu đi kháng chiến, bé Thu chưa đầy một tuổi. Tám năm trời cha con em chỉ biết nhau thông qua 2 tấm ảnh. Lần nghỉ phép ba ngày của ông Sáu là cơ hội hiếm hoi để ba con Thu gặp gỡ, bày tỏ tình phụ tử. Nhưng bé Thu lại không chịu nhận cha vì vết thẹo trên má làm ông Sáu không giống như trong tấm ảnh. Đến lúc Thu nhận ra thì cũng là giây phút ba em lên đường tiếp tục đi chiến đấu. Và lần gặp mặt ấy là lần đầu tiên, duy nhất, cuối cùng của cha con Thu. Tình huống truyện thật éo le. Trong chiến tranh, những câu chuyện như thế đâu có hiếm. Điều đáng nói là chính trong hoàn cảnh đó, tính cách của đứa trẻ tám tuổi và tình cha con sâu nặng đã được nhà văn thể hiện sâu sắc.
Tình cảm của ông đối với con gái nhỏ được biểu hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà. Trên đường về thăm nhà trong lòng ông bồi hồi xúc động: cái tình người cha cứ nôn nao trong lòng ông. Người cha được về thăm nhà sau bao nhiêu năm ở chiến khu. Khao khát đốt lòng ông là được gặp con, là được nghe con gọi tiếng ba, để được sống trong tình cảm cha con, mà lâu nay ông chưa từng được sống, bấy lâu ông mong đợi. Nhưng mọi chuyện đã diễn ra không ít trái ngang. Khi xuống chưa kịp cập bến, ông vội vàng nhảy thót lên bờ, xô cái xuồng tạt ra xa. Ông khát khao gặp con, khát khao ôm ấp hình hài máu mủ của mình sau bao năm xa cách. Điều này cũng là lẽ tất nhiên thôi. Ông đã xa con gái, xa gia đình trong tám năm trời ròng rã. Tám năm là khoảng thời gian quá dài để kìm nén trong lòng một nỗi nhớ. Và rồi cuối cùng nỗi nhớ ấy cũng được bộc lộ. Trông thấy đứa trẻ chơi trước sân nhà, ông đã cất tiếng gọi con thân thương trìu mến bằng tất cả tấm lòng mình: Thu con! Ba đây con! Ba đây con”. Tiếng gọi thổn thức của người cha cất lên từ sâu thẳm trái tim của người lính sau bao năm xa cách làm xao động tâm hồn người đọc. Nhưng trái với niềm mong đợi của ông, những tưởng bé Thu sẽ vào tới, ôm lấy thoả những tháng ngày xa cách. Nhưng không , ông hẫng hụt bất ngờ khi thấy: “Bé tròn mắt ngơ ngác nhìn rồi sợ hãi bỏ chạy” khiến ông Sáu sững sờ, thất vọng, rơi vào tâm trạng hụt hẫng.
Tuy nhiên, tình yêu của người cha đã khiến ông sau cái giây phút choáng váng ban đầu, cái giây phút “mặt sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy” ông vẫn kiên trì gần gũi con. Những ngày ở bên con, trong ba ngày phép ngắn ngủi, ông luôn ở bên con không đi đâu xa, suốt ngày chỉ tìm cách an ủi vỗ về nó. Ông tìm mọi cách để mong được nghe một tiếng ba” nhưng đều thất bại. Khi má bảo Thu kêu ba vô ăn cơm, dọa đánh để cô bé gọi ba một tiếng. Thu nói trống không: “Con kêu rồi người ta không nghe”. Hai từ “người ta” mà Thu kêu làm ông đau lòng, khổ tâm. Nó cũng chẳng nhờ chắt nước cơm giùm. Ông Sáu buồn quá đến nỗi không khóc được nên cuối cùng ông phải cười mà không nỡ giận con. Quả thật, ông là người cha chịu nhiều thiệt thòi nhưng giàu lòng nhân hậu vị tha. Trong bữa cơm, bằng lòng thương của người cha ông Sáu gắp cho con cái trứng cá to và vàng ươm, ông tưởng con sẽ đón nhận vậy mà nó bất thần hất cái trứng cá ra khỏi chén. Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, ông giận quá đánh con đã làm mất tia hy vọng cuối cùng về tình phụ tử. Lúc đó ông đau đớn vô cùng. Lòng ông như sa mạc khô cháy mong chờ giọt nước mát lạnh của tình yêu thương nơi đứa con sống với ông vẫn chỉ là khao khát bởi bé Thu bỏ sang ngoại không một lời xin lỗi. Qua đó, chúng ta thấm thía sự mất mát lớn lao của người lính trong kháng chiến
Trong những ngày ở khu căn cứ: Anh ân hận vì đã trót đánh con. Nhớ lời con dặn “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba” đó là mong ước đơn sơ của đứa con gái bé bỏng trong giây phút cha con từ biệt. Nhưng đối với người cha ấy, đó là mong ước đầu tiên mà cũng là duy nhất. Cho nên, nó cứ thôi thúc trong lòng. Kiếm cho con cây lược, trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Bắt đầu từ lúc này, chiếc lược ngà bước vào câu chuyện, trở thành một nhân chứng âm thầm cho tình cha con thiêng liêng, bất tử. Ông đã ngồi bật dậy như bỗng lóe lên một sáng kiến lớn: làm lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ không đơn thuần vì ở rừng rú chiến khu, anh không thể mua sắm được cây lược. Làm lược từ ngà voi là cách khắc phục khó khăn. Mà cao hơn thế, sâu hơn thế, ngà voi là thứ quý hiếm - chiếc lược cho con của anh phải được làm bằng thứ quý giá ấy. Và, anh không muốn mua, mà muốn tự tay mình làm ra. Anh sẽ đặt vào đấy tất cả tình cha con của mình. Khi kiếm được một khúc ngà anh vui mừng như trẻ nhỏ “ mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Những ngày sau đó bao nhiêu tình cảm yêu quí , nhớ thương con anh dồn cả vào việc làm cây lược . Anh cặm cụi “cưa từng răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc” để rồi khi chiếc lược hoàn thành, anh còn khắc lên đó dòng chữ nhỏ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” ... Những lúc nhớ con anh mang cây lược ra màu lên tóc mình cho cây lược thêm óng mượt. Lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân - nghệ nhân chỉ sáng tạo ra một tác phẩm duy nhất trong đời. Cho nên , cây lược ngà đã kết tinh trong đó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm sâu xa, đơn sơ mà kì diệu làm sao! Đau đớn thay chiến tranh khiến anh chẳng bao giờ có thể trở về bên con gái anh được nữa. Anh bị hy sinh trong một trận càn.Trước lúc hy sinh, “dường như chi có tình cha con là không thể chết”, không còn đủ sức trăng trôi điều gì, tất cả tàn lực cuối cùng chỉ còn cho anh làm được một việc đưa tay vào túi, móc cái lược đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết và cử nhìn bạn hồi lâu. Nhưng đó là điều trăng trối không lời, nó rõ ràng và thiêng liêng hơn cả một lời di chúc. Bởi đó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng của người bạn thân: ước nguyện của tình phụ tử! Từ lúc ấy, cây lược bằng ngà đã trở thành kỷ vật, thành biểu tượng thiêng liêng của tình phụ tử. Những dòng cuối cùng của truyện khép lại trong nỗi buồn mênh mông mà chứa chan ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Sau khi học xong truyện Chiếc lược ngà, em thấy tình cảm cha con nói riêng, tình cảm gia đình nói chung là tình cảm cao quý. Lớp trẻ chúng ta hôm nay được sống trong hòa bình không thể không nhớ đến sự hi sinh của những người như ông Sáu. Mọi người phải sống và làm việc sao cho xứng đáng với các tình cảm cao quý đó. Đây cũng là truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn” cần kế thừa và gìn giữ, phát huy.
Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 10
Tình phụ tử luôn là đề tài có rất nhiều khía cạnh để khai thác, nhất là trong thơ văn. Tác phẩm "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng đã xây dựng hình tượng nhân vật ông Sáu, một người cha với tấm lòng yêu thương con đầy ấm áp, sâu sắc. Ông Sáu đi tập kết từ khi bé Thu còn rất nhỏ. Đến khi được nghỉ phép trở về, con bé đã hơn sáu tuổi. Gặp con, ông vui mừng khôn xiết, vội chạy lại để ôm con nhưng bé Thu lại sợ hãi và chạy vụt đi. Kì vọng vào cuộc gặp gỡ bao nhiêu, ông lại càng thất vọng bấy nhiêu. Con bé tỏ ra chán ghét anh và nhất quyết không chịu gọi "ba". Trong những ngày ở nhà, ông Sáu đã cố gắng để được gần gũi với con hơn nhưng bé Thu vẫn luôn tránh né. Đỉnh điểm, ông đã lỡ tay đánh con vì con bé hất miếng trứng cá mà ông gắp cho. Ngay ngày hôm sau, ông phải quay lại chiến trường. Tưởng như câu chuyện chỉ dừng lại ở đó thì bé Thu bỗng thét gọi ba. Đây là tiếng gọi ông đã mong chờ từ lâu, nó đến vào lúc không ngờ nhất khiến ông cực kì xúc động, không giấu được những giọt nước mắt cứ lăn dài trên má. Khi ở đơn vị, ông không nguôi nỗi nhớ con và ân hận vì mình đã đánh con. Anh vô tình kiếm được khúc ngà voi và quyết định sẽ tự tay làm cho con một chiếc lược ngà. Anh đã đem hết nỗi thương nhớ con bé Thu của mình đặt trong món quà đó. Mỗi lần nhớ con, anh lại lôi cây lược ra ngắm nghía, mong chờ đến ngày đoàn tụ. Từ đó, ta thấy được tình cảm cha con thiêng liêng, mãnh liệt được thể hiện ở nhân vật này. Dù có phải chịu nhiều nỗi buồn vì chiến tranh chia cắt, vì con khó nhận cha. Nhưng sau cùng, anh vẫn dành cho con gái mình một tình cảm ấm áp, chân thành, đầy cao cả.
Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 11
Nhắc đến chiến tranh, người ta thường nghĩ đến những mất mát, đau thương, những cuộc chia cắt và cảnh hoang tàn khốc liệt mà nó gây ra. Trên mảnh đất bị chiến tranh tàn khốc dẫm đạp, những bông hoa của tình thương, của tình cảm gia đình vẫn đua nhau khoe sắc làm dịu đi cái u ám của màu chiến tranh. Nguyễn Quang Sáng đã cho ta thấy giữa nỗi đau chiến tranh, những tâm hồn trong những cuộc chia tay, vẻ đẹp của mỗi cá nhân vẫn tỏa sáng trong cuộc đấu tranh sinh tồn. Và trên hết, chiếc lược ngà đã vẽ và khắc họa nên hình tượng một người cha, một người lính yêu nước yêu con - ông Sáu. Ông Sáu và bé Thu - con gái mình, đã tạo nên một câu chuyện cảm động dưới ngòi bút của Nguyễn Quang Sáng. Với lối viết văn chuyện kể về cuộc sống và con người Nam Bộ với nhiều thể loại khác nhau như tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch,..., nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã thực sự thành công và sống mãi cùng làng văn chương cách mạng Việt Nam với truyện ngắn "Chiếc lược ngà" thấm đẫm tinh thần nhân văn của mình. Có thể nói, "Chiếc lược ngà" là một trong những tác phẩm kinh điển giúp tên tuổi của ông để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả.
Cũng như bao người khác, ông Sáu theo tiếng gọi của quê hương lên đường ra trận, bỏ lại người vợ thân yêu và những đứa con thơ chưa đầy tuổi. Sự xa cách khiến người lính trẻ ngày càng nhớ nhung đứa con gái, nỗi nhớ này đã trở thành niềm khao khát, ước mơ cháy bỏng trong lòng ông Sáu sau tám năm xa cách. Vì thế mỗi khi vợ lên thăm, anh đều hỏi: “Sao anh không cho con bé lên cùng?”. Không gặp được con, ông đành nhìn con qua ảnh. Dù bức ảnh đã cũ nát nhưng ông vẫn giữ rất cẩn thận, coi như báu vật. Từ nhỏ cho đến năm 8 tuổi, bé Thu cũng chỉ biết cha mình qua những bức ảnh và qua những câu chuyện kể của ngoại và mẹ. Dù được sống trong tình yêu thương của tất cả nhưng có lẽ Thu cũng cảm thấy thiếu vắng tình yêu thương, sự che chở của ba. Chắc bé Thu đang chờ ba mình từng giờ từng phút đúng không? Và tám năm ấy, những năm tháng dài đằng đẵng ấy cũng làm tăng thêm trong lòng hai cha con bao nỗi nhớ mong da diết, ông Sáu mong gặp con, bé Thu mong gặp ba.
Rồi điều ước đó đã thành hiện thực. Ông Sáu được nghỉ phép. Hôm về thăm con, trên thuyền ông Sáu vẫn còn nôn nao. Ông nghĩ đến con gái mình, nghĩ tới giây phút cha con gặp nhau. Những điều ấy choán hết tâm trí đến nỗi ông chẳng còn biết mình đang ngồi trên xuồng với bạn. Thuyền vừa cập bến, ông Sáu nhón chân nhảy thốt lên bờ. Người bạn đồng hành của ông cũng rất hiểu ông nên không trách ông, bởi đó là giây phút vô cùng thiêng liêng và quan trọng đối với ông Sáu, giây phút mà người cha mong con chạy về phía ông, ôm lấy ông trong vòng tay. Ông Sáu vội vàng “xô chiếc xuồng tạt ra, bước vội vàng với những bước dài rồi dừng lại kêu to: Thu! Con” và vừa bước vào nhà đã cúi xuống chờ con. Anh không kìm nén được cảm xúc của mình. Nhưng khác với tình yêu nồng cháy của mình, bé Thu trở nên lạnh lùng, sợ hãi và bỏ chạy. Bé Thu không nhận ra ông Sáu. Như một nhát dao đâm vào tim mình, ông Sáu lắp bắp gọi con, vết sẹo trên má đỏ ửng lên, cô bé lại bỏ chạy, ông đau đớn "hai bàn tay buông xuống như bị gãy”. Ông Sáu trông thật tội nghiệp. Có lẽ ông Sáu cũng phần nào hiểu được phản ứng của bé Thu đối với mình, nhưng là một người cha làm sao ông không đau xót, ngậm ngùi.
Mấy ngày nay Sáu ở nhà, không dám đi đâu xa, vẫn vỗ về con, muốn nghe tiếng “ba” của con nhưng không phải mọi chuyện đều trọn vẹn. Ông Sáu càng tỏ ra thân thiết với con bao nhiêu thì con bé càng lạnh lùng bấy nhiêu. Khi mẹ bảo con bé gọi ba xuống ăn tối, bé Thu chỉ nói trổng : "Vô ăn cơm!". Câu nói của con bé như đâm thẳng vào tim ông Sáu, nhưng ông vẫn đứng yên giả vờ không nghe, chờ con bé gọi đủ: “Ba vô ăn cơm.” Vậy mà Thu vẫn ngoan cố không chịu gọi ba, thậm chí còn bực mình nói vài câu trỏng tiếp "Cơm chín rồi!" và "Con kêu rồi mà người ta không nghe", mà nhất định không chịu gọi ông Sáu là “ba”, không nhờ ông chắt dùm nước của nồi cơm đang sôi. Bấy nhiêu ngày mong ngóng là bấy nhiêu đau lòng. Thương con, ông Sáu không thể không “nhìn con bé vừa khe khẽ lắc đầu vừa cười." Cười lúc này không phải là vui mà có lẽ vì đau quá không khóc được nên mới phải cười như vậy. Dường như sự lạnh lùng, cứng đầu của Bé Thu đã làm tổn thương những tình cảm chân thành nhất đang trào dâng trong lòng ông. Vì quá thương con, ông Sáu không kìm được xúc động. Trong bữa ăn, ông gắp cho nó một quả trứng cá, nhưng bất ngờ con bé hất quả trứng ra khỏi bát cơm. Tức giận, ông Sáu vung tay đánh và hét vào mặt nó. Có lẽ đánh con bé là sự thiếu kiểm soát nhất thời ngoài ý muốn của ông. Tất cả chỉ vì ông quá yêu bé Thu. Có thể coi việc bé Thu hất hết trứng ra khỏi chén đã như giọt nước tràn ly làm bùng lên những cảm xúc mà ông đã kìm nén, cất giữ trong lòng bấy lâu nay.
Ngày chia tay, nhìn thấy con đứng một góc nhà, ông muốn ôm con hôn con, nhưng “sợ nó giãy lên lại bỏ chạy” nên đành ngậm ngùi đứng nhìn con trìu mến với đôi mắt buồn rầu... Cho đến khi con bé cất tiếng gọi ba, ông Sáu xúc động đến phát khóc và “ không muốn cho con thấy mình khóc, anh Sáu một tay ôm con,một tay rút khăn lau nước mắt, rồi hôn lên mái tóc của con". Mọi cố gắng của ông Sáu đã được đền đáp. Nước mắt của ông là nước mắt của niềm vui và hạnh phúc. Và không muốn con thấy cảnh mình khóc, ông Sáu một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt, hôn lên tóc con… Thế là bé Thu đã tiếng ba đầu tiên trong đời. Ai có thể ngờ rằng một người lính đã dày dặn trên chiến trường và quen với cái chết cận kề lại là một người vô cùng dịu dàng trong tình cha con. Sau bao năm chờ đợi, đau khổ, ông Sáu đã được đón nhận trong niềm vui vô bờ bến. Giờ đây ông có thể yên tâm ra đi vì ở nhà có cô con gái thân yêu luôn chờ đợi anh, chờ đợi từng giây phút ông trở về.
Nhưng nào ngờ đâu, bi kịch lại chưa dừng lại. Ông Sáu, bé Thu và những người thân yêu của ông đâu thể ngờ rằng, khoảnh khắc ông được nghe tiếng gọi "ba" đầu tiên cũng là cuộc gặp gỡ cuối cùng của hai cha con. “Ba về! Ba mua cho con một cái lược nghe ba!” là mong ước giản dị của cô bé khi bố nói lời chia tay. Xa con, ông Sáu vẫn luôn nhớ con da diết, và day dứt ân hận vì đã lỡ đánh con. Vì vậy ông dồn hết tâm tình vào làm chiếc lược ngà, mong một ngày nào đó ông có thể tận tay tặng con bé món quà này. Tìm được chiếc ngà voi, anh mừng như đứa trẻ được quà: “ từ con đường mòn chạy lẫn trong rừng sâu, anh hớt hải chạy về, tay cầm khúc ngà đưa lên khoe với tôi. Mặt anh hớn hở như một đứa trẻ được quà”. Rồi ông "cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và cố công như một người thợ bạc". Trên mặt lược cong lưng, ông tỉ mẩn khắc từng chữ: “ Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Ông gửi trọn niềm yêu thương, nỗi nhớ con vào kỷ vật ấy. Nhớ con, “ anh lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng, thêm mượt”. Ông Sáu không muốn con mình bị đau khi chải lược, ông thương từng sợi tóc của con. Chiếc lược trở thành vật thiêng liêng đối với ông Sáu, nó làm dịu đi sự tiếc nuối, nó chất chứa bao tình cảm yêu thương, nhớ nhung, nhớ nhung của một người cha với đứa con gái xa cách. Chiếc lược ngà là kết tinh của tình phụ tử thiêng liêng mà ông luôn đem theo bên mình, chờ ngày gặp lại để trao cho bé Thu.
Nhưng trớ trêu thay, không đợi được ngày trở về, ông Sáu đã hy sinh trong trận đại chiến của quân Mỹ - Ngụy khi chưa kịp trao chiếc lược cho con gái. “ Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, tất cả những gì ông còn lại là sức lực để “ đưa tay vào túi, móc cây lược” đưa nó cho người bạn chiến đấu. Đó là điều trăng trối không lời, nhưng lại thiêng liêng hơn cả những lời di chúc. Đó là niềm tin, ý chí cuối cùng, sức mạnh của tình phụ tử. Và từ giây phút ấy, chiếc lược của tình cha đã biến người đồng đội của Sáu trở thành người cha thứ hai của bé Thu.
Thành công của tác phẩm "Chiếc lược ngà" không chỉ dừng lại ở nghệ thuật xây dựng cốt truyện độc đáo, ngôn ngữ giản dị, giàu cảm xúc mà "Chiếc lược ngà" còn gây tiếng vang ở cách nhà văn Nguyễn Quang Sáng lựa chọn những chi tiết rất đắt để đưa vào cốt chuyện như vết sẹo trên mặt ông Sáu, chi tiết ông gắp cái trứng cá cho con, đặc biệt là hình tượng đa nghĩa chiếc lược ngà. Tất cả những thành công đó là bàn đạp để Chiếc lược ngà gửi gắm thông điệp về tình phụ tử và tạo nên hình ảnh một người lính vừa thương gia đình mà lại nặng lòng với đất nước, hy sinh tình cảm nhỏ bé để góp mình vào tình cảm to lớn, cao cả của toàn dân tộc như ông Sáu.
Sự khắc nghiệt của thời gian luôn song hành với sự xói mòn của những giá trị tinh thần hay vật chất, nên người ta hay nói về một thời đại mà một sự vật hiện tượng tồn tại. Văn học cũng không nằm ngoài quy luật này. Tuy nhiên, với khả năng của mình, qua lăng kính của chính ông về cuộc sống, Nguyễn Quang Sáng đã để Chiếc lược ngà và hình ảnh ông Sáu vượt lên trên sự quy luật này. Cho đến hôm nay, dù đất nước không còn chiến tranh, không vết sẹo nào chia cắt được tình cảm gia đình, nhưng mỗi khi nghĩ đến hình ảnh ông Sáu với tấm lòng thương con sâu nặng, những nỗi lòng người Việt lại dậy lên bao sự đồng cảm khi nghĩ về gia đình. Mọi thứ đều có thể qua đi, chỉ có tình người là còn mãi cùng năm tháng. Một ngày nào đó chúng ta có thể quên đi vài chi tiết trong tác phẩm, nhưng chỉ còn lòng còn cảm xúc thì tác phẩm vẫn làm dấy lên niềm trắc trở, đồng điều, thông cảm và yêu thương của những đấng sinh thành. "Chiếc lược ngà" và hình tượng ông Sáu đã sống cùng với chiến tranh, sống cùng lịch sử và sống cùng năm tháng một cách đẹp đẽ như thế!
Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 12
Tinh cảm gia đình thiêng liêng từ lâu đã là đề tài được nhiều nhà văn đi sâu khai thác để làm chất liệu cho tác phẩm của mình. Nếu như Nói với con của Y Phương là niềm vui, hạnh phúc khi được làm cha và lời nhắc nhở con về nguồn cội của mình thì đến với Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng ta lại thấy được một câu chuyện đầy cảm động về tình cha con thiêng liêng của ông Sáu dành cho bé Thu.
Ông Sáu đi chiến đấu xa nhà, mãi đến khi con gái lên 8 tuổi, ông mới có dịp về quê thăm con. Bé Thu không chịu nhận ba vì vết sẹo trên mặt bà không giống với người đàn ông trong bức ảnh chụp cùng với má. Thu coi ba như người xa lạ. Cho đến khi được nghe giải thích từ bà ngoại, Thu mới nhận ra ba. Lúc đó, tình cha con thức dậy mãnh liệt trong em thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường trở lại chiến khu. Ở chiến khu, ông Sáu nhớ con thật nhiều, bao nhiêu tình cảm dành cho con ông dồn hết vào việc làm cây lược và mong ngóng được gặp lại con. Nhưng cuối cùng ông lại hy sinh trong một trận càn của Mĩ ngụy. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, ông còn trao chiếc lược cho người bạn của mình. Tình đồng đội, tình cha con của ông Sáu được thể hiện rất cảm động, tô đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng, người cha thương con.
Tác giả cũng thể hiện tình cảm của ông Sáu với con gái khi còn ở căn cứ. Nỗi đau đớn, hối hận dày vò ông nhiều ngày bởi đã đánh con trong lúc nóng giận. Rồi lời dặn dò của con gái “Ba về ba mua cho con một cây lược nghe ba!” đã khiến ông nảy ra ý định làm chiếc lược ngà. Như vậy, làm cây lược đã trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình yêu thương con. Kiếm được chiếc ngà voi, ông Sáu thích thú, sung sướng như một đứa trẻ có được món quà và dành hết tâm trí, sức lực để làm chiếc lược. Đồng đội của ông kể lại rằng: “Những lúc rảnh rỗi, ông lại cần cù, chịu khó, tỉ mẩn đếm từng chiếc răng lược như một người thợ bạc”. Phải chăng ông đã dồn biết bao nhiêu tình cảm cho con gái mình để làm nên chiếc lược đó? Sau đó ông cẩn thận khom lưng, dùng hai tay khắc vào mặt sau lược “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Chiếc lược này, dòng chữ này là chính tình yêu thương, là nỗi nhớ, là sự ân hận của ông đối với đứa con của mình. Cả lúc rảnh rỗi hay buổi tối, lúc nào nhớ con, ông thường lấy chiếc lược ra ngắm nghía rồi chuốt cho cây lược bóng, mượt hơn. Làm như vậy, chắc hẳn ông không muốn con mình bị đau khi chải tóc. Ông Sáu yêu thương cả mái tóc của con gái mình. Người đọc cảm động trước tấm lòng tràn đầy tình yêu thương của người cha. Tình yêu con đã khiến người lính trở thành một nghệ sĩ – một nghệ nhân tạo ra một tác phẩm duy nhất trên đời – chiếc lược ngà. Vì thế, chiếc lược ngà đã kết tinh trong nó tình cha con mộc mạc, sâu nặng mà mộc mạc, giản dị.
Hoàn thành xong chiếc lược, ông Sáu mong được gặp lại con và tự tay chải tóc cho con. Nhưng rồi một tình huống đau lòng đã xảy ra với cha con ông Sáu: trong một trận đánh lớn của quân Mỹ ngụy, ông Sáu bị bắn vào ngực. “Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức để trăn trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được.” Bằng tất cả sức lực cuối cùng, ông đưa tay vào túi, móc cây lược ra đưa cho người đồng đội. Dù đó là lời trăng trối cuối cùng không lời , nhưng nó thiêng liêng hơn cả lời di chúc. Đó là sự ủy thác, là ước nguyện cuối cùng, ước nguyện của tình phụ tử. Và kể từ giây phút đó, chiếc lược ngà đã biến người đồng đội của ông Sáu trở thành người cha thứ hai của bé Thu.
Người đọc đã không cầm được nước mắt khi nghe tiếng khóc của đứa con trong buổi chia tay cha mình, nay bỗng dưng càng không thể cầm lòng khi chứng kiến cử chỉ cầm chiếc lược và ánh mắt của người cha trong phút giây cuối của cuộc đời. Có biết bao nhiêu áng văn xúc động nói về tình mẹ nhưng có lẽ đây là trang viết rất hiếm hoi lột tả được tấm lòng yêu thương đến tận xương tủy của người cha dành cho đứa con của mình. Cũng dựa trên hình ảnh này tác giả đã khẳng định: Bom đạn và chiến tranh có thể hủy diệt sự sống nhưng tình cha con – tình phụ tử thiêng liêng không thể bị giết chết bởi bất cứ thứ gì.
Có thể nói, nhân vật ông Sáu được nhà văn xây dựng bằng những nét nghệ thuật đặc sắc. Nguyễn Quang Sáng đã đặt nhân vật vào một hoàn cảnh sống khó khăn nên ngòi bút miêu tả tâm lí tinh tế của ông đã trở nên dạt dào tình cảm cha con. Ngoài ra, ngôn ngữ truyện đậm chất Nam Bộ vừa truyền cảm, vừa đậm chất ngôn tình mang lại nhiều cảm xúc cho người đọc. Đặc biệt, tác giả đã chọn một số chi tiết nghệ thuật rất đắt giá, chẳng hạn như lời dặn mua lược của bé Thu, chi tiết ông Sáu rất vui mừng khi tìm thấy ngà voi để làm cây lược.. Tất cả những điều này làm nổi bật vẻ đẹp của người chiến sĩ cách mạng, người cha hết mực yêu thương con.
Hình ảnh ông Sáu – người chiến sĩ cách mạng, người cha trong truyện “Chiếc lược ngà” đã để lại bao xúc động về tình cha con sâu nặng trong lòng người đọc. Chiếc lược ngà và những dòng chữ ghi trên mặt sau của lược sẽ mãi là ký ức vĩnh hằng, là nhân chứng của những bi kịch đau thương, đẫm máu và nước mắt của những năm tháng chiến tranh. Ông Sáu là người chiến sĩ anh hùng thế hệ đi mở đường trước trải qua bao gian khổ hy sinh. Ông là hình ảnh tiêu biểu của con người Việt Nam sẵn sàng hy sinh tất cả vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước.
Phân tích nhân vật ông Sáu - mẫu 13
Nguyễn Quang Sáng là một nhà văn Nam Bộ, suốt cuộc đời cầm bút của mình ông luôn trăn trở và có những suy tư khi viết về cuộc sống con người ở Nam Bộ. Trong thời khắc chiến tranh ác liệt thì nhà văn cũng đã hướng ngòi bút của mình đi sâu, tập trung khai thác được tình người, tình gia đình trong kháng chiến. Và sáng tác “Chiếc lược ngà” là một trong những thành công của nhà văn khi đã miêu tả thật chân thực tình cha con ông Sáu trong chiến tranh. Trong tác phẩm thì nhân vật ông Sáu luôn mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thành, lắng đọng nhất.
Ông Sáu được Nguyễn Quang Sáng xây dựng trong tác phẩm của mình cũng chính là người nông dân Nam Bộ luôn giàu lòng yêu nước. Ông Sáu lúc đi kháng chiến thì đứa con gái của ông lúc này đây cũng lại chưa đầy một tuổi, mãi đến khi đứa con gái nhỏ lên tám tuổi ông mới có dịp về thăm nhà và gặp lại đứa con yêu ngày đêm ông mong nhớ. Trong những ngày được ở nhà ông Sáu luôn cố gắng dành hết tình yêu thương cho con gái ông, thế nhưng bé Thu đã cự tuyệt tình cảm của ông. Lý do mà bé Thu không nhận ra cha chỉ vì trên mặt ông có vết thẹo khác với người cha trong bức hình mà nó biết. Cho đến phút chia tay ông mới đón nhận được tình cảm của con nhưng thực sự lúc đó chính là giây phút ấy quá ngắn ngủi.
Trong chiến tranh ác liệt ông Sáu như chẳng lúc nào không thôi nhớ nhà và nhớ về đứa con nhỏ của mình. Tình yêu thương vô bờ của ông như cứ tích tụ lại từng ngày, ròng biết bao nhiêu năm cho đến khi được một chuyến về phép thăm nhà. Thực sự trong ông Sáu thì cái tình cha con nôn nao trong lòng anh thật lớn mạnh, những khát khao có đủ sức để có thể đốt cháy lòng ông lúc này là được gặp con và mong mỏi đứa con gái yêu của mình gọi một tiếng ba để ông được sống trong tình cha con hạnh phúc, thứ tình phụ tử mà bấy lâu nay ông từng mong đợi. Chẳng cần phải đời chiếc xuồng cập vào bờ hẳn mà ông cũng nhảy ngay lên bờ khi nhìn đứa bé chạc tuổi con ông và như có một sợi dây vô hình đã khiến ông có cảm giác đó chính là bé Thu – con của ông. Thế nhưng đáp lại sự ân cần và tình cảm đó là sự sợ hãi của bé Thu, sự nghi ngờ và không tin ông Sáu là ba của mình. Ông Sáu buồn lắm và “mặt anh sầm lại trong thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”.
Trong mấy nhà được ở nhà, ông Sáu cũng chẳng dám đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con, dường như cũng chính ông mong được nghe một tiếng “ba” từ miệng của con bé nhưng tất cả đều không trọn vẹn và với ông sao lại khó khăn như thế. Ông vẫn luôn luôn gần gũi con thì bé Thu càng hất ra và nhất định không gọi ông một tiếng ba nào cả. Ông Sáu như cảm nhận thấy thật khổ tâm và bất lực với con nhỏ quá ương ngạnh. Ông Sáu thương và yêu con của ông nhiều lắm, chính chiến tranh đã là nguyên do lớn để cha con ông không được gặp nhau, và để lại trên khuôn mặt ông vết thẹo dài vừa đau đớn vừa lại là nguyên nhân khiến cho cha con không nhận nhau.
Cho đến lúc chia tay, ông Sáu dường như cũng muốn ôm con hôn con nhưng lại sợ nó từ chối và bỏ chạy, chính vì thế mà ông đành chỉ nhìn con với đôi mắt trìu mến và có biết bao vẻ buồn rầu nhưng rồi trước những biển hiện tình cảm mãnh liệt của con. Ông Sáu lúc đó cũng xúc động khi con bé cất tiếng gọi “ba”. Cảm giác trong ông lúc này đây dường như không kìm được xúc động và không muốn cho con nhìn thấy mình khóc. Ông cũng một tay ôm con, một tay rút khăn lau nước mắt rồi cũng đã hôn lên tóc con bằng tình yêu vô bờ bến nhất.
Lúc này ông cũng lại thấy dằn vặt day dứt vì ông cũng đã đánh con trong lúc nóng giận, rồi lời dặn của bé Thu khiến ông không thể nào quên được “Ba về, ba mua cho con một cây lược nghe Ba”. Câu nói này dường như đã thôi thúc ông nghĩ đến việc làm một chiếc lược ngà để tặng cho con gái của ông. Ông kiếm được khúc ngà thì trong lòng vui sướng, trong mưa bom và bão đạn hình ảnh ông Sáu chiến đấu anh hùng và không quên cứ lúc rảnh lại lôi miếng ngà ra để làm thành cây lược. Khi nhớ con ông mang chiếc lược ngà ra ngắm nghía rồi mài lên tóc để giúp cho cây lược thêm bóng, thêm mượt hơn và tình yêu thương con như được khắc họa trên chiếc lược ngà. Chiến tranh khốc liệt khiến ông Sáu hi sinh thế nhưng tình cha con ở ông thì không thể nào chết được.
Thực sự việc xây dựng lên nhân vật ông Sáu người cha giàu tình yêu thương con cũng đã để lại bao mến phục với độc giả và làm cho tác phẩm “Chiếc lược ngà” trở thành một tác phẩm vừa hiện thực nhưng lại được bao phủ bởi tình phụ tử thiêng liêng nhất.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:
- Dàn ý phân tích nhân vật ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà (hay, ngắn gọn)
Phân tích nhân vật ông Sáu trong truyện Chiếc lược ngà (Bài văn mẫu 1)
Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:
- Mục lục Văn thuyết minh
- Mục lục Văn tự sự
- Mục lục Văn nghị luận xã hội
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 1
- Mục lục Văn nghị luận văn học Tập 2
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9 và Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Lớp 9 Kết nối tri thức
- Soạn văn 9 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 9 - KNTT
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 9 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 9 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - KNTT
- Giải sgk Tin học 9 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 9 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 9 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - KNTT
- Lớp 9 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST
- Lớp 9 Cánh diều
- Soạn văn 9 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 9 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 9 - Cánh diều
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 9 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 9 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 9 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 9 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 9 - Cánh diều
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - Cánh diều