Thuyết minh về một cảnh đẹp của quê hương (học sinh giỏi)



Thuyết minh về một cảnh đẹp của quê hương hay nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Thuyết minh về một cảnh đẹp của quê hương (học sinh giỏi)

Quảng cáo

Đề bài: Thuyết minh về một cảnh đẹp của quê hương, đất nước.

Thuyết minh về một cảnh đẹp của quê hương - mẫu 1

Cùng với vịnh Hạ Long, vịnh Bái Tử Long là một thắng cảnh tuyệt vời của đất nước ta. Nằm ở vùng Đông bĂc, cách thủ đô Hà Nội gần 200km, vịnh Bái Tử Long, Quảng Ninh cho đến nay chưa được nhiều người biết đến.

Vịnh Bái Tử Long có hàng trăm đảo nhấp nhô trên mặt nước xanh biếc với hàng trăm cây số bờ biển với những bãi cát trắng mịn ở Minh Châu, Quan Lạn, Ngọc Vừng...

Nơi đây có bao huyền tích, huyền thoại gắn liền với các đảo gần, đảo xa. Một số đền, chùa cổ được xây dựng từ thời nhà Lý. Vườn Quốc gia Bái Tử Long có nhiều loài chim, loài thú quý hiếm. GIếng nước ngọt Nàng Tiên nước xanh ngăn ngắt ở Cái Làng- một làng Việt cổ trên đảo Minh Châu.

Hang Thông Thiên đẹp mô hồn, nhũ đá long lanh. Đảo Phất Cờ huyền diệu với dải san hô lấp lánh. Những vẹt rừng sú, rừng vẹt chắn sòng như những dải lụa xanh viền quanh các đảo. Đảo Bản Sen có thứ trà trăm tuổi ngát hương đậm đà. Bãi biển Uyên Ương cát trắng phau, nước trong như pha lê, ai đã một lần tắm mát và bơi lội ở đấy sẽ không bao giờ quên.

Quảng cáo

Du khách đến thăm thú vịnh Bái Tử Long nên đến thăm quan đền Cửa Ông, đi chơi cảng Vạn Hoa, đi xuyên rừng hay đi thuyền thăm các bản làng của người Tày, người Dao Đỏ, Người Sán Dìu mộc mạc mà mến khách.

Hương vị biển có nhiều loại hải sản tươi ngon như cá song, cá giò, cá sùng, tu hài, cù kì...sẽ làm cho ta nhớ mãi. Cá giò được chế biến thành 12 món ăn tuyệt ngon như chiên, hấp , nướng, lòng cá xào, da cá chiên giòn, và tuyệt nhất là ăn gỏi cá với mù tạt. Chính gỏi cá giò này mà cô gái làng đen giòn ngày xửa ngày xưa đã từng làm đắm đuối Tiên ông.

Những đêm thu biển xanh óng ánh trăng vàng, đảo gần đảo xa trên vịnh Bái Tử Long như đàn rồng vẫy đuôi nô nức vũ hội. Ánh trăng sao càng làm cho Bái Tử Long thêm huyền ảo mênh mông. Tiếng sóng vỗ, tiếng cá đớp mồi hay tiềng đuôi rồng cuồn cuộn sóng nghe lao xao, rì rầm bất tận.

Thuyết minh về một cảnh đẹp của quê hương - mẫu 2

Du khách đi bằng đường bộ từ Nam ra Bắc, từ Bắc vào Nam không thể không đi qua Hàm Rồng. Hàm Rồng nằm ở cửa ngõ phía Bắc tỉnh lị Thanh Hóa, là yết hầu cua con đường huyết mạch một thời đánh Mĩ, niềm tự hào của dân tộc trong một giai đoạn lịch sử oanh liệt.

Quảng cáo

Hàm Rồng trở thành bất tử với những chiến công oanh liệt và cảnh trí nên thơ. Nhưng hai chữ Hàm Rồng (tên chữ là Long Hàm hay Long Đại) vốn là tên riêng của một ngọn núi hình đầu rồng với cái thân uốn lượn như một con rồng từ làng Ràng (Dương Xá) theo dọc sông Mã lên phía bờ Nam. Trên núi Rồng, còn có động Long Quang, hang ăn thông sang bên kia như hai mắt rồng, được rọi là hang Mắt Rồng (cho nên còn có tên gọi là núi Mắt Rồng). Truyền thuyết kể lại, con rồng đang vờn hạt ngọc ở phía bên kia sông bỗng bị trúng mũi tên độc vào mắt phải nên gục ở bên sông. Mắt phải có lỗ ăn thông lên trên, mùa mưa nước chảy xuống màu đỏ, ấy là nước mắt rồng. Ở dưới động Long Quang, có mỏm đá nhô lên, hàm trên há rộng, hàm dưới ngập trong nước như đàng trút nước, nên có tên chữ là Long Hạm, gọi nôm na là Hàm Rồng.

Bên kia sông, có hòn núi Ngọc, tên chữ là Hỏa Châu Phong hay còn gọi là núi Nít, ngọn núi này tròn trăn, các lớp đã chen dày tua tủa như ngọn lửa từ trong lòng đất bốc lên, bởi vậy mà gọi là Hỏa Châu Phong.

Chín mươi chín ngọn bên đông
Còn hòn núi Nít bên sông chưa về.

Quảng cáo

Chung quanh núi Rồng có nhiều ngọn núi trông rất ngoạn mục như Ngũ Hoa Phong có hình năm đóa hoa sen chung một gốc, mọc lên từ đầm lầy, có hang Tiên với các nhũ đá mang nhiều vẻ kì thú: hình rồng hút nước, hình các vị tiên.., có ngọn Phù Thi Sơn trông xa như một người đàn bà thắt trên mình một dải lụa xanh nằm gối đầu vào thân rồng. Rồi núi mẹ, núi con như hình hai quả trứng, có núi Tả Ao, vũng Tao Ta có nước trong vắt quanh năm. Rồi núi Con Mèo, núi Cánh Tiên đều có hình thù như tên gọi.

Với cảnh trí nên thơ như vậy, Hàm Rồng là nơi dừng chân của bao tao nhân mặc khách: Lí Thường Kiệt, Phạm Sư Mạnh, Lê Quát, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Ngô Thi Sĩ, Nguyễn Thượng Hiền, Tản Đà,... Ở động Long Quang vẫn còn một số bài thơ khắc trên vách đá.

Hàm Rồng không những có cảnh đẹp thiên nhiên mà còn có bề đày lịch sử hàng trăm thế kỉ, đó là khu di tích núi Đọ (cách Hàm Rồng 4km về phía Bắc) tiêu biểu cho thời đại đá cụ Và từ núi Đọ đi xuống phía Đông Nam, cách Hàm Rồng 1 km là khu di chi Đông Sơn, tiêu biểu cho nền văn hóa dân tộc thời kì đồng thau.

Hàm Rồng còn là nơi ghi dấu nhiều chiến tích lịch sử. Tại đây, vào thế kỉ XIII, Chu Nguyên Lương - một nhà nho - đã hưởng ứng khí thế Diên Hồng, chiêu tập dân làng và học trò của mình thành đội quân, lập nên chiến công oanh liệt ở Vạn Kiếp.

Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, quân và dân Hàm Rồng đã viết nên trang sử hào hùng. Với quyết tâm cắt đứt mạch máu giao thông quan trọng này của ta, Bộ Quốc phòng Mĩ đã trực tiếp chi đạo phương án đánh phá Hàm Rồng, chúng đã huy dộng 121 đợt không kích với 2.924 lượt máy bay đánh phá 1.096 trận, ném 71.600 tấn bom phá với 11.526 quả, 99 bom nổ chậm, bắn 600 tên lửa, 2.840 quả rốckét, 2.178 quả đạn pháo kích, hàng trăm tấn bom bi và thủy lôi. Tính bình quân mỗi người dân ở đây phải chịu đựng 5 tấn bom đạn của địch. Chỉ riêng trong trận đánh đầu tiên ngày 3, 4 tháng 4 năm 1965 đã diễn ra vô cùng ác liệt. Địch đã Xuất kích 174 lần, 453 lượt máy bay, ném 350 quả bom từ 500-1000 kg, bắn hàng trăm quả tên lửa. Nhưng cũng trong hai ngày này, quân và dân Hàm Rồng đã chiến đấu ngoan cường, bắn rơi 47 máy bay, bắt sống nhiều giặc lái. Và trong hai lần chống, chiến tranh phá hoại, Hàm Rồng đã hạ 116 máy bay, bắt sống nhiều giặc lái, trong đó có 2 pháo đài bay B52, giữ vững cầu, lập nên một kỉ lục bảo vệ cầu chưa từng có trong lịch sử thế giới, đem lại niềm tự hào cho dân tộc, bạn bè khắp thế giới khâm phục, ngợi ca. Cũng trên mảnh đất rực lửa anh hùng này, đã sản sinh nhiều tập thể anh hùng và những chiến sĩ anh hùng: Đại đội 4 pháo cao xạ, Đồn công an nhân dân Hàm Rồng, Phân đội 3 công an nhân dần vũ trang, Đại đội dân quân tiểu khu Nam Ngạn, Nhà máy điện 4-4, Đội cầu phà 19-5, các anh hùng Ngô Thị Tuyển, Đỗ Chanh, Lê Kim Hồng...

Hàm Rồng, nơi tụ hội những vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên, mảnh đất có bề dày lịch sử, tiêu biểu cho nền văn hóa dân tộc, và truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước ngoan cường, mãi mãi là niềm kiêu hãnh, tự hào của nhân dân cả nước và là điểm du lịch hấp dẫn của du khách gần xa.

Thuyết minh về một cảnh đẹp của quê hương - mẫu 3

Nhắc đến danh lam thắng cảnh, những chốn có non nước hữu tình trên đất nước Việt nam ta khó lòng không nhắc đến vịnh Hạ Long. Cái tên ấy ai là người Việt nam cũng biết đến. Nó không chỉ đẹp trong hiện tại hay tương lai mà nó còn đẹp từ thời xưa trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm: " Con gà, con cóc quê hương cũng biến Hạ Long thành thắng cảnh". Mới đây vịnh Hạ Long còn dược UNESCO công nhận là một trong bảy kì quan đẹp nhất thế giới. Vậy không biết rằng Hạ Long có những gì mà lại được tôn vinh đến như vậy?

Vịnh Hạ Long còn có truyền thuyết đó là Ngọc Hoàng sai Rồng Mẹ mang theo một đàn Rồng Con xuống hạ giới giúp người Việt đánh giặc. Thuyền giặc từ ngoài biển ào ạt tiến vào bờ vừa lúc đàn Rồng tới hạ giới. Đàn Rồng lập tức phun ra lửa thiêu cháy thuyền giặc, một phần nhả Châu Ngọc dựng thành bức tường đá sừng sững làm cho thuyền giặc đâm phải mà vỡ tan, chặn đứng bước tiến của ngoại bang.

Sau khi giặc tan, thấy cảnh mặt đất thanh bình, cây cối tươi tốt, con người nơi đây lại cần cù, chịu khó, đoàn kết giúp đỡ nhau, Rồng Mẹ và Rồng Con không trở về trời mà ở lại hạ giới, nơi vừa diễn ra trận chiến để muôn đời bảo vệ con dân Đại Việt. Vị trí Rồng Mẹ đáp xuống là Hạ Long; nơi Rồng Con đáp xuống là Bái Tử Long và đuôi đàn rồng quẫy nước trắng xoá là Bạch Long Vĩ (bán đảo Trà Cổ ngày nay, với bãi cát dài trên 15 km).

Lại có truyền thuyết khác nói rằng vào thời kỳ nọ khi đất nước có giặc ngoại xâm, một con rồng đã bay theo dọc sông xuôi về phía biển và hạ cánh xuống ở vùng ven biển Đông Bắc làm thành bức tường thành chắn bước tiến của thủy quân giặc. Chỗ rồng đáp xuống che chở cho đất nước được gọi là Hạ Long.

Trước hết về vị trí của vịnh Hạ Long thì nó nằm ở vùng Ðông Bắc Việt Nam, vịnh Hạ Long là một phần vịnh Bắc Bộ, bao gồm vùng biển của thành phố Hạ Long, thị xã Cẩm Phả và một phần của huyện đảo Vân Ðồn. Phía tây nam Vịnh giáp đảo Cát Bà, phía đông là biển, phần còn lại giáp đất liền với đường bờ biển dài 120 km, được giới hạn từ 106o58' - 107o22' kinh độ Ðông và 20o45' - 20o50' vĩ độ Bắc với tổng diện tích 1553 km2.

Tiếp nữa là về đảo ở đây thì có 1969 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó 989 đảo có tên và 980 đảo chưa có tên. Đảo nơi đây gồm có hai dạng đó là đảo đá vôi và đảo phiếm thạch tập trung ở Bái tử long và vinh Hạ Long. Ở đây thì chúng ta thấy được hàng loạt những hang động đẹp và nổi tiếng. Vùng Di sản thiên nhiên được thế giới công nhận có diện tích 434 km2 bao gồm 775 đảo, như một hình tam giác với 3 đỉnh là đảo Ðầu Gỗ (phía tây), hồ Ba Hầm (phía nam), đảo Cống Tây (phía đông) vùng kế bên là khu vực đệm và di tích danh thắng quốc gia được Bộ Văn hóa Thông tin xếp hạng năm 1962.

Đến với Hạ Long thì người ta không thể nào rời mắt khỏi những cảnh vật nơi đây. Nào là núi, nào là nước với những hang động thật sự hấp dẫn người ta muốn đi tới tận cùng để tìm thấy cái hữu hạn trong cái vô hạn của trời nước, núi non ấy. chúng ta cứ ngỡ rằng ngọn núi kia giống như những người khổng lồ vậy, ngồi trong thuyền mà ngước lên để đo tầm cao của những ngọn núi ấy thật sự là mỏi mắt. Đến đây ta mới biết hết thế nào là sự hùng vĩ, thế nào là sự hữu tình giữa nước và non. Làn nước biển mặn mà vị xa xăm của muối. Hang động với những nhũ đá như sắp rơi xuống nhưng thật chất lại là không rơi. Nó cứ tua tủa như muôn ngàn giọt ngọc dạng lỏng lấp lánh dính vào nhau nhưng không rơi xuống.

Con người nơi đây cũng thật sự là rất đáng yêu đáng quý. Họ không những mến khách mà còn như một người hướng dẫn viên du lịch vừa nói giới thiệu tả cảnh vừa vững tay chèo đẩy lái đến nơi khách muốn qua. Những con người ở đây nồng nhiệt mỗi khi có khách đến và khi khách đi thì để lại những ấn tượng khó phai về những con người miền non nước hữu tình với những tình cảm mặn mà như là muối biển vậy.Qua đây ta thấy vịnh Hạ Long rất xứng đáng là một trong bảy kì quan của thế giới. Nếu những ai đã được đặt chân đến đây thì chắc hẳn rất ấn tượng bởi cảnh đẹp và con người nơi đây. Còn những ai chưa đến thì hãy nhanh chóng đến mà tận hưởng những gì là tạo hóa ban tặng, những gì là mẹ thiên nhiên.

Thuyết minh về một cảnh đẹp của quê hương - mẫu 4

"Ai lên ngắm cảnh Tây Thiên
Mải mê thưởng ngoạn chớ quên đường về"

Có lẽ câu ca ấy đã vẽ lên trong chúng ta vẻ đẹp đến say đắm lòng người của khu thắng cảnh Tây Thiên. Cùng nhau trở về và khám phá khu thắng cảnh tuyệt diệu này chắc hẳn sẽ mang đến cho mỗi người những cảm nhận thật thú vị và độc đáo.

Ngược về miền Tây Bắc của Tổ quốc, cách thủ đô Hà Nội khoảng chừng 80 ki-lô-mét, khu danh thắng Tây Thiên nằm giữa núi rừng hùng vĩ của xã Đại Bình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Khu danh thắng Tây Thiên nằm trên ngọn núi Thạch Bàn của dãy Tam Đảo, với diện tích khoảng 148 ha với những nét hoang sơ nhưng không kém phần độc đáo. Theo những truyền thuyết còn ghi lại đến ngày nay, khu danh thắng Tây Thiên kể lại rằng xưa kia, ngài Khương Tăng Hội - một trong số các nhà tu hành Ấn Độ trong một chuyến viễn du sang phía Đông, khi đi qua nơi đây và thấy cảnh núi rừng u tịch và trang nhã nên đã chọn để dựng lều làm chốn nghỉ chân, đồng thời cũng để truyền bá đạo Phật. Và có lẽ vì thế nên nơi đây có tên gọi là "Tây Thiên" với ý nghĩa là nơi các nhà sư Tây Thiên (Ấn Độ) tu hành", như một cách để ghi nhớ giáo đoàn đầu tiên tới từ Ấn Độ vào nước ta để truyền đạo. Trong suốt quãng thời gian về sau, có nhiều phái đoàn Phật giáo đã tới nơi đây để hoằng dương Phật giáo. Đặc biệt, dưới thời nhà Trần, nơi đây chính là một trung tâm Phật giáo uy thâm ở nước ta.

Trải qua thời gian hình thành, xây dựng và phát triển, có thể nhận thấy khu danh thắng Tây Thiên giữa vùng núi non trùng điệp với nhiều công trình kiến trúc độc đáo cùng cảnh quan hấp dẫn. Từ phía xa của khu danh thắng đã có thể nhìn thấy được Thiền viện trúc lâm Tây Thiên - một trong số những thiền viện lớn nhất ở nước ta. Nằm bên tay trái chính là cổng Tam Quan được xây dựng theo kết cấu ba tầng với chiều cao hơn 37 mét. Về với Tây Thiên, điểm dừng chân tiếp theo đó chính là đền Trình hay còn gọi là đền Thõng, nơi đây chính là cửa ngõ mở đầu cho hàng loạt các di tích trong khu danh thắng Tây Thiên trên con đường dẫn đến đền Thượng. Đền Trình được xây dựng theo kết cấu của chữ "đinh", hướng ra cây đa chín cội ngàn đời trước cửa đình. Qua đến Trình đó chính là đền Cậu và qua đền Cậu chính là đền Cô. Cảnh sắc nơi đền Cô thật tuyệt vời, thoáng đãng với những thảm thực vật phong phú và đa dạng và có lẽ vì thế ở nơi đây quanh năm khí hậu ôn hòa, mát mẻ. Một điểm đặc biệt nữa ở đền Cô đó chính là dòng suối Giải Oan và giếng nước cổ nằm sát ngay cạnh chân đền. Từ đền Cô, khi men theo một lối rẽ quanh co uốn lượn trong rừng với những con suối róc rách chảy hay những rễ cây nằm bám sâu trong lòng đất đó chính là Tịnh thất Tây Thiên. Nơi đây vẫn còn lưu giữ nét cảnh vật đơn sơ, tinh khôi mà u tịch. Và từ đền Cô khi đi theo những lối bậc thang thì sẽ dẫn tới đền Thượng trên đỉnh núi cao cùng cảnh quan thiên nhiên kì vĩ, mây mù bốn nẻo và chim chóc ca hót.

Có thể thấy, khu danh thắng Tây Tiên gồm nhiều công trình kiến trúc độc đáo nhưng có lẽ không dừng lại ở đó, nơi đây còn là nơi có cảnh quan hấp dẫn, sơn thủy hữu tình với thảm thực vật phong phú và đa dạng. Điểm đáng chú ý đầu tiên đó chính là bóng hình cây đa chín cội. Cùng với đó là thác Bạc từ độ cao 40 mét đổ nước trắng xóa, từ xa trông như được dát bạc xuống suối vàng ở Hồ Sen và chảy ra khe ở suối Giải Oan. Thêm vào đó, rừng Tây Thiên có những cây thông đã sống đến hàng trăm tuổi cùng hàng ngàn loại động vật phong phú và quý hiếm như cá cóc Tam Đảo, rùa vàng, gà lôi trắng,... Nói về Tây Thiên, trong cuốn "Kiến văn tiểu lục" Lê Quý Đôn đã từng viết "...bên dưới sắc nước như chàm, sâu thẳm không thấy đáy; sườn núi có chùa Tây Thiên Cổ Tự, tre xanh, thông tốt, cảnh sắc thanh nhã, rộng rãi, trên đỉnh núi cao lại có chùa Đồng Cổ, vừa lên vừa xuống phải mất hai ngày, từ phía tả khe Giải Oan trèo lên núi đến hồ sen, nước xanh biếc, trong hồ có thứ đá lạ và có sen đỏ, hoa nở bốn mùa" quả không sai.

Khu danh thắng Tây Thiên là nơi còn lưu lại những dấu ấn Phật giáo từ ngàn đời trên đất nước ta. Thêm vào đó, đây còn là miền đất thiêng, với sự giao hòa giữa đạo Phật và đạo Mẫu. Với những nét độc đáo trong kiến trúc và sự phong phú, đa dạng của cảnh vật, khu danh thắng Tây Thiên là một trong số những địa điểm du lịch nổi tiếng khắp cả nước, thu hút hàng nghìn du khách khắp mọi miền Tổ quốc và du khách quốc tế về thưởng ngoạn. Năm 1991, khu danh thắng Tây Thiên đã được Bộ văn hóa Thông tin công nhận là khu di tích lịch sử văn hóa.

Như vậy, có thể thấy, khu danh thắng Tây Thiên là một trong số những địa điểm du lịch tâm linh hấp dẫn với quần thể di tích độc đáo, khung cảnh thiên nhiên hữu tình cùng những thảm thực vật, động vật phong phú và đa dạng. Trải qua thời gian, với những tiềm năng vốn có, nơi đây đang từng bước chuyển mình và mang trên mình diện mạo mới.

Thuyết minh về một cảnh đẹp của quê hương - mẫu 5

Trên mảnh đất hình chữ S nối dài hai đầu Tổ quốc không thiếu gì những danh lam thắng cảnh đẹp. Đó có thể là danh lam thắng cảnh tự nhiên nhưng cũng có thể là do bàn tay con người tạo nên, dù là bằng gì đi chăng nữa chúng ta cũng không thể phủ nhận một điều đó là thiên nhiên vô cùng ưu ái cho thiên nhiên con người Việt Nam. Trong những danh thắng nổi tiếng đó sẽ thật thiếu xót nếu bạn bỏ qua di tích chùa Hương. Một địa điểm văn hóa tâm linh không chỉ khiến khách du lịch trong nước mà ngay cả khách du lịch quốc tế cũng phải trầm trồ ca ngợi.

Chùa Hương nằm ở huyện Mỹ Đức tỉnh Hà Tây cách thủ đô Hà Nội khoảng 70km về phái tây nam. Từ thủ đô bạn đi qua thị xã Hà Đông rồi đến thẳng bến đục thì dừng lại. Du khách xuống đò sẽ được hành hương dọc theo suối Yến Vĩ giữa hai cánh đồng lúa mênh mông. Một bức tranh phong cảnh như hoa như ngọc hiện lên với dãy núi trùng điệp trước mắt và cảnh trời mây giao hòa.

Điều đặc biệt đó là bức tranh thiên nhiên này được vun đắp nên từ bàn tay kì công của con người cùng với sự khéo léo của mẹ tạo hóa. Những ngôi chùa được xây dựng rải rác trên triền núi đá vôi thấp thoáng giữa không gian rừng xanh thẳm. Từ chân núi đi lên theo hàng ngàn bậc đá cheo leo bạn sẽ đến khu đền chùa với những tên gọi vô cùng độc đáo như: Chùa Giải Oan, Chùa Thiên Mụ với động Hinh Bồng và Động Hương Tích. Ngôi chùa nào ở đây cũng có nên đại lâu năm không giấu đi vẻ cổ kính và huyền bí lẫn trong một làn sương mờ ảo vô cùng linh thiêng. Đến đây bạn như được bỏ xuống tất cả những vướng bận phiền nhiễu đời thường tâm hồn vì thế cũng trở nên trong trẻo an tĩnh đến lạ thường.

Chùa Hương có rất nhiều những cảnh đẹp những không gian đẹp tuy nhiên nổi tiếng nhất có lẽ chính là động Hương Tích. Leo đến đây bạn sẽ thấy thật thoải mái thanh tịnh. Hoa mơ nở trắng như tuyết, hương thơm thoang thoảng trong gió, hòa với tiếng suối chảy róc rách vui tai. Từ trên cửa động bạn sẽ được hít thở bầu không khí vô cùng thanh sạch và thu trọn vào tầm mắt không gian cảnh vật nơi đây.

Động Hương Tích đã từng được chúa Trịnh Xâm ngợi ca như một "Nam thiên đệ nhất động". Bên ngoài vào cửa động có hình như một con rồng khổng lồ ăn sâu trong lòng núi. Đáy rộng và phẳng có thể chứa đến mấy trăm người. Ánh đèn lung linh huyền ảo với muôn vàn hình nhũ đá, cột đá muôn hình vạn trạng lấp lánh như ánh sáng cầu vồng.

Khác với động Hương Tích, động Hinh Bồng lại khiến con người như được lạc vào một thế giới một xứ sở thần tiên với tiếng gió tiếng suối du dương trầm bổng khoan thai. Trên đỉnh núi này có một tảng đá lớn tương truyền đó chính là bàn cờ tiên. Mỗi năm nơi đây các vị tiên ông thường ngự để so tài cao thấp. Ngoài ra đến với chùa Hương bạn sẽ được lắng nghe rất nhiều những truyền thuyết vô cùng linh thiêng của một nơi phong cảnh huyền bí này.

Để dạo chơi thăm thú hết chùa Hương bạn phải bỏ rất nhiều thời gian vì không gian chùa vô cùng rộng lớn và có nhiều điểm du lịch hấp dẫn. Mỗi du khách đến đây ngoài việc cầu nguyện một năm mới an lành may mắn còn được đắm chìm trong một bức tranh thiên nhiên hữu tình. Du khách đến với chùa Hương khi quay gót ra về đều phải ngoái đầu nhìn lại và càng thêm tự hào vì một mảnh đất linh thiêng ngàn năm văn hiến nơi đây.

Thuyết minh về một cảnh đẹp của quê hương - mẫu 6

Nhắc đến chùa Hà Nội không thể không nhắc đến chùa Trấn Quốc - một trong những ngôi chùa cổ lịch sử lâu đời nhất nơi đây. Chùa Trấn Quốc cũng là một trong những niềm tự hào của người dân Hà Nội nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung.

Theo sử sách ghi chép lại thì chùa Trấn Quốc vốn có tên là chùa Khải Quốc, bắt đầu dựng từ thời Lý Nam Đế tại một thôn quê gần bờ sông Hồng. Chùa được dời vào và dựng trên nền xưa của cung Thúy Hoa, điện Hàn Nguyên vào năm 1615. Những năm về sau, được sự hỗ trợ của vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị cùng đóng góp của nhân dân chùa được trùng tu lại, đặt thêm chuông tượng và mở rộng diện tích. Năm 1842, vua Thiệu Trị quyết định đổi tên chùa thánh Trấn Bắc. Đến đời vua Lê Hy Tông, chùa đổi tên là Trần Quốc và được dùng cho đến ngày nay.

Chùa Trấn Quốc nằm trên đường Thanh Niên, phường Yên Phụ, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội. Chùa tọa lạc tại một hòn đảo phía đông Tây Hồ của một hồ nước ngọt rộng lớn.

Phía trên của chùa là hai câu đố được viết bằng chữ Nôm: "Vang tai xe ngựa qua đường tục/ Mở mặt non sông đứng cửa thiền", ngoài ra, con được ghi thêm ba chữ Phương điện môn ở trung tâm.

Chùa có kết cấu được thiết kế theo những nguyên tắc, trình tự nhất định. Có ba ngôi chính với nhiều lớp nhà, được nối thành hình chữ công, bao gồm Tiền đường, thượng điện và nhà thiêu hương. Tiền đường của chùa Trấn Quốc hướng về phía Tây. Có hai dãy hành lang dài ở hai bên nhà thượng điện và nhà thiêu hương. Có một gác chuông ba gian nằm trên trục sánh chính, ở phía sau thượng điện.

Bên trong chùa Trấn Quốc còn có các nhà tổ, nhà bia và một số mộ tháp cổ. Mộ tháp cổ nổi bật trong khuôn viên của chùa là Bảo tháp lục độ đài sen. Bao tháp cổ cao hơn 15m với 11 tầng. Mỗi tầng đều được đặt những pho tượng Phật bà trong các ô cửa hình vòm. Đỉnh tháp được gọi là Cửu phẩm liên hoa vì nó là đài sen 9 tầng, được làm từ đá quý. Đối xứng với bảo tháp là một cây bồ đề lớn với ý nghĩa: "Hoa sen tượng trưng cho Phật tính chân, như tính sinh ở dưới bùn mà không bị ô uế. Bồ đề là trí giác, trí tuệ vô thượng. Tất cả đều hàm ý nghĩa bản thể và hiện tượng của các pháp".

Chùa Trấn Quốc không chỉ là ngôi chùa cổ có kiến trúc độc đáo mà còn là một biểu tượng của nền văn hóa lâu đời của người dân Hà Nội nói riêng, của Việt Nam nói chung. Hơn nữa, ngôi chùa còn là một trong những minh chứng rõ nét cho sự phát triển Phật giáo ở Việt Nam.

Có thể thấy rằng, kiến trúc chùa có sự hài hòa giữa tính uy nghiêm, cổ kính với sự thanh nhã, yên bình của cảnh quan. Nhớ vậy mà nơi đây thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước đến tham quan, đặc biệt là các tín đồ phật tử. Hy vọng rằng trong tương lai những nét văn hóa của chùa sẽ được lưu giữ và phát triển hơn nữa.

Thuyết minh về một cảnh đẹp của quê hương - mẫu 7

"Tứ bề núi phủ mây phong, mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên", chính là ý văn phù hợp nhất khi nói về cố đô Huế, về quần thể di tích với tuổi đời hàng trăm năm. Nơi đã từng chứng kiến một thời vàng son huy hoàng rực nhất của triều đại nhà Nguyễn, đồng thời cũng là chứng nhân cho sự kết thúc của chế độ quân chủ chuyên chế trong lịch sử phong kiến kéo dài suốt mấy ngàn năm của Việt Nam ta. Với dáng vẻ cổ kính và là nơi hội tụ nhiều những công trình kiến trúc độc đáo, cố đô Huế là nơi cuối cùng còn thể hiện được gần như hoàn chỉnh lối sống của các bậc vua chúa xưa. Ngày nay, cố đô Huế là một trong những địa điểm tham quan nổi tiếng và thu hút một lượng lớn du khách cả trong và ngoài nước.

Cố đô Huế là một quần thể di tích lớn nằm bên cạnh dòng sông Hương thơ mộng, ngay giữa trung tâm thành phố Huế với diện tích khoảng hơn 500 ha. Ban đầu Huế được chọn làm kinh đô của nhà Tây Sơn trong khoảng 14 năm, sau khi Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn, thì Huế trở thành kinh đô của nhà Nguyễn và kéo dài suốt 142 năm sau đó. Sau khi chọn Huế làm kinh đô, các thời vua Nguyễn liên tục xây dựng và trùng tu nhiều công trình kiến trúc, tạo nên một tổng thể kinh thành đồ sộ và tráng lệ, vẻ vang soi bóng bên dòng sông Hương dịu hiền. Các công trình trong cố đô Huế chủ yếu được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống của Huế cộng với sự ảnh hưởng của phong cách bố trí từ Trung Quốc và một chút kiến trúc Vauban phương Tây. Nhưng tổng hòa lại cố đô Huế vẫn tuân theo các nguyên tắc phong thủy của phương Đông, lối bố trí kiểu kết hợp nhà vườn, cân bằng, hài hòa giữa kiến trúc nhân tạo và tự nhiên. Mãi về sau khi đến những đời vua cuối của nhà Nguyễn là Khải Định và Bảo Đại, lối kiến trúc Pháp cũng trở nên phổ biến hơn ở Huế, tạo nên những công trình kiến trúc mới mẻ, vượt xa khỏi khuôn khổ xây dựng cung điện truyền thống như tòa Khâm sứ, An Định cung, Ứng lăng, mộ vua Đồng Khánh,...

Cố đô gồm ba bộ phận chính là Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành, với ba vòng thành tương ứng. Kinh thành Huế là vòng ngoài cùng bao gồm một số công trình phụ và các lăng tẩm được xây dựng rải rác khắp nơi qua các đời vua. Được khởi công xây dựng vào năm 1805, dưới thời vua Gia Long, nằm trên hai chi Bạch Yến và Kim Long của dòng sông Hương. Quá trình xây dựng kéo dài mãi đến năm 1823 mới tạm gọi là hoàn thành.

Kinh thành Huế được xây dựng trên một mặt bằng gần vuông hơi khum hình cánh cung, bên ngoài được bao bọc bởi hệ thống tường thành có chu vi 10571 mét theo lối kiến trúc Vauban kết hợp với 24 pháo đài phòng thủ, 10 cửa chính và một cửa phụ, cùng với hệ thống hào nước phòng thủ uốn quanh chân thành. Một trong số những kiến trúc nổi bật ở vòng Kinh thành Huế phải kể đến Kỳ Đài trường thường gọi là cột cờ, nằm đối diện với Ngọ Môn quan, nơi đã chứng kiến biết bao đổi thay của lịch sử dân tộc. Tiếp theo đó là Trường Quốc Tử giám, trường đại học phong kiến duy nhất còn tồn tại cho đến ngày hôm nay. Ngoài ra đáng chú ý còn có Điện Long An được đánh giá là một trong những công trình cung điện đẹp nhất của cố đô Huế, đặc trưng bởi lối kiến trúc thanh nhã, nhưng vẫn đảm bảo được sự lộng lẫy, nguy nga của hoàng gia, là nơi dừng nghỉ của các đời vua Nguyễn sau mỗi lần tiến hành lễ Tịch Điền. Ngoài ra Hồ Tịnh tâm với cảnh hoa sen trắng nở rộ mùi hương khắp mặt hồ, hay đình Phú Xuân với nét cổ kính rêu phong cũng là một trong số những công trình phụ nổi bật của Kinh thành Huế.

Bên trong Kinh thành chính là Hoàng thành Huế hay còn gọi với tên phổ biến là Đại Nội được xây dựng vào năm 1804 trên một mặt bằng hình vuông, diện tích khoảng 36 ha. Đại Nội được bao bọc xung quanh bởi tường thành, với 4 cửa ra vào bao gồm Ngọ Môn, Hòa Bình, Hiển Nhân, Chương Đức. Trong đó Ngọ Môn quan là cửa chính và lớn nhất, chỉ dành riêng cho vua và các sứ thần đi lại, đồng thời đây cũng được xem là biểu tượng của cả Đại Nội Huế. Cổng nằm ở hướng Nam, có bình diện kiểu đài chữ U, bên trên đài đặt lầu Ngũ Phụng, được chạm trổ tinh xảo, với bộ khung toàn gỗ lim 100 cột chẵn, mái chính lợp bằng ngói lưu ly vàng, mái phụ lợp bằng mái lưu ly xanh, tạo cảm giác thanh thoát, tao nhã, nhưng vẫn có dáng vẻ sang trọng, uy nghiêm nơi cung cấm. Các công trình trong Đại Nội được đặt theo trục dọc đối xứng, các công trình dành cho vua thì đặt chính giữa, các công trình phụ đặt hai bên. Từ Ngọ Môn quan bước vào là Thái Hòa điện, được coi là trung tâm quyền lực dưới thời Nguyễn, đây là nơi diễn ra các buổi thượng triều nghị sự, hay tổ chức các lễ nghi quan trọng.

Ngay sau điện Thái Hòa chính là Tử Cấm thành, bao gồm các công trình phục vụ đời sống, sinh hoạt của hoàng tộc như điện Cần Chánh, cung Trường Thọ, cung Khôn Thái, viện Thái Y, điện Quang Minh, Điện Trinh Minh, Điện Trung Hòa,... Ngoài ra còn có một số công trình phục vụ việc thờ tự như Thế Miếu, Triệu Tổ Miếu, Hoàng Khảo Miếu, điện Hoàng Nhân. Có thể nói rằng hầu hết các công trình trọng yếu của cố đô đều được hoàn thành trong thời vua Gia Long. Đến thời vua Minh Mạng, ông cũng tiếp tục cho bổ sung và hoàn thành nốt những công trình phụ khác như lầu Minh Viễn, sở Thượng Thiện, Đông Các, nhà hát Duyệt Thị, đúc Cửu Đỉnh... Đến thời Thiệu Trị, có thêm một số công trình như vườn Cơ Hạ, nhà hát Tịnh Quan, hoàn chỉnh Lục Viện và cung Trường Sanh.

Bên cạnh những công trình nằm trong Kinh thành Huế, thì quần thể di tích cố đô còn bao gồm các lăng tẩm với lối kiến thức độc đáo như Lăng Gia Long, Lăng Minh Mạng, Lăng Thiệu Trị, Lăng Tự Đức, Lăng Đồng Khánh, Lăng Dục Đức, Lăng Khải Định,... Trong đó lăng Gia Long được đánh giá là lăng tẩm có kiến trúc đồ sộ nhất, với sự phối trí cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ và rộng lớn, tuy nhiên nơi đây không thực sự thu hút khách du lịch tới thăm quan bởi lẽ điều kiện địa lý xa xôi, phần vì giá trị kiến trúc còn chưa đạt tới độ tinh xảo như các lăng Tự Đức, Khải Định.

Trải qua nhiều biến cố lịch sử, từng chứng kiến sự huy hoàng, rực rỡ và sụp đổ của cả một triều đại, bị bom đạn chiến tranh tàn phá nghiêm trọng, tuy không còn giữ được dáng vẻ nguyên sơ của mình nhưng quần thể di tích cố đô vẫn luôn mang trong mình nguyên những giá trị văn hóa, lịch sử, là biểu tượng cho chế độ phong kiến đã kết thúc cách đây hàng trăm năm. Hỏi du khách đã một lần ghé về xứ Huế mộng mơ, làm sao có thể làm ngơ trước vẻ cổ kính, sự uy nghiêm từng trải qua nhiều đau thương của cố đô?

Thuyết minh về một cảnh đẹp của quê hương - mẫu 8

Mảnh đất cố đô Huế thâm trầm, sâu lắng ghi dấu về triều đại phong kiến cuối cùng của nước ta với những công trình lăng tẩm, đền đài và nền nhã nhạc cung đình Huế. Khi nhắc đến thời kì hưng thịnh của Phật giáo Đàng trong, người ta thường gợi nhớ đến ngôi chùa Thiên Mụ - một vẻ đẹp thanh tịnh bên dòng sông Hương thơ mộng.

Chùa Thiên Mụ nằm trên một ngọn đồi (đồi Hà Khê) bên phía tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 5km. Theo truyền thuyết khi chúa Nguyễn Hoàng đi dọc bờ sông Hương xem xét địa thế nơi đây để chuẩn bị cơ đồ nghiệp lớn, xây dựng giang sơn đã nhìn ra ngọn đồi Hà Khê với thế đất hình con rồng quay đầu nhìn lại, Chúa đã cho xây dựng một ngôi chùa trên đồi, hướng về phía sông Hương đặt tên là "Thiên Mụ". Năm Tân Sửu 1601 chùa Thiên Mụ chính thức được khởi công xây dựng dưới thời chúa Tiên - Nguyễn Hoàng, giai đoạn 1691 - 1725 chùa được xây dựng quy mô hơn và trùng tu với nhiều công trình kiến trúc đồ sộ như: Điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh,... còn rất nhiều công trình không giữ được đến ngày nay. Đến năm 1844 chùa lại được kiến trúc lại với ngôi tháp bát giác Phước Duyên, đình Hương Nguyện. Trận bão lịch sử năm 1904 quét qua đã tàn phá chùa với nhiều công trình hư hỏng mãi đến năm 1907 mới được xây dựng lại nhưng không được như trước. Qua nhiều đợt kiến trúc, trùng tu, ngày nay chùa vẫn giữ được nhiều những công trình quy mô, đồ sộ và nhiều những cổ vật quý giá như tượng phật, những bức hoành phi câu đối. Tháp Phước Duyên trở thành biểu tượng của chùa Thiên Mụ, tháp cao 21m gồm 7 tầng, mỗi tầng đều có tượng Phật. Lầu Tàng Kinh là nơi chứa 1000 bộ kinh Phật mà chúa Quốc đã cho người sang Trung Quốc để mua. Khuôn viên chùa khá rộng, quang đãng và thoáng mát với những vườn hoa cỏ, hòn non bộ, hàng loạt những bia đá ghi lịch sử xây dựng chùa và các bài thơ văn của nhà vua, đặc biệt là bài thơ "Thiên Mụ chung thanh" do vua Thiệu Trị sáng tác được đặt ở cổng chùa. Không có gì bàn cãi khi chùa Thiên Mụ được coi là ngôi chùa đẹp nhất xứ Huế nói riêng và đàng trong nói chung, nơi đây không chỉ mang ý nghĩa tâm linh thờ Phật mà đã từng trở thành nơi lập đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn. Tại chùa Thiên Mụ còn lưu giữ di vật chiếc ô tô của cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức để lại sau khi châm lửa tự thiêu trên đường phản đối chính sách đàn áp Phật giáo.

Là ngôi chùa thu hút nhiều khách du lịch nhất ở Huế, chùa Thiên Mụ mang trong mình những dấu ấn lịch sử, vẻ đẹp thanh tịnh, trầm mặc. Đến với xứ Huế ta cảm nhận được nét mộng mơ, trữ tình, và đến thăm chùa Thiên Mụ ta sẽ được lắng đọng tâm hồn, tìm lại bình yên giữa cuộc sống xô bồ nhộn nhịp.

Thuyết minh về một cảnh đẹp của quê hương - mẫu 9

Trên lãnh thổ Việt Nam có nhiều địa điểm du lịch nổi tiếng, ngày càng thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, du ngoạn và trong số đó không thể không nhắc tới vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, nơi đây đã hai lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.

Như chúng ta đã biết, vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng là một trong số những vườn quốc gia lớn nhất của Việt Nam, thuộc phía Bắc của dãy núi Trường Sơn hùng vĩ, nằm ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Nơi đây cách xa thủ đô Hà Nội khoảng tầm 500 ki-lô-mét về phía nam và nằm tiếp giáp với Lào ở phía tây, phía đông của nó cách biển Đông khoảng 42 ki-lô-mét. Tên gọi vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng phổ biến rộng rãi khắp mọi nơi và cho đến ngày nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về nguồn gốc của tên gọi này. Tuy nhiên, hầu hết mọi người đều thống nhất rằng, tên gọi vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng xuất hiện chính là sự kết hợp giữa động Phong Nha và tên của khu rừng núi đá vôi Kẻ Bàng. Đồng thời, trước khi trở thành vườn quốc gia vào năm 2001, nơi đây là một khu bảo tồn thiên nhiên.

Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng có diện tích rộng lớn với hơn 100000 ha. Nơi đây mang trên mình những đặc trưng cơ bản của kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng, ẩm với nhiệt độ trong năm dao động trong khoảng từ 23-25 độ C. Nét đặc trưng riêng của vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng đó chính là những khối kiến tạo bằng đá vôi theo kiểu karst với tuổi thọ lâu đời - hàng triệu năm cùng các hang động lớn nhỏ, hệ thống sông ngòi, đỉnh núi phong phú cùng thảm thực vật đa dạng.

Trước hết, vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng là nơi có nhiều hang động độc đáo. Chắc có lẽ không quá khi người ta mệnh danh vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng là "vương quốc của hang động" bởi lẽ nói đây có hơn 300 hang động và chúng đều là những hang động kì vĩ, độc đáo, là món quà vô giá mà thiên nhiên, tạo vật đã ban tặng cho nơi đây. Các hang động ở đây đã được phân chia thành ba hệ thống hang động lớn là hệ thống động Phong Nha, hệ thống hang Rục Mòn và hệ thống hang Vòm. Mỗi hệ thống hang ấy lại bao gồm các hang khác nhau với những đặc điểm riêng biệt. Những hang động ở nơi đây không chỉ hấp dẫn du khách ghé thăm mà còn thu hút cả các nhà thám hiểm và các nhà khoa học.

Đồng thời, vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng còn là nơi có hệ thống sông ngòi đặc biệt là sông ngầm cùng hệ thống các đỉnh núi rất phong phú. Tổng thể khu vực vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng có hệ thống sông ngòi khác phức tạp, song có ba con sông lớn đều chảy vào sông Gianh chính là sông Troóc, sông Chày, sông Son. Ba con sông này uốn mình giữa màu xanh bát ngát, rộng lớn của vườn quốc gia đã vẽ nên một bức tranh sơn thủy hữu tình cho mảnh đất nơi đây. Cùng với đó, Phong Nha - Kẻ Bàng còn có các sông ngầm được xem là dài nhất trên thế giới cùng rất nhiều những dòng thác, con suối với vẻ đẹp hấp dẫn, mê ly, trong đó không thể không nhắc đến một số địa danh như suối Mọc, thác Mệ Loan, thác Gió,... Bên cạnh dòng nước xanh hiền hòa, nhẹ dịu, nơi đây còn được thiên nhiên ban tặng cho những đỉnh núi cao, nằm xen kẽ các thung lũng. Điều đó vừa tạo nên một bức tranh cảnh quan thật đẹp vừa góp phần tạo điều kiện để phát triển du lịch sinh thái.

Đặc biệt, vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng là nơi có thảm thực vật đa dạng và phong phú. Trước hơn hết, trong khu vực của vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng hiện vẫn còn nguyên vẹn một khu rừng nhiệt đới với độ che phủ lên tới hơn 96% với nhiều loại thực vật đặc hữu và vô cùng quý hiếm. Thêm vào đó, nơi đây còn là nơi sinh sống, trú ngụ của nhiều loài động vật có giá trị với số lượng lớn các loài như 131 loài thú lớn, 81 loài bò sát lưỡng cư, 259 loài bươm, 72 loài cá,... Và trong số những loài đó có rất nhiều loài nằm trong "Sách đỏ Việt Nam" và đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng. Đặc biệt, trong những năm gần đây, các nhà khoa học đã phát hiện ra nhiều loài động vật kì lạ, khác thường như cá, tôm, bọ cạp không mắt sinh sống trong các hang động trong khu vực này.

Phong Nha - Kẻ Bàng là một vườn quốc gia lớn bậc nhất của cả nước và có ý nghĩa, vai trò quan trọng. Nơi đây không chỉ là địa điểm du lịch hấp dẫn, thu hút khách du lịch trong và ngoài nước mà nó còn là nơi thu hút các nhà khoa học, nhà thám hiểm đến tham quan và khám phá, khai quật những nét đặc sắc và bí ẩn, hoang sơ ở nơi đây. Đồng thời, vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng cũng đóng góp vai trò to lớn trong quá trình bảo vệ đa dạng sinh học, đặc biệt là bảo vệ các loài động, thực vật quý hiếm đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt chủng. Thêm vào đó, nơi đây là nơi tồn tại và lưu giữ nhiều di tích lịch sử, văn hóa có giá trị trong suốt chiều dài hình thành, xây dựng và phát triển đất nước như các di tích khảo cổ học thời tiền sử, văn hoá Chămpa và Việt cổ, di tích căn cứ kháng chiến chống Pháp,... Và đây cùng là nơi sinh sống của đồng bào các dân tộc ít người, nơi lưu giữ được những nét đẹp văn hoá phong phú, lâu đời.

Tóm lại, vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng là một địa điểm du lịch hấp dẫn với nhiều cảnh quan kì lạ, độc đáo. Nơi đây là một điểm dừng chân thú vị trên chặng đường khám phá "Con đường di sản miền Trung".

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH ĐỀ THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.




Tài liệu giáo viên