Soạn bài Phong cách sáng tác của một trường phái văn học - Cánh diều

Với soạn bài Phong cách sáng tác của một trường phái văn học Chuyên đề Văn 12 Cánh diều hay nhất, ngắn gọn giúp học sinh dễ dàng làm bài tập Chuyên đề học tập Ngữ văn 12.

Soạn bài Phong cách sáng tác của một trường phái văn học - Cánh diều

Quảng cáo

1. Trường phái văn học

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, "trường phái văn học thường dùng để chỉ trào lưu văn học". Đó là một phong trào sáng tác với các tác giả và tác phẩm cụ thể, gắn liền với những đặc điểm chung về nội dung, tư tưởng, quan niệm thẩm mĩ và hình thức nghệ thuật. Ví dụ, phong trào Thơ mới 1932 - 1945 ở Việt Nam với sự xuất hiện "cùng một lần" (Hoài Thanh) của nhiều nhà thơ (Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử,...), nhiều tác phẩm bộc lộ trực diện cái "tôi" cá nhân, cá thể của các tác giả, thể hiện cảm xúc thẩm mĩ chung của thời đại (nỗi buồn) và những đổi thay của hình thức thơ ca (thơ tự do, câu thơ văn xuôi, yếu tố tượng trưng ảnh hưởng từ thơ Pháp,...). Tại một số quốc gia và trong những thời kì, giai đoạn nhất định của lịch sử văn học, trường phái hay trào lưu văn học không chỉ được nhận diện bằng các nhà văn, nhà thơ và các sáng tác cụ thể mà còn bao gồm cả những tổ chức, cá nhân làm công tác nghiên cứu lí luận, phê bình văn học, xuất bản, báo chí, tổ chức các hoạt động văn học. Chẳng hạn, trào lưu văn học lãng mạn (văn xuôi lãng mạn) Việt Nam vừa được định hình bởi các nhà văn như Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Xuân Diệu,... vừa gắn liền với sự ra đời và các hoạt động văn học tích cực của Tự lực văn đoàn - tổ chức văn học chuyên nghiệp đầu tiên với đầy đủ các tiêu chí: các thành viên có chung một tôn chỉ sáng tác, có tờ báo, có nhà xuất bản và giải thưởng riêng.

Quảng cáo

Ở một khía cạnh khác, "trường phái văn học được dùng để chỉ những đặc trưng tiêu biểu trong sáng tác của một nhà văn vĩ đại nào đó" và nhà văn ấy "được các nhà văn khác xem như "trường học" về quan điểm thẩm mĩ và sáng tạo nghệ thuật của mình"(1). Ví dụ: trường phái Pu-skin (Pushkin), trường phái Ban-dắc (Balzac).

Theo nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương, trường phái văn học có khi được "hình thành trên cơ sở một nền giáo dục nhất định, được đặc trưng bởi một phương pháp đào tạo tài năng nghệ thuật, ở đó những bậc thầy không chỉ đưa ra các tác phẩm như mẫu mực của sự sáng tạo, mà còn gây ảnh hưởng đến các môn đệ thông qua những nhận xét, đánh giá và lời khuyên của mình", nhưng cũng có khi "được định danh về mặt địa lí do tính chất tương cận về nguồn gốc và phong cách hay sự tôn trọng đối với một lí tưởng, một truyền thống có tính chất địa phương. Đặc điểm này không chỉ ở nơi có những trường phái sáng tác mà còn ở nơi có những trường phái lí luận - phê bình. Chẳng hạn trường phái Công-xtan (Konstanz) về mĩ học tiếp nhận gắn liền với một trường đại học nổi tiếng ở Đức. Bên cạnh đó, một số trường phái "được người đương thời hay người đời sau định danh bằng những nguyên tắc tư tưởng hay học thuật đã liên kết những thành viên với nhau: trường phái Hình thức Nga, trường phái "nghệ thuật vị nghệ thuật",...

Quảng cáo

Ở Việt Nam, thời trung đại, một số nhóm văn học đã tập hợp được đội ngũ sáng tác và có được những thành tựu nhất định, ít nhiều có những dấu hiệu của một trường phái văn học. Chẳng hạn như Hội Tao đàn do vua Lê Thánh Tông (1442 - 1497) sáng lập vào thế kỉ XV, với 28 thi nhân. Sáng tác của Hội Tao đàn chủ yếu được tập hợp trong Hồng Đức quốc âm thi tập, gồm 328 bài thơ viết về vẻ đẹp thiên nhiên, nhân vật lịch sử, đạo làm người theo quan điểm Nho gia,... Hay Ngô gia văn phái - văn phái dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ngô gia có 15 văn nhân (Ngô Thì Ức, Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Đạo, Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Chí, Ngô Thì Trí, Ngô Thì Điển, Ngô Thì Hoàng, Ngô Thì Du, Ngô Thì Hương, Ngô Thì Hiệu, Ngô Thì Giai, Ngô Thì Lữ, Ngô Thì Thập, Ngô Giáp Đậu), sáng tác các thể loại như thơ, phú, truyện kí, tự, bạt, khải, biểu, tấu, sớ, nghị luận bằng chữ Hán. Những hội, nhóm văn phái này tuy chưa phải là một trào lưu hay xu hướng lớn, chưa có tuyên ngôn hay cương lĩnh nghệ thuật gì rõ ràng, nhất quán, nhưng cũng có thể coi là "trường phái" văn học sơ khai thời trung đại.

Quảng cáo

Sang thời kì hiện đại (từ dầu thế kỉ XX đến năm 1945), một số tổ chức văn học mang dáng dấp của những trường phái văn học đã xuất hiện. Đầu tiên là Tự lực văn đoàn do nhà văn Nhất Linh thành lập khi ông làm giám đốc tuần báo Phong hóa, có trụ sở tại 80 , phố Quán Thánh, Hà Nội. Tự lực văn đoàn có bảy thành viên chính là Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thế Lữ, Thạch Lam, Tú Mỡ, Xuân Diệu. Ngoài ra, còn có sự cộng tác của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, Nguyễn Công Hoan, Vi Huyền Đắc, Huy Cận, Trọng Lang, Phạm Cao Củng, Trần Tiêu, Đoàn Phú Tứ, Đỗ Đức Thu, Thanh Tịnh, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Tường Bách,...; các hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Cát Tường, Lê Minh Đức,... Hội đoàn ấy chính thức tuyên bố thành lập năm 1934 với một tôn chỉ gồm mười điều, thể hiện bốn phương diện nhận thức về văn học, xã hội, tư tưởng và con ngııời, phản ánh lí tưởng cống hiến cho văn học, góp phần cải tạo xã hội bằng văn học... Tự lực văn đoàn với các hoạt động phong phú (sáng tác văn học, báo chí, xuất bản, trao giải thưởng, hoạt động xã hội) đã có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn học nghệ thuật nói chung và quá trình hiện đại hoá văn học nói riêng. Bên cạnh Tự lực văn đoàn, có thể kể đến "nhóm thơ Bình Định", gồm Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Chế Lan Viên, hoạt động văn học từ năm 1935 đến 1945. Nhóm thơ này do Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Xuân Khai (bút danh ban đầu của Yến Lan) sáng lập, về sau có sự hưởng ứng của Bích Khê, Hoàng Diệp, Quỳnh Dao,... Ngoài ra, Nữ Lưu thư quán Gò Công do Phan Thị Bạch Vân sáng lập, có sự tham gia của Á Nam Trần Tuấn Khải và Đạm Phương Nữ Sử, với chủ trương duy tân và đề cao nữ quyền, cũng rất đáng chú ý.

Nhìn chung, việc hình thành các trào lưu hay trường phái văn học là một điều bình thường, tất yếu và có những tác dụng tích cực trong một nền văn học phát triển. Vi thông qua các hoạt động văn học phong phú, đa dạng, từ sáng tác đến tiếp nhận, từ nghiên cứu lí luận, phê bình đến tổ chức xuất bản, các nhà văn sẽ được nâng cao hiểu biết, có cơ hội học hỏi, chia sẻ kiến thức, kĩ năng viết văn, và trên hết là hình thành tính chuyên nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp, từ đó góp phần nâng cao chất lượng tác phẩm và phát huy được sức mạnh của văn học trong đời sống. Theo các nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương, "Trong văn học nghệ thuật, trào lưu, trường phái cũng cần thiết như trong khoa học. Đó là con đường để có thể huy động nhiều người, nhiều thế hệ cùng tiếp sức, cùng suy nghĩ, nhằm đi đến cùng, triển khai đầy đủ một hoặc một số quan niệm, tư tưởng, sáng kiến về khoa học, nghệ thuật".Và các nhà văn, khi "tán thành một trào lưu trường phái, cũng tức là tự nguyện chọn một "mũi nhọn" để phát triển, để tập trung nỗ lực vào đó". Tất nhiên, sự tồn tại của các trào lưu, trường phái văn học cũng có biểu hiện tiêu cực nếu các nhà văn ở các trường phái khác nhau không đấu tranh, tranh luận vì sự nghiệp văn học chung hay làm sáng tỏ các chân lí mà bài bác nhau vì những lợi ích riêng của nhóm.

2. Phong cách sáng tác của một trường phái văn học

Phong cách sáng tác của một trường phái văn học là thuật ngữ chỉ nét đặc trưng, tiêu biểu, độc đáo trong các sáng tác của một trường phái văn học. Nét đặc trưng này phải thể hiện một cách phổ biến, được lặp đi lặp lại qua nhiều tác phẩm văn học cụ thể của các tác giả, giúp người đọc nhận ra sự khác nhau giữa các trường phái văn học và sự khác nhau giữa các nhà văn thuộc trường phái này với các nhà văn thuộc trường phái khác. Chẳng hạn: Đặc điểm chung của trường phái văn học (thơ ca) lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 là sự giải phóng về tình cảm, cảm xúc của cái "tôi" trữ tình. Các nhà văn, nhà thơ lãng mạn thường đắm mình trong cái "tôi" cá nhân khép kín. Họ yêu nước nhưng cảm thấy cô đơn, bất lực. Vì thế, họ thường tìm đến các đề tài về thiên nhiên, tỉnh yêu và tôn giáo để vừa né tránh thực tại bi kịch vừa kín đáo gửi gắm tình cảm yêu nước của mình. Theo cảm hứng này, những hình ảnh thường thấy trong thơ ca lãng mạn là: "cánh chim chiều", "cồn nhỏ đìu hiu", "chuyến / bến đò vắng khách", "rặng liễu ven hồ buồn bã",... Trong khi đó, trường phái văn học (thơ ca) cách mạng lại cho thấy một cái "tôi" mới trong sự gắn bó với mọi người, nhất là những số phận cần lao. Khác với giọng thơ buồn của thơ ca lãng mạn, thơ ca cách mạng có một giọng điệu trẻ trung, sôi nổi, tràn đầy nhiệt huyết. Với niềm lạc quan hướng về tương lai tươi sáng, các tác phẩm của trào lưu văn học cách mạng tràn đầy những hình ảnh về lí tưởng, về tương lai như: "Mặt Trời chân lí", "ngày mai", "bình minh", "vườn xuân",...

Phong cách sáng tác của một trường phái văn học được thể hiện rõ ở các nhà văn, nhà thơ tiêu biểu cho trường phái đó. Ví dụ: Ở Việt Nam, Xuân Diệu được coi là thi sĩ tiêu biểu của trường phái văn học (thơ ca) lãng mạn chủ nghĩa. Thơ Xuân Diệu là tiếng nói của một cái "tôi" cá nhân yêu đời, yêu sống cuồng nhiệt, say đắm. Nhiều bài thơ của ông là khúc hoan ca về tình yêu tuổi trẻ, tình yêu nam nữ. Vượt lên trên hiện thực còn nhiều những đau buồn, Xuân Diệu luôn nhìn đời bằng "cặp mắt xanh non" của một cây bút lãng mạn và ở đó thi nhân dường như quên hết thực tại xung quanh, chỉ còn tình yêu đôi lứa với những đam mê, say đắm:

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh ri;

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này aâyy khúc tình si

(Vội vàng)

hay:

Trời cao trêu nhử chén xanh êm

Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm

Nên lúc môi ta kề miệng thắm

Trời ơi, ta muốn uống hồn em!

(Vô biên)

Câu hỏi 1 (trang 60 sách Chuyên đề học tập Ngữ văn 12 – Cánh diều):  Thế nào là trường phái văn học? Sự xuất hiện của trường phái văn học có tác dụng tích cực nào đối với sự phát triển của nền văn học?

Trả lời:

- Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “trường phái văn học thường dùng để chỉ trào lưu văn học”. Đó là một phong trào sáng tác với các tác giả và tác phẩm cụ thể, gắn liền với những đặc điểm chung về nội dung, tư tưởng, quan niệm thẩm mĩ và hình thức nghệ thuật. 

- Sự xuất hiện của trường phái văn học có tác dụng tích cực trong một nền văn học phát triển. Thông qua các hoạt động văn học phong phú, đa dạng, từ sáng tác đến tiếp nhận, từ nghiên cứu lí luận, phê bình đến tổ chức xuất bản, các nhà văn sẽ được nâng cao hiểu biết, có cơ hội học hỏi, chia sẻ kiến thức, kĩ năng viết văn, và trên hết là hình thành tính chuyên nghiệp trong hoạt động nghề nghiệp, từ đó góp phần nâng cao chất lượng tác phẩm và phát huy được sức mạnh của văn học trong đời sống.

Câu hỏi 2 (trang 60 sách Chuyên đề học tập Ngữ văn 12 – Cánh diều):  Phong cách sáng tác của một trường phái văn học là gì? Phân biệt phong cách sáng tác của một trường phái văn học với phong cách nghệ thuật của nhà văn.

Trả lời:

- Phong cách sáng tác của một trường phái văn học là thuật ngữ chỉ nét đặc trưng, tiêu biểu, độc đáo trong các sáng tác của một trường phái văn học. 

- Phân biệt: 

+ Phong cách sáng tác của một trường phái văn học: Thể hiện một cách phổ biến và được lặp đi lặp lại qua nhiều tác phẩm văn học cụ thể của các tác giả, giúp người đọc nhận ra sự khác nhau giữa các trường phái văn học và sự khác nhau giữa các nhà văn thuộc trường phái này với các nhà văn thuộc trường phái khác.

+ Phong cách nghệ thuật của nhà văn: Mỗi nhà văn có phong cách tạo ra cho mình một thế giới nghệ thuật riêng. Thế giới nghệ thuật ấy dù phong phú, đa dạng thế nào vẫn có tính thống nhất. Phong cách bao gồm những đặc điểm độc đáo của các tác phẩm của một nhà văn từ nội dung đến hình thức. Nó nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn.

=> Phong cách sáng tác của một trường phái văn học bao gồm nhiều phong cách nghệ thuật của nhiều nhà văn khác nhau có chung nét đặc trưng. Nét đặc trưng đó được phổ biến trong nhiều tác phẩm văn học giúp độc giả dễ dàng nhận ra sự khác nhau giữa các trường phái văn học và sự khác nhau giữa các nhà văn thuộc trường phái này với các nhà văn thuộc trường phái khác. Trong khi đó, phong cách nghệ thuật của nhà văn nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác, thế giới nghệ thuật riêng của một nhà văn.

Câu hỏi 3 (trang 60 sách Chuyên đề học tập Ngữ văn 12 – Cánh diều):  Hãy xác định một số tác giả có cùng phong cách sáng tác lãng mạn như Xuân Diệu và giải thích sự lựa chọn của em.

Trả lời:

- Một số tác giả có cùng phong cách sáng tác lãng mạn như Xuân Diệu là:

+ Xuân Quỳnh: Xuân Quỳnh và Xuân Diệu là hai tác giả thường được nhắc đến cùng với những bài thơ tình hay. Sáng tác của Xuân Quỳnh và Xuân Diệu đều giống nhau ở giọng thơ nồng nàn, da diết và đều có chung tâm trạng lo lắng, cuống quýt trong tình yêu.

+ Thế Lữ: Sáng tác của Xuân Diệu và Thế Lữ đều thể hiện rất rõ cho khát vọng giải phóng cá tính, bỏ hết ràng buộc, cởi mở, thả lỏng. Thế giới như thế nào thì lòng họ sẽ xúc động theo mọi cung bậc của thế giới, họ đón nhận tất cả, lắng nghe tất cả để tự làm giàu mình.

Ví dụ:

Bài thơ Cảm xúc – Xuân Diệu:

“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió

Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây

...

Sao lại trách người thơ tình lơi lả?”

Và bài thơ Cây đàn muôn điệu – Thế Lữ:

“Tôi là kẻ bộ hành phiêu lãng

Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi:

...

Lấy Thánh Sắc trần gian làm tài liệu.”

Tham khảo các bài soạn Chuyên đề Văn 12 Chuyên đề 3: Tìm hiểu phong cách sáng tác của một trường phát văn học hay khác:

Xem thêm các bài Soạn Chuyên đề học tập Ngữ văn 12 Cánh diều hay, chi tiết khác:

Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 12 hay khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 12

Bộ giáo án, đề thi, bài giảng powerpoint, khóa học dành cho các thầy cô và học sinh lớp 12, đẩy đủ các bộ sách cánh diều, kết nối tri thức, chân trời sáng tạo tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên