Top 20 Giới thiệu và phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo

Tổng hợp trên 20 đoạn văn giới thiệu và phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Top 20 Giới thiệu và phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo

Quảng cáo

Giới thiệu và phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo - mẫu 1

“Nhật kí trong tù” của Hồ Chí Minh là tập thơ ghi lại cảm xúc trong chuỗi ngày bị giam hãm ở nhà lao Trung Quốc. Đọc thơ của Hồ Chí Minh, người đọc nhận ra những dòng cảm xúc rất bình dị, đời thường. “Mộ” là một bài thơ như vậy, tái diễn lại một khoảnh khắc khi sắp kết thúc một ngày, là chiều tối.

Bài thơ “Mộ” ghi lại khoảnh khắc mà Hồ Chí Minh đi từ nhà lao Thiên Bảo đến Long Tuyền vào năm 1942. Cảm hứng chủ đạo chính là bức tranh và phông nền của thiên nhiên lúc về chiều, khi hoàng hôn sắp buông xuống. Phải thật tinh tế, sâu sắc, Hồ Chí Minh mới có thể diễn tả một cách đắc điệu nhịp sống nhẹ nhàng nơi núi rừng như vậy.

Quảng cáo

Nguyên tác của bài thơ như sau:

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

Hai câu thơ đầu như một nét vẽ chấm phá tạo khiến cho cảnh bầu trời về chiều hiện lên rõ nét và mang một nỗi buồn man mác:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Tầng mây trôi nhẹ giữa tầng không

Nỗi buồn như loang nhẹ, lan ra cả hai câu thơ khiến cho giọng thơ trở nên chùng xuống và tâm sự của tác giả dường như đẩy lên cao. Cánh chim khi chiều tà cũng trở nên “mỏi” đi tìm chốn ngủ. Một cánh chim đơn lẻ, đi lạc giữa rộng dài của bầu trời khiến người đọc có cảm giác như Hồ CHí Minh đang liên tưởng đến cuộc sống của người hiện tại. Cảnh tù đày bí bách, kìm hãm khiến Hồ Chí Minh khát khao có được một nơi chốn bình yên và ấm áp nhất để tìm về.

Quảng cáo

Hình ảnh “tầng mây trôi nhẹ” diễn tả sự vận động nhẹ nhàng, tinh tế của thiên nhiên đất trời. Nhịp thơ trở nên chậm, rất chậm và có lẽ lòng người cũng đang chậm.

Chỉ với hai câu thơ cũng đủ để cho người đọc nhận ra được khát khao muốn được như tầng mây đó, cứ trôi đi, không phụ thuộc, không phải chịu cảnh gông tù.

Thiên nhiên trong thơ Hồ Chí Minh luôn hiện lên nhẹ nhàng nhưng chất chứa nỗi niềm như vậy.

Đến hai câu thơ sau dường như bừng lên một tia sáng và thấy thấp thoáng bóng dáng con người:

Cô em xóm núi xây ngôi tối
Xay hết lò than đã rực hồng

Mặc dù phần dịch thơ không thực sự bám sát và lột tả hết được tâm trạng cũng như con người trong bức tranh mang màu sắc vừa cổ điển vừa hiện đại này.

Quảng cáo

Chỉ bằng một nét vẽ tinh tế tác giả đã vẽ lên bức tranh bình dị của cuộc sống người dân nơi chân núi. Hành động “xay ngô” dường như là việc làm thường ngày của con người ở đây. Tuy bình dị nhưng ấm áp và tràn đầy tin yêu. Có thể nói trong cảnh gông cùm như thế này, Hồ Chí Minh rất khao khát có được một nơi để trở về bình dị như thế này.

Đến câu thơ cuối, người đọc nhận ra một sự chuyển động rất nhẹ và một nét sáng bừng lên cả bài thơ. Khi cô gái vùng sơn cước xây hết ngô thì lò than đã rực hồng. Một sự chuyển tiếp nhẹ nhàng, đều đặn hằng ngày. Giữa vùng núi hoang lạnh, khi mặt trời tắt, hoàng hôn loang xuống hình ảnh “lò than” hiện lên dường như làm sáng cả không gian và ấm áp trái tim Người. Có thể nói việc xây dựng hình ảnh cô em xóm núi và lò than dường như là một nỗi niềm thầm kín của tác giá. Đó là hiện thân của một mái ấm gia đình hạnh phúc, chứa chan yêu thương, và đó cũng chính là lòng mong mỏi của Hồ Chí Minh.

Bài thơ “Mộ” của Hồ Chí Minh là bài thơ vừa mang màu sắc cổ điển vừa mang màu sắc hiện đại đã mang đến dấu ấn riêng, đặc trưng. Bài thơ chính là tâm sự, là ước muốn nhỏ nhoi có thể thoát khỏi chốn gông cùm, mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.

Giới thiệu và phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo - mẫu 2

Thanh Hải một trong những cây bút lớn, có vai trò quan trọng gây dựng văn hóa cách mạng miền Nam trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông thường mang phong cách nhẹ nhàng, đậm chất trữ tình với tình yêu quê hương tha thiết.

Tác phẩm Mùa xuân nho nhỏ là kết tinh nghệ thuật trong đời thơ của ông. Bài thơ thể hiện tình yêu cuộc sống, gắn bó với đất nước, với cuộc đời và nguyện ước chân thành của tác giả muốn được cống hiến cho đời, góp một mùa xuân nho nhỏ vào mùa xuân lớn của dân tộc.

Ngay từ nhan đề tác phẩm đã thể hiện tài năng sáng tạo độc đáo của Thanh Hải đồng thời cũng bộc lộ tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Danh từ mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian vô hình, không đong đếm, đo lường được nhưng dưới con mắt của thi nhân với trường liên tưởng độc đáo kết hợp với từ nho nhỏ đã khiến cho một khái niệm vốn trừu tượng trở nên hữu hình.

Đồng thời hình ảnh ẩn dụ này còn tượng trưng cho những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất trong cuộc đời mỗi con người. Qua đó tác giả bộc lộ quan điểm, sự thống nhất giữa cái riêng với cái chung, giữa cá nhân với cộng đồng. Ngoài ra, nhan đề còn thể hiện ước muốn chân thành, tha thiết của tác giả: muốn làm một mùa xuân nho nhỏ, nghĩa là muốn sống một cuộc đời tươi đẹp, có ý nghĩa và giúp ích cho đời, cho đất nước.

Cách đặt nhan đề đã làm sâu sắc thêm chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Khổ thơ đầu mở ra khung cảnh mùa xuân vô cùng đẹp đẽ, đặc trưng nhất của không gian xứ Huế mơ mộng:

“Mọc giữa dòng sông xanh

Một bông hoa tím biếc”

Không gian mùa xuân cao rộng, bao la của dòng sông – mặt đất – bầu trời gợi ra trước mắt người đọc, không gian ấy cho thấy sự thanh bình, yên ả. Cùng với đó là sự phối hợp hài hòa của sắc màu thiên nhiên: màu xanh mênh mông của dòng sông làm nền cho màu hoa tím biếc thơ mộng – một sắc màu tươi sáng, dịu dàng rất đặc trưng của xứ Huế.

Thanh Hải cũng thật tinh tế và tài tình khi đảo động từ “mọc” lên đầu câu, việc đảo trật tự như vậy càng nhấn mạnh vào sự xuấ Thanh Hải một trong những cây bút lớn, có vai trò quan trọng gây dựng văn hóa cách mạng miền Nam trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông thường mang phong cách nhẹ nhàng, đậm chất trữ tình với tình yêu quê hương tha thiết.      

Đứng trước vẻ đẹp mùa xuân tác giả không thể kìm nén cảm xúc của bản thân mà cất lên tiếng gọi đầy tha thiết: “Ơi con chim chiền chiện/ Hót chi mà vang trời”. Chỉ một chữ “ơi” thôi đã cho thấy niềm xúc động, vui sướng mãnh liệt của nhà thơ trước thiên nhiên vạn vật, bởi vậy, ngay lúc đó đã diễn ra một cuộc trò chuyện thật gần gũi và thân mật giữa con người và thiên nhiên.

Cảm xúc của nhà thơ không chỉ dừng lại ở đó, sự say sưa, yêu mến còn được thể hiện trong động tác đầy trân trọng, nâng niu: “Từng giọt long lanh rơi/ Tôi đưa tay tôi hứng”. Hình ảnh “giọt” là hình ảnh đa nghĩa, ta có thể hiểu đó là giọt mưa xuân, cũng có thể hiểu là giọt âm thanh của tiếng chim chiền chiện. Câu thơ mang đến những hình ảnh mới lạ, đầy tính tạo hình. Có thể thấy rằng chỉ bằng vài nét phác họa rất đơn sơ nhưng Thanh Hải đã vẽ ra bức tranh xứ Huế đầy mơ mộng, tươi đẹp và tràn đầy nhựa sống.

Từ mùa xuân của thiên nhiên tác giả dâng trào của xúc trước của xuân của đất nước. Hai câu thơ đầu tạo ra những hình ảnh sóng đôi đặc sắc: “người cầm súng” “người ra đồng” tượng trưng cho hai nhiệm vụ chiến đấu và xây dựng đất nước. Cùng với đó là hình ảnh “lộc”, mỗi chữ “lộc” lại mang những ý nghĩa khác nhau. “Lộc giắt đầy trên lưng” trước hết mang ý nghĩa tả thực là chồi non, ngoài ra còn biểu tượng cho sức sống mùa xuân, cho những thành quả tốt đẹp.

Cũng bởi vậy, khi những người chiến sĩ khi ra trận khoác trên mình chiếc lá ngụy trang như mang sức sống của toàn dân tộc trên vai với một niềm tin, niềm lạc quan vào tương lai chiến thắng của toàn dân tộc. Hình ảnh “lộc” phía sau lại tượng trưng cho sự ấm no, hạnh phúc, được mùa dưới bàn tay của những người nông dân. Tất cả những yếu tố đó đã cho thấy khí thế, nghị lực của con người trên mặt trận bảo vệ tổ quốc và xây dựng của cuộc sống mới.

Hai câu thơ cuối diễn tả cái náo nức, xôn xao của con người. Ấy là không khí lên đường nhộn nhịp, khẩn trương, liên tục không ngừng cùng với đó là tâm trạng háo hức, hăng say. Cả khổ thơ dạt dào niềm vui, như lời cổ vũ, động viên con người lên đường, hòa vào nhịp chung của dân tộc.

Sang đến khổ thơ thứ ba, ta không còn thấy niềm vui trước mùa xuân dân tộc mà thay vào đó là những cảm nhận, suy tư của tác giả về lịch sử đất nước mình. “Đất nước bốn nghìn năm / Vất vả và gian lao” cho thấy những thử thách, khó khăn mà dân tộc ta phải trải qua trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Thế nhưng trước những khó khăn chồng chất ấy ta vẫn “đi lên” một cách bản lĩnh, kiên cường. “Đất nước như vì sao/ Cứ đi lên phía trước” là hình ảnh so sánh đẹp đẽ đem đến cho người đọc những ý nghĩa khác nhau. Câu thơ là lời khẳng định về sự trường tồn mãi mãi của dân tộc ta trước mọi khó khăn, thử thách. Ở câu thơ tiếp, ba chữ “cứ đi lên” như một lời khẳng định chắc nịch về tương lai tươi sáng của toàn dân tộc. Khổ thơ bộc lộ niềm tự hào, tin tưởng vào sự bền bỉ của đất nước và khí thế đi lên của dân tộc.

Những khổ thơ cuối cùng của bài là nguyện ước chân thành, tha thiết của nhà thơ cho cuộc đời. Tác phẩm ra đời trước lúc tác giả mất không lâu, khiến ta càng thêm trân trọng những nguyện ước giản dị mà đẹp đẽ của ông. Tác giả ước làm con chim để đem niềm vui cho cuộc đời, làm cành hoa đem hương sắc cho cuộc sống.

Đáng quý hơn, ông nguyện làm một nốt trầm trong bản hòa ca. Nốt trầm xao xuyến ấy làm xúc động, gây ám ảnh trong lòng người. Trong khổ thơ có sự chuyển đổi từ “tôi” sang “ta” – đại từ vừa diễn tả số ít, vừa diễn tả số nhiều giúp tác giả vừa thể hiện cái riêng nhưng đồng thời cũng thể hiện cái chung. Qua sự biến đổi đại từ ấy cho thấy đây không chỉ là khát vọng riêng của tác giả mà còn là nguyện ước chung của tất cả mọi người.

Ước nguyện cống hiến tha thiết, chân thành càng được thể hiện rõ hơn qua hình ảnh: “Một mùa xuân nho nhỏ/ Lặng lẽ dâng cho đời” cho thấy thái độ sống, cống hiến lặng lẽ, khiêm nhường nhưng lại vô cùng mãnh liệt, bền bỉ. Đây là cách sống cao đẹp, chân thành mà vô cùng dung dị. Hình ảnh hoán dụ “tuổi hai mươi, tóc bạc” nói lên sự thống nhất trong quá trình cống hiến của nhà thơ: dù là khi còn trẻ, tràn đầy nhựa sống hay khi tóc đã bạc thì trách nhiệm ấy vẫn không hề thay đổi.

Khổ thơ cuối cùng bộc lộ niềm tự hào, yêu mến đất nước của tác giả qua làn điệu dân ca xứ Huế. Bài thơ kết lại bằng làn điệu dân ca xứ Huế thiết tha cho thấy tấm lòng của tác giả trước quê hương, đất nước. Để tạo nên thành công của tác phẩm, Thanh Hải đã vận dụng tài tình thể thơ năm chữ, giàu nhạc điệu.

Kết hợp với cách gieo vần linh hoạt, gieo vần liền giữa các khổ thơ tạo nên sự liền mạch cảm xúc cho tác phẩm. Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, tự nhiên, giản dị, trong sáng mà cũng hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa. Cảm xúc, giọng điệu nhà thơ chân thành, tha thiết.

Bài thơ đã tái hiện thành công vẻ đẹp của mùa xuân đất nước tươi sáng, tràn đầy nhựa sống bằng giọng văn tha thiết, đầy tự hào. Nhưng đằng sau những câu thơ ấy còn cho thấy lẽ sống đẹp đẽ, cao cả của nhà thơ: nguyện cống hiến tất cả cuộc đời mình cho đất nước, quê hương. Tấm lòng, tình cảm ấy thật đáng ngưỡng mộ và trân trọng.

Giới thiệu và phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo - mẫu 3

Trong văn học Nhật Bản, thơ hai-cư chiếm một vị trí khá quan trọng. Thể thơ này ra đời và phát triển rộng rãi trong thời kì Phục hưng văn học thế kỷ XVII - XVIII và song hành với đời sống văn hóa Nhật. Lúc đầu thơ hai-cư bắt nguồn từ các thể thơ ca truyền thống như trường ca, hòa ca, đoản ca... Sau đó một phần của bài thơ trong các thể thơ này tách ra độc lập và tồn tại một thời gian dài không có tên gọi chính thức, đến khi nhà thơ Shiki (1867-1902) gọi đó là thơ hai-cư vào những năm cuối thế kỷ XIX rồi nó tồn tại cho đến ngày nay.

Đặc điểm nổi bật nhất của thơ hai-cư là ở cấu trúc ngắn gọn với 17 âm tiết (nguyên bản tiếng Nhật, khi phiên âm la tinh hay dịch sang tiếng Việt thì số âm tiết này có thể thay đổi), được sắp xếp theo thứ tự 5-7-5. Bỡi quy định về cấu tứ ngắn gọn nên người làm thơ phải chọn lựa, chắt lọc những từ ngữ cô đọng tinh túy để diễn tả tâm trạng của mình khi viết về thiên nhiên, con người, tôn giáo hay các triết lí của tự nhiên...

Trong vườn thơ Nhật Bản, thơ hai-cư gắn liền với các tên tuổi tiêu biểu như: Buson, Chora, Chigô, Kikaku, Ba-sô.... Lần đầu tiên thơ hai-cư được đưa vào chương trình sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 ở nhà trường phổ thông nước ta với một số bài thơ tiêu biểu của nhà thơ Ba-sô. Mặc dù nằm ở phần đọc thêm nhưng sách giáo khoa và sách giáo viên đã có một hệ thống câu hỏi hướng dẫn tìm hiểu bài khá rõ ràng.

Tuy nhiên, người viết bài này qua bước đầu tìm hiểu cũng có một cách hiểu, một vài điều muốn trao đổi cùng quý đồng nghiệp gần xa. Cũng cần nói thêm, người viết không có tham vọng trình bày như một bài soạn giảng mà chỉ chú trọng đến một số đặc điểm nghệ thuật của các tác phẩm như một nét chấm phá đơn sơ, mong rằng sẽ nhận được nhiều góp ý đáng kể. Ngoài những ý chính về nghệ thuật được các soạn giả trình bày trong sách giáo viên như: thủ pháp tượng trưng, chất triết lí, cảm thức thẩm mỹ, ngôn ngữ; thơ hai-cư còn có những đặc điểm nghệ thuật nổi bậc sau.

Ở hầu hết 8 bài thơ in trong sách giáo khoa, bước đầu tìm hiểu sơ bộ ta thấy lộ lên một số điểm chung, mà tiêu biểu là nghệ thuật sử dụng thủ pháp tương phản, đối lập giữa các cặp phạm trù: vũ trụ - con người, vô hạn - hữu hạn, không gian - thời gian, hữu hình - vô hình, có - không, đen - trắng, tĩnh - động, tối - sáng, nhất thời - vĩnh hằng... Chính sự tương phản đối lập đó nhà thơ đã làm nổi bậc một cách cụ thể những vấn đề được nói đến trong thơ, và đây cũng chính là một cách giải mã khám phá bài thơ theo một hướng thi pháp riêng.

Từ một cuộc hành trình trở về quê hương sau mười năm xa cách, cảm nhận chính nỗi lòng mình với quê hương, về những điều được mất trong cuộc đời, nhà thơ Ba-sô viết:

Đất khách mười mùa sương

về thăm quê ngoảnh lại

Ê-đô là cố hương.

Bằng trải nghiệm cũng như cảm nhận trong cuộc đời ở khoảng thời gian mười năm xa quê, nhà thơ khắc họa trước mắt chúng ta hai vùng đất khác nhau, hai khoảng không gian, thời gian xa vời; đất khách và quê hương, xưa và nay. Trước cái vô hạn của không gian thời gian ta bắt gặp cái hữu hạn trong cuộc sống con người khi tuổi mỗi ngày một qua đi, sự gắn bó với quê hương mỗi ngày một ngắn lại, từ đó nhà thơ cảm thấy yêu cuộc sống này hơn và "ngộ" ra một điều đâu cũng là quê hương. Ê-đô là cố hương.

Như vậy trước cái hữu hình rộng lớn, nhà thơ biến thành cái vô hình nhỏ bé trong lòng tự mình biết để cảm nhận và diễn tả trải dài tình cảm nỗi niềm của mình đối với quê hương và đất nước. Bài thơ ngắn gọn còn là một triết lí sâu sắc trong quy luật tình cảm của con người với bất cứ nơi đâu khi bước chân mình đã qua, dù ngắn hay dài thì chuỗi thời gian ấy khó vơi trong mỗi chúng ta, một lúc nào đó chợt nhớ mình lại cảm thấy day dứt xót xa như còn mang một món nợ lớn trong đời.

Một lần ngang qua cách rừng, nghe tiếng vượn hú não nề, nhà thơ nghĩ đến tiếng khóc của những em bé bị bỏ rơi trong khu rừng, ông viết:

Tiếng vượn hú não nề

hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc

gió mùa thu tái tê.

Bài thơ được cảm nhận bắt đầu từ giác quan thính giác. Tai nghe tiếng vượn hú rồi nhà thơ liên tưởng đến một điều có tính chất bức thiết trong cuộc sống con người( hay tiếng trẻ bị bỏ rơi). Đây không phải là sự chuyển đổi giữa nghe và nghĩ mà là một sự chuyển động giữa động và tĩnh: âm thanh bên ngoài, tiếng lòng sâu lắng của nhà thơ.

Hai chi tiết tiếng vượn hú và tiếng trẻ bị bỏ rơi giữa cơn gió mùa thu tạo cho người đọc cảm nhận được một bức tranh trong bài thơ vừa thật vừa ảo. Cái ảo là khoảng âm thanh không rõ ràng trong nhất thời, cái thực là chính là tiếng lòng của con người với thời cuộc nhân sinh tồn tại vĩnh hằng trong cuộc đời vốn có nhiều điều chưa nói hết. Bài thơ giản dị trong sáng nhưng ý nghiã tư tưởng lại vượt ra ngoài lớp vỏ ngôn từ chật hẹp gò bó khô khan. Một lần khi mùa xuân đến, cảm nhận cánh hoa đào rơi lả tả bên hồ Bi-oa, nhà thơ viết.

Từ bốn phương trời xa

cánh hoa đào lả tả

gợn sóng hồ Bi-oa.

Bút pháp trong bài thơ thể hiện trước hết là ở sự tương phản đôí lập giữa không gian vũ trụ bao la (bốn phương trời xa) với những cái gì nhỏ bé hạn hữu trong đời sống thường ngày (cánh hoa rơi, mặt hồ gợn sóng). Nghệ thuật bài thơ còn thể hiện ở bút pháp động và tĩnh, giữa sáng tối, không gian và thời gian, thiên nhiên và con người... Người đọc cảm nhận một bức tranh non nước thiên nhiên hữu tình tinh tế có pha chút thiền tông phật giáo. Bài thơ còn thể hiện một triết lí tương giao giữu sự vật hiện tượng với vũ trụ làm cho hồn thơ nhẹ nhàng bay bổng lay tận chiều sâu trái tim người đọc. Có thể dẫn một bài thơ hai-cư khác của Ba-sô cũng tương tự.

Trên cành khô

cánh quạ đậu

đêm thu.

Cả ba sự vật: con quạ, cành cây khô, đêm thu đã có sự đối lập tạo nên một khung cảnh thật ảm đạm. Con quạ đậu trên cành cây khô trụi lá vào đêm thu đã cuốn hút con người vào cõi mông lung tàn tạ. Mặt khác bài thơ không chỉ là nỗi buồn mà còn là sự tương phản giữa màu đen con quạ nhỏ xíu và màng đêm bao la hiu quạnh, con người cảm thấy nhỏ bé trước không gian rộng lớn bao la...

Thơ hai-cư chỉ là những nét chấm phá đơn giản, mạch logic của bài thơ có nhiều khoảng trống tạo sự liên tưởng cảm nhận ở người đọc. Chất liệu và đối tượng được đề cập trong thơ cũng không có gì cao xa lạ lẫm mà chỉ bình thường như : thiên nhiên con người, trăng tuyết hoa chim vượn khỉ, còn có cả bùn đất cỏ cây...Khi nghe tiếng chim đỗ quyên nhà thơ giật mình

Chim đỗ quyên hót

ở kinh đô

mà nhớ kinh đô.

Tiếng chim là tín hiệu gợi nhớ của lòng người trong thơ ca từ xưa đến nay. Cũng thế, Ba-sô một lần nghe tiếng chim để rồi khoảng trống trong lòng lại ùa về như một kí ức day dứt khó quên. Điều dễ nói cũng là điều khó nói, thế mà nhà thơ đã thốt thành lời. Ở đây ý thơ chưa diễn đạt hết mọi cung bậc đến tận chiều sâu tâm hồn nhưng khoảng lặng đã làm cho lòng ta tự hỏi tiếng chim hay tiếng lòng của nhà thơ? Chủ thể trữ tình bị xóa nhòa, ranh giới giữa quê hương và con người được bắt cầu bằng tiếng chim đỗ quyên trong mùa hè, dưới chiếc cầu đó là dòng sông lòng cuồn cuộn chở bao nhiêu phù sa bồi đắp cho quê hương.

Từ chất liệu đơn giản, ý thơ bộc phát, sự liên tưởng của nhà thơ có tính chất nhân văn hướng về đồng loại cộng đồng dân tộc hay những vấn đề lớn lao trong tư tưởng tình cảm của con người.

Mưa đông giăng đầy trời

chú khỉ con thầm ước

có một chiếc áo tơi.

Rõ ràng ước muốn của chú khỉ trong bài thơ hoàn toàn do chủ quan nhà thơ nghĩ giúp. Dó là sự tưởng tượng khi đang nhìn thấy chú khỉ ngồi ướt nhem bên vệ rừng khi nhà thơ đi qua. Chú khỉ đơn độc cũng là hình ảnh của người nông dân, những trẻ em Nhật trong cơn mưa đông lạnh lẽo. Nốt lặng của bài thơ được thể hiện qua những hình ảnh đơn sơ mộc mạc, là tấm lòng của con người với những sinh vật bé nhỏ tội nghiệp và đó cũng chính là lòng yêu thương đối với những người nghèo khổ.

Nhà thơ Chiyô viết

A! Hoa Asagaô

dây gàu vương hoa bên giếng

đành xin nước nhà bên.

Ta thấy chất liệu cấu tứ hình ảnh bài thơ vô cùng đơn giản. Ẩn đằng sau từng âm tiết là sự ý thức nhạy cảm, là tấm lòng của nhà thơ trước sự lung linh kỳ diệu của những cánh hoa trong một buổi sớm tinh mơ. Nhà thơ không muốn làm tan biến cái đẹp (Đành xin nước nhà bên) âu cũng là điều dễ hiểu, bỡi thiên nhiên đẹp, con người nâng niu và trân trọng cái đẹp trong cuộc sống vốn là một điều không lạ trong thơ ca truyền thống Á Đông. Bài thơ còn là một thông điệp gửi đến mọi người, mong mọi người hãy nâng niu cái đẹp ngay chính bên cạnh mình.

Trong thơ hai-cư ngoài một số bài có những cụm từ quý ngữ (từ chỉ mùa) cụ thể như hoa đào - mùa xuân, tiếng ve - mùa hè... còn có nhiều bài không có. Những bài này chỉ có một số từ ngữ gợi mùa như: mù sương trong bài số 1 gợi mùa thu, chim đỗ quyên trong bài số 2 gợi nhớ mùa hè, cánh đồng hoang vu bài 8 gợi nhớ mùa đông... Nhận xét về thơ hai-cư Nhật Bản, nhà thơ Tagor (Ấn Độ) cho rằng, trong thơ hai-cư "nhà thơ chỉ giới thiệu đề tài rồi bước nhanh sang một bên". Như vậy những từ này có khi được coi là đề tài, là điểm sáng, "là con mắt" để khám phá nội dung và nghệ thuật của bài thơ. Chỉ vài nét chấm phá thời gian, nguời đọc có thể nắm bắt đề tài, tạo sự liên tưởng một cách dễ dàng.

Vắng lặng u trầm

thấm sâu vào đá

tiếng ve ngâm.

Tiếng ve ngâm là mùa hè, tiếng ve ngâm lại thường diễn ra vào buổi chiều nên ta dễ dàng nhận ra nội dung của bài thơ là tiếng ve im ắng cất lên trước cảnh đá vật nơi cửa thiền trong một buổi chiều chưa tắt nắng gợi cho con người một nỗi lòng u tịch mênh mông, lúc đó con người có thể ngộ ra một điều gì trong cuộc sống cho riêng mình. Nghệ thuật của bài thơ là sức gợi, là tính liên tưởng, là phương pháp suy luận. Nghệ thuật bài thơ cũng là tiếng nói, là nỗi lòng, là tâm tư tình cảm con người gửi gắm với công chúng yêu thơ hôn nay và mai sau...

Đã nhiều thế kỉ trôi qua nhưng tôi tin chắc rằng thơ hai-cư Nhật Bản mãi mãi sẽ là một viên ngọc quý ở xứ sở “mặt trời mọc” với công chúng yêu thơ.

Xem thêm các bài Soạn văn 11 Kết nối tri thức hay nhất, ngắn gọn khác:

Tủ sách VIETJACK shopee lớp 10-11 cho học sinh và giáo viên (cả 3 bộ sách):

Săn shopee siêu SALE :

CHỈ CÒN 250K 1 KHÓA HỌC BẤT KÌ, VIETJACK HỖ TRỢ DỊCH COVID

Đăng ký khóa học tốt 11 dành cho teen 2k4 tại khoahoc.vietjack.com

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Tài liệu giáo viên