(20+ mẫu) Giới thiệu về một tác phẩm văn học Bình Ngô đại cáo (cực hay)
Tổng hợp trên 20 bài văn Giới thiệu về một tác phẩm văn học Bình Ngô đại cáo hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Giới thiệu về một tác phẩm văn học Bình Ngô đại cáo (mẫu 1)
- Giới thiệu về một tác phẩm văn học Bình Ngô đại cáo (mẫu 2)
- Giới thiệu về một tác phẩm văn học Bình Ngô đại cáo (mẫu 3)
- Giới thiệu về một tác phẩm văn học Bình Ngô đại cáo (mẫu 4)
- Giới thiệu về một tác phẩm văn học Bình Ngô đại cáo (mẫu 5)
- Giới thiệu về một tác phẩm văn học Bình Ngô đại cáo (mẫu 6)
(20+ mẫu) Giới thiệu về tác phẩm Bình Ngô đại cáo (cực hay)
Giới thiệu về tác phẩm Bình Ngô đại cáo - mẫu 1
Sinh thời Nguyễn Trãi được biết đến là một trong những nhà nho yêu nước lỗi lạc, một vị quân sư đã góp phần không nhỏ làm nên chiến thắng vang dội của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Nhắc đến ông là nhắc đến một danh nhân văn hóa thế giới đã để lại cho đời cả một kho tàng văn học đồ sộ, trong đó dáng chú ý nhất phải kể đến “Đại Cáo Bình Ngô”. Được so sánh như một áng thiên cổ hùng văn một bản tuyên ngôn độc lập khẳng định chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, mở ra một triều đại huy hoàng trong lịch sử dân tộc.
Nguyễn Trãi sinh năm 1380 mất năm 1442 hiệu là Ức Trai quê tại làng Chi Ngại (Chí Linh - Hải Dương) sau dời về Nhị Khê nay thuộc Thường Tín - Hà Tây cũ. Thân sinh ra ông là cụ Nguyễn Ứng Long một nhà nho nghèo hiếu học đã từng đỗ tiến sĩ. Còn mẹ của nhà thơ là Trần Thị Thái - con quan tư đồ. Tuổi thơ của ông trải qua rất nhiều tai ương và đau thương tuy nhiên ông vẫn vươn lên trở thành một trong những nhà yêu nước lỗi lạc. Đó cũng chính là truyền thống của gia đình ông. Sau này khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nổ ra do Lê Lợi đứng đầu, ông đã một lòng phò tá Lê Lợi dành chiến thắng vẻ vang cho dân tộc. Sau khi khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng ông đã thừa lệnh Lê Lợi soạn nên bản Đại Cáo Bình Ngô. Đây được xem như một áng thiên cổ hùng văn không chỉ mang ý nghĩa lịch sử mà nó còn được ví như một bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc.
Đại cáo Bình Ngô được Nguyễn Trãi sáng tác vào cuối năm 1427 đầu năm 1428 để tổng kết về cuộc kháng chiến chống quân Minh. Đồng thời cũng tuyên bố kết thúc 20 năm đô hộ của giặc Minh và 10 năm diệt thù của ta dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi đã kết thúc thắng lợi. Nó mở ra cho dân tộc ta một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của độc lập tự do và hòa bình.
Cáo là một thể loại văn nghị luận có từ thời cổ đại Trung Quốc thường được vua chúa hay dùng để trình bày chủ trương, tuyên ngôn cho mọi người cùng biết. Nó mang dấu ấn của một sự kiện trọng đại có tính chất quốc gia. Chính vì thế Bình Ngô Đại Cáo được xem như một văn bản mang tính chất như một bản tuyên ngôn độc lập thể hiện luận điểm chính nghĩa là tư tưởng nhân đạo sâu sắc mà cốt lõi là tình yêu thương con người.
Mở đầu đoạn cáo Nguyễn Trãi đã đưa ra một lí lẽ đanh thép, một triết lí nhân sinh được đúc kết từ bao đời:
“Từng nghe việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Nguyễn Trãi đề cao giá trị của tình người. Một nền chính trị để được lâu bền thì không có cách nào khác là nó phải phục vụ mục đích cảo cả đó là vì nhân dân. Bởi “dễ trăm lần không dân cũng khó/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Cái tài tình của Nguyễn Trãi ở đây đó chính là dùng biện pháp so sáng và câu văn biền ngẫu sóng đôi thể hiện được tư duy cực nhạy bén của một nhà lãnh đạo tài ba.
Sau khi đưa ra một quan điểm triết lí nhân sinh nhà thơ đã lột trần tội ác của quân giặc:
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ...”
Chỉ bằng ngần ấy câu chữ nhà thơ đã phần nào cho thấy hết được tội ác thiên cổ mà quân giặc mang đến cho người dân nước Nam. Bằng lối nghệ thuật phóng đại lấy cái vô hạn của tự nhiên để nhấn mạnh cái vô hạn của tội ác nhà thơ đã vô cùng thành công khi đưa ra phần thực quá xuất sắc.
Và như một lẽ thường “áp bức có đấu tranh” khi tội ác đã quá giới hạn và sức chịu đựng thì khởi nghĩa ắt sẽ nổ ra. Hình ảnh Lê Lợi một con người vô cùng bình thường mang trong mình hoài bão lớn lao cùng với tình đoàn kết một lòng của nhân dân đã làm nên một cuộc chiến vĩ đại cho cả dân tộc. Giọng văn mang tính chất nhanh, dồn dập kết hợp với những động từ mạnh, câu văn dài ngắn linh hoạt.... phần nào thể hiện ý chí căm thù giặc sâu sắc và tinh thần quả cảm của cả dân tộc.
Chiến tranh kết thúc cũng là lúc một kỉ nguyên mới được mở ra cho dân tộc. Giọng văn mang âm điệu nhẹ nhàng thư thái, hả hê và tuyên bố nền độc lập mà ta dành được là hoàn toàn xứng đáng. Nhà thơ rút ra một bài học kinh nghiệm lớn lao cho nhân dân cũng đồng thời là một lời “dạy dỗ” cho quân giặc. Chủ quyền Đại Việt là không bao giờ bị lung lay và không ai có thể xâm lấn.
Có thể nói Đại Cáo Bình Ngô chính là một áng thiên cổ hùng văn đại diện cho cả dân tộc. Dù trải qua bao nhiêu biến động lịch sử, bao nhiêu thế kỉ trôi qua nó vẫn giữ nguyên giá trị là một áng văn chính luận mẫu mực. Thể hiện một sự tài hoa, lỗi lạc của Nguyễn Trãi - danh nhân văn hóa của thế giới.
Giới thiệu về tác phẩm Bình Ngô đại cáo - mẫu 2
Để lại cho đời một kho tàng văn học Việt Nam, những tác phẩm quý giá, đặc sắc cho nghệ thuật văn chương, khi nhắc đến Đại Cáo Bình Ngô, người đời lại nhớ đến văn hào–bậc đại anh hùng dân tộc đó là nhà thơ lớn Nguyễn Trãi
Ông sinh năm 1380 mất năm 1442, hiệu là Ức Trai, quê gốc ở làng Chi Ngại sau dời về Nhị Khê. Thân sinh là Nguyễn Ứng Long- một nho sinh nghèo, học giỏi, đổ Tiến sĩ. Mẹ là Trần Thị Thái – Con quan tư đồ. Tuổi thơ của Nguyễn Trãi có rất nhiều tai ương và cực khổ song ông vẫn một lòng tận trung vì tổ quốc, điều đó đã trở thành truyền thống của gia đình ông: yêu nước, văn hóa và văn học, Và cũng vì lòng yêu nước ấy, khi khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng, ông thừa lệnh Lê Lợi viết Đại Cáo Bình Ngô, từ đó ông đã gửi 1 phần lời bình của bản thân về tác phẩm ấy.
Cuối năm 1427 Nguyễn Trãi viết bài Cáo và đọc vào đầu 1428 trước toàn dân để báo với mọi người biết về sự việc chống Minh. Điều đó chứng tỏ chiến tranh đã kết thúc 20 năm đô hộ của giặc minh và kết thúc 10 năm diệt thù của quân dân ta mà Nguyễn Trãi đã đề cập đến. Hơn thế nữa, sự việc ấy đã mở ra một kỉ nguyên mới, bắt đầu một cuộc sống độc lập hòa bình của dân tộc và đất nước Đại Việt.
Khi nói đến Cáo, Cáo là một thể văn nghị luận có từ thời cổ Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dung để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn cho mọi người cùng biết, mang ý nghĩa như một sự kiện trọng đãi, có tình chất quốc gia. Chính thế, tác phẩm Đại Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi có ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập.
Đại Cáo Bình Ngô mang ý nghĩa như một bản tuyên ngôn độc lập. thể hiện được luận đề của chính nghĩa là ở đây: tư tưởng nhân nghĩa theo quan niệm nho giáo, nó là mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lí mà ‘’ cốt ở yêu dân’’ trong câu:
"Từng nghe,
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo’’
Từ đó, ta hiểu được Nguyễn Trãi đã khẳng định rằng: “lấy dân làm gốc, làm cho dân được sống yên lành hạnh phúc.’’. Nghệ thuật của ông đưa ra đó là biện pháp so sánh, câu văn biền ngẫu song đôi mang cốt cách của nhà chính trị tài ba.
Bài Cáo của Nguyễn Trãi đã vạch trần được tội ác của kẻ thù:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế
Nặng thuế khóa…
Vét sản vật, bắt chim trả…’’
Chỉ một vài tội ác như thế cũng đủ lên áng bọn giặc Minh. Ý ở đây, Nguyễn Trãi đã sử dụng biện pháp nói lên tội ác tày trời của giặc Minh: Nghệ thuật phóng đãi, lấy cái vô hạn vô cùng của tự nhiên để nhấn mạnh cái vô hạn vô cùng của tội ác, hủy hoại cuộc sống của con người bằng cách diệt chủng.
Nếu như nói tội ác của giặc Minh là vô hạn thì nước Đại Việt ta nổi dậy có cuộc khởi nghĩa Lam Sơn để chống lại quân thù. Hình ảnh Lê Lợi là một con người tuy bình thường nhưng có ý tưởng hoài bão lớn lao cùng với sự đoàn kết một long của nhân dân ta đã làm nên sự tất thắng. Qua đó, ta thấy được hình tượng ngôn từ thật màu sắc, có âm thanh, nhịp điệu mang đặc điểm của bút pháp anh hùng ca, hình tượng phong phú đa dạng, đo bằng sự kì vĩ lớn rộng của thiên nhiên cùng với động từ mạnh, chuyển dồn dập, dữ dội động từ và tính từ chỉ mức độ, khi thế chiến thắng của ta, sự thất bại của địch, câu văn dài ngắn biến hóa linh hoạt.
Kết thúc chiến tranh, mở ra một kỉ nguyên hòa bình: giọng văn thư thái, nhẹ nhàng, hả hê và sự tuyên bố nền độc lập dân tộc được thống nhất, rút ra bài học kinh nghiệm cho dân ta và bài học “dạy bảo” cho địch, sự kết hợp tinh tế giữa sức mạnh truyền thống và sức mạnh thời đại “trên dưới một lòng”, quyết tâm của nhân dân xây dựng nền thái bình vững chắc.
Tóm lại Đại Cáo Bình Ngô mạng nội dụng trong quan niệm nho gia hầu như không có, đây là tư tưởng tiến bộ của chân lí khách quan về sự tồn tại độc lập có chủ quyền của nước Đại Việt, ranh giới, địa phận – lãnh thổ, phong tục tập quán, có lịch sử riêng, chế độ riêng với nhân tài phong kiến, những thực tế khách quan mà Nguyễn Trãi đưa ra là chân lí không thể phủ nhận, lột tả tính chất tự nhiên, lâu đời của nước Đại Việt.
Trải qua bao cuộc đấu tranh cũng như những trang lịch sử được vạch ra, ý nghĩa nhất là cuộc khời nghĩa Lam sơn chứng minh được sử tài ba của Lê Lợi và văn hào Nguyễn Trãi. Ông là người có nổi oan thảm khốc nhất trong lịch sử dân tộc, là một nhân vật lịch sử vĩ đại tiêu biểu trong quá khứ – một bậc đại anh hung dân tộc – nhân vật toàn tài hiếm có. Từ Đại Cáo Bình Ngô, Nguyễn Trãi gợi tả bút pháp đặc sắc làm cho tôi cảm thấy tự hào, học hỏi được bởi lòng yêu nước, lòng đoàn kết của dân tộc ta qua bao nhiêu năm tháng kháng chiến giàn độc lập. Nếu là người Việt Nam thì thật tiếc cho những ai đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam mà không biết đến nhà chính trị tài ba Nguyễn Trãi.
Nước Việt Nam ta từ lâu đã nổi tiếng thế giới với lịch sử dân tộc hào hùng với biết bao nhà quân sự nổi tiếng như Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Huệ, Võ Nguyên Giáp… Không chỉ đánh giặc giỏi mà người Việt Nam còn đóng góp cho nhân loại nhiều nhà tư tưởng, nhiều nhà văn hoá lớn tầm cỡ thế giới. Và người đầu tiên trong lịch sử thế giới cố gắng tìm kiếm và đã đưa ra được một định nghĩa dân tộc "tương đối có hệ thống và toàn diện" không ai hết đó chính là Nguyễn Trãi – một con người Việt Nam. Ngoài việc là một nhà quân sự, chính trị, một nhà ngoại giao tài ba lỗi lạc, ông còn là một nhà văn kiệt xuất, là người có công đầu trong việc phát triển nền văn hoá, văn học dân tộc. Và nếu như người ta lấy Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ là những dấu mốc đánh dấu chặng đường phát triển của chủ nghĩa yêu nước trong văn học thời kỳ trung đại thì phải đến Đại cáo bình ngô của Nguyễn Trãi, ý thức độc lập chủ quyền, quan hệ gắn bó giữa nước và dân, vấn đề nhân nghĩa mới thực sự phát triển rực rỡ.
Nguyễn Trãi (1380 – 1442), quê ở Hà Tây, là một tài năng lỗi lạc hiếm có. Đại cáo bình Ngô là bài cáo ông viết bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428, thay lời Bình Định vương Lê Lợi để tuyên cáo kết thúc cuộc kháng chiến chống Minh, giành lại độc lập cho Đại Việt. Với Đại cáo bình Ngô, ông đã thật sự khai sáng cho nên văn học tiếng Việt. Bài Cáo có kết cấu gồm ba phần, viết bằng thể văn biền ngẫu, không những mang tính chính luận trang trọng mà còn có lập luận sắc bén, chặt chẽ, giàu sức thuyết phục. Chính vì vậy, tác phẩm được người đương thời, ngay cả hậu thế, đều rất thán phục và coi là “thiên cổ hùng văn”, là lời tổng kết đầy xúc động về cuộc kháng chiến anh dũng chống quân Minh xâm lược.
Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của Đại cáo bình Ngô, là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa. Mở đầu bài cáo cũng nói về tư tưởng nhân nghĩa. Quan niệm về dân tộc của ông đã vượt xa Nho giáo để tiếp cận đến những tri thức hoàn toàn mới. Nó được nâng lên thành lý tưởng cao cả mà suốt đời ông quyết tâm theo đuổi, đó là chiến đầu vì dân, vì yên dân mà phải quyết tâm trừ bạo. Rõ ràng, Nguyễn Trãi đã đem đạo đức của mình đặt vào giữa lòng chiến tranh. Ông khẳng định một cách khoan thai, chặt chẽ về tư cách độc lập, bình đẳng của dân tộc. Nước ta là một đất nước có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, có phong tục tập quán riêng, cũng có hào kiệt và chế độ vua như bất kì một quốc gia độc lập tự chủ nào. Đọc áng văn trên, có thể thấy Nguyễn Trãi đã tiến một bước dài trong việc tìm kiếm khái niệm dân tộc, làm cơ sở cho cuộc đấu tranh chống xâm lược. Quan niệm đó được hình thành trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, là cơ sở cho lý luận về dân tộc độc lập và quốc gia có chủ quyền. Nếu như ở Lý Thường Kiệt, quan niệm về chủ quyền của quốc gia còn khoác cái vỏ thần bí và trừu tượng của “sách trời” thì lập luận của Nguyễn Trãi trong bài nay lại càng thuyết phục hơn bởi ông nói có sách mách có chứng, tất cả những điều ông nói ở đây đều đã được chứng minh qua lịch sử. Những quan niệm của Nguyễn Trãi trong bài Cáo đều xuất phát từ chính thực tiễn kế thừa phát triển của truyền thống yêu nước, phù hợp với đạo đức truyền thống và hoàn cảnh lịch sử đương thời. Nguyên lý chính nghĩa, chân lý độc lập và chủ quyền của dân tộc đã được Nguyễn Trãi đúc kết ở đây, cũng như ông đã rút ra một điều rằng, không có gì có thể thay đổi lòng tự hào dân tộc.
Năm 1407, nhà Minh sai Trương Phụ, Mộc Thạnh mang mấy chục vạn quân kéo sang xâm lược nước ta. Lúc đầu thì lấy cớ "phù Trần diệt Hồ", nhưng sau đó, chúng đã chia cắt đất nước ta thành quận, huyện, thi hành một chính sách cai trị vô cùng độc ác. Chính vì vậy, nối tiếp mạch thơ hùng hồn, Nguyễn Trãi đã viết nên “bản cáo trạng” về tội ác khủng khiếp của giặc Minh trong suốt 20 năm trên mảnh đất Đại Việt. Đằng sau những hành động dã man, mưu mô xảo quyệt, là bộ mặt ghê tỏm lũ ác ôn, bầy quỷ sứ phương Bắc đang hoành hành trên xương máu, nước mắt, trên tính mạng và tài sản nhân dân ta. Ông đã vạch trần âm mưu xâm lược của giặc một cách cô đọng và hàm súc qua sự kết hợp giữa những hình ảnh mang tính khái quát với những hình ảnh có tính cụ thể, sinh động. Giọng văn tuy rất tỉnh táo khi kể về tội ác của giặc, nhưng vẫn bộc lên cảm xúc đau nhói đến tận tâm can của một con người hết mực yêu nước thương dân. Đó còn là kết quả của sự suy ngẫm, của những phút giây thao thức, trăn trở "Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông", của những thể nghiệm, những mất mát lớn lao, thậm chí phải đổi bằng máu của biết bao “dân đen, con đỏ”. Trước cảnh nước mất nhà tan, Nguyễn Trãi đã thoát khỏi tư tưởng trung hiếu nhỏ hẹp, đặt lòng yêu nước thương dân đó lên trên tất cả.
Ý thức dân tộc của nhân dân ta đã phát triển trên một tầm cao mới trong thế kỉ XV, và đó cũng là tinh anh, tinh hoa của tư tưởng Nguyễn Trãi. Cách kể tội, luận tội đặc sắc chỉ trong một số câu văn biền ngẫu linh hoạt nhưng đây thực sự là một bản án đanh thép, đẫm máu và nước mắt.
Từ khi kháng chiến bùng nổ đến khi kết thúc thắng lợi, đó là cả một quá trình gian nan vất vả khi tướng, quân sĩ và nhân dân cùng nhau đồng sức đồng lòng chiến đấu. Đoạn tiếp theo của Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trãi đã tuần tự giới thiệu từng bước tiến của cuộc chiến, từ những khó khăn ban đầu, những thuận lợi cơ bản cũng như bức tranh toàn cảnh giữa quân ta và quân giặc. Ngay từ ngày đầu kháng chiến, quân ta đã gặp không ít khó khăn: nhân tài hiếm hoi, lương khố cạn kiệt, hoàn cảnh ngặt nghèo nhưng nổi bật trong đó là hình ảnh người anh hùng áo vải Lê Lợi và tinh thần quyết tâm vượt qua khó khăn để tiến hành kháng chiến của quân và dân ta. Nguyễn Trãi suốt đời gắn bó với nhân dân, ở ông, tổ quốc và nhân dân là một không chỉ có mối liên hệ tình cảm sâu sắc mà ông còn nhận thức được một sức mạnh to lớn đang lan toả khắp trái tim của nhân dân, đó chính là lòng yêu nước. Chính lòng yêu nước, ý chí khắc phục gian nan và tinh thần đoàn kết đã tạo nên những thuận lợi cơ bản, làm cơ sở để cuộc kháng chiến dẫn đến thành công. Rõ ràng Nguyễn Trãi đã nhìn nhận một cách bao quát nhưng thấu đáo về tiềm năng của cuộc kháng chiến. Và bằng một giọng văn nhanh, mạnh, gấp gáp như một bản anh hùng ca, Nguyễn Trãi đã góp phần khắc sâu thêm nguyên nhân dẫn đến chiến thắng oanh liệt của ta và nguy cơ thất bại thảm hại của kẻ thù.
Đoạn thơ cuối cùng là lời tuyên bố, khẳng định nền hòa bình độc lập của dân tộc. Giọng thơ của Nguyễn Trãi dàn trải, hùng hồn càng tô đậm thêm cho cái “chính nghĩa” của lập trường “chính nghĩa” trong con người ông. Lời tuyên bố trang nghiêm, trịnh trọng về nền độc lập dân tộc đủ cho thấy Nguyễn Trãi rất tự hào vì những gì mà cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã giành được. Không những thế, ở ông còn toát lên niềm tin và quyết tâm xây dựng một đất nước thái bình, thịnh trị. Bởi đất nước có yên bình thì nhân dân mới được ấm no. Tấm lòng ông luôn canh cánh tâm niệm một điều vì nhân dân, ông quan niệm phải luôn lo trước điều thiên hạ lo, vui sau cái vui của thiên hạ. Cũng bởi yêu thương nhân dân, tôn trọng và biết ơn nhân dân nên khi đã làm quan rất lớn của triều đình, Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống cuộc sống giản dị, cần kiệm liêm chính. Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi kết thúc một cách hoành tráng, thật là một bản Tuyên ngôn độc lập hào hùng của dân tộc.
Thật tiếc rằng với một tầm cao trí tuệ vượt trước thời đại, với tấm lòng nhân nghĩa hiếm có như vậy nhưng Nguyễn Trãi lại phải chịu một thảm án đau đớn nhất trong lịch sử dân tộc. Nhưng nhân dân và lịch sử luôn công bằng, nhà Lê sau đó đã tìm cách tẩy oan cho Nguyễn Trãi. Tài năng, đức độ và những cống hiến của Nguyễn Trãi với triều đại và dân tộc mãi mãi được nhân dân ghi ơn, cũng như bản hùng ca Đại cáo bình Ngô Văn chính luận như "Bình Ngô Đại Cáo" thì hùng hồn, đanh thép, sắc sảo, đúng là tiếng nói của một dân tộc bất khuất, anh hùng.
Giới thiệu về tác phẩm Bình Ngô đại cáo - mẫu 3
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà quân sự tài ba của dân tộc mà ông còn là nhà thơ, nhà văn chính luận kiệt xuất của nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đặc biệt, nhắc tới những áng văn chính luận của Nguyễn Trãi chúng ta không thể nào không nhắc tới “Bình Ngô đại cáo” - một tác phẩm được Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết sau cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Tác phẩm đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc và được xem là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được viết theo thể cáo - một thể loại văn học cổ có nguồn gốc từ Trung Quốc với bố cục, kết cấu chặt chẽ. Mở đầu bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã nêu lên luận đề chính nghĩa làm nền tảng tư tưởng cho toàn bộ bài cáo của mình.
Từng nghe: việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Chỉ với hai câu mở đầu bài cáo của mình, tác giả đã nêu lên tư tưởng xuyên suốt bài cáo đó chính là nhân nghĩa - một phạm trù tư tưởng có nguồn gốc từ Nho giáo, dùng để thể hiện cách ứng xử và những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Và với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa đó bắt nguồn từ tư tưởng “yên dân”, “trừ bạo’. Có thể nói, đây chính là cơ sở nền tảng xuyên suốt bài cáo, xuất phát từ quan điểm lấy dân làm gốc, từ lòng yêu thương nhân dân và vì nhân dân mà diệt bạo, mà đánh đuổi các thế lực xâm lược. Đồng thời, cũng trong phần mở đầu của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi còn nêu lên những chân lí độc lập khách quan, làm sơ sở lí luận vững chắc để khẳng định độc lập dân tộc cũng như nêu lên tư tưởng của bài cáo.
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Dù mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng dường như tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực và rõ nét những truyền thống vẻ vang từ ngàn đời nay của dân tộc. Trước hơn hết, nước ta có một nền văn hiến, phong tục Bắc Nam từ ngàn đời nay. Đồng thời, nước ta còn là nước có bờ cõi, lãnh thổ riêng, được mọi người thừa nhận. Đặc biệt hơn cả, thông qua việc so sánh các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phong kiến phương Bắc, tác giả đã đặt các triều đại của ta, dân tộc ta ngang hàng với các triều đại phong kiến phương Bắc, điều đó không chỉ là cơ sở cho nền độc lập mà còn thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc của tác giả Nguyễn Trãi. Không dừng lại ở đó, để nêu lên chân lí khách quan cho nền độc lập của nước ta, tác giả còn tái hiện lại những trang sử vẻ vang, hào hùng với những chiếc thắng vang dội khắp non sông của quân và dân ta trong suốt chặng đường lịch sử trước đó.
Lưu Công tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cớ còn ghi.
Thêm vào đó, từ cơ sở luận đề chính nghĩa đã nêu, trong phần tiếp theo của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã đi sâu vạch rõ những tội trạng man rợ, gian ác của kẻ thủ. Trước hết, tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh đối với nước ta.
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Như vậy, chỉ với bốn câu văn song tác giả đã vạch rõ cho người đọc âm mưu xâm lược của giặc Minh. Quân Minh đã lợi dụng tình hình rối ren ở trong nước ta dưới thời nhà Hồ, với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ”, bọn chúng đã tiến vào và thực hiện âm mưu xâm lược nước ta. Hơn thế nữa, không chỉ vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh, tác giả Nguyễn Trãi còn tố cáo, vạch rõ những hành động, những tội ác dã man của bọn giặc trên hầu khắp tất cả các lĩnh vực bằng những hình ảnh, những từ ngữ độc đáo. Tội ác đầu tiên của giặc Minh đã được tác giả Nguyễn Trãi kể ra đó chính là tàn sát, giết hại những người dân vô tội.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Với nghệ thuật đảo ngữ cùng với việc sử dụng những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng, tác giả đã vạch rõ hành động giết người mạn rợ, tàn ác của giặc. Ngay đến cả những “dân đen’, “con đỏ” - những người vô tội, chúng cũng không nương tay. Tất cả những điều đó đã cho thấy hành vi giết người không ghê tay của bọn giặc. Thêm vào đó, chúng còn tàn sát những người dân vô tội bằng cách đẩy những người dân đen kia vào những nơi rừng thiêng, nước độc với đầy rẫy những hiểm nguy, những nơi mà khi đã bước vào đấy sẽ không biết có ngày trở lại hay không.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc.
Đồng thời, tội ác của bọn giặc còn được thể hiện ở những chính sách thuế khóa nặng nề và hết sức vô lí cùng với những chính sách hủy hoại môi trường sống, cảnh quan tự nhiên, tiêu diệt sự sống của vạn vật trên đất nước ta.
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi
....
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới giăng
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt
Tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ.
Như vậy, với hàng loạt các hình ảnh chân thực, giàu tính biểu tượng, đoạn hai của bài cáo như một bản cáo trạng đanh thép mà ở đó, tác giả Nguyễn Trãi đã vạch rõ những tội ác, những hành động man rợ, ghê người của bọn giặc minh xâm lược. Và để rồi, tất cả những tội ác ấy được tác giả khái quát lại trong câu thơ giàu tính khái quát và biểu tượng. Đồng thời, qua những lời thơ ấy cũng giúp chúng ta thấy được thái độ căm phẫn đến tột cùng của tác giả.
Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Độc ác thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?
Không chỉ dừng lại ở vạch rõ những tội ác của kẻ thù, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi còn tái hiện lại một cách chân thực và sâu sắc quá trình kháng chiến và giành chiến thắng của quân và dân ta. Mở đầu cho đoạn văn chính là hình ảnh vị chủ tướng, người anh hùng Lê Lợi:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Đại từ “ta” đặt ở đầu đoạn văn như một lời khẳng định, thể hiện rõ lai lịch, nguồn gốc, lai lịch, xuất thân của người anh hùng Lê Lợi. Xuất thân từ nhân dân, nên chắc có lẽ hơn ai hết Lê Lợi hiểu được những nhọc nhằn và cả sự căm phẫn, lòng căm thù giặc sâu sắc của nhân dân ta - “căm thù giặc thề không cùng chung sống”. Nhưng người anh hùng ấy không chỉ có lòng căm thù giặc sâu sắc mà còn mang trong mình bao nỗi niềm suy tư, trăn trở, đến nỗi “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”, “quên ăn vì giận” để suy tính con đường đánh đuổi quân xâm lược và cuối cùng người anh hùng ấy đã dấy binh khởi nghĩa, mang theo trong mình tất cả niềm tin và một con đường đấu tranh kiên định, góp phần đi đến thắng lợi cuối cùng của quân và dân ta. Song, không dừng lại ở việc tái hiện chân dung vị chủ tướng Lê Lợi, đoạn ba của bài cáo còn tái hiện lại những khó khăn, gian khổ và cả những chiến thắng vang dội của quân và dân ta. Trước hết, trong buổi đầu khởi nghĩa, nghĩa quân của ta gặp phải muôn vàn những khó khăn, thử thách cả về nhân lực và vật lực. Đó là những ngày quân giặc còn rất mạnh, nhân tài của ta còn nhiều hạn chế, “nhân tài như lá mùa thu”, “việc bôn tẩu lại thiếu kẻ đỡ đần”,... Thế nhưng, với tất cả ý chí, lòng quyết tâm và với một đường lối đấu tranh đúng đắn, kiên định “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn”, “lấy chí nhân để thay cường bạo”, nghĩa quân của ta đã vượt qua muôn vàn những khó khăn thử thách ấy để đạt được nhiều thắng lợi vang dội. Tác giả đã kết thúc đoạn ba của bài cáo với một giọng văn đầy từ hào khi tái hiện lại những thắng lợi vẻ vang, liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược. Mở đầu của những chiến công ấy là chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, rồi đến cả vùng Trần Trí, Sơn Thọ, Lí An,... và hàng loạt, hàng loạt những chiến thắng cứ thế liên tiếp nhau diễn ra.
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn.
Như vậy, trong phần ba của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân thực và sâu sắc hình tướng vị chủ tướng Lê Lợi cùng những khó khăn mà nghĩa quân của ta gặp phải trong buổi đầu kháng chiến và đặc biệt hơn cả là những chiến thắng vang dội của quân và dân ta trong cuộc chiến đầy khó khăn ấy. Đặc biệt, sau khi chiến thắng, nghĩa quân của ta còn cấp ngựa, thuyền và lương thực cho bọn giặc để chúng con đường lui. Những hành động này của quân ta thêm một lần nữa chứng minh cho tư tưởng, luận đề chính nghĩa mà nghĩa quân của ta trọn đời theo đuổi. Và để rồi, trên cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn đã được nêu lên, phần cuối của bài cáo chính là lời tuyên bố độc lập, hòa bình cho dân tộc.
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
…
Xa gần bá cáo
Ai nấy đều hay
Với giọng văn hùng hồn, đanh thép, lời tuyên ngôn của Nguyễn Trãi được tuyên bố rộng rãi tới tất cả mọi người. Lời tuyên ngôn ấy không chỉ là lời khẳng định về nền độc lập, hòa bình, thống nhất của dân tộc mà qua đó còn thể hiện thái độ ngợi ca và niềm tin vào một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn của đất nước, của dân tộc khi bước vào một thời kì mới.
Tóm lại, “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi không chỉ là một văn kiện lịch sử mà nó còn là một áng văn chính luận sâu sắc với sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố chính luận và yếu tố trữ tình. Trải qua chiều dài phát triển của lịch sử dân tộc nhưng giá trị, ý nghĩa to lớn của bài cáo vẫn còn vẹn nguyên cho đến ngày hôm nay.
Trên đây chúng tôi đã giới thiệu bài Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo, bên cạnh đó để hiểu hết giá trị của áng bình Ngô, các bạn có thể tham khảo thêm: Cảm nhận bài Bình Ngô đại cáo, Phân tích đoạn 1, 2 Bình Ngô Đại Cáo, Phân tích tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo, Phân tích tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo.
Giới thiệu về tác phẩm Bình Ngô đại cáo - mẫu 4
Không biết mùa xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra đã có mùa xuân đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Hôm qua, hôm nay và ngày mai mốt lại có những vần thơ xuân cho con người, cho cuộc sống. Và hôm qua đã có Hàn Mặc Tử với “Mùa xuân chín” lúc xúc cảm trong con người lữ khách đó đã tới độ tràn đầy.
Nói tới mùa xuân, có người nào ko hiểu đó là những phút rộn rực nhất của cuộc đời, của cuộc sống. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc một vẻ, lúc là “mùa xuân nho nhỏ”, lúc là “mùa xuân xanh”… và đây “Mùa xuân chín” nghe vừa mới, vừa sôi nổi, vừa có một sức sống dồn nén đang thầm nảy nở giống như cái mới, cái lãng mạn và khát khao trong tâm hồn Hàn Mạc Tử.
Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân tính từ lúc cái nắng mới lạ thường:
“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang”.
Đúng là nắng xuân, chẳng phải tia nắng, hạt nắng, chẳng phải giọt nắng nhưng là “làn nắng”. Chữ “làn” như gợi một hơi thở nhẹ nhõm, nắng như mỏng tanh, mềm mại trải đều trong thơ và trong ko gian. Làn nắng lại “ửng” lên trong “khói mơ tan”. Cảnh sắc nhẹ nhõm, đẹp dân dã nhưng huyền diệu. Sương khói quyện với nắng; cái “ửng” của nắng được tôn lên trong làn khói mơ mòng đang “tan” đó. Ngòi bút thi sĩ vẫn hướng tới một nét thơ truyền thống, cổ điển, cảnh như có hồn, như có tình tràn đầy. Trân trọng đón lấy cái nắng mới tinh khiết đó là “Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng’!. Sự hô ứng trong vần thơ tạo ra một xúc cảm ấm áp, cảnh vật tương hợp hài hòa, đầy thơ mộng. Vài nét chấm phá đơn sơ nhưng tinh tế gợi cảm, dung dị nhưng đáng yêu. Chỉ có “đôi mái nhà tranh” hiện lên trong “làn nắng ửng” nhưng vẫn gợi lên một sức sống đang lay động, dân dã bình yên rất thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên “đôi mái nhà tranh” chút sắc xuân và hương xuân: “Sột soạt gió trêu tà áo biếc”. Cái âm thanh của gió “trêu” tà áo và cái gam màu “biếc” của, lá ây là cái tình xuân. Một chữ “trêu” đáng yêu quá, thân yêu quá, có gì như mang hương sắc đồng quê từ những câu ca dao, hát ghẹo tình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi trong lòng ta… Gió cũng chọn áo nhưng “trêu”, phải chọn áo biếc mới thật thơ, thật đẹp. Mùa xuân là như thế, “chín” là như thế!
Từ cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới nói chung: “Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang”. Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng xúc cảm nhẹ nhõm, bâng khuâng, vương vấn đón “bóng xuân sang”, xúc cảm ngưng tụ như nín thở đó ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Mạch thơ ngập ngừng như mạch xúc cảm. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhõm bước… như có thể cầm được, có thể ngắm được ngay trước mắt mỗi chúng ta.
Sau dấu chấm (.), sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn thi sĩ thì mùa xuân ào tới:
“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi”.
Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong ko gian mênh mông, rộng lớn. Hình ảnh ẩn dụ “sóng cỏ” và ba chữ “gợn tới trời” gợi tả làn cỏ xanh dập dờn trong làn gió xuân nhè nhẹ thổi. Chẳng biết ngoài kia là sóng cỏ thật , hay lòng thi sĩ cỏ xanh tươi mới gợn thành “sóng” như thế ? Mùa xuân bao giờ chẳng có màu xanh của cỏ. “Cỏ xanh như khói bến xuân tươi” (Độ đầu xuân thảo lục như yên – Nguyễn Trãi). “Cỏ non xanh tận chân trời” (Nguyễn Du)… Gam màu “xanh tươi” đầy sức sống yên bình đó trong thơ Hàn Mặc Tử cứ gợn tới trời”, trải dài mãi như ko dứt, trải mãi, ngâm vào hồn thơ. Trong sắc xuân đó, tình cảm con người cũng tới độ chín. Tiếng hát giữa mùa xuân thân quen quá, mến thương quá. Một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca, như lễ hội mùa xuân muôn thuở của cái xứ sở này được nói tới qua tiếng hát “vắt vẻo” và “thơ ngây” của những nàng xuân, của bao cô thôn nữ. Câu thơ gợi lên cái “chín” trong hồn bao cô thôn nữ qua âm thanh “vắt vẻo”, trong trẻo, tươi mát của câu hát giao duyên, của trai gái nơi đồng quê, mộc mạc nhưng tình tứ. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cuộc sống thiết tha của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã bắt vào lời hát đó nhiều xao xuyến. Mùa xuân mới thực sự “chín” lúc có con người và có dư vang tiếng hát:
“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với người nào ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”.
Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung, “vắt vẻo” hòa nhịp với âm trầm “hổn hển” trình bày một sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hòa nhập hẳn vào cái toàn cầu âm thanh mùa xuân đó.
Tiếng ca như vút lên cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa “lưng chừng núi”. Dư vang tiếng hát dường như giăng mắc, rung lên “vắt vẻo” gợi lên nhiều xao xuyến bâng khuâng trong lòng thi sĩ. Tiếng hát “hổn hển” được so sánh “với lời của nước mây”, lời của tự nhiên. Hai tiếng “hổn hển” như nhịp thở gấp gáp, vội vã đầy hương xuân, tình xuân, xúc cảm vừa thực vừa mơ tới lạ kì. Lời hát của các cô thôn nữ sao nhưng đáng yêu thế, như hút hồn người, như tràn trề cả ko gian, góp phần làm nên một “mùa xuân chín”. Và còn có tiếng thầm thì “thầm thì với người nào…” dưới bóng trúc, hẳn là tâm tình, là thân yêu rồi. “Vắt vẻo”, “hổn hển”, “thầm thì” là ba cung bậc của ba âm thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu vào hồn người tới nhẹ nhõm lắng dịu, tràn đầy thương yêu. Sự phong phú về nhạc điệu và phức điệu của khúc hát đồng quê, làm say mê mọi người, để rồi cùng thi sĩ bâng khuâng cảm nhận:
“Nghe ra ý vị và thơ ngây…”.
Tiếng hát mùa xuân dân dã, tình tứ và đáng yêu quá, sắc xuân, hương xuân, tình xuân “đang chín” dần trong lòng thôn nữ, bỗng ngập ngừng như có sự hẫng hụt, băn khoăn:
“Ngày mai trong đám xuân xanh đó,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi”.
“Đám xuân xanh đó” là các cô thôn nữ đang hát, đang “thầm thì với người nào ngồi dưới trúc” kia sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ “theo chồng bỏ cuộc chơi… Tự nhiên và lòng người như quyến luyến mùa xuân dần trôi qua, tuổi xuân hồn nhiên dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì trong lòng lúc mùa xuân đang chín… “Xuân đang tới tức là xuân đương qua – Xuân còn non tức là xuân sẽ già” (Xuân Diệu).
Hàn Mặc Tử chính là người lữ khách đi qua mùa xuân gặp cái ý vị của mùa xuân: “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”. Một nét bút truyền thống cổ điển “xuân hướng lão” xen lẫn cái hiện đại, mới mẻ làm cho ý thơ thêm đặm đà hơn.
Gặp lúc mùa xuân chín đó nhưng thổn thức:
“Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị đó năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.
Hình ảnh của kí ức hiện lên một thoáng buồn đẹp và trải rộng mênh mông xa vắng. Thi sĩ nhớ tới con người như khát khao một tình người, một tình quê. Mỗi một nổi nhớ đều rất bâng khuâng. Nhớ một công việc cụ thể: “gánh thóc” trong một ko gian cụ thể: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Chỉ có “chị đó” là người đọc ko thể biết nhưng chỉ có tác giả mới biết để nhưng “sực nhớ”, nhưng thầm hỏi. Nhưng man mác sợ “mùa xuân chín” đó sẽ trôi qua. Hình như đó là néi thơ Hàn Mặc Tử, là tâm hồn Hàn Mặc Tử khát khao giao cảm với đời nhưng luôn có một nỗi niềm lẻ loi, trống vắng, hẫng hụt như thế.
“Mùa xuân chín” là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rộn rực, say mê, thơ mộng nhưng thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử vơi cảm hứng tự nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tỉnh thơ mộng. Mùa xuân đẹp. Con người trẻ trung, hồn nhiên, xinh đẹp, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng, yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát vắt vẻo của những nàng xuân trên “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.
“Mùa xuân chín” lúc thì dạt dào, lúc thì lắng dịu trong tâm hồn thi sĩ. Có lúc vồn vã, có lúc mênh mang, như đang lắng hồn mình vào bước đi của mùa xuân rồi bổi hổi, “sực nhớ… ” và “bâng khuâng”. Cái nhớ bâng khuâng của người lữ khách mãi mãi là tình thương yêu, nỗi khát khao giao cảm với hương sắc và khúc nhạc mùa xuân, với làng quê thân thuộc nơi miền Trung “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”…
Giới thiệu về tác phẩm Bình Ngô đại cáo - mẫu 5
Nguyễn Trãi chính là một trong số những tác giả kiệt xuất đối với nền văn học trung đại Việt Nam, ông đã để lại cho hậu bối rất nhiều tác phẩm kinh điển được viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. Đọc những tác phẩm của ông có thể dễ dàng nhận thấy được tấm lòng yêu thương con người, đất nước da diết, mãnh liệt. "Bình ngô đại cáo" chính là tác phẩm thể hiện trọn vẹn những đức tính tốt đẹp đó của ông.
Tác phẩm được ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, sau khi đánh tan quân xâm lược, Vương Thông đã phải miễn cưỡng giảng hòa và rút quân Minh về nước, nhân dân ta giành lại được độc lập, chủ quyền. Trong hoàn cảnh lịch sử hào hùng ấy, Nguyễn Trãi đã thay mặt vua Lê Lợi để viết tác phẩm "Bình ngô đại cáo" và chính thức công bố với toàn thể quần chúng nhân dân vào đầu năm 1428. Tác phẩm chính là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc ta.
Tác phẩm được Nguyễn Trãi viết bằng thể cáo - một thể loại có nguồn gốc từ Trung Hoa, thường được nhà vua hoặc thủ lĩnh sử dụng để công bố một sự kiện trọng đại của đất nước. Cũng như rất nhiều thể loại văn khác thời cổ, cáo được trình bày rất mạch lạc, rõ ràng, chặt chẽ về kết cấu, lập luận sắc bén và lý lẽ vô cùng thuyết phục. "Bình ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi là một tác phẩm hội tụ đầy đủ rõ nét về những đặc điểm này.
Tác phẩm được chia làm 4 phần với 4 ý nghĩa khác nhau. Đoạn mở đầu bài cáo đã nêu lên luận điểm chính nghĩa để làm cơ sở, nền tảng để triển khai nội dung bài cáo. Luận đề chính nghĩa ấy chính là sự kết hợp hài hòa giữa tư tưởng thân dân với độc lập dân tộc:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Sau khi nêu được luận điểm chính nghĩa để làm cơ sở, trong phần 2, Nguyễn Trãi đã vạch rõ những tội ác vô cùng độc ác, man rợ của kẻ thù phương Bắc. Đó là những hành động sát hại, chà đạp, vùi dập nhân dân ta một cách không thể độc ác hơn. "Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn". Đó là những thứ thuế vô lý, hủy hoại môi trường sống, phá hoại tài nguyên thiên nhiên và sức lao động của người dân Đại Việt. Tất cả những tội ác man rợ đó đã được Nguyễn Trãi khắc họa lên vô cùng chân thực, rõ nét bằng những lời lẽ thuyết phục, sắc bén. Ở phần hai, tác giả còn nêu lên ý chí căm thù, phẫn nộ sâu sắc của nhân dân đối với kẻ thù. Phần 3 Nguyễn Trãi đã tái hiện lại rõ nét quá trình chiến đấu, chinh phạt nhiều gian khổ, khó khăn và tất yếu thắng lợi của nhân dân ta. Ban đầu, cuộc chiến đấu của nghĩa quân Lam Sơn vấp phải vô vàn rào cản, khó khăn, thiếu thốn đủ thứ cả về nhân lực, thực phẩm. Nhưng rồi với ý chí quật cường, sự lãnh đạo tài ba của Lê Lợi, nghĩa quân và toàn thể nhân dân đã thắng lợi không thể vẻ vang hơn trước sự xâm lược của giặc ngoại xâm. Trên cơ sở nêu lên luận đề chính nghĩa, vạch rõ những âm mưu và tội ác man rợ của kẻ thù, quá trình chiến đấu quật cường của dân tộc ta, khép lại đoạn văn chính là lời tuyên bố độc lập, tất yếu thắng lợi của chính nghĩa. Đoạn cuối cùng của bài cáo chính là lời tuyên bố trịnh trọng về việc kết thúc chiến tranh, khẳng định chắc nịch về chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc và niềm tin vào một tương lai tươi sáng, tốt đẹp của đất nước, nhân dân.
Không chỉ dừng lại ở đó, Nguyễn Trãi còn để lại trong lòng người đọc một ấn tượng sâu sắc trong sự thể hiện thành công cả về nội dung và nghệ thuật. Trước hết, bài cáo thành công trong việc kết hợp thích hợp, hài hòa giữa yếu tố chính luận với yếu tố văn chương với nhiều hình ảnh vô cùng chân thật, độc đáo. Thêm vào đó, bài cáo còn được thay đổi giọng điệu vô cùng linh hoạt trong từng phần, phù hợp với nội dung - tự hào về truyền thống tốt đẹp lâu đời của dân tộc, phẫn nộ khi vạch rõ tội ác của kẻ thù, trịnh trọng khẳng định về sự độc lập của dân tộc.
"Bình ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi chính là thiên hùng ca ca ngợi chiến thắng vĩ đại của toàn dân ta trong thế kỷ XV. Tác phẩm vừa có giá trị to lớn về lịch sử lẫn văn học, không chỉ lưu giữ những sự kiện lịch sử quan trọng mà còn góp phần khích lệ tinh thần chiến đấu quật cường, lòng tự hào dân tộc đến thế hệ sau. Nguyễn Trãi chính là một nhà lãnh đạo kiệt xuất, nhà thơ, nhà văn tài ba sẽ mãi mãi được khắc ghi trong tâm trí mỗi người con đất Việt.
Giới thiệu về tác phẩm Bình Ngô đại cáo - mẫu 6
Nguyễn Trãi chính là một thi sĩ lớn của nền văn học Việt Nam. Ông đã để lại cho đời sau biết bao nhiêu tác phẩm chứa giá trị to lớn. "Bình ngô đại cáo" chính là một trong những tác phẩm như vậy, tổng kết quá trình xuất sắc chống giặc ngoại xâm của dân tộc, đồng thời khẳng định chắc chắn về chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc và tinh thần yêu nước quật cường của nhân dân. Với ngòi bút tài hoa và sự nhạy bén trong tính cách, tác phẩm do ông viết đã trở thành một áng "thiên cổ hùng văn".
"Bình ngô đại cáo" được Nguyễn Trãi viết bằng thể cáo - một thể thường được vua chúa, thủ lĩnh sử dụng để thông báo những sự kiện trọng đại của quốc gia, dân tộc. Tác phẩm có một giá trị vô cùng to lớn cả về phương diện lịch sử lẫn văn học. Ông đã thay mặt cho vua Lê Lợi để viết nên tác phẩm vào đầu năm 1428, sau khi nghĩa quân Lam Sơn đã thắng lợi trước sự xâm lược của giặc Minh, giặc đành phải rút về nước, nhân dân ta giành lại được độc lập, chủ quyền.
Chỉ qua nhàn đề tác giả đã cho người đọc thấy rằng đây là bài cáo quan trọng tuyên bố về việc dẹp yên giặc Ngô - một tên gọi mang ý nghĩa khinh bỉ quân Minh. Bài cáo được viết bố cục vô cùng mạch lạc, chặt chẽ, tố cáo tội ác dã man của giặc và khẳng định chắc nịch chủ quyền dân tộc. Chính vì vậy, bài cáo khơi gợi lên những cảm xúc: cảm xúc hào hùng, cảm giác căm thù giặc ngoại xâm, cảm hứng về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, tinh thần quật cường của nhân dân Đại Việt. Bài cáo được chia làm 4 phần, phần 1 nêu lên luận đề chính nghĩa, phần 2 tố cáo tội ác của giặc, vạch trần mưu đồ xâm lược Đại Việt với cớ phù Trần diệt Hồ của giặc. Phần 3 là quá trình gian lao kháng chiến và sự thắng lợi to lớn của khởi nghĩa Lam Sơn. Phần 4 chính là nêu ra bài học lịch sử và sự khẳng định tính tất yếu thắng lợi của chính nghĩa.
Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Trãi đã nêu lên nguyên lý chính nghĩa làm nền tảng, chỗ dựa để triển khai bài cáo. Tiếp thu từ những giá trị tinh hoa của Nho giáo cùng với sự phát triển nội dung nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã nêu lên một luận đề đầy tính dân tộc:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Với Nguyễn Trãi, trừ bạo trước hết là để nhân dân có một cuộc sống hạnh phúc, ấm no. Ông đưa ra quan điểm rằng muốn trị vì thiên hạ thì trước hết phải nghĩ đến "nhân nghĩa". Dân tộc ta chiến đấu với giặc ngoại xâm chính là một dân tộc sống có nhân nghĩa. Sau đó, Nguyễn Trãi đã nêu lên chân lý khách quan tất yếu về sự độc lập của Đại Việt:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Phần 2 - căm thù sự xâm lược của giặc ngoại xâm, Nguyễn Trãi đã thể hiện sự sục sôi, uất ức, viết ra một bản cáo trạng vô cùng đanh thép với một kết cấu logic: vạch trần âm mưu xâm lược, lên án chủ trương cai trị độc áo, tố cáo mạnh mẽ những tội ác. Qua việc phân tích âm mưu xảo trá của giặc, tác giả đã đi sâu những việc làm diệt chủng, phi nhân nghĩa:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Tội ác của chúng khiến cho tác giả không thể sử dụng được từ ngữ nào để đo lường:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi
Phần 3 - tác giả đã khắc họa lại quá trình đất khó khăn, gian nan của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Chính những gian khổ đó đã dẫn đến một kết cục vô cùng có hậu về sau. Cảm hứng anh hùng ca bao trùm xuyên suốt đoạn trích. Những chiến công được miêu tả trong nhịp dồn dập, nhạc điệu trong câu hào hùng:
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông cũng phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông
Phần 4 - Nguyễn Trãi đã không thể giấu đi những cảm xúc vui sướng khi đất nước giành được độc lập, thay lời nhà vua trịnh trọng tuyên bố về sự độc lập bền vững, lâu dài:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Kiền khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh.
Từ đó người đọc thấy được viễn cảnh vô cùng hoành tráng, huy hoàng của non sông xã tắc. Hiện thực hôm nay chính là nhờ những công sức chiến đấu, những ngày tháng vô cùng đau thương của quá khứ.
Bài cáo được Nguyễn Trãi thể hiện thành công cả về nội dung và nghệ thuật. Bên cạnh đó, giọng điệu ở mỗi phần đều được thay đổi phù hợp, khi thì tràn đầy uất ức, căm phẫn, khi thì hừng hực dữ dội. Sự am hiểu sâu sắc của Nguyễn Trãi về lịch sử dân tộc, về điển tích, điển cố đã làm tăng tính hấp dẫn, thuyết mục cho tác phẩm.
"Bình ngô đại cáo" chính là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, vừa khẳng định chủ quyền độc lập vừa tố cáo tội ác dã man của giặc Minh. Đã trải qua bao nhiêu biến cố lịch sử nhưng "Bình ngô đại cáo" vẫn luôn giữ được những giá trị to lớn của nó đến tận hôm nay. Nguyễn Trãi chính là một nhà quân sự tài ba, một nhà lãnh đạo kiệt xuất, nhà thơ, nhà văn tài tình và sẽ mãi mãi được lưu truyền sử sách trên mảnh đất Việt Nam.
Xem thêm các bài Soạn văn 11 Kết nối tri thức hay nhất, ngắn gọn khác:
Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 11 hay khác:
- Soạn văn 11 Kết nối tri thức (hay nhất)
- Soạn văn 11 Kết nối tri thức (ngắn nhất)
- Soạn Chuyên đề Văn 11 Kết nối tri thức
- Giải lớp 11 Kết nối tri thức (các môn học)
- Giải lớp 11 Chân trời sáng tạo (các môn học)
- Giải lớp 11 Cánh diều (các môn học)
Tủ sách VIETJACK shopee lớp 10-11 cho học sinh và giáo viên (cả 3 bộ sách):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Soạn văn 11 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 11 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 11 - KNTT
- Giải Tiếng Anh 11 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 11 Friends Global
- Giải sgk Vật Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 11 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 11 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 11 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 11 - KNTT
- Giải sgk Tin học 11 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 11 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 11 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 11 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 11 - KNTT