Top 20 Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện Vợ nhặt

Tổng hợp các bài phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Top 20 Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện Vợ nhặt

Quảng cáo

Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Vợ nhặt - mẫu 1

Để một tác phẩm văn học trở nên thành công thì cần có rất nhiều yếu tố tác động vào như nội dung, nghệ thuật, cùng các giá trị nhân văn mà nó mang lại. Một trong những yếu tố quan trọng đó chính là cách xây dựng tình huống truyện. Một truyện ngắn muốn hay, cuốn hút người đọc thì phải có được một cốt truyện hấp dẫn. Một trong số ít nhà văn được mệnh danh là bậc thầy trong xây dựng cốt truyện đó chính là Kim Lân. Các tác phẩm của ông đều có những nét riêng biệt, đặc sắc, nội bật trong số đó chính là tác phẩm “Vợ nhặt”. Truyện ngắn phản ánh sự thật về nạn đói những năm 1945 và cuộc sống nghèo khổ của nhân dân thời bấy giờ.

Truyện ngắn nói về nhân vật Tràng, một người dân ngụ cư nghèo khổ sống cùng mẹ. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả Tràng như một sản phẩm vội vàng của tạo hóa “hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra, cái mặt bặm lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú vừa dữ tợn. Cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước, cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch". Quả thực Tràng là một thanh niên rất xấu xí, chả ai thèm ngó ngàng. Chẳng những vậy, cái nghèo, cái đói luôn đeo bám, quẩn quanh hai mẹ con Tràng. Kim Lân đã dùng những từ ngữ chân thật để miêu tả cuộc sống và ngôi nhà mà Tràng đang ở “những búi cỏ dại lổn nhổn”, “đống quần áo rách vắt khươm mươi niên trong một góc nhà”, “hai cái ang nước để khô cong trơ trọi dưới gốc cây ổi”…. Cuộc sống túng thiếu của hai mẹ con hiện lên thật giản dị, tội nghiệp, khiến người khác không khỏi cảm thấy xót thương cho hai số phận. Nhưng điều làm cho Tràng cảm thấy tủi nhục nhất đó chính là mang trong mình cái danh dân ngụ cư, bị dân làng khinh miệt, coi thường.

Quảng cáo

Tuy nghèo đói nhưng chàng vẫn có một công việc để làm, để trông mong, đó chính là phu xe, hàng ngày bốc vác, chở gạo ra các chợ. Công việc thì vất vả, đói khát nhưng quả thật anh ta lúc nào cũng có thể vui vẻ, lạc quan. Giữa trời trưa nắng gắt, phải kéo cả một xe gạo đầy nặng trĩu, nhưng chàng ta vẫn có sức cất lên những câu hò:

“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này

Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”

Những câu hò này không hẳn là có ý trêu ghẹo những cô gái ngồi bên đường, mà chủ yếu để giúp chàng ta quên đi những mệt mỏi, đói khát mà mình đang phải chịu. Ấy vậy mà chỉ bằng vài ba lời hát vu vơ mà khiến Tràng được một người con gái để ý và đi theo đẩy giúp. Tràng là ngưởi hiểu rõ hơn ai hết những gì mà mình hát ở trên không phải là sự thật, làm gì mà có gạo trắng mà ăn chứ nói gì đến giò chả. Để rồi đến khi gặp người con gái ấy lần thứ hai, Tràng đã rất đỗi ngạc nhiên trước sự thay đổi ngoại hình của Thị “Thị hôm nay rách quá, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ trơ lại hai con mắt”.

Quả thực Thị đã gầy đi rất nhiều, có lẽ vì đói, vì khát mà cơ thể con người Thị đã bị tàn phá nhanh đến như vậy. Thị chạy đến sưng sỉa trước mặt Tràng “Điêu! người thế mà điêu”, mới đầu hắn ta chẳng hiểu gì nhưng rồi một lúc cũng ngộ ra rồi mời Thị đi ăn “thích ăn gì thì ăn”. Thị ta chẳng ngại ngùng gì mà cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc, quả thực lúc này thị ta nhìn rất trơ trẽn. Người ngoài nhìn vào có người sẽ khinh bỉ, cho rằng thị ta đang vứt hết cả lòng tự trọng đi để ăn, nhưng cũng sẽ có những người xót thương, đồng cảm cho một con người đang phải chịu cơn đói hành hạ. Khi ấy, con người ta chẳng còn bận tâm đến danh dự, hay nhân phẩm gì nữa, ăn no mới là điều quan trọng trước hết. Đợi đến khi Thị ăn xong, Tràng có nói câu nửa vui nửa đùa rằng “về với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi cùng về”. Tưởng Thị sẽ cười chê mình, nào ngờ Thị về thật, về làm dâu nhà Tràng. Một đám cưới diễn ra.

Quảng cáo

Việc một con trai lớn lên, xây nhà, cưới vợ là việc quá đỗi bình thường, nhưng nhân vật Tràng lại là một thanh niên xấu xí, nghèo đói, gia cảnh khó khăn, đặc biệt là dân ngụ cư nữa nên việc Tràng có được vợ làm rất nhiều người ngạc nhiên. Qua đây, ta đã thấy được nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo của Kim Lân: vợ đáng lẽ ra là người ta yêu, qua tìm hiểu, đính ước mà đến với nhau, nhưng ở đây, Tràng ta lại “nhặt” được vợ theo đúng nghĩa đen và của hồi môn chắc có lẽ chỉ là vài bát bánh đúc mà thị ta vừa ăn lúc trước.

Việc Tràng có vợ khiến rất nhiều người ngạc nhiên, cụ Tứ – mẹ Tràng cùng tất cả những người thôn ngụ cư, người trong xóm lạ lắm: Họ đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán. Đến khi hiểu ra là Tràng có vợ theo về, thì họ lại càng ngạc nhiên hơn nữa. Người thì “cười lên rung rúc", người lại lo dùm cho anh ta "Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ dài về". Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”. Người đời cười chê, chế nhạo thế nhưng chẳng làm hai vợ chồng Tràng cảm thấy tủi nhục, xấu hổ. Cho đến khi dẫn Thị về nhà, cả cụ Tứ lẫn Tràng đều không tin nhà mình có con dâu.

Cụ Tứ vừa vui vừa buồn, vừa cảm thấy thương xót cho con trai mình. Bà vui vì con trai mình đến tuổi trưởng thành đã cưới được vợ, bà mừng cho hai đứa chúng nó, nhưng bà cũng buồn, buồn vì gia đình nhà mình quá nghèo. Đám cưới gì mà chẳng có cờ có hoa, không một mâm cỗ, không kèn trống, không người đưa đón, chỉ đơn giản là đưa dẫn nhau về ở chung, cùng nhau vun vén, xây dựng gia đình. Bước vào căn nhà lụp xụp mà hai mẹ con Tràng đang ở mà Thị chỉ biết thở dài, bắt tay vào công việc dọn dẹp. Đến bữa ăn về nhà chồng cũng chỉ là nồi cháo loãng với chút muối trắng, cuộc sống của ba con người quả thực rất nghèo khổ.

Qua câu chuyện, nhà văn đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người nghèo khổ bằng cả tấm lòng nhân hậu của mình. Ông xót thương cho dân tộc trước thảm họa đói chết. Ông cũng ái ngại cho người con gái bị nạn đói cướp đi gần hết (gia đình, nhan sắc, tính cách, tên tuổi…).

Quảng cáo

Không những vậy, nhà văn còn rất tinh tế khi phát hiện ra khát vọng hạnh phúc và niềm vui khi nhặt vợ của Tràng; cái duyên thầm của thị qua cái liếc mắt với Tràng…Có thể nói, nhà văn rất trân trọng và tự hào về vẻ đẹp nhân tính của con người lao động nghèo trước thảm họa đau thương, chết chóc.

Đồng thời nhà văn còn tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động qua hình ảnh của bà cụ Tứ: một người mẹ giàu tình thương con, giàu lòng nhân hậu và niềm tin vào cuộc sống và đây cũng chính là niềm tin của nhà văn vào phẩm chất tốt đẹp của con người.

Thông qua tình huống truyện, nhà văn lên án và tố cáo tội ác của Nhật – Pháp đã đẩy nhân dân ta vào thảm họa đói nghèo, chết chóc. Chính chúng đã làm cho giá trị con người trở thành rẻ rúng như rơm như rác: vợ mà nhặt được.

Đúng là một tình huống truyện rất lạ mà Kim Lân đã dựng nên. Nhà văn đã đặt nhân vật của mình vào một tình huống éo le để làm nổi bật lên những giá trị nhân văn sâu sắc. Ông không chỉ muốn nói lên nét đẹp trong tính cách con người Việt Nam là dù có ở trong hoàn cảnh khó khăn như thế nào, lúc nào cũng có thể đối mặt với cái chết nhưng họ vẫn yêu thương, quan tâm nhau mà ông còn muốn lên án chế độ thực dân độc ác đã khiến nhân dân ta trở nên nghèo đói, lầm than.

Dàn ý Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Vợ nhặt

I. Mở bài

1. Giới thiệu về tác giả Kim Lân và tác phẩm “Vợ nhặt”

- Kim Lân là một trong những tác giả nổi tiếng của văn học Việt Nam, đặc biệt được biết đến với những tác phẩm viết về đời sống nông dân trong thời kỳ kháng chiến và đói kém.

- “Vợ nhặt” là một tác phẩm nổi bật của ông, phản ánh chân thực cảnh nghèo đói trong xã hội Việt Nam những năm 1945 và những số phận con người trong hoàn cảnh cực kỳ khốn cùng.

2. Khái quát vấn đề cần phân tích:

- Tình huống trong “Vợ nhặt” là yếu tố quan trọng giúp Kim Lân làm nổi bật hiện thực xã hội và khắc họa những tình huống nghịch lý nhưng đầy ý nghĩa về giá trị nhân văn.

II. Thân bài

1. Tình huống mở đầu: Tràng “nhặt” vợ trong hoàn cảnh đói nghèo

- Miêu tả hoàn cảnh sống của Tràng:

+ Tràng là một người đàn ông nghèo khổ, sống trong ngôi nhà tồi tàn, thiếu thốn đủ thứ, không có công việc ổn định.

+ Cuộc sống của Tràng vô cùng bi kịch, anh không có mục tiêu, không có hi vọng vào tương lai.

- Tình huống Tràng “nhặt vợ”:

+ Trong hoàn cảnh khốn khó của nạn đói năm 1945, Tràng bất ngờ gặp một người phụ nữ và “nhặt” được vợ – một quyết định đầy nghịch lý.

+ Cô gái đồng ý làm vợ Tràng không vì tình yêu mà vì sự sinh tồn, bởi cô không còn lựa chọn nào khác ngoài việc tìm một chỗ nương tựa.

2. Tình huống phản ánh sự tha hóa của các giá trị nhân văn

- Hôn nhân trong xã hội đói nghèo:

+ Trong hoàn cảnh đói kém, hôn nhân không còn là sự kết nối tình cảm mà là một sự chọn lựa để tồn tại. Người phụ nữ chọn Tràng không phải vì yêu, mà vì cô cần sống, cần một mái ấm.

- Biến dạng của tình yêu và hôn nhân:

+ Tình huống “vợ nhặt” thể hiện sự tha hóa của những giá trị như tình yêu và hôn nhân trong xã hội. Con người không còn yêu nhau mà chỉ muốn tìm cách tồn tại.

3. Sự thay đổi trong nhân vật Tràng

- Tràng trước khi có vợ:

+ Tràng là một người cô đơn, không có hy vọng vào cuộc sống. Anh sống qua ngày với những nỗi lo về cái đói và không có niềm tin vào tương lai.

- Tràng sau khi có vợ:

+ Sự xuất hiện của người vợ đã thay đổi Tràng. Anh không còn cảm thấy cô đơn, không còn tuyệt vọng. Anh bắt đầu nghĩ về một gia đình, về những điều tốt đẹp hơn.

+ Điều này thể hiện khát vọng sống mạnh mẽ trong Tràng, dù hoàn cảnh của anh vẫn còn rất nghèo khó.

4. Kết thúc mở và giá trị nhân văn của tác phẩm

- Kết thúc mở:

+ Mặc dù cuộc sống của Tràng và vợ vẫn còn khó khăn, nhưng cái kết mở ra một tia hy vọng. Họ bước đi cùng nhau trong cuộc sống nghèo khổ, nhưng ít nhất họ có nhau, và đó là sự khởi đầu cho một cuộc sống mới.

- Thông điệp nhân văn:

+ Tác phẩm truyền tải thông điệp về sự sinh tồn và hy vọng trong hoàn cảnh khốn cùng. Mặc dù nghèo đói vẫn đè nặng lên cuộc sống của con người, nhưng khát vọng sống và tình yêu vẫn là sức mạnh giúp con người vượt qua khó khăn.

III. Kết bài

1. Tóm tắt giá trị nghệ thuật của tác phẩm:

- Tình huống “Vợ nhặt” mà Kim Lân xây dựng không chỉ gây bất ngờ mà còn chứa đựng nhiều giá trị sâu sắc. Nó phản ánh sự thay đổi trong con người, từ bi kịch đến hy vọng, từ tuyệt vọng đến khát khao sống.

2. Khẳng định thông điệp tác phẩm:

- “Vợ nhặt” không chỉ là câu chuyện về một cuộc hôn nhân nghèo đói mà còn là thông điệp về tình người, về những khát vọng sống mạnh mẽ trong hoàn cảnh khó khăn. Tác phẩm khẳng định rằng dù trong hoàn cảnh tăm tối, con người vẫn có thể tìm thấy hy vọng và lý do để sống.

Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Vợ nhặt - mẫu 2

Viết về nạn đói ăn năm Ất Dậu, Vợ nhặt của Kim Lân là một truyện ngắn đặc sắc nhất, độc đáo nhất trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Với một vốn sống phong phú về nông thôn và người nhà quê, với một tấm lòng nhân hậu bao dung, câu chuyện anh trai cày thô kệch "nhặt" được vợ, đã được tác giả kể lại một cách cảm động, đậm đà. Bút pháp phân tích tâm lí nhân vật và xây dựng tình tiết - cốt truyện đầy kịch tính là giá trị tư tưởng và nghệ thuật đích thực được thể hiện qua tình huống "nhặt" vợ của anh cu Tràng.

Anh cu Tràng, mồ côi bố, ở với mẹ già tại xóm ngụ cư. Nhà nghèo, hắn làm nghề kéo xe bò thuê. Con mắt "nhỏ tí", bộ mặt "thô kệch", cái đầu "trọc nhẵn" lại có tật "vừa đi vừa nói lảm nhảm...". Cứ tưởng rằng hắn sẽ nằm suông đến già. Ai ngờ... chỉ "tầm phơ tầm phào đâu có hai bận", một câu hò rất phong tình, bốn bát bánh đúc ngoài chợ tỉnh, chẳng cheo cưới gì thế mà hắn đã "nhặt" được vợ. Đó là một cô gái, áo quần rách như tổ đỉa, nhưng đã "liếc mắt cười tít" làm cho Tràng "thích lắm".

Tràng "nhặt" được vợ khi trận đói đã và đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Từng đám người chạy đói "xanh xám như những bóng ma". Mùi gây của xác người... Quạ bay vẩn trên nền trời như những đám mây đen, "cứ gào lên từng hồi thê thiết". Xóm ngụ cư "xác xơ heo hút". Tràng "nhặt" vợ mà cảm thấy "chợn" vì giữa trận đói, nuôi cái thân mình còn khó mà "lại còn đèo bòng". Trên đường dẫn "vợ mới vợ miếc" về nhà, hắn "phớn phở" khác thường, "tủm tỉm cười nụ", "hai mắt thì sáng lên lấp lánh",... Còn thị thì "thèn thẹn hay đáo để".

"đứng ngay đầu giường" thằng con trai mình. Bà vừa tủi thân, vừa mừng vừa lo: "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được đói cơn đói khát này không". Tối "tân hôn" của Tràng đã có hai hào dầu thắp sáng, nhưng "tiếng khóc hờ tỉ tê" của những gia đình mới có người chết đói, nghe càng rõ trong đêm khuya.

Mẹ chồng chỉ có một nồi cháo cám ăn mừng nàng dâu mới. Tiếng trống thúc thuế vẫn dội lên "dồn dập vội vã". Và trên đê Sộp những người đói ầm ầm kéo nhau đi, phía trước có lá cờ đỏ to lắm!

Tình huống "nhặt" vợ đã được Kim Lân sáng tạo nên bằng cảm hứng nhân văn sâu sắc. Ông đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất đối với con người nghèo khổ, hoạn nạn. Ông xót thương cho nỗi đau khổ của dân tộc trước thảm họa năm Ất Dậu "người chết như ngả rạ". Ông ái ngại cho một cô gái bị nạn đói cướp đi gần hết. Không còn tên tuổi. Không còn bố mẹ, anh chị em. Không gia đình quê hương. Mặt người "gầy sọp", áo quần rách như tổ đỉa. Đói quá, mất đi vẻ duyên dáng, "cắm đầu một chặp bốn bát bánh đúc". Giá trị, phẩm giá của người con gái trở nên rẻ rúng đáng thương! Trước mắt thị là vực thẳm, là chết đói, Thị phải "theo trai", phải lấy Tràng...

Kim Lân nhân hậu lắm. Ông đã tả cặp mắt, nụ cười của Tràng rất đẹp, rất vui. Ông đã phát hiện ra chút duyên thầm, nét nữ tính của thị. Cái mắt cười câu mắng yêu và cái củng vào trán Tràng của thị trong tối tân hôn, được nhà văn diễn tả đầy ý vị. Hạnh phúc đến với Tràng, tuy muộn mằn, tuy phải "nhặt" mới có vợ, nhưng đáng tự hào và trân trọng biết bao. Anh đã mua hai hào dầu thắp sáng tối tân hôn, để xua tan cái tối tăm, nghèo khổ, cô độc, để mừng "vợ mới vợ miếc", để soi sáng hạnh phúc tương lai. Tình tiết hai hào dầu rất giàu ý nghĩa nhân đạo.

Kim Lân đã ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của nhân dân lao động. Ông đã tả giọt nước mắt trong nỗi lo, niềm vui của người mẹ nghèo khi nhận nàng dâu mới. Niềm tin "ai giàu ba họ, ai khó ba đời"; nồi cháo cám đắng chát mà người mẹ già gọi là "chè khoán ngon đáo để", những câu chuyện vui, chuyện sau này của người mẹ chồng nói với con trai và con dâu lúc ăn cháo cám. Tất cả thể hiện một cách cảm động tình thương người, niềm tin đối với con người của tác giả.

Đối với thực trạng xã hội đương thời, thông qua tình huống Tràng "nhặt" vợ, Kim Lân căm thù lên án và vạch trần tội ác của Nhật - Pháp đã bắt dân ta nhổ lúa trồng đay, vơ vét sưu thuế, gây ra trận đói kinh khủng năm Ất Dậu 1945, làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói! Nạn đói đã hạ thấp giá trị con người. Chẳng cần cheo cưới, chỉ cần bốn bát bánh đúc mà người ta có thể "nhặt" được vợ.

Qua tình tiết khi trống thúc thuế dồn dập dội lên, thì nàng dâu mới loan tin ở mạn Bắc Giang, Thái Nguyên, người ta không chịu đóng thuế, còn phá kho thóc của Nhật - chia cho người đói,... Và đám người đói kéo đi trên đê Sộp, phía trước là lá cờ đỏ to lắm bay phấp phới. Kim Lân đã thể hiện rất hay tình cảm của hàng triệu nông dân Việt Nam hướng về cách mạng. Cứu đói, cứu khổ, cứu đời và đem đến độc lập, tự do cho dân tộc chính là sự xuất hiện lá cờ đỏ ấy. Qua hình ảnh lá cờ đỏ, cảm hứng nhân đạo của truyện "Vợ nhặt" đã được nhân lên thành cảm hứng nhân văn tuyệt đẹp.

Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Vợ nhặt - mẫu 3

“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm độc đáo của Kim Lân khi viết về cuộc sống và con người ở nông thôn. Khi viết về truyện ngắn, có ý kiến cho rằng: “Một trong những sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của Kim Lân trong truyện ngắn “Vợ nhặt” là đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn”. Có thể nói, đây chính là yếu tố tạo nên thành công của tác phẩm.

Là cây bút truyện ngắn vững vàng, Kim Lân viết về người nông dân và cuộc sống ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của người vốn là “con đẻ” của đồng ruộng. Những ông Hai, bà cụ Tứ, anh cu Tràng... hiện lên trong tác phẩm hồn hậu chân thực, chất phác và chiếm được nhiều thiện cảm trong lòng người đọc. Sáng tác ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công và sau này được viết lại vào khoản sau hòa bình lập lại (1954) truyện ngắn có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”, là câu chuyện kể về cuộc sống của những người không có “hộ khẩu” chính thức trên mảnh đất mà mình sinh sống. Trên cái nền lịch sử của nạn đói năm 1945, Kim Lân đã đặt nhân vật của mình vào trong một tình huống độc đáo vừa buồn vừa vui, có hạnh phúc nhưng cũng đầy rẫy những lo toan.

Nghệ thuật xây dựng tình huống là việc đặt nhân vật vào trong những ngữ cảnh nhất định, làm môi trường cho nhân vật hoạt động qua đó bộc lộ phẩm chất, cá tính. Trong tác phẩm, Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống đặc biệt. Đó là tình huống anh nông dân nghèo tên Tràng, xấu trai, đang có nguy cơ ế vợ bỗng nhiên lại có vợ, mà lại là nhặt được vợ, là theo không chỉ nhờ một câu hát vu vơ và bốn bát bánh đúc. Tình huống ấy kéo theo hàng loạt các tình huống khác không kém phần lí thú.

Tình huống này gây nên sự ngạc nhiên cao độ trong xóm ngụ cư, cho mẹ Tràng và ngay cả bản thân anh cu Tràng nữa bởi hai lý do: Ai có thể ngờ rằng một người nghèo túng, xấu trai, thậm chí có vẻ hơi ngờ nghệch lại là dân ngụ cư như Tràng, xưa nay con gái không ai thèm để ý, vả lại cũng không có tiền cưới vợ mà .nay bỗng dưng lấy được vợ, mà là theo khống hẳn hoi. Hơn nữa, trong một bối cảnh như thời điểm ấy, khi cái đói đang hoành hoành, khắp nơi đều vạ vật những người “xanh xám như những bóng ma và nằm ngổn ngang khắp lều chợ (...) Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” thì một người như Tràng đến nuôi thân còn chẳng lo nổi lại còn mẹ già, nói chi đến chuyện đèo bòng. Bằng ấy cái vô lý và không thể nhưng sự kiện chấn động ấy vẫn cứ diễn ra. Khi Tràng dẫn người đàn bà lạ về nhà, cả xóm ngụ cư đều ngơ ngác không hiểu. Chưa thể nào tin được đó là vợ Tràng họ bắt đầu phỏng đoán:

Ai đấy nhỉ?... Hay là người nhà dưới quê bà cụ Tứ mới lên?

- Chả phải, từ ngày còn mồ ma ông cụ Tứ có thấy họ mạc nào lên thăm đâu.

- Quái nhỉ?

Im một lúc, có người bỗng lại cười lên rung rúc.

- Hay là vợ anh cu Tràng? ừ khéo mà vợ anh cu Tràng thật anh em ạ, trông chị ta thèn thẹn hay đáo để”.

Hạnh phúc của đồng loại tạm làm người ta quên đi cái đói khổ trong giây lát. “Hình như họ hiểu được đôi phần. Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tối tăm ấy của họ”. Nhưng rồi ngay sau đó lại là nỗi lo lắng. “Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”.

Từ đây, Kim Lân kéo người đọc về với tình huống trước đó như một lời lý giải cho việc nhặt được vợ của Tràng, một tình huống cũng thú vị không kém. Tràng nhặt được vợ chỉ nhờ vào câu hát vu vơ khi đẩy xe bò cho đỡ mệt nhọc:

“Muốn ăn cơm trắng với giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”

Cái đói khổ làm cho người ta mất hết cả sự xấu hổ và lòng tự trọng. Người đàn bà đã chớp lấy câu nói của Tràng như cái phao cứu sinh cho cuộc đời mình. Lần thứ hai gặp lại thì “xưng xỉa”: “Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt”, rồi không ngần ngại ngồi xuống làm một chập hết bốn bát bánh đúc. Thế là nên vợ nên chồng.

Có thể nói đây là một tình huống hết sức oái oăm, không biết nên vui hay nên buồn, không biết nên mừng hay nên lo? Thứ tâm trạng đan xen ấy hiện lên trong suy nghĩ đầy mâu thuẫn của những người trong cuộc. Tràng “mới đầu cũng chợn nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng rồi hắn cũng tặc lưỡi. Cảm giác ấy cùng với những tình cảm mới lạ đan xen khiến Tràng giống như một đứa trẻ. Khác với Tràng, bà cụ Tứ là một người từng trải, nhìn thấy con trai về cùng với người đàn bà lạ mặt “lòng người mẹ nghèo khổ ấy hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình”. Bà hiểu cả tình cảnh bất hạnh của người đàn bà, cũng như tình cảnh khó khăn sắp tới của cả gia đình. Nỗi lo lắng cùng với niềm hy vọng đan xen, “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết được?”. Bản thân người đàn bà, sau những phút giây chao chát chỏng lỏn để có được miếng ăn, theo không người ta về nhà, chắc chắn giờ đây cũng suy nghĩ mông lung nhiều lắm. Thị trở về với dáng vẻ ngượng ngùng, bẽn lẽn, e thẹn “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”.

Đặt nhân vật vào trong tình huống đặc biệt, éo le như vậy, Kim Lân đã làm nổi bật những ý nghĩa sâu sắc của truyện. Không cần đến những lời kết tội to tát câu chuyện thông qua tình huống nụ cười và giọt nước mắt đan xen ấy mà lên án gay gắt bọn phát xít thực dân phong kiến và tay sai đã gây ra nạn đói năm 1945, đẩy con người đến cái chết, dẫn đến những tình huống éo le, cùng cực, làm cho giá trị con người bị rẻ rúng: người ta có thể nhặt được vợ chỉ với bốn bát bánh đúc.

Tình huống ấy cũng chính là môi trường cho nhân vật bộc lộ đặc điểm tính cách cũng như đời sống tinh thần của mình. Tràng tỏ ra là một anh thanh niên chất phác, hiền lành, chăm chỉ làm ăn và có đời sống nội tâm có phần hơi đơn giản. Bà cụ Tứ mang trong mình sự từng trải, nghĩ trước sau chu toàn. Tràng “nhặt” được vợ, bà vừa mừng vừa lo. Bà hiểu cái tao đoạn mà bà và những người xung quanh đang phải trải qua, hiểu vị trí của những người dân ngụ cư trong quan niệm của người khác, hiểu được tình thế oái oăm, đèo bòng của con trai mình. Hơn thế nữa, bà cũng hiểu và cảm thông cho hành động theo không của người đàn bà “Người ta có gặp lúc khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình”. Ngày đầu tiên của cuộc sống mới, cũng chính bà là người gợi ra tương lai tươi sáng, gieo vào trong lòng đôi vợ chồng trẻ niềm hy vọng. Còn ở cô “vợ nhặt” thì tính cách có sự thay đổi đến bất ngờ: từ một người đàn bà chao chát, chỏng lỏn, chị khác hẳn trong tư cách một người vợ, một người quen, dịu dàng, biết thu vén cho cuộc sống gia đình.

Thông qua tình huống truyện đặc sắc Kim Lân cũng muốn thể hiện khát vọng của con người có thể chiến thắng hoàn cảnh để sống và có được hạnh phúc. Người lao động, dù trong tình huống bi thảm đến đâu, ngay cả khi gần kề cái chết vẫn khát khao hướng về ánh sáng, tin tưởng ở sự sống và tương lai. Giá trị nhân văn của tác phẩm là ở đó. Cầu chuyện kết thúc với những ánh sáng báo hiệu điều gì đó tốt đẹp hơn đang đến. Tràng “bỗng vừa chợt nhận ra, xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ...” và anh bắt đầu hi vọng: “Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. Một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này “. Người mẹ già cũng “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường”, cái mặt bủng beo u ám “rạng rỡ hẳn lên”. Và tất nhiên, nhiều nhất phải nói tới sự thay đổi của người “vợ nhặt”, giờ đây đã trong vai trò của một người vợ hiền đảm đang. Hình ảnh đám người đi phá kho thóc cứ gieo vào trong lòng Tràng đầy ám ảnh như dự báo một cuộc cách mạng không sớm thì muộn cũng sẽ tất yếu xảy ra.

Xây dựng tình huống đặc sắc trong “Vợ nhặt”, Kim Lân đã một lần nữa chứng minh cái tâm, cái tài của mình với tư cách là một nhà văn một đời đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn.

“Vợ nhặt” là một truyện ngắn độc đáo trong nghệ thuật xây dựng tình huống. Chính điều này đã góp phần vào việc thể hiện chủ đề, tư tưởng cũng như tăng tính hấp dẫn trong tác phẩm.

Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Vợ nhặt - mẫu 4

Mỗi tác phẩm văn học khi khép lại đều để lại trong lòng người đọc những dư âm khác nhau. Dư âm ấy có thể là một nhân vật, 1 chi tiết hay một sự việc nào đó. Song đến với truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, điều ấn tượng nhất trong lòng người đọc lại là tình huống truyện độc đáo. Nghệ thuật tạo dựng tình huống truyện của Kim Lân đã góp phần không nhỏ làm lên sự thành công cho tác phẩm và tên tuổi nhà văn Kim Lân.

Tình huống truyện là gì? Tình huống truyện được hiểu là tình thế xảy ra truyện, là “cái khoảnh khắc” mà Nguyễn Minh Châu cho là “chứa đựng cả đời người”. Từ tình huống truyện, người đọc có thể thấy rõ hơn mối quan hệ giữa các nhân vật với nhau, giữa nhân vật với hoàn cảnh, qua đó, thể hiện tư tưởng của toàn bộ tác phẩm. Tình huống truyện “Vợ nhặt” là một tình huống vừa lạ, độc đáo lại vừa oái oăm, trớ trêu.

Trước tiên, người ta đánh giá đây là một tình huống vô cùng độc đáo. Anh cu Tràng vốn là người dân xóm ngụ cư ngờ nghệch xấu xí lại có thể lấy được vợ trong thời điểm nạn đói lịch sử diện ra.

Tràng không phải lấy được vợ mà nói đúng hơn là “nhặt vợ”. Trong một lần kéo xe bò lên tỉnh, Tràng gặp được Thị, chỉ với bốn bát bánh đúc, Thị đồng ý theo không anh về làm vợ. Dưới ánh nhìn của những người dân xóm ngụ cư, người như Tràng lấy được vợ là chuyện không tưởng. Bởi lẽ thời điểm bây giờ, người ta luôn coi những người ngụ cư là tầng lớp dưới đáy cùng bị xã hội xem thường, khinh rẻ, lấy một người là dân xóm ngụ cư cũng sẽ bị người khác xem nhẹ. Hơn nữa, Tràng lại là một người xấu xí, nghèo khổ. Giữa thời buổi khó khăn ấy, nuôi được thân mình đã khó mà lại còn đèo bòng chuyện vợ con.

Nhưng, trong hoàn cảnh kì lạ ấy, nhặt vợ lại đáng thương hơn là coi rẻ, khinh thường. Vợ vốn là người đáng lẽ ra phải được cưới hỏi tử tế, đàng hoàng, đầy đủ sinh lễ và lễ nghi đón rước. Vậy mà người vợ mà Tràng cưới về hôm nay lại rẻ rúng, chỉ bằng một câu nói bông đùa và bốn bát bánh đúc. Tình huống nhặt vợ của anh và kỳ quặc, oái oăm vui mừng mà bi thảm. Dù thoạt nhìn có vẻ phi lý nhưng lại vô cùng hợp lý. Tràng lấy được vợ là do vào thời điểm đó, nạn đói hoành hành, nếu không phải vì miếng cơm có lẽ cũng không có người đàn bà nào chịu lấy một người như anh. Hành động nhặt vợ ấy dẫu chỉ là hành động nhất thời nhưng nó còn thể hiện được sự cưu mang, đùm bọc lẫn nhau của anh với Thị, thể hiện sự yêu thương giữa con người với con người trong nạn đói năm ấy.

Bên cạnh đó, tình huống truyện còn là một tình huống éo le đầy trớ trêu. Trong gia đình bình thường, việc con trai lớn lấy được vợ thường mang đến niềm vui cho người làm cha, làm mẹ. Nhưng éo le thay, chàng lấy được vợ lại khiến bà cụ Tứ vừa vui lại vừa buồn, người dân xóm ngụ cư cũng chẳng soi mói gì thiệt hơn. Ai cũng chỉ nghĩ dưới cái u ám đang bao trùm cả vùng này, “cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào”, lấy vợ có khiến cuộc sống khó khăn hơn không? Bà cụ Tứ thậm chí còn nghĩ đến những điều tệ hại hơn: “biết rằng chúng nó lấy nhau liệu có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không?”. Bà vui mừng vì con trai lấy được vợ, nhưng lại lo cho tương lai vợ chồng con lúc bây giờ. Chính Tràng cũng từng cảm thấy chán khi nghĩ đến niềm hạnh phúc nhỏ nhoi vừa nhen nhóm: “thóc gạo này đến thân mình chẳng biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng?”.Còn với Thị - người vợ được nhặt về thì nỗi tủi hổ dường như lấn át cả niềm vui. Có lẽ ai cũng nhìn thấy, người đàn bà ấy chấp nhận lấy Tràng vì muốn sống sót qua cơn đói, níu lấy một chiếc phao cứu sinh, hi vọng được sống. Tất cả đều thể hiện sự éo le đến thương cảm. Nó lan tràn trong suy nghĩ của mỗi nhân vật và bao phủ cả đêm tân hôn. Đêm tân hôn của cặp vợ chồng mới cưới đầy gió lồng lộng từ bờ sông thổi vào, ngọn đèn dầu vàng đục và tiếng hờ khóc của người chết vang lên trong xóm ngụ cư.

Từ những giá trị đó chúng ta có thể cảm nhận được giá trị hiện thực vô cùng sâu sắc. Tình huống đó đã góp phần phơi bày số phận những người nông dân trước Cách mạng Tháng Tám. Họ phải gánh chịu bao bất công từ cuộc sống. Vì nghèo khổ nên Tràng không thể nào lấy được vợ, phải chờ đến cơ hội “trời cho” khi thân phận con người trở nên rẻ rúng. Cơ hội ấy không phải thời điểm nào tươi sáng đẹp đẽ hơn mà là nạn đói lịch sử, là thảm cảnh đau thương của bao người. Hoàn cảnh đó khiến người đàn bà tự nguyện vứt bỏ nhân phẩm, vứt bỏ giá trị của chính mình theo không một người đàn ông xa lạ về làm vợ.

Bên cạnh giá trị hiện thực, tình huống còn thể hiện cả giá trị nhân đạo gây cho người đọc nhiều suy ngẫm. Từ tình huống éo le, Kim Lân đã gợi lên trong trái tim mỗi người niềm xót xa khôn nguôi và sự cảm thông với số phận những người nông dân nghèo khổ. Đồng thời, nó cũng góp phần ngợi ca phẩm chất đáng quý của người nông dân ngay giữa hoàn cảnh đói khát. Trong cái đói bủa vậy mẹ con bà cụ Tứ vốn chẳng khá khẩm gì hơn cũng sẵn sàng dang tay cưu mang một người xa lạ. Lời mời “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” của Tràng nghe có vẻ như bông đùa nhưng thực ra lại mang ý nghĩa như một cơ hội cứu vớt Thị từ bên bờ vực của cái đói, cái chết về đến hạnh phúc gia đình. Người đàn ông có vẻ ngờ nghệch đó vẫn biết quan tâm, lo lắng và trân trọng hạnh phúc của mình. Dù chỉ là người vợ được nhặt về, anh vẫn đưa Thị vào hàng ăn một bữa cơm thật no, sắm cho Thị một cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt, mua dầu thắp đèn cho sáng đêm tân hôn… Gặp mẹ, Tràng cũng giới thiệu với mẹ một cách đàng hoàng để Thị bớt tủi hổ.

Kim Lân qua việc khắc họa nhân vật trong xây dựng tình huống truyện còn thể hiện niềm tin vào tương lai cuộc đời họ. Đây chính là giá trị nhân đạo mới mẻ của ông. Điều này được thể hiện rõ nét trong đoạn kết khi nghe vợ kể chuyện nông dân Thái Nguyên, Bắc Giang phá kho thóc chia cho dân nghèo và chợt nhớ đến cảnh đoàn người với cờ đỏ sao vàng trên đê Sộp.

Có thể nói, tình huống truyện “Vợ nhặt” mang rất nhiều giá trị sâu sắc, thể hiện tài năng của ngòi bút Kim Lân. Một tình huống nhặt vợ vừa lạ vừa oái oăm, nhưng đã thể hiện cái nhìn tin tưởng vào sự thay đổi số phận của người nông dân. Nó ngợi ca nhân cách con người ngay trong những năm tháng khó khăn, trong nạn đói lịch sử năm 1945. Với những giá trị sâu sắc ấy, người đọc càng thấm thía hơn tư tưởng nhân đạo của Kim Lân. Để rồi rất nhiều năm tháng qua đi, “Vợ nhặt” vẫn là một tác phẩm nổi bật trong nền văn học Việt Nam.

Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Vợ nhặt - mẫu 5

Kim Lân là một trong rất nhiều gương mặt nổi trội trên văn đàn văn học dân tộc viết về đề tài người nông dân Việt Nam, xoay quanh đề tài này, Kim Lân đã vẽ nên một bức tranh hiện thực của dân tộc Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, những cảnh u ám trong nạn đói lịch sử năm 1945 khiến cho hai triệu đồng bào ta chết đói, những hình ảnh con người trong cảnh khổ đã dấy lên trong lòng người đọc những nỗi tiếc thương khôn nguôi. Và Kim Lân đã sử dụng một cách tài tình những biện pháp nghệ thuật đặc sắc để thể hiện rõ những giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

Điểm nổi bật về nghệ thuật phải nói đầu tiên ở đây chính là nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc. Tình huống truyện được nhà văn tạo nên trong tác phẩm này chính là sự gặp gỡ của Tràng và người đàn bà xa lạ, để sau đó Tràng nhặt người này về làm vợ, chính tình huống truyện đặc biệt này mà chúng ta có thể thấy được hiện thực khắc nghiệt rằng trong nạn đói năm 1945, giá trị của con người rẻ rúng đến mức nào, vừa xây dựng hiện thực, vừa tố cáo tội ác của thực dân Pháp đã gây nên cho chúng ta. Qua đó chúng ta có thể nhận ra những phẩm chất tốt đẹp của con người trong cảnh khổ, là anh cu Tràng tuy xấu xí vụng về nhưng mang trong mình một tâm hồn lương thiện, là người đàn bà bất chấp để được ăn bát bánh đúc lại nuôi một nỗi khát khao được sống và luôn tin tưởng vào tương lai.

Nghệ thuật xây dựng và miêu tả tâm lí nhân vật cũng là một dụng ý nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Kim Lân, nhà văn xây dựng một nhân vật chính với vẻ ngoài xấu xí nhưng đối lập bên trong đó là một tấm lòng lương thiện. Là người đàn bà xa lạ không rõ nguồn gốc, nghề nghiệp, quá khứ, nhưng luôn mang trong mình khát khao mãnh liệt là được sống, là bà cụ Tứ kham khổ, tảo tần, nhưng hiểu chuyện và mang trong mình lòng yêu thương con cái vô bờ bến. Tác giả đã xây dựng những nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình để bộc lộ được tính cách cũng như giá trị nội dung của tác phẩm.

Tác phẩm Vợ nhặt tác giả đã sử dụng lối trần thuật lôi cuốn, thông qua những cuộc đối đáp giữa các nhân vật với nhau, và ẩn chứa trong đó là tình cảm của những con người với nhau đã cùng cưu mang nhau qua cảnh khốn cùng.

“Vợ nhặt” là nhan đề của tác phẩm, xưa nay người ta chỉ đi lấy vợ, cưới vợ chứ có ai nhặt vợ bao giờ. Ấy mới biết, trong xã hội cũ, số phận của con người mong manh và rẻ rúng biết nhường nào. Chính cách sử dụng nhan đề ngược đời như vậy ta lại thấy được sự độc đáo trong cách đặt tên nhan đề, chứa đựng nhiều ý nghĩa biểu trưng, và hé mở chủ đề của tác phẩm. Ngoài ra còn giúp cho người đọc tạo được ấn tượng ban đầu và kích thích tính hấp dẫn cho tác phẩm.

Kim Lân đã sử dụng ngôn từ mộc mạc, giản dị và chân thực. Đối với một người chuyên viết về đề tài nông thôn Việt Nam như Kim Lân thì ông coi trọng lối nói tự nhiên, ngôn từ gần gũi với người đọc, để ông có thể truyền đạt hết những tư tưởng nhân đạo và tình cảm của tác giả đối với từng nhân vật trong tác phẩm của mình. Ông viết về họ với tất cả sự giản dị, chân thực và đơn thuần như chính tính cách và bản chất con người họ vậy. Là anh cu Tràng với những lời nói ngô nghê chân thực, không để ý đến lời chọc ghẹo của người khác, là sự thay đổi linh hoạt trong ngôn ngữ của người đàn bà. Và cuối cùng là những lời nói đơn giản, nghẹn ngào nhưng ẩn chứa bên trong đó là tình thương vô bờ bến của bà cụ Tứ. Sử dụng nhuần nhuyễn các biện pháp nghệ thuật là cơ sở để tác giả có thể dẫn người đọc tìm hiểu hết được các giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.

Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Vợ nhặt - mẫu 6

Truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối của dân ta năm 1945, với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc tới miền Trung. Tác giả viết truyện này ngay trong nạn đói, với cái tên ban đầu là Xóm ngụ cư, nhưng vì thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình 1954 ông mới viết lại và cho ra mắt bạn đọc với tựa đề là Vợ nhặt. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng tác phẩm vẫn xứng đáng là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là ở chỗ nhà văn Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống truyện đặc biệt, một tình huống éo le, trớ trêu chứa đựng đầy kịch tính nhưng tại chứa đựng ý nghĩa nhân văn vô cùng sâu sắc.

Cốt truyện đơn giản: Một anh chàng ngụ cư nghèo khổ, độc thân, đứng tuổi và xấu xí làm nghề kéo xe bò thuê, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà kiếm được cô vợ nhặt – một cô gái đang dở sống dở chết vì đói. Họ thành vợ thành chồng giữa khung cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong bóng tối âm u, lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chì có cháo loãng, rau chuối và muối hột. Mẹ chồng đãi con trai và con dâu món chè nấu bằng cám. Bữa cơm diễn ra trong tiếng trống thúc thuế dồn dập. Câu chuyện của ba mẹ con xoay quanh chuyện Việt Minh hô hào dân chúng không đóng thuế và tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo.

Cảnh anh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà là một tình huống lạ lùng, tạo ra sự ngạc nhiên và thú vị cho cả cái xóm ngụ cư đang hấp hối và lạ lùng ngay cả với mẹ con Tràng. Anh dẫn người đàn bà lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người lủi thủi đi vào cái xóm ngụ cư heo hút, tồi tàn ở mé sông. Nhà cửa hai bên đường úp súp, tối om, không một ánh đèn, ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang. Khung cảnh ngập tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp. Bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.

Tràng dẫn người đàn bà mới quen về để làm vợ, để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết, họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng vì sự kiện to lớn bất ngờ của đời anh: anh đã có vợ, anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan. Mình cũng đói, mẹ già cũng đói, thế mà lại lấy vợ vào lúc này. Quả là chuyện lạ lùng và thú vị!

Trước hết là lạ lùng với dân xóm ngụ cư. Cái cảnh Tràng đi trước với vẻ mặt phởn phở khác thường và người đàn bà đi sau ba bốn bước với cái dáng thèn thẹn hay đáo để làm cho mọi người tò mò kéo nhau ra xem. Đầu tiên là lũ trẻ. Đang ủ rũ vì đói, chúng bỗng nhao nhao nói cười, trêu ghẹo anh Tràng: Anh Tràng ơi, chông vợ hài! Dân xóm ngụ cư thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì thầm bàn tán. Rồi họ hiểu ra và khuôn mặt họ bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui. Họ thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng có vợ và thực lòng muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ cư đang thoi thóp chờ chết này chợt bừng lên một thoáng sống. Nhưng vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng: Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không? Ấy là họ lo cho sự sống đang phải đối mặt với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết.

Bà cụ Tứ mẹ anh Tràng ngạc nhiên khi nhìn thấy cô gái lạ ngồi ở giường con trai mình. Được gọi bằng u, bà càng chẳng hiểu ra làm sao. Cho tới lúc nghe Tràng bảo: Kìa nhà tôi nó chào u... thì bà mới vỡ lẽ: Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình... Thì ra là thằng con trai mình đã kiếm được vợ và dẫn về đây. Tâm trạng bà cụ buồn tủi, mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi vì làm cha làm mẹ mà không tròn trách nhiệm đối với con cái, nghèo khổ đến nỗi không thể cưới được vợ cho con. Mừng vì tự nhiên con trai có được vợ, dù là vợ nhặt. Còn lo bởi bà cụ băn khoăn: biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Càng ngẫm nghĩ, bà cụ càng thương con trai và thương cô gái xa lạ kia vô hạn: Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.

Đến ngay chính anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Ngạc nhiên đến sửng sốt, không tin là sự thật: Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ, hắn chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bạn, ấy thế mà thành vợ thành chồng... Ngày hôm sau thức dậy, nhìn chị ta quét dọn sân vườn, Tràng vẫn chưa dám tin là mình đã có vợ. Chuyện xảy ra cứ như trong một giấc mơ, nhưng người đàn bà bằng xương bằng thịt kia chính là vợ anh, dẫu chẳng phải cưới xin gì.

Tình huống mà Kim Lân đặt ra trong truyện là một tình huống éo le, trớ trêu, không biết nên buồn hay nên vui. Bản thân Tràng lúc đầu thì mừng vì tự nhiên có được vợ, nhưng rồi anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng. Hàng xóm cũng lo thay cho anh và nhất là người mẹ già lo và thương đứt ruột. Tác giả đặc tả đêm tân hôn của vợ chồng Tràng với những chi tiết thật ấn tượng và chứa đựng ý nghĩa sâu xa: Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc rồi tắt. Hai người nằm lặng lẽ bên nhau trong bóng tối hãi hùng, ghê rợn bởi tiếng hờ khóc tỉ tê văng vẳng từ những nhà có người chết đói.

Chút hạnh phúc nhỏ nhoi, mong manh của họ bị cái đói, cái chết bủa vây. Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết, sự sống vẫn sinh sôi, nảy nở. Bi thương cùng cực thành dữ dội. Sự sống bất chấp cái chết, điều đó chứng tỏ ý chí con người và quy luật của cuộc đời mạnh mẽ biết chừng nào !

Đặt nhân vật vào tình huống éo le như vậy, nhà văn đã làm nổi bật ý nghĩa nhân văn sâu xa của tác phẩm. Cho dù không trực tiếp nói tới thực dân Pháp, phát xít Nhật và chính quyền phong Kiến tay sai nhưng từ câu chuyện về người vợ nhặt vẫn toát lên lời tố cáo đanh thép tội ác tày trời của chúng đã gây ra nạn đói thảm khốc có một không hai trong lịch sử nước ta. Quan trọng hơn cả là truyện đã thể hiện thành công vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái vẻ ngoài xác xơ vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong cái cuộc sống không đáng gọi là sống ấy, họ vẫn nhen nhóm niềm tin và hi vọng vào một sự đổi đời, vào tương lai tươi sáng. Đó chính là giá trị nhân văn làm nên sức sống lâu dài của tác phẩm.

Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Vợ nhặt - mẫu 7

“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm nổi bật của nhà văn Kim Lân, viết về cảnh sống của những người dân nghèo trong nạn đói năm 1945. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sức hấp dẫn và giá trị của tác phẩm chính là nghệ thuật xây dựng tình huống chuyện độc đáo, bất ngờ nhưng lại hết sức logic, mang tính nhân văn sâu sắc. Tình huống trong “Vợ nhặt” là nền tảng để nhà văn thể hiện những giá trị tư tưởng về con người, về xã hội trong thời kỳ khốn khó. Phân tích tình huống trong tác phẩm, ta sẽ thấy rõ tài năng của Kim Lân trong việc khắc họa số phận con người qua những tình huống éo le, vừa trào phúng, vừa cảm động.

Mở đầu câu chuyện, Kim Lân đã khắc họa bức tranh tả thực về cảnh sống nghèo đói, tàn tạ của những người dân trong nạn đói năm 1945. Bối cảnh xã hội lúc này là một thảm cảnh, khi con người bị dồn vào bước đường cùng, không còn hy vọng vào tương lai. Cái đói như một bóng ma ám ảnh tất cả mọi người, khiến họ trở nên tàn nhẫn, thiếu tình thương. Trong hoàn cảnh này, nhân vật Tràng, một người đàn ông nghèo khổ, nhút nhát, sống một mình trong căn nhà trống rỗng, không có gì ngoài một mái nhà dột nát. Tràng không có một gia đình, cũng không có công việc ổn định, sống trong cảnh bần hàn, không có hy vọng gì vào tương lai. Tuy nhiên, chính trong bối cảnh tuyệt vọng ấy, một tình huống bất ngờ xảy ra: Tràng gặp được người phụ nữ từ đâu đến, đồng ý làm vợ anh với lý do hết sức đơn giản và kỳ lạ: “Vợ nhặt.”

Tình huống trung tâm của tác phẩm là sự kiện Tràng “nhặt” được vợ trong tình cảnh đói khổ. Hình ảnh người phụ nữ xuất hiện trong cuộc sống của Tràng không phải là một cuộc gặp gỡ lãng mạn hay mang tính chất tình cảm thông thường mà lại diễn ra trong hoàn cảnh đặc biệt: cô gái ấy đồng ý làm vợ Tràng chỉ vì muốn có một nơi để nương tựa, tránh khỏi cảnh đói nghèo, hiểm nguy. Đây là một tình huống hoàn toàn bất ngờ, ngược lại với những quy tắc, chuẩn mực thường thấy trong xã hội. Người phụ nữ trong tác phẩm không phải vì tình yêu, mà vì lý do sinh tồn mà chọn lựa Tràng.

Tình huống này là một phép ẩn dụ về sự sống sót của con người trong hoàn cảnh tăm tối. Trong cái đói kém và chết chóc, tình yêu hay hạnh phúc không còn là yếu tố quan trọng nhất, mà thay vào đó là sự sống, là sự tồn tại. Nhân vật Tràng, một người đàn ông nghèo khổ, mơ hồ, không có gì ngoài cái đói, vậy mà lại có thể “nhặt” được vợ – điều này tạo nên một sự nghịch lý, vừa gây cười vừa tạo cảm giác buồn thương. Kim Lân đã rất khéo léo sử dụng tình huống này để làm nổi bật bi kịch của thời đại, khi con người sống trong cảnh bần cùng mà vẫn khát khao có được một mái ấm gia đình, dù rằng cái mái ấm đó không hẳn là hạnh phúc.

Tình huống “Vợ nhặt” còn thể hiện một phần bản chất của con người trong hoàn cảnh nghèo đói và khốn cùng. Việc Tràng “nhặt” vợ trong hoàn cảnh này không chỉ phản ánh nỗi khổ của anh mà còn là sự sống sót, đấu tranh, và lòng khát khao sống của con người. Dù nghèo khổ, Tràng vẫn có một hy vọng nhỏ nhoi về việc xây dựng tổ ấm, về một mái ấm gia đình dù chỉ là giả tạo trong hoàn cảnh bi đát. Người phụ nữ cũng vậy, cô không chỉ tìm kiếm sự sống mà còn hy vọng vào một tương lai mới, dù cho tương lai ấy có mịt mờ. Cả hai nhân vật đều như những con thuyền lênh đênh giữa dòng đời, mong manh, yếu ớt nhưng vẫn khao khát bám víu vào nhau để sống.

Tình huống này còn phản ánh hiện thực xã hội tàn nhẫn thời kỳ đó, khi con người ta không còn quan tâm đến phẩm hạnh hay tình cảm nữa, mà chỉ mong muốn tìm kiếm sự tồn tại trong môi trường thiếu thốn, khắc nghiệt. Tình huống “vợ nhặt” đồng thời cũng cho thấy sự tha hóa, sự biến dạng của những giá trị con người trong bối cảnh xã hội đầy rẫy đau khổ.

Mặc dù câu chuyện bắt đầu từ một tình huống bi kịch, đầy nghịch lý, nhưng tác phẩm không chỉ dừng lại ở bi thương. Ở cuối truyện, mặc dù Tràng và người vợ mới cưới vẫn sống trong đói khổ, bần hàn, nhưng cái kết của tác phẩm lại gợi lên một tia sáng hy vọng, một niềm tin vào tương lai. Khi cả hai cùng nhìn về phía trước, với người vợ dắt theo đứa con nhỏ, họ đi về phía chân trời nơi có tương lai, dù chỉ là hy vọng nhỏ nhoi trong tình cảnh khó khăn.

Cái kết mở này của Kim Lân có ý nghĩa sâu sắc, không chỉ đơn thuần là sự sống sót trong nghịch cảnh, mà còn là niềm tin vào sức mạnh của con người, vào khả năng vượt lên trong những hoàn cảnh tưởng chừng như tuyệt vọng nhất. Đây chính là một nét đẹp nhân văn mà nhà văn gửi gắm trong tác phẩm.

Nghệ thuật xây dựng tình huống của Kim Lân trong “Vợ nhặt” không chỉ làm nổi bật sự nghịch lý của hoàn cảnh, mà còn khéo léo phản ánh sự đau khổ của con người trong hoàn cảnh chiến tranh, đói kém. Các tình huống diễn ra nhanh chóng, đột ngột, nhưng lại rất hợp lý và thuyết phục, khiến người đọc không thể không suy nghĩ về số phận những con người trong hoàn cảnh khốn khó. Tình huống “vợ nhặt” không chỉ gây bất ngờ, mà còn phản ánh sự tha hóa của các giá trị nhân văn trong bối cảnh xã hội.

Nghệ thuật xây dựng tình huống trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân là một yếu tố quan trọng tạo nên sức hút và giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm. Tình huống bất ngờ, nghịch lý nhưng hợp lý, không chỉ phản ánh sự sống sót trong nghịch cảnh mà còn là hình ảnh đẹp về khát khao sống, yêu thương và hy vọng. Từ đó, nhà văn đã gửi gắm một thông điệp về sức mạnh của con người trong việc vượt qua mọi thử thách, đồng thời thể hiện lòng nhân ái, sự đồng cảm sâu sắc đối với những số phận trong xã hội nghèo đói thời kỳ chiến tranh.

Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Vợ nhặt - mẫu 8

Tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân không chỉ thành công bởi giá trị hiện thực sắc bén mà còn bởi nghệ thuật xây dựng tình huống độc đáo, mang tính bất ngờ nhưng đầy ý nghĩa. Tình huống “vợ nhặt” trong tác phẩm không chỉ là sự phản ánh thực trạng xã hội trong thời kỳ đói kém mà còn giúp làm nổi bật những phẩm chất nhân văn, bản lĩnh và khát vọng sống của con người. Kim Lân đã khéo léo sử dụng tình huống để làm nổi bật giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo trong hoàn cảnh bi đát, đồng thời gửi gắm những thông điệp sâu sắc về con người và xã hội.

Bài viết mở ra với bức tranh hiện thực đầy ám ảnh về cuộc sống của nhân vật Tràng và những người dân nghèo trong nạn đói năm 1945. Trong cảnh đói khát, tàn tạ, cuộc sống của Tràng, một người đàn ông nghèo khổ, vô gia cư, không có tương lai, là hiện thân của sự tuyệt vọng và tăm tối. Cảnh tượng Tràng “đi kéo xe bò” quanh làng, nơi mà anh ta sống trong sự cô đơn, thậm chí không có nổi một cái bát cơm ngon lành, làm nổi bật sự tàn lụi của nhân vật.

Ngay từ đầu, Kim Lân đã tạo dựng một bối cảnh xã hội nghèo nàn, đầy đau thương. Cái nghèo, cái đói chiếm lĩnh tất cả, ngay cả những nhu cầu cơ bản nhất của con người cũng không thể đáp ứng. Nhưng chính trong hoàn cảnh ngặt nghèo ấy, một tình huống bất ngờ đã xảy ra: Tràng “nhặt” được vợ, một người phụ nữ xa lạ, đồng ý làm vợ anh mà không cần tình yêu hay sự ngọt ngào thường thấy trong các mối quan hệ vợ chồng.

Tình huống chính trong tác phẩm là sự kiện Tràng “nhặt” được vợ giữa cảnh nghèo đói, bi kịch của nạn đói. Điều đáng nói ở đây là người phụ nữ này không phải là một người yêu thương hay tìm kiếm tình cảm, mà đơn giản là muốn tìm một nơi trú ẩn, một nơi nương tựa trong hoàn cảnh xã hội khốn cùng. Lý do cô gái đồng ý làm vợ Tràng là vì cô không còn sự lựa chọn nào khác: giữa cái chết đói và một cuộc sống có người chia sẻ, dù người chồng đó không giàu có, không xinh đẹp, không hoàn hảo về mọi mặt, cô vẫn quyết định chọn cuộc sống “chồng nhặt vợ” này.

Tình huống này rất đột ngột và bất ngờ, bởi nó không giống với các tình huống trong những câu chuyện tình yêu thông thường. Tràng, một người đàn ông nghèo khổ, không có bất cứ thứ gì ngoài cái đói, lại có thể “nhặt” được vợ một cách bất ngờ, thậm chí là hài hước. Tuy nhiên, chính tình huống này lại là điểm nhấn quan trọng giúp tác phẩm phản ánh thực tế xã hội lúc bấy giờ, khi mà con người ta phải lựa chọn giữa sự sống và cái chết, giữa sự tàn tạ và hy vọng sống.

Bên cạnh đó, cái “nhặt vợ” cũng là một tình huống hết sức thú vị và có tính trào phúng, bởi trong hoàn cảnh xã hội bình thường, hôn nhân là sự kết hợp giữa tình yêu và lòng trung thành, còn trong hoàn cảnh đói khổ này, hôn nhân lại trở thành một sự “lựa chọn sinh tồn”. Chính cái nghịch lý này khiến người đọc không chỉ cười mà còn cảm thấy xót xa, đau lòng cho số phận của con người.

Mặc dù Tràng và người vợ mới cưới sống trong cảnh nghèo đói, thiếu thốn trăm bề, nhưng sự xuất hiện của người vợ đã mở ra một khát vọng sống mới cho Tràng. Dù trong cảnh ngặt nghèo, Tràng vẫn giữ cho mình một chút hy vọng về tương lai, về gia đình, về một mái ấm có người bên cạnh, dù chỉ là tạm bợ và bấp bênh. Người phụ nữ cũng vậy, cô không chỉ đến với Tràng vì sự sống, mà còn vì khát vọng được hạnh phúc, được có một mái ấm gia đình dù đơn sơ.

Tình huống Tràng “nhặt” được vợ tạo ra một bước ngoặt trong đời sống của anh, từ một người cô độc, bơ vơ, Tràng bỗng nhiên có được sự đồng hành, có người sẻ chia nỗi khổ. Tuy nhiên, trong cái nghịch lý của hoàn cảnh, tình huống này cũng là một bài học về sự sống, sự hy sinh và khát vọng của con người. Như vậy, dù cuộc hôn nhân này không bắt nguồn từ tình yêu, nhưng nó lại khơi dậy niềm hy vọng về một tương lai tốt đẹp, sự sống mới trong hoàn cảnh nghèo đói.

Mặc dù tình huống mở đầu và giữa câu chuyện là những khó khăn và bi kịch, kết thúc của “Vợ nhặt” lại mở ra một hướng đi khác, một sự hồi sinh dù mong manh. Cuối câu chuyện, khi Tràng và người vợ mới cưới cùng nhau đi về phía tương lai, dù họ vẫn sống trong cảnh nghèo đói, nhưng trong cái nhìn của Tràng, trong hành động của người vợ, vẫn có một niềm hy vọng mơ hồ về một cuộc sống mới. Họ không còn cô đơn nữa mà có thể chia sẻ với nhau, cùng nhau vượt qua những khó khăn. Dù cuộc sống của họ vẫn còn rất tăm tối, nhưng cái kết của câu chuyện lại mở ra một sự sống, một hy vọng.

Kết thúc mở này không chỉ giúp tạo ra một cảm giác lạc quan mà còn thể hiện tinh thần kháng chiến, khát vọng vươn lên trong khó khăn của nhân dân Việt Nam thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám. Niềm hy vọng, dù nhỏ nhoi, lại là động lực quan trọng giúp con người có thể chiến thắng nghịch cảnh.

Nghệ thuật xây dựng tình huống của Kim Lân trong “Vợ nhặt” không chỉ là sự sáng tạo trong việc tạo ra các tình huống bất ngờ mà còn là sự khéo léo khi kết hợp chúng với những giá trị nhân văn sâu sắc. Mỗi tình huống đều phản ánh hiện thực xã hội trong giai đoạn khó khăn, nhưng qua đó, Kim Lân cũng khắc họa những phẩm chất tốt đẹp của con người, những khát vọng sống dù trong hoàn cảnh tăm tối. Bằng cách sử dụng tình huống bất ngờ, trào phúng nhưng cũng đầy nhân văn, nhà văn đã mang đến cho độc giả những cảm nhận sâu sắc về số phận con người trong nghịch cảnh.

Tình huống “Vợ nhặt” trong tác phẩm của Kim Lân không chỉ là một tình huống hài hước, ngược đời mà còn phản ánh sự khắc nghiệt của hoàn cảnh xã hội, đồng thời khơi dậy những giá trị nhân văn về khát vọng sống, tình yêu thương và niềm hy vọng dù nhỏ nhoi. Qua đó, Kim Lân đã sử dụng nghệ thuật xây dựng tình huống để gửi gắm những thông điệp sâu sắc về con người và cuộc sống trong xã hội nghèo khổ, đồng thời làm nổi bật bản lĩnh, tinh thần kiên cường của con người trong nghịch cảnh.

Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Vợ nhặt - mẫu 9

Kim Lân là một trong những cây bút xuất sắc trong văn học hiện thực Việt Nam, và tác phẩm “Vợ nhặt” của ông là một minh chứng rõ nét cho tài năng nghệ thuật của ông trong việc khai thác những tình huống độc đáo, bất ngờ nhưng đầy ý nghĩa. Tình huống trong tác phẩm “Vợ nhặt” không chỉ gây ấn tượng bởi sự bất ngờ, mà còn mở ra một không gian để nhà văn thể hiện những giá trị nhân văn sâu sắc, những bi kịch và hy vọng trong xã hội đói nghèo, cùng với những tầng lớp nhân tính đầy phức tạp của con người.

Mở đầu tác phẩm, Kim Lân không chọn cách đi vào câu chuyện bằng những mô tả về các mối quan hệ tình cảm hay câu chuyện lãng mạn như thông thường, mà lại vẽ lên một bức tranh xã hội khắc nghiệt, bi thương trong bối cảnh nạn đói năm 1945. Tràng, nhân vật chính, là một người đàn ông nghèo khổ, cô độc, sống trong một hoàn cảnh vô cùng túng quẫn. Ngôi nhà của anh tồi tàn, không có gì ngoài một cái chiếu cũ và vài vật dụng héo hắt. Điều này đã làm nổi bật sự nghèo đói cùng sự thất vọng trong cuộc sống của Tràng.

Cái nghèo ấy đã thể hiện sự tàn lụi của con người. Tràng là hiện thân của một người đàn ông mất hết hy vọng vào cuộc sống. Anh không có mục đích sống rõ ràng, không có mơ ước tương lai, sống một cuộc sống cô đơn và khắc khổ. Nhưng chính trong cảnh sống bần hàn đó, Kim Lân lại tạo ra một tình huống hết sức bất ngờ: Tràng gặp một người phụ nữ và nhặt được vợ trong hoàn cảnh đói khổ.

Cái “nhặt vợ” trong tác phẩm thực sự là một tình huống gây sốc và đầy nghịch lý. Trong xã hội bình thường, hôn nhân là sự kết hợp tự nguyện của tình yêu và cảm xúc, nhưng trong hoàn cảnh thảm khốc của nạn đói năm 1945, cái “vợ nhặt” lại diễn ra như một cuộc giao dịch, một sự lựa chọn giữa sự sống và cái chết. Người phụ nữ, một nhân vật không rõ tên, đến từ đâu đó, không có mối quan hệ tình cảm với Tràng mà chỉ đơn giản là vì cô ta không còn lựa chọn nào khác.

Đó là một tình huống bất ngờ và ngược đời khi một người phụ nữ trong cảnh đói khổ, chỉ vì sự sống còn, đã đồng ý làm vợ một người đàn ông nghèo, bẩn thỉu, không có tương lai. Cô chọn Tràng không phải vì yêu thương hay cảm mến, mà chỉ đơn giản vì cô cần một chỗ trú ẩn, cần một nơi nương tựa trong cái thời kỳ khốn cùng. Đây chính là một nghịch lý đau xót mà Kim Lân đã khắc họa rất tài tình: trong cái đói, con người ta không còn quan tâm đến tình yêu, mà chỉ còn một khát khao duy nhất – đó là sự sống, là tiếp tục tồn tại dù trong những điều kiện khắc nghiệt nhất.

Chính tình huống “vợ nhặt” này đã phản ánh sự tha hóa và biến dạng của các giá trị nhân văn trong xã hội dưới ảnh hưởng của đói nghèo và chiến tranh. Sự kiện Tràng “nhặt” được vợ không phải là một câu chuyện tình yêu thông thường mà là một sự tồn tại sinh lý và sự lựa chọn thực dụng của con người trong hoàn cảnh cùng quẫn. Đây là một sự phản chiếu về việc trong nỗi đau khổ của cái đói, con người đã đánh mất những giá trị nhân bản vốn có. Tình yêu, sự lãng mạn, và hôn nhân không còn là lựa chọn mà chỉ còn là một sự lựa chọn sinh tồn.

Kim Lân đã rất khéo léo khi đưa vào tác phẩm tình huống này, bởi nó không chỉ phản ánh hiện thực xã hội mà còn phản ánh những mâu thuẫn nội tại trong con người. Tràng, một người đàn ông nghèo, không có công việc ổn định, chỉ sống lay lắt qua ngày, nhưng trong cái nghèo khổ ấy, anh vẫn mong muốn có một gia đình, có một mái ấm. Và người phụ nữ, mặc dù không phải là người lính hay anh hùng, nhưng cũng chọn lựa một cuộc sống “nhặt vợ” vì điều đó là cách duy nhất để tồn tại trong xã hội đầy tăm tối này.

Mặc dù cuộc hôn nhân giữa Tràng và người phụ nữ không phải là kết quả của tình yêu, nhưng điều đáng chú ý là từ khi “nhặt” được vợ, Tràng bắt đầu thay đổi. Sự xuất hiện của người phụ nữ làm cho Tràng không còn cảm thấy cô đơn, bơ vơ, mà thay vào đó là một chút hy vọng về cuộc sống, về tương lai. Trong hành trình trở về với người vợ mới cưới, Tràng bỗng dưng có cảm giác như có một sự thay đổi kỳ lạ trong bản thân: anh trở nên mạnh mẽ hơn, lạc quan hơn.

Chính sự hiện diện của người phụ nữ giúp Tràng có thêm lý do để sống, để nhìn vào tương lai, mặc dù cái nghèo vẫn đè nặng trên vai anh. Người phụ nữ không phải là sự cứu vớt về mặt vật chất, nhưng là sự cứu vớt về mặt tinh thần, giúp Tràng có thể nghĩ đến một mái ấm gia đình, dù rằng đó chỉ là niềm hy vọng mong manh trong bối cảnh đau khổ, tuyệt vọng.

Mặc dù cuộc sống của Tràng và người vợ vẫn là những ngày tháng nghèo đói, thiếu thốn, nhưng cái kết của tác phẩm lại mở ra một hướng đi khác. Trong ánh mắt của Tràng và người vợ, dù nghèo đói, vẫn tồn tại một niềm hy vọng mong manh. Họ không chỉ bước đi trong cuộc sống thiếu thốn mà còn hướng về một tương lai tươi sáng hơn, dù cho đó chỉ là một ước mơ nhỏ nhoi.

Kết thúc này không chỉ thể hiện sức sống tiềm tàng của con người mà còn là sự khẳng định sức mạnh của khát vọng sống và hy vọng. Dù trong nghịch cảnh, con người vẫn có thể tìm thấy một lý do để tiếp tục sống, tiếp tục hy vọng.

Nghệ thuật xây dựng tình huống trong “Vợ nhặt” của Kim Lân có sự kết hợp hoàn hảo giữa hiện thực và tưởng tượng, giữa sự nghịch lý và giá trị nhân văn. Mỗi tình huống trong tác phẩm đều không chỉ đơn giản là một diễn biến tình huống, mà còn là một phép ẩn dụ về sự sống, sự đấu tranh của con người trong một xã hội đầy đau khổ. Kim Lân không chỉ tạo ra những tình huống bất ngờ mà còn dẫn dắt người đọc qua từng tình huống để hiểu hơn về tâm lý, khát vọng và phẩm chất của nhân vật, cũng như những vấn đề xã hội sâu sắc mà tác phẩm phản ánh.

Tình huống “vợ nhặt” trong tác phẩm của Kim Lân không chỉ đơn thuần là một tình huống gây cười hay sự nghịch lý trong hoàn cảnh mà nó còn phản ánh sâu sắc hiện thực của một xã hội nghèo đói, khốn cùng, nơi con người chỉ còn biết đấu tranh cho sự sống. Nghệ thuật xây dựng tình huống của Kim Lân không chỉ làm nổi bật hoàn cảnh éo le mà còn thể hiện một cách sâu sắc tinh thần nhân văn, khát khao sống của con người. Từ đó, tác phẩm không chỉ gây ấn tượng mạnh mẽ mà còn khiến người đọc suy ngẫm về những giá trị sống, giá trị tình cảm trong những hoàn cảnh tưởng chừng như không còn gì có thể cứu vãn.

Phân tích nghệ thuật xây dựng tình huống trong truyện ngắn Vợ nhặt - mẫu 10

Tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất trong kho tàng văn học hiện thực Việt Nam, đặc biệt nổi bật với nghệ thuật xây dựng tình huống độc đáo và đầy ẩn ý. Tình huống trong tác phẩm không chỉ là sự kết hợp khéo léo giữa những yếu tố bất ngờ, nghịch lý mà còn mang đậm giá trị nhân văn, phản ánh những đau khổ và khát vọng sống mãnh liệt của con người trong hoàn cảnh đói nghèo, tăm tối. Tình huống “vợ nhặt” không chỉ đơn thuần là câu chuyện về sự thay đổi của nhân vật Tràng, mà còn là thông điệp về cuộc sống, tình người trong bối cảnh xã hội khó khăn.

Tình huống “vợ nhặt” mà Kim Lân xây dựng trong tác phẩm mở ra ngay từ đầu, với một bối cảnh xã hội đói khổ, đổ nát. Nhân vật chính, Tràng, là một người đàn ông nghèo khổ, không công việc ổn định, sống trong cảnh đói nghèo, bơ vơ. Đến mức, anh ta cũng không dám hy vọng vào một tương lai tươi sáng, một gia đình ấm êm. Tràng là hiện thân của một tầng lớp lao động nghèo, sống lay lắt qua ngày, hoàn toàn không có quyền mơ ước.

Tuy nhiên, trong chính cái nghèo đói thê thảm ấy, Kim Lân đã đưa ra một tình huống vô cùng bất ngờ và nghịch lý: Tràng “nhặt” được vợ, một người phụ nữ từ đâu đến, chỉ vì hoàn cảnh đói khổ đã buộc cô phải lựa chọn sống để tìm chỗ nương tựa. Hình ảnh Tràng – người đàn ông nghèo xơ xác, vô danh – lại có thể “nhặt” được vợ là một nghịch lý, khi mà trong xã hội bình thường, hôn nhân là sự kết hợp từ tình yêu và lòng chung thủy. Nhưng trong hoàn cảnh bi thảm của nạn đói năm 1945, hôn nhân không còn là vấn đề tình cảm, mà là sự lựa chọn giữa sống và chết. Chính cái nghịch lý này đã làm nổi bật sự tàn bạo của xã hội lúc bấy giờ, khi mà cái đói, cái chết đe dọa con người hơn bao giờ hết.

Tình huống Tràng “nhặt vợ” là một sự phản ánh sâu sắc về sự biến dạng các giá trị nhân văn trong xã hội. Hôn nhân, tình yêu, gia đình – những giá trị cao đẹp của con người bỗng trở thành những thứ có thể bị xóa nhòa khi con người phải đối mặt với cái chết. Người phụ nữ đồng ý làm vợ Tràng không phải vì tình yêu hay lòng thương cảm, mà vì cô ấy không còn sự lựa chọn nào khác. Cô đến với Tràng chỉ vì sự sống, vì một nơi trú ẩn giữa những đợt đói khát càn quét. Thực tế này là minh chứng cho sự tha hóa của các giá trị trong xã hội, khi mà nỗi khổ cực của con người đã khiến tình yêu và hôn nhân trở nên vô nghĩa.

Kim Lân không chỉ khắc họa một cách tàn nhẫn và chân thật sự khốn khổ của con người trong xã hội đói nghèo, mà qua đó còn làm nổi bật cái nghịch lý khi con người ta không còn quan tâm đến những khát vọng tinh thần, mà chỉ còn lại một khát vọng sinh tồn mạnh mẽ, gần như là bản năng.

Một điểm thú vị trong tình huống này là sự thay đổi rõ rệt trong nhân vật Tràng. Mặc dù hôn nhân của Tràng và người phụ nữ không bắt nguồn từ tình yêu, nhưng sự xuất hiện của cô đã làm thức tỉnh những khát vọng sống trong Tràng. Từ một người đàn ông vô vọng, không có hy vọng vào tương lai, Tràng bắt đầu có những suy nghĩ khác. Anh không còn chỉ sống lay lắt qua ngày, mà bây giờ anh có một lý do để tồn tại: gia đình, mái ấm.

Sự thay đổi này không phải là một phép màu, mà là một biểu hiện của bản năng con người – dù trong cảnh ngặt nghèo đến đâu, con người vẫn có thể tìm thấy hy vọng, một niềm tin vào tương lai. Việc Tràng “nhặt” được vợ, mặc dù bắt nguồn từ một lý do rất thực tế là sinh tồn, nhưng lại trở thành động lực giúp anh thay đổi tư duy và nhìn nhận lại cuộc đời. Điều này cũng phản ánh một thông điệp sâu sắc: ngay cả trong những hoàn cảnh tồi tệ nhất, con người vẫn có thể vươn lên và khát khao sống.

Mặc dù tình huống trong “Vợ nhặt” khá bi thương và trớ trêu, kết thúc của tác phẩm lại mở ra một sự hy vọng, dù mong manh. Tràng và người vợ mới cưới vẫn phải đối mặt với những khó khăn, nhưng việc họ bước đi cùng nhau, hướng về một tương lai không còn cô đơn nữa, mang đến một tia sáng trong bóng tối. Dù trong hoàn cảnh đói kém, họ vẫn có nhau, và đây chính là biểu tượng cho niềm hy vọng, dù nhỏ nhoi, nhưng là động lực để tiếp tục sống.

Kết thúc mở của tác phẩm không chỉ là một khúc ca lạc quan về con người mà còn khẳng định giá trị nhân văn bất diệt của tình yêu và gia đình trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Điều này thể hiện rằng con người có thể mất đi tất cả, nhưng không thể mất đi hy vọng và khát vọng sống.

Nghệ thuật xây dựng tình huống trong “Vợ nhặt” của Kim Lân rất tinh tế và sâu sắc. Bằng cách khắc họa tình huống nghịch lý nhưng lại vô cùng thực tế, Kim Lân không chỉ làm nổi bật hiện thực xã hội đói nghèo mà còn thể hiện những vấn đề tâm lý phức tạp trong lòng nhân vật. Tình huống “vợ nhặt” không chỉ là sự phản ánh hiện thực xã hội mà còn mở rộng ra một chiều sâu tâm lý, khi mà con người ta trong nghịch cảnh, vẫn tìm được một tia hy vọng để sống. Chính sự khéo léo trong xây dựng tình huống này giúp tác phẩm mang lại giá trị nhân văn sâu sắc.

Tình huống “vợ nhặt” trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân không chỉ đơn thuần là một sự kiện gây bất ngờ, mà còn là một ẩn dụ mạnh mẽ về những đau khổ và khát vọng sống mãnh liệt của con người trong nghịch cảnh. Tác phẩm làm nổi bật sự tha hóa của các giá trị nhân văn trong xã hội nghèo đói, nhưng cũng không quên truyền tải một thông điệp về niềm hy vọng, về khát vọng sống và tình yêu trong những hoàn cảnh tăm tối. Kim Lân đã thành công trong việc xây dựng một tình huống độc đáo, vừa mang tính phản ánh xã hội, vừa chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc, khiến người đọc không chỉ cảm nhận được hiện thực xã hội mà còn có thêm niềm tin vào bản lĩnh con người trong những hoàn cảnh khó khăn.

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 11 Kết nối tri thức hay nhất, ngắn gọn khác:

Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 11 hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 11 Kết nối tri thức khác