Top 20 Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ Nhớ đồng

Tổng hợp trên 20 văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ Nhớ đồng hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

Top 20 Viết văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ Nhớ đồng

Quảng cáo

Bài văn nghị luận về tác phẩm thơ Nhớ đồng - mẫu 1

Tố Hữu là một nhà thơ lớn, xuất sắc trong nền văn thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy tập thơ đồ sộ, thơ ông được coi là biên niên sử bằng thơ. Đối với Tố Hữu, ông quan niệm con đường thơ ca cũng giống với con đường cách mạng. Vậy nên thơ ông thường song hành cùng con đường cách mạng qua đó đã phản ánh những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc ta. Qua bài thơ Nhớ đồng, người cộng sản trẻ tuổi bày tỏ nỗi niềm thương nhớ đồng quê, thương nhớ cảnh vật con người, đồng đội đồng bào của mình trong những tháng ngày bị giam giữa ở nhà lao Thừa Thiên Huế.

Tháng 7 năm 1939 trong khi hoạt động cách mạng, Tố Hữu đã bị thực dân Pháp bắt và nhốt giam tại nhà tù ở Thừa Thiên Huế. Tuy bị giam cầm lẻ loi trong tù ngục tối tăm nhưng chính hoàn cảnh sống ấy đã gợi cho ông nguồn cảm hứng dạt dào để làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được tác giả sáng tác trong hoàn cảnh ấy và được rút từ tập thơ “Từ ấy” trong phần xiềng xích của tác phẩm. Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của tập thơ Từ ấy.

“Cô đơn thay là cảnh thân tù

Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..” 

Đó chính là cái cảm giác cô đơn, lẻ loi, đơn độc khi Tố Hữu bị bắt giảm, sống cách biệt với thế giớ bên ngoài. Vì vậy chỉ là một âm thanh hay một tiếng động nhỏ nào từ bên ngoài dội vào thôi cũng đủ để gợi cho nhà thơ một nỗi nhớ tha thiết, khôn nguôi. Chẳng phải là tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng bao la khắc khoải gọi hè về như trong tác phẩm “Khi con tu hú”, mà đây chỉ là tiếng hò quen thuộc của nơi đồng quê:

“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!”

Bài thơ được gợi cảm hứng từ tiếng hò thân quen đã trở thành điệp khúc lặp đi lặp lại về nỗi thương nhớ, nỗi cô đơn, hiu quạnh, lạnh lẽo của người tù.

Quảng cáo

Tiếng hò đã gợi ra biết bao nỗi nhớ, kí ức về hình ảnh quen thuộc nơi đồng quê hiện về trong tâm trí tác giả:

“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng che mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?”

Âm thanh tiếng hò- một âm thanh gần gũi, quen thuộc nơi quê nhà của tác giả. Trong sự xa cách ấy, nỗi nhớ của nhà thơ dường như càng mãnh liệt và da diết hơn biết bao. Giờ đây, hình ảnh, mùi vị, màu săc, âm thanh của quê hương càng trở nên thật thân thương, gần gũi đến lạ thường.

Không chỉ nhớ về đồng quê, Tố Hữu còn nhớ tới hình ảnh con người lao động – những người dân nơi thôn quê cần cù, giản dị mà chất phác, họ đã quen với việc “dãi gió dầm mưa”,”hiền như đất”, “rất thật thà”:

“Đâu những lưng cong xuống luống cày

Mà bùn hy vọng nức hương ngây

Và đâu hết những bàn tay ấy

Vãi giống tung trời những sớm mai?”

Đó là những người nông dân, chăm chỉ, chịu khó quanh năm lao động cật lực, họ bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Người nông dân cùng luống cày gian nan, vất vả, theo thời gian, theo năm tháng lưng của họ càn còng dần. Thế nhưng dù cho có phải ở trong bùn đen lấm lem bụi bẩn, ở họ vẫn toát lên một vẻ đẹp nhân hậu, sáng ngời của phẩm chất trong sáng. Chính những người lao động giản gị, mộc mạc, chân chất thôn quê ấy lại là những người sẽ gieo thêm những tia hi vọng vào một tương lai sáng ngời.

Quảng cáo

Nhà thơ tiếp tục bày tỏ nỗi nhớ thương da diết của mình qua các chi tiết, hình ảnh: giọng hò, sương, lúa, tiếng xe lùa nước,…. Tất cả đều là mang một sự thân quen của nơi quê hương xa xôi, cách trở. Và nhà thơ nhớ da diết tới những âm thanh, hình ảnh ấy. Từ đó, theo dòng hồi tửng, Tố Hữu lại nghĩ bản thân về cảnh tù đày, đến đây tác giả như có chút chạnh lòng chợt len lỏi vào trong tâm khảm của người chiến sĩ cách mạng:

“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!”

Tất cả những điều là quen thuộc và thân thương nhất, nhưng vào khoảnh khắc này, nhà thơ lại chẳng thấy gì “đâu cả rồi“. Câu hỏi ấy vang lên nhưng chẳn có một lời đáp, điều đó như là một nhát dao đâm sâu vào trong lòng người tù, khiến cho người thi sĩ trở nên đau đớn, xót xa, tủi nhục hơn bao giờ hết. Giờ đây, khi ở trong nhà lao tăm tối này, mọi thứ trở nên cách biệt và xa xôi biết nhường nào. Và trong nỗi nhớ thương da diết ấy, hình ảnh người mẹ già yêu dấu đã hiện lên trong tâm trí tác giả. Mẹ- chính là người mà tác giả nhớ nhất, thương nhất trong nỗi nhớ của mình.

Và sau những thoáng tủi hổ, buồn thương ấy, người chiến sĩ lại thiết tha với tình yêu cuộc sống, anh ấy lại dũng cảm kiên trì, đấu tranh với những phút giây yếu mềm để vượt qua nó. Và thế là khát khao được tự do, được giả thoát lại sôi sục trong trái tim cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng:

“Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say hương đồng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời”

Hình ảnh chú chim sơn ca như là một biểu tượng đại diện cho khát khao được tự do sải rộng cánh bay trên bầu trời trong xanh và rộng lớn kia. Đây có lẽ là tâm trạng vui tươi nhất của người chiến sĩ khi bị giam cầm trong tù.

Quảng cáo

Nỗi nhớ thương của tác giả được đánh thức bởi “tiếng hò đưa hố não nùng“. Tiếng hò ấy đã gợi dậy về một thế giới khác bên ngoài nhà giam cùng những cảnh sắc và những hình dáng quen thuộc. Để rồi nhớ về quá khứ, những ngày còn được tự cống hiến bản thân cho cách mạng, và cuối cùng khi trở về với thực tại đau thương, một lần nữa khao khát được tự do, được dâng hiến mình cho đảng lại sôi sục trong lòng người chiến sĩ. 

Dàn ý Bài văn nghị luận về tác phẩm thơ Nhớ đồng

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Tố Hữu

+ Tố Hữu (1920 - 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

+ Thơ Tố Hữu quy tụ và kết tinh truyền thống nhân văn cùng sức mạnh tinh thần của dòng giống Lạc Hồng bất khuất.

+ Ông là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam.

- Dẫn dắt vào vấn đề cần phân tích

Bài thơ Nhớ đồng sáng tác trong hoàn cảnh tác giả bị thực dân Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ (Huế) tháng 7 năm 1939 vì “tội” tuyên truyền thanh niên, học sinh chống Pháp.

2. Thân bài

a. Nỗi nhớ của người tù cộng sản với cuộc sống bên ngoài nhà tù

- Cảm hứng của bài thơ được gợi lên từ tiếng hò.

Tiếng hò được lặp lại nhiều lần. Tiếng hò lẻ loi đơn độc giữa trời trưa → nhân vật trữ tình cảm nhận được sự hiu quạnh

Không gian đồng vắng

Thời gian trưa vắng

Hiu quạnh của đời buồn tủi nhọc nhằn

- Lòng người đang bị giam cầm trong tù ngục cách biệt với cuộc sống bên ngoài

- Tiếng hò đã đồng cảm, hòa điệu của nhiều nỗi hiu quạnh → Người chiến sĩ cách mạng thấy nhớ nhung da diết đồng quê, cuộc sống bên ngoài nhà tù.

+ Tiếng than khắc khoải, da diết → diễn tả cõi lòng hoang vắng vì bị cách biệt với thế giới bên ngoài → nỗi hiu quạnh của người tha thiết yêu đời.

+ Sự lặp lại → nhấn mạnh liền ý liên kết nhiều nội dung khác nhau, tô đậm cảm xúc, khắc sâu ý tưởng → triền miên vì nỗi nhớ da diết.

- Đồng quê thể hiện lên đậm đà nỗi nhớ của tác giả:

Cồn thơm, ruồng tre mát, ô mạ xanh mơn mởn, nương khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng và con đường thân thuộc, xóm nhà tranh thấp, con đường quen. → Tất cả đều đơn sơ gần gũi quen thuộc, thân thương → bị ngăn cách.

- Con người gần gũi thân thuộc thân thương:

Những lưng cong xuống luống cày

Những bàn tay vãi giống

Một giọng hò đưa bố mẹ già xa đơn chiếc → linh hồn đã khuất.

- Nỗi nhớ chân thật đậm tình thương mến

- Nhớ đến bản thân mình:

+ Nhớ tới những ngày tháng tự do hoạt động cách mạng.

+ “Rồi một …ngát trời”

→ Say mê lý tưởng, khao khát tự do sôi nổi ⇒ càng cảm thấy cô đơn với thực tại cuộc sống bị giam cầm.

b. Diễn biến tâm trạng của Tố Hữu

- Nỗi nhớ biểu hiện tâm trạng nhà thơ:

+ Từ tiếng hò gợi nỗi nhớ đồng quê tha thiết: Hình ảnh đồng quê hiện lên đậm đà với: cồn thơm, ruộng tre mát, mạ xanh mơn mởn, khoai ngọt sắn bùi, chiều sương phủ bãi đồng, xóm làng, con đường thân thuộc → những hình ảnh gần gũi, quen thuộc, thân thương nay đã trở nên xa cách.

+ Nỗi nhớ bao con người thân thuộc: từ cảnh sắc bóng dáng con người → người mẹ già nua → nhớ chính mình

+ Nỗi nhớ trải dài từ hiện tại trở về quá khứ → hiện tại

⇒ nhớ, tràn ngập xót thương → không chỉ buồn đằng sau là nỗi phẫn uất, bất bình với thực tại ⇒ niềm da diết nhớ thương, yêu cuộc sống, khao khát tự do.

3. Kết bài

- Đây là bài thơ hay, giàu cảm xúc và tâm trạng của một người chiến sĩ khao khát tự do và hành động. Nỗi nhớ đồng quê, con người, chính mình biểu hiện tình yêu da diết với cuộc sống bên ngoài nhà tù và bao trùm hơn hết là tình yêu Tổ quốc, khát vọng tự do.

- Lựa chọn hình ảnh gần gũi, quen thuộc, giọng thơ da diết, khắc khoải trong nỗi nhớ

Bài văn nghị luận về tác phẩm thơ Nhớ đồng - mẫu 2

Tố Hữu - một nhà thơ cách mạng nổi tiếng, ông được kết nạp đảng năm 1938 thì đến năm 1939 trong quá trình hoạt động đã bị bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ, hoạt động cách mạng hăng say và nhiệt huyết là thế nhưng lại bị bắt giam nên trong quá trình bị giam cầm ông đã sáng tác một tập thơ mang tên "Từ ấy", bài thơ "Nhớ đồng" nằm trong phần "Xiềng xích" của tập thơ nói về tâm trạng nhớ quê hương, cách mạng của ông những ngày tháng sống trong trại giam.

Trong hoàn cảnh bị giam cầm tù hãm, người chiến sĩ cộng sản không tránh khỏi những u buồn, nhớ thương, chính tiếng hò vang vọng đâu đó đã đánh thức và khơi dậy nỗi niềm nhớ thương của người tù. Giữa không gian đồng không mông quạnh trưa nắng, một con người lẻ loi, cô độc đang bị giam cầm tách biệt với cuộc sống bên ngoài.

"Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò"

"Gì sâu bằng" ấy là nói về nỗi nhớ sâu thẳm trong cõi lòng tác giả, điệp từ "đâu" ở đầu suốt năm câu thơ như là nỗi day dứt tìm kiếm trở về với cuộc sống khi xưa, tìm kiếm sự yên bình nơi quê hương trong sự ngậm ngùi:

"Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi...

Đâu những đường con bước vạn đời"

Bức tranh cuộc sống sinh hoạt làng quê thân thương và rất đỗi bình dị hiện ra trước mắt người tù cộng sản, chỉ là tưởng tượng thôi nhưng nó sống động và tuyệt đẹp, giàu xúc cảm biết bao. Không chỉ là cảnh đồng lúa, khóm tre, nương rẫy hay những mái nhà tranh, ở trong tâm tưởng của nhà thơ còn có con người, những người nông dân cơ cực vất vả nhưng ấm áp tình người.

"Đâu những lưng cong xuống luống cày...

Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi...

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi"

Đâu đó còn là bóng dáng của người mẹ thương nhớ càng siết chặt thêm nỗi khắc khoải khôn nguôi của nhà thơ, tác giả như chìm đắm, say trong những cơn nhớ nhung không dứt "Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ..." từng lời như đang than thở vì sự bất khả kháng với hoàn cảnh của chính mình, không thể thoát ra để giải tỏa nỗi lòng. Người chiến sĩ trẻ nhớ về những ngày đầu đến với lý tưởng cách mạng và thời hoạt động cách mạng tự do của mình:

"Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi...

Trên chín tầng cao bát ngát trời"

Trước là nhớ về quá khứ tối tăm ngột ngạt của mình để như khẳng định hơn sự sáng suốt và đúng đắn, niềm hạnh phúc khi tìm được lý tưởng cách mạng, và rồi tác giả tự cho mình những giây phút say trong niềm khao khát hoạt động cách mạng ấy, tâm trạng u buồn bỗng nhiên được tưới mát trở nên vui vẻ và phấn chấn hơn, "Nhẹ nhàng như con chim cà lơi", cánh chim tượng trưng cho sự tự do tự tại và tác giả đang ví mình là những con chim đó, say trong đồng hương nắng như chính người chiến sĩ say trong hoạt động cách mạng. Nhưng dù có cố gắng cách mấy nhà thơ cũng không tránh khỏi sự đối mặt với thực tại bị giam hãm trong lao tù, hai câu thơ kết lặp lại y nguyên hai câu thơ đầu, nhấn mạnh sự bất lực, bế tắc không có lối thoát. Mặc dù vậy tư tưởng hướng về quê hương và cách mạng vẫn còn đó, khát vọng về một ngày được tự do được hoạt động cách mạng vẫn luôn cháy bỏng trong trái tim người tù cộng sản.

Qua bài thơ "Nhớ đồng" người đọc không chỉ cảm nhận được một tình yêu quê hương tha thiết của Tố Hữu mà còn thấy hiện lên một người chiến sĩ cộng sản yêu lý tưởng cách mạng, yêu đất nước và khát vọng tự do hành động, hy sinh vì Tổ quốc.

Bài văn nghị luận về tác phẩm thơ Nhớ đồng - mẫu 3

Tố Hữu là nhà thơ lớn của nền thơ hiện đại Việt Nam. Với bảy tập thơ lớn, thơ ông được xem là biên niên sử bằng thơ của cách mạng Việt Nam. Đối với Tố Hữu, con đường thơ ca cũng là con đường cách mạng. Thơ ông song hành với con đường cách mạng và phản ánh những chặng đường cách mạng quan trọng của dân tộc. Bài thơ Nhớ đồng là nỗi niềm thương nhớ đồng quê, cảnh vật con người, đồng bào đồng chí của người tù cộng sản trẻ tuổi trong những ngày tháng bị giam ở nhà lao Thừa Thiên Huế.

Tháng 7 năm 1939 Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt và giam tại nhà tù Thừa Thiên Huế. Tuy bị giam cầm trong tù ngục nhưng ông vẫn làm thơ. Bài thơ Nhớ đồng được sáng tác trong hoàn cảnh đó và được trích trong tập thơ: Từ ấy trong phần xiềng xích. Đây là một bài thơ tiêu biểu của tập thơ Từ ấy.

“Cô đơn thay là cảnh thân tù/ Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..” đó là cảm giác rõ nhất khi Tố Hữu bị bắt, cách biệt với cuộc sống bên ngoài. Vì vậy một âm thanh, một tiếng động nào bên ngoài dội vào cũng gợi lên trong lòng nhà thơ một nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Không phải là tiếng chim tu hú khắc khoải gọi hè như trong bài thơ Khi con tu hú, mà là một tiếng hò quen thuộc của đồng quê:

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

Bài thơ gợi từ tiếng hò thân thuộc trở thành điệp khúc trở đi trở lại: Nỗi thương nhớ; nỗi hiu quạnh. Bằng cách lặp đi lặp lại 4 lần hình ảnh một tiếng hò nhà thơ đã nói lên được sự đồng cảm với tâm trạng cô đơn, cảm giác lạnh lẽo của người tù.

Tiếng hò như một điểm nhấn gợi nhớ, khiến cho bao nhiêu hình ảnh quen thuộc của đồng quê hiện về:

Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng che mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?

Âm thanh tiếng hò gợi nhớ về quê h­ương. Thế giới bên ngoài là đồng quê, hình ảnh con ngư­ời, mùi hư­ơng, màu sắc, âm thanh. Đó là những hình ảnh thân thuộc, da diết của quê hương, xứ sở. Trong xa cách, nỗi nhớ của nhà thơ dường như da diết hơn. Trong xa cách, hình ảnh, mùi vị, âm thanh, màu sắc của quê hương càng trở nên gần gũi lạ thường.

Nỗi nhớ đồng quê ấy còn là nỗi nhớ con người lao động – những người dân quê cần cù, chất phác, quen “dãi gió dầm mưa”,”hiền như đất”, “rất thật thà”:

Đâu những lưng cong xuống luống cày

Mà bùn hy vọng nức hương ngây

Và đâu hết những bàn tay ấy

Vãi giống tung trời những sớm mai?

Đó là những người dân cày quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Đó người nông dân với luống cày vất vả, gian nan, lưng còng theo năm tháng. Thế nhưng, ở họ, toát lên một vẻ đẹp sáng ngời của phẩm chất trong sáng, dù có ở trong bùn đen nhưng vẫn nức hương. Chính họ, chính những người lao động chân chất thôn quê ấy còn là những người gieo những tia hi vọng vào tương lai.

Nhà thơ tiếp tục nỗi nhớ của mình với các hình ảnh: sương, lúa, tiếng xe lùa nước, giọng hò. Tất cả đều là hình ảnh, âm thanh thân thuộc của đồng quê. Và nhà thơ nhớ da diết những hình ảnh ấy. Từ nỗi nhớ ấy, nghĩ về cảnh tù đày của bản thân, một chút chạnh lòng chợt len lỏi trong tâm khảm nhà thơ cách mạng:

Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!

Tất cả những gì quen thuộc nhất, thân thương nhất, nhưng giờ đây “đâu cả rồi“. Một câu hỏi lớn vang lên không lời đáp như là một nhát dao đâm vào lòng người tù, trở nên đau đớn, xót xa. Giờ đây, khi ở trong lao, mọi thứ đã cách biệt và trở nên xa xôi hơn bao giờ hết. Chao ôi thương nhớ, điệp khúc lặp lại hai lần trong câu thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết khôn nguôi của nhà thơ. Và trong nỗi nhớ thương ấy, hiện lên hình ảnh người mẹ già – người mà tác giả nhớ nhất trong nỗi nhớ của mình.

Mạch thơ tiếp diễn với nỗi nhớ thương da diết, dâng trào. Khi người ta nhớ, người ta thương mà không được nhìn, không được ngắm, không được trở về để yêu thương thì càng khiến con người thêm day dứt, thêm cồn cào ruột gan. Và sau những thoáng buồn thương cho cảnh ngộ của mình trong tù, người chiến sĩ thiết tha yêu cuộc sống lại kiên trì – đấu tranh với những giây phút yếu mềm để vượt lên. Anh nhớ lại hình ảnh của chính mình của “những ngày xưa”, từ cái thời “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”, “theo mãi vòng quanh quẩn” để có ngày đến với cách mạng, gặp gỡ lí tưởng cộng sản. Và thế là người tù lại khát khao tự do, thèm muốn được thoát khỏi lao tù để lại được dấn thân vào trường tranh đấu vì sự nghiệp cách mạng.

Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say hương đồng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời

Hình ảnh con chim sơn ca như là một biểu tượng cho ước muốn được tung bay trên bầu trời tự do bát ngát, được trở lại với hoạt động trong lòng dân, được trở về với cuộc sống con người tự do. Đây là tâm trạng vui nhất của người chiến sĩ trong tù.

Diễn biến tâm trạng của tác giả trong bài thơ được thể hiện khá chân thực, trọn vẹn và liền mạch. Nỗi nhớ được đánh thức từ một “tiếng hò đưa hố não nùng“. Tiếng hò gợi dậy thế giới đồng quê bên ngoài từ cảnh sắc đến những dáng hình quen thuộc. Rồi nhớ về những ngày còn được thỏa sức hoạt động cho cách mạng, cuối cùng lại trở lại thực tại đau thương của cảnh nhà tù và khát vọng muốn được tự do, được cống hiến. Cả bài thơ thấm đượm nỗi nhớ thương da diết, khôn nguôi; khiến độc giả thêm cảm phục hình ảnh người chiến sĩ cách mạng – nhà thơ Tố Hữu.

Bài văn nghị luận về tác phẩm thơ Nhớ đồng - mẫu 4

“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!…”

Tiếng thơ cất lên trong ngục tù, vọng nỗi niềm khắc khoải thiết tha của chàng thanh niên 19 tuổi Tố Hữu hướng về cuộc sống tự do, tất cả những hình ảnh, cảm xúc hòa quyện làm thành một nỗi nhớ gắn kết nhà thơ với thế giới bên ngoài. Nhớ đồng viết trong phần “Xiềng xích” của tập thơ “Từ ấy”, trong cái im ắng không gian trưa để tác giả nghe tiếng vọng lòng mình rõ nhất.

Dấn thân vào chốn lao tù khi tuổi đời còn quá trẻ, Tố Hữu mở đầu phần “Xiềng xích” với Tâm tư trong tù, cảm nhận rõ hoàn cảnh mất tự do, xác định ý chí sắt đá của người chiến sĩ, tự động viên mình vượt lên nghịch cảnh, tách biệt lí trí và tình cảm có phần cực đoan và bồng bột. Nhưng đến Nhớ đồng, ta bắt gặp một Tố Hữu hoàn toàn khác, có sự chín chắn hơn sau những thử thách đầu tiên. Nếu không hiểu hoàn cảnh này, ta cứ ngỡ bài thơ mang tâm trạng của một khách tha phương vọng về cố xứ! Cũng dễ hiểu thôi, khi Tố Hữu làm thơ cũng là lúc Thơ Mới đang chiếm ưu thế tuyệt đối trên văn đàn, là một người trẻ tuổi yêu thơ, chắc chắn nhà thơ dễ cảm được nỗi lòng của những bạn trẻ đồng trang lứa. Có ngẫu nhiên chăng khi bị lâm vào cảnh tù hãm, Tố Hữu lại viết một loạt những “Nhớ người”, “Nhớ đồng” như một cách cắt nghĩa khác với “Nhớ rừng” của Thế Lữ – thác lời con hổ trong cảnh sa cơ nhớ thời oanh liệt! Cũng là nhớ, nhưng nhà thơ lãng mạn để cho nỗi nhớ khơi dậy niềm kiêu hãnh và nỗi ngậm ngùi thân phận cá nhân, đề cao và khẳng định vị thế của cái Tôi. Còn Tố Hữu thông qua nỗi nhớ, xác lập các mối liên hệ với thế giới bên ngoài, thấm thía cả vẻ đẹp và nỗi buồn cuộc đời, gửi gắm tình yêu cuộc sống và cũng là nhận thức của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi, vừa da diết bâng khuâng vừa hăm hở sôi nổi. Có một cái Tôi – chiến sĩ và thi sĩ – càng lúc càng đằm thắm, đầy tinh thần lạc quan tin tưởng vào lý tưởng, trên tinh thần “dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa”!

Sau khoảnh khắc cảm nhận “gì sâu bằng” như một cách cắt nghĩa lòng mình, ùa về trên những dòng thơ của Nhớ đồng là bao hình ảnh ngồn ngộn sức sống của đồng quê quen thuộc:

“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng tre mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?”

Không gian sau nỗi nhớ thật bình dị thân thuộc, khắc khoải một tâm trạng kiếm tìm, nuối tiếc, trân trọng những vẻ đẹp của nhà thơ. Làng quê hiện về trong kí ức với hương của đất, bóng mát lũy tre làng, sắc xanh nao lòng của mạ và vị ngọt bùi khoai sắn gợi một cảm giác thật bình yên, đáng yêu đáng quí. Cái nhìn từ tâm trạng của một người bị mất tự do thật thấm thía khi “một tiếng hò” vọng vào làm hiện lên bao hình ảnh cuộc sống bên ngoài càng gợi nhớ gợi thương. Và nhà thơ còn cảm nhận được cái “hiu quạnh” của những cuộc đời quẩn quanh tù túng, lặng lẽ trôi đi trong nhịp đời day dứt buồn thương:

“Đâu những đường con bước vạn đời

Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

Giữa dòng ngày tháng âm u đó

Không đổi nhưng mà trôi cứ trôi…”

Có đáng buồn không những thân phận lầm lũi sau lũy tre làng, những cuộc đời chìm trong bóng tối mang theo cả cái ngột ngạt của cuộc sống “âm u”, gợi tình cảnh đất nước chìm đắm trong kiếp nô lệ! Cái “hiu quạnh” không phải do tác động từ không gian ngoại cảnh mà bắt nguồn từ nhận thức của người chiến sĩ đã dấn thân trên con đường cách mạng, nhận ra bi kịch của dân tộc mình, đồng bào mình! Niềm thương cảm cho những cuộc đời “không đổi nhưng mà trôi cứ trôi” như quặn thắt trong lòng nhà thơ, như một sự chia sẻ ngậm ngùi. Bức tranh cuộc sống trong “nhớ đồng” đâu chỉ là vẻ đẹp mà còn là ám ảnh nỗi niềm tâm sự của người dân mất nước, man mác như một khúc Nam ai xứ Huế.

Nỗi buồn thương vẳng vào từ câu hò, làm thành tiếng vọng từ trong lòng nhà thơ hướng ra bên ngoài tha thiết: “Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh – Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!”. Phải chăng nhà thơ đang cất lên “tiếng gọi đàn”, đánh thức những hồn đồng điệu? Trân trọng biết bao những vần thơ cảm nhận về vẻ đẹp con người làm nên cuộc sống:

“Đâu những lưng cong xuống luống cày

Mà bùn hy vọng nức hương ngây

Và đâu hết những bàn tay ấy

Vãi giống tung trời những sớm mai?”

Tình cảm gắn bó con người xuất phát từ nhận thức về mối liên hệ giữa người chiến sĩ với quần chúng cách mạng. Khổ thơ bộc bạch vẻ lạc quan, thi hứng gợi nhắc vần thơ trong “Mùa gieo hạt, buổi chiều” của nhà thơ lãng mạn Pháp V. Hugo:

“Một ông lão đang tung

Gieo mùa sau xuống đất.

Bóng ông già cao thẫm

Giẫm trên rãnh cày sâu.

Chắc ông tin tưởng lắm.

Vào ngày tháng ruổi mau.”

(Xuân Diệu dịch)

Khổ thơ của Tố Hữu không đơn độc một bóng hình ông lão, mà khái quát hình ảnh “những lưng cong xuống luống cày” – hình ảnh con người nhân dân giản dị mà vĩ đại với cuộc đời cần lao thắp lên niềm hy vọng tương lai, “vãi giống tung trời những sớm mai”! Có ngẫu nhiên chăng sự gặp gỡ trong hình ảnh biểu tượng “bàn tay” gieo hạt của nhà thơ lãng mạn Pháp và người chiến sĩ trẻ Tố Hữu? Phải mở lòng ra với cuộc sống, mới nói lên hết được tình yêu và niềm tin ở con người tha thiết vậy. Giữa những nông dân trên cánh đồng cần mẫn và người chiến sĩ đấu tranh vì cái đẹp cuộc đời, đã có sự đồng cảm của người gieo mầm cho một tương lai tốt đẹp!

Điệp khúc “Gì sâu bằng những trưa thương nhớ…” lại cất lên, sau những hình ảnh đầy xao xuyến về cuộc sống: chiều sương phủ bãi đồng, lúa mềm xao xác, những nhịp điệu những âm vang “tiếng xe lùa nước” hòa với “một tiếng hò” như miết vào tâm khảm, làm nỗi nhớ như sâu hơn, lắng đọng hơn! Có lẽ đến lúc này nhà thơ mới thật thấm thía cảm giác của một người bị giam hãm trong bốn bức tường xà lim để hiểu rõ giá trị cuộc sống tự do lớn lao biết chừng nào! Những khổ thơ tiếp nối có sự chuyển mạch cảm xúc, vọng về nỗi niềm riêng tư. Nhà thơ lưu luyến tiếc nhớ, khắc ghi những bóng hình cuộc sống vào trái tim nhạy cảm của mình, khi thực tại chỉ có một mình đối diện không gian quạnh quẽ của nhà lao:

“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!”

Ta chợt phát hiện ra giây phút yếu lòng nhất của chàng trai Tố Hữu! Nhưng đó là tâm trạng hoàn toàn hợp lý, khi con người bị bủa vây bởi nỗi cô đơn, sự vắng lặng thì càng khắc khoải nhớ về người thân yêu, đặc biệt là người mẹ như muốn tìm một chốn chở che, để được vỗ về yêu thương. Thú vị hơn là trong khổ thơ này, ta gặp nỗi niềm từng cất lên trong Thơ Mới “Chao ôi mong nhớ, ôi mong nhớ – Một cánh chim thu lạc cuối ngàn” (Chế Lan Viên). Quả thật, thơ Tố Hữu “thoát thai từ Thơ Mới” nhưng tinh thần thì hoàn toàn khác. Nỗi nhớ sau tiếng than “chao ôi…” của nhà thơ là “mẹ già xa đơn chiếc” rất cụ thể, rất đời thường và tạo cảm giác gần gũi thân thiết chứ không phải là một bóng hình tan biến vụt bay vào hư vô như câu thơ của họ Chế! Mẹ ở đây còn là quê hương, là những gì thiêng liêng nhất, sâu thẳm nhất bền chặt nhất của đời người. Câu thơ còn làm ta hiểu sâu sắc về tâm hồn người cộng sản. Để rồi từ mẹ quê, nhà thơ lại nhớ về những người “chất phác”, “thật thà” mang theo hồn quê, tình quê hương đất nước. Những hình ảnh thật cảm động ấy không còn thuộc về thế giới ngoại cảnh mà đã thật sự thành máu thịt, tâm hồn nhà thơ, Để rồi, chính những tình cảm ấy những con người ấy đem lại cho nhà thơ nguồn sức mạnh, sự tỉnh táo nhìn lại chính mình, khẳng định một sự chọn lựa dứt khoát và đúng đắn. Hai khổ thơ nói về bản thân là sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, tràn đầy niềm hạnh phúc được hòa nhập với những quần chúng lao khổ:

“Rồi một hôm nào tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say đồng hương nắng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời…”

Đó cũng là lúc nhà thơ bộc bạch trọn vẹn nhất cái tôi của mình. Không phải là một cái tôi buồn, cô đơn và yếu đuối như các thi sĩ lãng mạn đồng trang lứa mà là cái tôi tràn đầy tình yêu và niềm tin với cuộc đời. Hình ảnh thơ tái hiện lại khoảnh khắc xúc động và thiêng liêng khi nhà thơ đứng vào đội ngũ chiến đấu: “Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ – Mặt trời chân lí chói qua tim…”. Không còn những do dự, “vẩn vơ”, “quanh quẩn” của thuở “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời” mà thực sự nhà thơ đã trưởng thành, vững vàng một niềm tin, sẵn sàng chiến đấu cho lí tưởng. Dẫu cho thực tại, nhà thơ phải chịu cảnh tù đày, nhưng vẫn “mơ qua cửa khám bao ngày”, hướng lòng mình về cuộc sống tự do, dẫu có chút ngậm ngùi “như cánh chim buồn nhớ gió mây” nhưng vẫn ánh lên một khát vọng được tung cánh, được bay nhảy trong vùng trời tự do.

Bài thơ Nhớ đồng mang theo âm hưởng của một điệp khúc tâm trạng da diết nhớ thương con người và cuộc sống, làm nên những cung bậc trạng thái tình cảm của nhân vật trữ tình phong phú đa dạng. Thực chất của “nhớ đồng” là nhớ những mối dây liên hệ với cuộc đời, là lời tự nhắc nhở động viên mình của nhà thơ, trong hoàn cảnh lao tù. Giọng thơ khắc khoải, thấm đượm những ân tình sâu nặng của con người hiểu rõ và yêu mến đất nước, nhân dân, khao khát tự do. Chính cuộc sống giản dị, con người chất phác đã đem lại cho nhà thơ sức mạnh tinh thần, lạc quan trước hoàn cảnh, vững vàng trong thử thách đầu đời. Cái đáng quý nhất là chất trẻ trung, tươi mới của hồn thơ tràn đầy cảm hứng lãng mạn cách mạng, lí trí và tình cảm hòa quyện giúp ta hiểu thêm vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ, tiêu biểu cho tinh thần của những chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi.

Những vần thơ như vậy trong Nhớ đồng nói riêng và tập thơ Từ ấy nói chung giúp ta thêm hiểu và trân trọng thế hệ cha anh, sẽ mãi còn vang ngân trong lòng các thế hệ tương lai.

Bài văn nghị luận về tác phẩm thơ Nhớ đồng - mẫu 5

Tố Hữu, tượng đài của văn thơ cách mạng, đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của Việt Nam. Khi gia nhập Đảng vào năm 1938, Tố Hữu không ngừng hăng say và nhiệt huyết với hoạt động cách mạng. Tuy nhiên, năm 1939, ông bất ngờ bị bắt giam tại nhà lao Thừa Thiên Huế, nơi mà tâm hồn của ông bùng cháy và sáng tác nên tập thơ "Từ ấy", trong đó có bài thơ "Nhớ đồng" đặc biệt nổi bật trong phần "Xiềng xích".

Những ngày trong tù, ông trải qua những cảm xúc u buồn và nhớ thương, nhưng tiếng hò vang vọng xa xôi đã trở thành bảo bối góp phần đánh thức và khơi dậy nỗi niềm nhớ thương của người chiến sĩ bị giam cầm. Trong không gian đồng cỏ trải rộng, nơi mặt trời trưa rực rỡ, một con người lẻ loi, cô độc đang phải đối diện với sự tách biệt và cô đơn từ thế giới bên ngoài.

Nỗi nhớ quê hương và những người đồng đội cách mạng đã trở thành nguồn cảm hứng dồi dào cho Tố Hữu, giúp ông vượt qua những khó khăn và thách thức của cuộc sống tù đầy gian khổ. Bài thơ "Nhớ đồng" thực sự là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc, ghi lại những chấn thương và tình cảm sâu sắc trong thời kỳ giam cầm, đồng thời tôn vinh tinh thần kiên trì và chí hướng cách mạng của người tác giả.

"Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò"

"Gì sâu bằng" - những từ này truyền tải một nghệ thuật chân thật và tâm huyết, nói về sự nhớ mãi đậm sâu trong cõi tâm hồn của tác giả. Câu thơ mở đầu với điệp từ "đâu" như là một tiếng gọi của trái tim, làm nổi bật một niềm khao khát, một lòng tìm kiếm và quay về với quê hương, với bản nguyên của cuộc sống.

Từ "đâu" không chỉ là một từ ngữ, mà còn là khát vọng, là một hành trình tìm kiếm nguồn cội, là hình ảnh của sự hiểu biết và sự trải nghiệm. Suốt năm câu thơ, điệp từ này luôn hồi sinh và bao bọc cả tâm trạng của tác giả. Nó không chỉ là lời thốt ra mà còn là giọng hát của trái tim, là tiếng gọi mãnh liệt để khám phá và hiểu rõ hơn về mình, về quê hương yêu dấu.

Sự ngậm ngùi, day dứt trong những dòng thơ này khiến cho tâm hồn độc giả được chạm vào những cảm xúc sâu sắc nhất của tác giả. Niềm nhớ không chỉ là một khối lượng tâm trạng, mà còn là một chuyến hành trình tinh thần, tìm kiếm sự bình yên, yên bình, và tìm thấy sự hoàn hảo trong kí ức về quê nhà. "Gì sâu bằng" không chỉ là một câu hỏi, mà còn là một câu trả lời tự nhiên, là đường dẫn dẫn dắt độc giả đến với một thế giới đầy những cảm xúc sâu sắc và thiêng liêng.

"Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi...

Đâu những đường con bước vạn đời"

Bức tranh về cuộc sống thôn quê mộc mạc và đậm chất thân thương như một mảng tranh sống động, tươi sáng bắt đầu hiện lên trước mắt người tù cộng sản. Tưởng tượng của tác giả không chỉ dừng lại ở hình ảnh đồng lúa, khóm tre, hay những nương rẫy, mà còn mở rộng đến con người, những người nông dân chân chất, mang trên vai gánh nặng cơ cực nhưng trái tim ấm áp và tình người.

Tác giả không chỉ vẽ nên cảnh quê hương bình dị mà còn là những cây cỏ, mái nhà tranh, hòn non bộ, và mọi đường nét cuộc sống nơi đây. Bức tranh sống động đầy ánh sáng và màu sắc, đã chứng minh tình yêu thương và tình người của người làm thơ. Cảm giác ấm áp, như bức tranh hiện hữu trong tâm tư của nhà thơ, khiến cho người đọc không chỉ nhìn thấy mà còn cảm nhận được hương thơm, âm thanh và màu sắc đặc trưng của cuộc sống thôn quê.

"Đâu những lưng cong xuống luống cày...

Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi...

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi"

Bóng dáng của người mẹ trong thơ như một bức tranh tình cảm, một dấu ấn đậm nét của tình thương và sự hi sinh. Mỗi chi tiết, từng giai điệu của từng từ trong "Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ..." như là những hòn đá gieo rắc trên đường đi của tâm hồn, làm tăng thêm vị chua ngọt của những trải nghiệm và ký ức. Người mẹ trở thành nguồn cảm hứng, là điểm nối vững chắc giữa tâm hồn bất an và những giọt nước mắt u buồn. Tình cảm chảy tràn trong từng lời thơ, đưa độc giả về quãng thời gian đẹp đẽ và tuyệt vời, khi người chiến sĩ trẻ còn đầy ắp niềm tin và đam mê, khi họ chập chững bước vào con đường cách mạng.

"Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ..." như là lời kể của chính người chiến sĩ, làm nổi bật nỗi lòng như một khúc hát lưu luyến, giữa những tháng ngày giam giữ. Mỗi từ ngữ, mỗi giai điệu là một nốt nhạc, là một bản tình ca ngắn ngủi về quê hương, về mẹ hiền, và về những ngày tháng yên bình trước khi cuộc sống biến đổi. Như một đám mây điệp khúc, "Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ..." mở cánh cửa cho độc giả thâm nhập sâu vào tâm trạng, làm rõ nét hình ảnh của người mẹ thương yêu và tình yêu bất tận của người con chiến sĩ. Câu thơ này không chỉ là nỗi niềm và tâm sự, mà còn là sự tri ân và biểu tượng của lòng trung thành với quê hương và người thân yêu.

"Đâu những ngày xưa, tôi nhớ tôi...

Trên chín tầng cao bát ngát trời"

Bài thơ "Nhớ đồng" không chỉ là một tâm sự về quê hương mà còn là bức tranh tinh tế về tâm hồn của một người chiến sĩ cộng sản. Tác giả không chỉ nhớ về quá khứ u ám mà từ đó, ông mạnh mẽ khẳng định sự sáng suốt và đúng đắn của niềm tin cách mạng. Niềm hạnh phúc khi chấp nhận lý tưởng cách mạng hiện hóa trong tâm hồn, như một cơn say đắm niềm tin và khao khát hoạt động cách mạng, không chỉ giúp ông thoát khỏi tâm trạng u buồn mà còn trở nên vui vẻ và phấn chấn hơn, "Nhẹ nhàng như con chim cà lơi". Tác giả tự so sánh mình với những con chim tự do, tự tại, bay bổng trong không gian rộng lớn của đồng quê, cảm nhận sự say mê trong đồng hương nắng, giống như chính người chiến sĩ say trong hoạt động cách mạng. Mặc dù, ngay cả khi đối mặt với thực tại khắc nghiệt của lao tù, những dòng thơ cuối cùng không khỏi nổi lên tâm trạng bất lực, bế tắc không có lối thoát. Tuy nhiên, tư tưởng và khát vọng về quê hương và cách mạng vẫn mãnh liệt, cháy bỏng trong trái tim người tù cộng sản. Bài thơ là một diễn đàn tinh tế, nơi hiện lên hình ảnh của một chiến sĩ yêu lý tưởng cách mạng, một con người hy sinh vì Tổ quốc, để lại dấu ấn khó phai trong lòng người đọc.

Bài văn nghị luận về tác phẩm thơ Nhớ đồng - mẫu 6

Bài thơ "Nhớ đồng" của Tố Hữu là một tác phẩm xuất sắc trong nền văn thơ hiện đại Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh lịch sử đau thương của những năm đầu thế kỷ 20. Với tư duy và tài năng sáng tác, Tố Hữu đã ghi lại những trải nghiệm và tâm tư của mình trong những ngày giam cầm tại nhà tù Thừa Thiên Huế, tạo nên một kiệt tác thơ ca thể hiện tình cảm quê hương và lòng yêu nước. Bài thơ "Nhớ đồng" không chỉ là một hiện thân của nghệ thuật thơ ca, mà còn là biên niên sử của cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Tố Hữu. Những dòng thơ chất chứa sự nhìn nhận sâu sắc về quê hương, về người đồng bào, và đặc biệt là về những kí ức đau thương của tác giả trong thời kỳ giam giữ. Đồng thời, bài thơ cũng phản ánh tâm huyết, lòng quả cảm và tinh thần kiên trung của những con người yêu nước trong mối quan hệ với đồng đội và quê hương.

Ngôn từ của Tố Hữu tại "Nhớ đồng" không chỉ là đẹp và sâu sắc mà còn là hiện thân của tinh thần cách mạng. Dòng thơ trong tác phẩm này là một lời thể hiện lòng nhân ái và tình đoàn kết giữa các tù nhân cách mạng trong điều kiện khó khăn. Nhờ vào tài năng của mình, Tố Hữu đã tạo ra một kiệt tác thơ ca mang tính biểu tượng, kết nối tình cảm nhân dân và tinh thần yêu nước, giữ lấy truyền thống văn hóa và lịch sử dân tộc.

“Cô đơn thay là cảnh thân tù

Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực..” 

Đó chính là trạng thái cô đơn, lẻ loi và đơn độc mà Tố Hữu phải đối mặt khi bị giam giữ, cách ly với thế giới bên ngoài. Mỗi âm thanh nhỏ, mỗi tiếng động nho nhỏ từ bên ngoài đều đủ để đánh thức trong nhà thơ một cảm giác nhớ mãi, không bao giờ phai nhạt. Không cần là tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng bao la khắc khoải như trong tác phẩm "Khi con tu hú," mà đây chỉ là tiếng hò quen thuộc, gắn bó với quê hương đồng quê:

“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!”

Bài thơ bắt nguồn cảm hứng từ giai điệu của tiếng hò quen thuộc, biến nó thành một bản nhạc lặp đi lặp lại, kể về nỗi thương nhớ, cô đơn, và hiu quạnh của người tù.

“Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng che mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Tiếng hò như một dải nhạc hòa quyện, mở đầu cho một chương điệu của cuộc sống đồng quê, là một nốt nhạc trầm lắng, gần gũi, khắc sâu trong tâm hồn nhà thơ. Từng nốt nhạc kể lể về quê hương, mỗi giai điệu đều hòa quyện với biểu tượng của một thời thơ ấu, của những ngày xa lạ và gió mặn biển cả.

Nỗi nhớ đến quê nhà không chỉ là việc kính trọng đồng quê mà còn là việc tôn vinh hình ảnh con người lao động. Trong mắt nhà thơ, họ là những người dân chân chất, giản dị nhưng chất phác và chăm chỉ. Dưới bàn tay tài năng của Tố Hữu, hình ảnh họ hiện lên như những "người hiền như đất," chấp nhận mọi khó khăn của cuộc sống nông thôn.

"Dãi gió dầm mưa" không chỉ là cảnh thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho sự kiên trì, lòng bền bỉ và chịu đựng của những người lao động. Họ là những "người rất thật thà," giữ vững bản lĩnh, không gian dối trong cuộc sống khó khăn, làm nên những bức tranh sống động về đồng quê thanh bình mà nhà thơ muốn kể.

Qua từng chi tiết nhỏ, Tố Hữu đã làm nổi bật hình ảnh của những người làm ruộng, làm nước trở nên thực tế, sống động. Âm thanh của tiếng hò không chỉ là nhạc nền, mà còn là bản hòa âm của những trái tim chân chất, giữ lại những giá trị văn hóa và lòng yêu nước sâu sắc. Tất cả những điều này tạo nên một tác phẩm thơ hùng vĩ, kết nối tâm hồn nhà thơ với quê hương và con người, làm cho nỗi nhớ trở nên hết sức chân thành và rung động.

“Đâu những lưng cong xuống luống cày

Mà bùn hy vọng nức hương ngây

Và đâu hết những bàn tay ấy

Vãi giống tung trời những sớm mai?”

Dưới ánh nắng mặt trời hùng vĩ, những chiếc cày găm sâu vào đất mẹ, những người nông dân gian nan, chăm chỉ, dường như bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Họ là những người lính chiến đấu trong cuộc chiến với thời gian, cảm giác đau đớn từ những năm tháng cày gặt đã làm cho lưng họ càng còng trở nên. Dưới vóc cày nặng nề, họ gặp gỡ với những cảm xúc của đất đai, nhưng không một lần làm họ phải chùn bước. Mặc dù có phải chìm đắm trong bùn lầy đen đậm, hoặc bụi bẩn nặng nề, ánh sáng trong họ vẫn rực rỡ và tươi sáng như những đám mây trắng bồng bềnh trên bầu trời.

Những người nông dân đó không chỉ là những người làm ruộng, mà họ là những nghệ sĩ tạo ra bức tranh nông thôn với những đường cày nhấp nhô, như những bản nhạc của đất đai. Họ biến những cảm xúc, những khó khăn thành những bức tranh đẹp như tranh vẽ, cho dù lưng đeo gánh nặng của họ trở nên càn còng. Chính những nông dân đơn giản, mộc mạc, chân chất như họ là những người tạo nên vẻ đẹp nhân hậu, là những bức tranh sống động về phẩm chất trong sáng. Điều đặc biệt là, qua đôi mắt chân thành ấy, họ lại là những nguồn sáng, gieo thêm những tia hi vọng vào một tương lai sáng ngời, nơi mà lòng lao động và tình yêu thương là nguồn động viên không ngừng. Nhà thơ tiếp tục gieo mình vào thế giới nỗi nhớ thương bao la qua những chi tiết hết sức sinh động và nguyên bản. Đó có thể là giọng hò vang lên từ những cánh đồng, là sương mỏng manh như tâm hồn, là bông lúa đẫy đà màu vàng, hay là âm thanh xa xa của chiếc xe lùa nước. Mỗi hình ảnh, mỗi âm thanh đều là một mảnh ghép của quê hương xa xôi, giữa sự cách trở và quyến luyến.

Nhà thơ không chỉ nhớ về những cảm giác gần gũi của quê nhà mình mà còn mê đắm trong đau thương khi nhớ đến hình bóng tù đày. Những chi tiết vụt lên trong tâm trí, từ giọng hò vang vọng cho đến những giọt sương mảnh dịu dàng, từ bông lúa nghiêng ngả dưới ánh nắng mặt trời đến tiếng xe lùa nước lẻ loi. Mỗi hình ảnh, mỗi âm thanh, đều trở thành những dấu vết đau lòng, làm cho tâm hồn tác giả chạnh lòng, như một hồi hộp đầy xúc động len lỏi vào tâm khảm của người chiến sĩ cách mạng.

“Đâu dáng hình quen, đâu cả rồi

Sao mà cách biệt, quá xa xôi

Chao ôi thương nhớ, chao thương nhớ

Ôi mẹ già xa đơn chiếc ơi!”

Trong khoảnh khắc yên bình và quen thuộc, một câu hỏi âm ỉ nổi lên trong tâm hồn nhà thơ, nhưng lời đáp lại chẳng từ đâu mà xuất hiện. Đó như là một nhát dao sâu xé vào lòng tâm, làm cho người tù trở nên tuyệt vọng và cô đơn giữa những bức tường tăm tối. Trong cái tăm tối đó, mọi thứ dường như trở nên xa xôi và cách biệt. Nỗi nhớ về quê hương, nhớ về mẹ già yêu dấu, làm tăng thêm niềm đau xé lòng của nhà thơ. Bức tranh về người mẹ xuất hiện trong ký ức, hình ảnh của người phụ nữ yêu thương nhất, trở thành nguồn động viên và đồng cảm lớn lao trong trái tim của nhà thơ, nhất là khi ông đang trải qua những tháng ngày khó khăn tại nhà lao Thừa Thiên Huế.

Những cảm xúc tiếp nối nhau, từ tủi hổ, buồn thương đến lòng kiên trì, dũng cảm, làm nổi bật hình ảnh của người chiến sĩ cách mạng. Trong bức tranh của tác giả, anh ta trở nên mạnh mẽ và quả cảm, vượt qua những phút giây yếu đuối để giữ lấy khát khao tự do, khao khát giả thoát. Có lẽ, trong những giây phút ấy, niềm tin vào cuộc sống và sự kiên trì trở thành nguồn lực mạnh mẽ, giúp nhà thơ vượt qua mọi gian khó và đối mặt với những thách thức của số phận.

"Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi

Say hương đồng vui ca hát

Trên chín tầng cao bát ngát trời”

Bức tranh hùng vĩ của chú chim sơn ca đang vẽ lên bầu trời xanh rộng lớn trở thành biểu tượng cho khát khao tự do và sự mở cửa rộng lớn của tâm hồn người chiến sĩ. Hình ảnh chú chim sơn ca đang sải cánh bay trên bầu trời là biểu tượng của sự tự do, vui tươi và hạnh phúc, đặc biệt khi bức tranh ấy được vẽ trong bức tranh u tối của những ngày giam cầm. Tiếng hò của những người đồng đội, đưa hố não nùng, làm dậy lên trong tâm hồn của nhà thơ những kí ức đẹp về quê hương và đồng đội. Những cảnh sắc, hình dáng quen thuộc được hồi tưởng và khơi gợi nỗi nhớ thương sâu sắc. Nhà thơ như được kết nối với một thế giới bên ngoài tù giam, nơi mà tiếng hò làm sống lại những hình ảnh quen thuộc và hạnh phúc đã trôi qua. Nhớ về quá khứ, những ngày người chiến sĩ cống hiến bản thân cho cách mạng, hình ảnh của những người anh em đồng đội, cùng niềm tự hào và sự hạnh phúc được dâng hiến cho mục tiêu chung, lại một lần nữa làm cho tâm hồn anh ta sôi sục. Cuộc đời bị hạn chế trong nhà tù, nhưng khao khát được tự do, trở lại với cuộc sống đầy đủ ý nghĩa, lại là nguồn động viên mạnh mẽ, là động lực để vượt qua những khó khăn và thách thức.

Bài văn nghị luận về tác phẩm thơ Nhớ đồng - mẫu 7

Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành, có một hành trình cuộc sống và sự nghiệp cách mạng đầy ấn tượng. Nguyên đến từ một gia đình nghèo làng ở xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên - Huế, Tố Hữu đã trở thành một trong những nhà thơ lớn và nổi tiếng nhất trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Cuộc sống của Tố Hữu được đánh dấu bởi sự hy sinh và đấu tranh cho giải phóng dân tộc. Năm 16 tuổi, ông gia nhập Đoàn thanh niên Cộng sản và sau đó, vào năm 18 tuổi, Tố Hữu trở thành đảng viên Cộng sản Đông Dương. Sự nghiệp cách mạng của ông đánh bại những gian khổ và nguy hiểm, nhưng cũng tạo ra cơ hội để bộc lộ tài năng văn chương của mình. "Từ ấy" (1937–1946) là tập thơ mở đầu của Tố Hữu, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp của nhà thơ. Tập thơ này không chỉ là sự khám phá của ông về lý tưởng cộng sản mà còn là bức tranh sống động về tình yêu quê hương và sự chấp nhận hy sinh cho mục đích cao cả của đảng và dân tộc.

"Bài thơ Nhớ đồng" là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong "Từ ấy". Được sáng tác khi Tố Hữu bị giam giữ tại nhà lao Thừa Thiên Huế vào tháng 7 năm 1939, bài thơ thể hiện tâm trạng cô đơn và nhớ nhung của người tù trẻ tuổi. Những âm thanh quen thuộc của tiếng hò, của cuộc sống bên ngoài, đã khơi dậy những kí ức, hình ảnh và tình cảm đong đầy trong tâm hồn nhà thơ. Tiếng hò và những giai điệu quê hương trở thành nguồn cảm hứng cho Tố Hữu, kích thích sự nhớ về quê hương, người thân và những ngày tháng hạnh phúc trước khi bị cuốn vào cuộc sống giam giữ. Bài thơ không chỉ là biểu tượng của tình yêu thương và sự mến khách của người chiến sĩ, mà còn là bức tranh đậm nét về cuộc sống nông thôn, văn hóa và truyền thống của quê hương Huế.

Tố Hữu đã ghi dấu ấn của mình không chỉ trong sự nghiệp cách mạng mà còn qua tác phẩm văn chương đẳng cấp, làm cho ông trở thành biểu tượng của thơ ca cách mạng Việt Nam. Bài thơ được xây dựng thành bốn đoạn, mỗi đoạn mang đến một cảm xúc sâu sắc của tác giả đối với quê hương và thời thơ ấu. Ba đoạn đầu của bài thơ đặt ra ba câu hỏi tu từ như là những điệu nhạc lặp đi lặp lại, làm nổi bật nỗi nhớ của tác giả. Câu hỏi "Gì sâu bằng..." không chỉ là một cấu trúc hỏi đáp, mà còn là cách tốt để tác giả thể hiện sự trầm lặng và trăn trở của mình.

Việc lặp lại câu hỏi này nhấn mạnh sự kiên trì, sâu sắc của nỗi nhớ, làm cho độ sâu của cảm xúc tăng lên. Câu hỏi "Gì sâu bằng những trưa thương nhớ" không chỉ mô tả sự sâu đậm của ký ức mà còn tạo nên một không khí nghệ thuật hiện đại và tân tiến. Tâm hồn cô đơn, hiu quạnh của tác giả giữa chốn ngục tù được thể hiện qua những cảm xúc mãnh liệt trong những câu hỏi này.

Các bài thơ mở đầu mỗi khổ thơ là những điểm nhấn mạnh về độ mãnh liệt của nỗi nhớ thương. Câu hỏi "Gì sâu bằng..." không chỉ là sự tốc độ của thời gian mà còn là độ sâu của tình cảm. Tác giả sử dụng những cảm nhận và hình ảnh thực tế, như tiếng hò quê nhà, để gợi lên hình ảnh của cuộc sống nông thôn đậm chất quê hương, làm cho nỗi nhớ trở nên sống động và sinh động. Những ngày tháng bị giam hãm trong tù, tâm hồn tác giả luôn hướng về bên ngoài với tất cả những nỗi nhớ thương và tình yêu mến. Tiếng hò của quê nhà, vang vọng trên dòng sông, tạo ra một không gian âm nhạc huyền bí, làm cho ký ức sống lại. Cảnh đời thường của đồng bào nông dân, những người lao động chăm chỉ, đất đai, cảm giác gắn bó với hình ảnh của đồng quê ngập tràn trong tâm tư nhà thơ.

Bằng cách này, những đoạn thơ mở đầu không chỉ làm tăng thêm động lực cho nỗi nhớ mà còn đưa người đọc đến với hình ảnh chân thực của cuộc sống nông thôn, tình yêu thương và sự mến mộ của tác giả đối với quê hương.

"Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng tre mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?

Đâu những đường con bước vạn đời

Xóm nhà tranh thấp ngủ im hơi

Giữa dòng ngày tháng âm u đó

Không đổi, nhưng mà trôi cứ trôi…"

Bức tranh của quê ngoại Tố Hữu trở nên sống động trong tâm trí độc giả, là một ký ức về thiên nhiên tươi đẹp và sinh hoạt hạnh phúc của một làng quê nhỏ. Nét mặt yên bình và mộc mạc của cộng đồng, với cồn bãi mướt xanh cây trái và chiếc cầu An Cựu lặng lẽ nối dòng Hương giang, tạo nên một bức tranh tuyệt vời của sự thanh bình và hòa mình vào sự hòa quyện của thiên nhiên. Quê hương thân yêu, nơi Tố Hữu từng sinh sống và cảm nhận những giây phút hạnh phúc, bây giờ lại trở nên xa xôi, chia cách chỉ bởi một bức tường nhà lao lạnh lẽo. Những câu hỏi thầm kín, đầy trăn trở, nhưng không có lời đáp, chỉ làm nổi lên sự bi thương và sâu sắc của tình cảm người tù trẻ tuổi.

Những chi tiết về quê hương, từ cây cỏ thơm mát, ruộng lúa, đến những nơi quen thuộc như nhà tranh thấp hay nương khoai, đều được tác giả trình bày một cách chi tiết và chân thực. Mỗi từ ngữ, mỗi hình ảnh đều chứa đựng nhiều cảm xúc, như những di tích sống động của một quá khứ đẹp đẽ. Tố Hữu không chỉ diễn đạt sự nhớ thương mà còn tận dụng ngôn ngữ của mình để thể hiện sự hoài vọng và khát khao. Những câu hỏi đặt ra giống như những tiếng thét thanh của lòng người, nhấn mạnh sự vọng tưởng, mong ước trở về những khoảnh khắc tình người và hạnh phúc ngày trước.

Dòng thơ da diết, trữ tình của Tố Hữu không chỉ là một bức tranh về quê hương mà còn là một biểu tượng của sự hy sinh và niềm tin vững chắc vào lý tưởng cách mạng. Các điệu hò, tiếng gió cồn thơm, tiếng ruồng tre mát... tất cả cùng hòa quyện trong lời thơ để tạo ra một không gian ấm áp và tràn ngập tình cảm.

"Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh,

Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi!"

Những con người làm nông hiền lành như chính đất đai mà họ gieo mình vào, đã được nhà thơ nhắc đến như một biểu tượng của sự tốt lành và lòng hiếu thảo. Qua những cánh đồng nước, bức tranh của họ vẫn rực rỡ mặc cho ánh nắng chói chang và những giọt sương rơi lặng lẽ. Nhà thơ dành tình cảm biết bao cho những người làm ruộng, với công việc mà họ chăm chỉ làm sáng tạo ra một hình ảnh tươi đẹp, làm hồn quê hương huyền bí và gần gũi hơn với trái tim của tác giả.

Cuộc sống khó khăn, đầy nhọc nhằn, nhưng không làm mất đi vẻ đẹp trong sự khỏe mạnh và sự dễ thương của họ. Hình ảnh những người làm nông với vóc dáng chăm chỉ, đôi bàn tay trắng trẻo, đường nét mặt tươi tắn, tất cả đã được nhà thơ vẽ nên một cách mĩ mãn. Đằng sau vẻ ngoại hình bình dị là tâm hồn mạnh mẽ, giàu lòng nhân ái, và lòng hiếu thảo sâu sắc.

Những hình ảnh thân thương, bình dị, với màu sắc lam lũ của những chiếc áo lao xanh hay những đôi dép điếc chân chất, nhưng tràn ngập vẻ đẹp trong sự bền bỉ và khao khát sống. Nhà thơ dùng những đường văn hóa sôi động để truyền tải sự âm nhạc của cuộc sống nông thôn, làm cho độc giả cảm nhận được sự gắn bó mạnh mẽ giữa con người và đất đai.

Xem thêm các bài viết Tập làm văn lớp 11 hay khác:

Tủ sách VIETJACK shopee lớp 10-11 cho học sinh và giáo viên (cả 3 bộ sách):

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH LUYỆN THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 11

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi, sách dành cho giáo viên và gia sư dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Tài liệu giáo viên