15+ Nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (truyện thơ) lớp 9 (học sinh giỏi)
Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (truyện thơ) hay nhất, ngắn gọn được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh lớp 9 trên cả nước giúp bạn có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
- Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (mẫu 1)
- Dàn ý Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học
- Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (mẫu 2)
- Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (mẫu 3)
- Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (mẫu 4)
- Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (mẫu 5)
- Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (mẫu 6)
15+ Nghị luận phân tích một tác phẩm văn học (truyện thơ) lớp 9 (học sinh giỏi)
Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học - mẫu 1
Trong thơ cổ viết về giai nhân thì đoạn thơ Chị em Thúy Kiều trích trong Đoạn trường tân thanh tức Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là một trong những vần thơ tuyệt bút. Hai mươi tư câu thơ lục bát đã vẽ nên sắc, tài, đức hạnh của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân.
Với ngòi bút của một kì tài diệu bút Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung hai nàng giai nhân tuyệt thế:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Vân là em, Kiều là chị. Hai chị em Vân và Kiều (con đầu lòng của gia đình Vương viên ngoại) đều là những ả tố nga - những người con gái đẹp. Vẻ đẹp của hai nàng là vẻ đẹp thanh tao của mai, là sự trắng trong, tinh sạch của tuyết:
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên vẻ đẹp hài hoà, hoàn hảo cả về hình thức lẫn tâm hồn. Vẻ đẹp của hai nàng đều đến mức tuyệt mĩ mười phân vẹn mười nhưng mỗi người lại mang một vẻ riêng. Nguyễn Du đã lấy những gì đẹp đẽ nhất của thiên nhiên để miêu tả hai chị em. Thuý Kiều và Thuý Vân đều mang vẻ đẹp lí tưởng, theo khuôn mẫu và vượt lên trên khuôn mẫu.
Sau những câu thơ giới thiệu về hai chị em, ngòi bút Nguyễn Du lại có chiều hướng cụ thể hơn trong bức chân dung quý phái của Thuý Vân:
Vân xem trang trọng khác vời,
Hai chữ trang trọng trong câu thơ đã nói lên vẻ đẹp đài các, cao sang của Vân. Vẻ đẹp ấy của thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời:
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Chân dung của Vân được miêu tả một cách khá toàn vẹn từ khuôn mặt, nét mày, làn da, mái tóc đến nụ cười, tiếng nói. Vân có khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như vầng trăng, có đôi lông mày sắc nét như con ngài, có miệng cười tươi thắm như hoa, giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngà ngọc và mái tóc của nàng bồng bềnh hơn mây, làn da của nàng trắng hơn tuyết, sắc đẹp của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Tất cả toát lên vẻ đẹp trung hậu, êm dịu, đoan trang, quý phái. Vân đẹp hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên nhưng tạo sự hoà hợp, êm dịu: mây thua, tuyết nhường. Với vẻ đẹp như thế, Vân sẽ có một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ và một tính cách điềm đạm. Qua bức chân dung này, Nguyễn Du đã gửi tới những thông điệp về tương lai, cuộc đời chính bởi vậy mà bức chân dung Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận.
Tả Vân thật kĩ, thật cụ thể song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác hoạ thông thoáng bởi ông không muốn là người thợ vẽ vụng về:
Kiều càng sác sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Sắc đẹp của Kiều được đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, quý phái của Vân để thấy được sự hơn hẳn của Kiều về vẻ sắc sảo của tài năng trí tuệ, bởi cái mặn mà của nhan sắc. Không tả khuôn mặt, giọng nói, tiếng cười, làn da, mái tóc như Thuý Vân mà Nguyễn Du đã thật tài tình khi chọn đôi mắt Kiều để đặc tả bởi đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện phần tinh anh của tâm hồn và trí tuệ:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Câu thơ tả đôi mắt mà gợi lên bức tranh sơn thuỷ, diễm lệ. Bức tranh ấy có làn thu thủy - làn nước mùa thu, có nét xuân sơn - dáng núi mùa xuân. Cũng như khuôn mặt Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh, có đôi lông mày thanh tú mà khiến:
Hoa ghen đua thắm liễu hờn kém xanh.
Vẻ đẹp của Kiều không chỉ như thiên nhiên mà còn vượt trội hơn cả thiên nhiên khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Thiên nhiên không còn thua, nhường mà cau mày, bặm môi tức giận, mà đố kị hờn ghen. Nếu vẻ đẹp của Vân là những gì tinh khôi, trong trắng nhất của đất trời thì Kiều lại mang vẻ đẹp của nước non, của không gian mênh mông, của thời gian vô tận. Cái đẹp ấy làm cho nghiêng nước, đổ thành:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Nguyễn Du đã sử dụng những điển tích để cực tả Kiều với vẻ đẹp của trang giai nhân tuyệt thế. Và cũng chính vẻ đẹp không ai sánh bằng ấy như tiềm ẩn những phẩm chất bên trong cao quí là tài và tình rất đặc biệt:
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Kiều có cả tài cầm - kì - thi - hoạ của những bậc văn nhân quân tử và tài nào cũng đến mức điêu luyện. Nàng giỏi về âm luật đến mức làu bậc. Cây đàn nàng chơi là cây hồ cẩm, tiếng đàn của nàng ăn đứt bất cứ nghệ sĩ nào và đã trở thành nghề riêng. Để cực tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ ở mức độ tuyệt đối: vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi. Không những giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn sáng tác nhạc nữa. Cung đàn nàng sáng tác là một thiên Bạc mệnh. Bản đàn ấy đã ghi lại tiếng lòng của một tâm hồn đa sầu đa cảm. Nguyễn Du cực tả tài năng của Kiều chính là ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Tài năng của Kiều vượt lên trên tất cả và là biểu hiện của những phẩm chất cao đẹp, trái tim trung hậu, nồng nhiệt, nghĩa tình, vị tha. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc - tài - tình và đạt đến mức siêu phàm, lí tưởng. Nhưng nhan sắc đến mức hoa ghen, liễu hờn để tạo hóa phải hờn ghen đố kị và tài hoa trí tuệ thiên bẩm làu bậc, đủ mùi cái tâm hồn đa sầu, đa cảm như tự dưng mà có của nàng khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của định mệnh. Chính bởi Kiều quá toàn mĩ, hoàn thiện nên trong xã hội phong kiến kia khó có một chỗ đứng cho nàng. Và cung đàn Bạc mệnh nàng tự sáng tác như dự báo một cuộc đời hồng nhan bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Cuộc đời nàng rồi sẽ sóng gió, nổi chìm, truân chuyên. Cũng giống như bức chân dung Thúy Vân, bức chân dung Kiều là bức chân dung mang tính cách số phận.
Nguyễn Du hết lời ca ngợi Vân và Kiều mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười nhưng ngòi bút tác giả lại đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. Vân chủ yếu đẹp ở ngoại hình còn Kiều là cái đẹp cả về tài năng, nhan sắc lẫn tâm hồn. Điều đó tạo nên vẻ đẹp khác nhau của hai người thiếu nữ và hé mở hai tính cách, dự báo hai cuộc đời khác nhau đang đón chờ hai ả tố nga. Hai bức vẽ chân dung của chị em Thuý Vân và Thuý Kiều đã cho thấy sự tài tình trong ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du.
Kết thúc đoạn thợ là bốn câu lục bát miêu tả cuộc sống phong lưu khuôn phép, mẫu mực của hai chị em Kiều:
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Hai người con gái họ Vương không chỉ có sắc - tài - tình mà còn có đức hạnh. Sống phong lưu đến mực hồng quần. Cả hai đều đã tới tuần cập kê - tới tuổi búi tóc, cài trâm nhưng vẫn sống trong cảnh:
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Hai câu thơ như che chở, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong nhụy trong cảnh êm đềm chưa một lần hương toả vì ai. Nguyễn Du đã buông mành, gạt tất cả mọi vẩn đục cho cuộc đời khỏi cuộc sống phong lưu của hai chị em để đề cao hơn đức hạnh của hai nàng.
Với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thúy Vân, Thuý Kiều bằng những gì đẹp đẽ, mĩ lệ nhất. Hai bức tranh mĩ nhân bằng thơ đã thể hiện bút pháp ước lệ tượng trưng và các biện pháp tu từ trong ngòi bút tinh tế của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du.
Dàn ý Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học
a. Mở bài
- Giới thiệu về truyện Kiều, đoạn trích Chị em Thúy Kiều và tác giả Nguyễn Du.
b. Thân bài
* Vị trí đoạn trích
* Thân phận và vẻ đẹp chung của hai chị em Thúy Kiều: (Bốn câu thơ đầu)
- Con nhà viên ngoại, Kiều là chị, Vân là em.
- “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”: Vẻ đẹp thanh cao, phú quý tựa hoa mai, tinh thần trong sáng, thanh khiết tựa tuyết.
* Vẻ đẹp của Thúy Vân “Vân xem...màu da”:
- Khí chất “trang trọng”, phú quý, nhã nhặn.
- Khuôn mặt tròn tựa trăng, nét mày ngài đen, rậm, nở nang.
- Điệu cười tươi như hoa nở, giọng nói trong, thanh, ấm như ngọc quý => Đoan trang, dịu dàng.
- Tóc mây, thể hiện vẻ đẹp của người con gái hiền dịu, tình nghĩa, thủy chung, nước da trắng như tuyết, vẻ đẹp sạch sẽ không lấm bụi trần.
=> Nguyễn Du đã dùng bút pháp ước lệ tượng trưng thông qua các hình ảnh rất nhã nhặn, dịu dàng như trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết để gợi ra nét đẹp của một người con gái có vẻ đẹp quý phái, không quá sắc sảo, nhưng khiến người ta dễ chịu và quý mến, điều này gợi ý cho người đọc, cũng như dự đoán trước về cuộc đời bình đạm và êm ấm của nàng Vân.
* Vẻ đẹp của Thúy Kiều: “Làn thu thủy...một chương”: Vẻ đẹp hội tụ tài và sắc.
• Nhan sắc:
- “Làn thu thủy”: Đôi mắt đẹp, trong như nước mùa thu, lãng mạn, nhưng cũng là biểu hiện của con người đa sầu đa cảm, đào hoa, khổ mệnh.
- Nét xuân sơn”: Đôi mày liễu tô điểm làm cho khuôn mặt thêm phần sắc sảo tựa như nét núi mùa xuân, thế nhưng lại ngụ ý về một cuộc đời trắc trở gập ghềnh.
- “Hoa ghen thua thắm”: Chỉ đôi môi đỏ như son, khiến hoa cũng không sánh được, đôi khi cũng hiểu là nhan sắc quá đỗi rực rỡ của Kiều, khiến hoa cũng tự thấy xấu hổ, giận dỗi (tham khảo vẻ đẹp “tu hoa” của Dương Qúy phi).
- “Liễu hờn kém xanh”: Dáng người thướt tha, uyển chuyển tuyệt mỹ khiến liễu vốn nổi danh mềm mại cũng phải hờn.
=> “Một hai nghiêng nước nghiêng thành/Sắc đành đòi một tài đành họa hai”, ý chỉ vẻ đẹp của Kiều có lẽ cũng chẳng khác gì những Tây Thi, Điêu Thuyền thuở xưa, hồng nhan thì họa thủy, nghiêng nước nghiêng thành là có thật.
• Vẻ đẹp tài trí:
- Giỏi thi ca, âm luật.
- Thông thạo món đàn tỳ bà.
- Biết sáng tác cầm khúc, thế nhưng khúc nhạc “Bạc mệnh” buồn thương của nàng lại thể hiện tính đa cảm, đồng thời cũng là dự báo về một cuộc đời hồng nhan vô phúc của nàng.
* Bốn câu thơ cuối: Nếp sống của chị em Thúy Kiều
- Cuộc sống sung túc, êm ấm.
- Hai chị em đã đến tuổi cập kê nhưng vẫn thanh thuần, không biết tình ái là gì, giữ gìn nền nếp gia phong một phép.
c. Kết bài
Khái quát cảm nghĩ về đoạn trích.
Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học - mẫu 2
Cảm hứng nhân đạo và vẻ đẹp ngôn từ của truyện thơ này đã chinh phục trái tim bao thế hệ bạn đọc trong gần hai trăm năm qua. Đọc đoạn trích "Cảnh ngày xuân", chúng ta càng cảm phục bút pháp miêu tả cảnh vật giàu chất tạo hình và man mác xúc cảm của tác giả.
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã gợi tả khung cảnh mùa xuân tuyệt đẹp:
Ngày xuân con én đưa tho
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Qua việc miêu tả không gian, thời gian nghệ thuật, tác giả đã gợi lên một khung cảnh khoáng đạt và tràn trề sức sống. Cách nói dân gian “thời gian thấm thoắt thoi đưa” đã nhập hồn vào thơ ca Nguyễn Du để ông sáng tạo nên một câu thơ vừa miêu tả không gian, vừa gợi tả thời gian. Chim én được xem là loài chim biểu tượng của mùa xuân. Những cánh én chao liệng như “thoi đưa” ấy đã gợi lên một bầu trời bao la, thoáng đãng đầy sức xuân. Đến câu thơ tiếp theo, tâm trạng tiếc nuối ấy đã hiện lên thật rõ. “Thiều quang” nghĩa là ánh sáng đẹp, ánh sáng ấm áp của mùa xuân, cũng là ẩn dụ để chỉ ngày xuân. Cách tính thời gian như thế thật là ý vị và nên thơ: tiết trời trong sáng, đẹp đẽ của chín mươi ngày xuân nay “đã ngoài sáu mươi” rồi, tức là đã sang đầu tháng Ba rồi. Từ “đã ngoài” ở đây kết hợp vời từ “đưa thoi” ở trên đã gợi lên trong lòng người đọc một sự tiếc nuối rằng mùa xuân sao đi qua nhanh thế. Nguyễn Du nhớ mùa xuân ngay trong mùa xuân, tưởng đó là một nghịch lí, nhưng nó lại có thật. Hơn hai trăm năm sau, Xuân Diệu lại một lần nữa cảm thấy như thế: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa / Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.” (Vội vàng). Làm sao không tiếc mùa xuân được cơ chứ khi vào lúc này, xuân đã hết dư vị của mùa đông nhưng vẫn chưa ngấp nghé vào hạ nên khung cảnh rất đẹp, rất xuân
Cỏ non xanh tận chân trờ
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Bức họa tuyệt đẹp về mùa xuân đã được vẽ nên bằng những nét phác họa, chấm phá tài tình của văn thơ cổ. Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ gợi hình gợi cảm để vẽ nên bức tranh ấy: “non” (sự mới mẻ, đổi thay của đất trời), “xanh” (sự sống, đâm chồi nảy lộc), “trắng” (tinh khôi, trong sáng, dịu dàng),… Những từ ngữ ấy vừa đem khí xuân đến tràn đầy trong từng lời thơ, vừa giàu chất tạo hình tới nỗi ta có cảm tưởng như trong thơ có họa. Lấy cảm hứng từ hai câu thơ cổ của Trung Quốc: “Phương thảo liên thiên bích / Lê chi sổ điểm hoa”, tác giả chỉ thêm vào hai từ “xanh”, “trắng” mà đã khiến cho sắc trắng của hoa lê nổi bật lên trên cái nền “xanh tận chân trời”, gợi lên vẻ đẹp trong sáng, thanh khiết và khoáng đạt của mùa xuân. Lời thơ tưởng như chiếc cọ của người họa sĩ đang phối sắc cho từng đường nét của bức vẽ. Câu thơ tám chữ vốn có nhịp đôi, nhịp chẵn bỗng chuyển sang nhịp 3/5. Từ nhịp điệu bằng phẳng, quen thuộc, cách ngắt nhịp tài tình mang đầy dụng ý ấy của Nguyễn Du khiến câu thơ xôn xao với cái thần rất mới, rất lạ. Bức tranh ấy đã đẹp, nay lại được đại thi hào phả hồn vào đó bằng một chữ “điểm”. Có thể nói từ ấy chính là nhãn tự của cả đoạn trích, vừa làm câu thơ sống động hơn, vừa là nét vẽ hoàn chỉnh của bức tranh xuân. Chỉ cần một chút đảo ngữ ở “trắng điểm” và “điểm trắng” thôi đã đủ để nâng câu thơ lên một tầm cao mới. Tả mùa xuân đẹp và sống động như thế, hật không còn từ ngữ nào để nói lên sự tài tình trong bút pháp miêu tả gợi hình gợi cảm của Tố Như.
Tiếp nối bức tranh phong cảnh tuyệt đẹp ấy, Nguyễn Du đưa người đọc đến với một khung cảnh tươi đẹp không kém – cảnh lễ hội trong tiết Thanh minh. Mở đầu cho bức tranh ấy là hai câu thơ giới thiệu khái quát về thời gian cũng như hoạt động của con người:
Thanh minh trong tiết tháng Ba
Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh
Tiết Thanh minh là dịp để mọi người đi viếng thăm, quét dọn, sửa sang và cúng bái, khấn nguyện trước phần mộ những người đã khuất. Từ lâu, đây đã là một phong tục cổ truyền của dân tộc ta. Và tất nhiên, sau lễ là hội, hội “đạp thanh”, tức là giẫm lên cỏ xanh mà đi chơi xuân. “Tảo mộ" là dịp để ta tìm lại những ký ức xa xưa, nối lại mối dây liên hệ giữa người đã khuất với người còn sống. Còn “đạp thanh” lại gợi lên cảnh các chàng trai, cô gái gặp gỡ, làm quen và rất có thể dẫn đến những sợi tơ hồng kết duyên mai sau. Bên cạnh điệp từ “là”, cặp tiểu đối “lễ là tảo mộ” – “hội là đạp thanh” được đặt cạnh nhau trong một câu thơ không chỉ nói lên sự nối tiếp liên tục của những tươi vui, nhộn nhịp, rộn ràng trong ngày lễ hội, mà còn muốn nói một điều gì hơn thế. Nguyễn Du đã gửi vào đó những suy ngẫm về khát khao, hy vọng của những người đi chơi xuân, hay cụ thể hơn – của Thúy Kiều về những điều tốt đẹp của cuộc đời phía trước. Và với suy nghĩ ấy, chị em Thúy Kiều hòa mình vào dòng người tấp nập đi trẩy hội:
Gần xa nô nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhâ
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm
Ở đây, một lần nữa ta lại được gặp nghệ thuật miêu tả ước lệ. Mùa xuân là lúc chim yến , chim oanh tụ họp lại ríu rít bay lượn trên không trung. Tác giả đã vận dụng hình ảnh ấy dưới cách nói ẩn dụ “nô nức yến anh” để gợi tả hình ảnh những đoàn người đi du xuân trong không khí rộn ràng, đông vui. Xuân không chỉ về trong thiên nhiên mà còn tràn ngập trong lòng người. Các tính từ “gần xa”, “nô nức” đã đặc tả cảnh người người khắp nơi cùng tụ hội lại trong tâm trạng náo nức, vui tươi của lễ hội. Đó cũng chính là tâm trạng của chị em Thúy Kiều khi: “Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân”. Sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”, những cô thiếu nữ như họ ít có dịp được tham gia một cuộc vui nhộn nhịp như lần này, nên dù chưa đến hội, hai chị em đã như mở hội trong lòng. Động từ “sắm sửa” đã diễn tả được sự háo hức, trông mong ấy của họ. Rất tự nhiên, họ hòa vào dòng người nườm nượp những nam thanh nữ tú. Dưới cách nhìn phơi phới xuân xanh của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã biến một cảnh lễ hội tưởng như năm nào cũng có thành một ấn tượng khó phai trong mắt người đọc. Nếu như ở hai câu thơ trước có “yến anh” thì ở hai câu sau cũng rất xứng với “tài tử giai nhân”, làm bật lên cảnh những chàng trai cô gái phong lưu, thanh lịch, áo quần tươi thắm trong buổi hội xuân đang “Gặp tuần đố lá, thỏa lòng tìm hoa”. Từ láy “dập dìu” gợi lên từng đoàn, từng đoàn người đi lại tấp nập, đông đúc nhưng vẫn rất uyển chuyển, nhịp nhàng như những đợt sóng. Nhịp điệu ấy làm chậm lại dòng chảy trong “ngựa xe như nước”, và cho dù “áo quần như nêm” nhưng lễ hội lại không chật cứng mà vẫn có một điều gì đó rất khoan thai trong từng chiếc xe, từng bước chân. Ấy là sự khoan thai, thơ mộng và trữ tình của tâm hồn tuổi trẻ đang say sưa trong không khí mùa xuân. Hai hình ảnh so sánh được đặt liên tiếp nhau trong câu thơ càng khiến cho khung cảnh ấy thêm sống động. Nguyễn Du đã vô cùng khéo léo trong việc biến đổi phép đối, khi thì dồn lại giữa “tài tử” và “giai nhân”, khi thì tách giãn “ngựa xe như nước” và “áo quần như nêm”, khi ẩn khi hiện một sức hút khó tả và rất riêng của cảnh ngày xuân. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng hàng loạt những từ có hai âm tiết thuộc nhiều từ loại khác nhau để miêu tả không khí lễ hội thật rộn rã: danh từ (yến anh, chị em, tài tử, giai nhân), động từ (sắm sửa, dập dìu), tính từ (gần xa, nô nức). Trong đó vừa có từ ghép, vừa có từ láy, tự sự hòa vào với miêu tả, làm sống lại trước mắt người đọc một ngày hội đậm chất trữ tình, khiến cho ta cũng như ngây ngất trong không khí tràn đầy sức xuân ấy. Và tất nhiên, tả lễ hội trong tiết Thanh minh thì không thể thiếu một phong tục rất quen thuộc:
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay
Phong tục cổ truyền đã có từ nghìn xưa được Nguyễn Du đưa vào câu thơ thật sinh động. “Ngổn ngang gò đống” không chỉ gợi tả cảnh những ngôi mộ mà còn muốn nói đến những đống tro tàn vương vãi khắp nơi trên mặt đất. Đi tảo mộ, không thể không rắc thoi vàng vó, đốt tiền vàng mã, để tưởng nhớ những người đã khuất. Trong cảnh tượng khói bay nghi ngút ấy như âm ỉ cháy những lời thì thầm vọng về từ quá khứ, từ ông bà tổ tiên. Sự cách trở âm dương tưởng chừng như bị xóa nhòa, quá khứ được kéo gần hơn tới hiện tại trong không gian thiêng liêng đầy thành kính ấy. Không hề có sự nặng nề, âm u tưởng chừng như luôn chập chờn đâu đó khi ta nhắc đến mồ mả, mà thay vào đó là một nét đẹp rất thanh tao của văn hóa phương Đông về nghĩa tình với những người đã khuất. Có thể trong thời buổi hiện đại ngày nay, phong tục ấy được xem là sự mê tín cổ hủ, nhưng giá trị nhân văn trong những vần thơ của Tố Như vẫn làm ta xúc động về đời sống tâm linh của người xưa. Vẫn là bút pháp gợi hình gợi cảm, nhưng bằng hàng loạt từ ngữ miêu tả, Nguyễn Du đã tái hiện lại cảnh "hội" mùa xuân thật sống động, rộn ràng và tươi vui nhưng cũng không làm mờ đi chữ "lễ" qua những phong tục cổ truyền của dân tộc.
Buổi du xuân vui vẻ cũng dã tới chỗ phải nói lời tạm biệt. Vẫn là cảnh mùa xuân, vẫn là không khí của ngày hội lễ, nhưng bây giờ là giây phút cuối ngày:
"Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn dang tay ra về
Bước dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong canh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nuóc uốn quan
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang."
Nếu câu thơ mở đầu của "Cảnh ngày xuân" chan hòa ánh sáng "thiều quang" thì đến đây, hoàng hôn dường như bắt đầu nhuốm dần xuống phong cảnh và con người. Hội đã hết, ngày đã tàn nên nhịp thơ không còn cái rộn ràng, giục giã mà trái lại thật chậm rãi, khoan thai. Cảnh vật vì thế mang cái vẻ nên thơ, dịu êm, vắng lặng trong ánh nắng nhạt dần. Dòng khe có chiếc cầu nho nhỏ cuối ghềnh tạo thành đường nét thể hiện linh hồn của bức tranh một buổi chiều xuân. Nhịp chân có chút tâm tình man mác nên "thơ thẩn" và đến đây là "bước dần", chẳng có gì nao nức, vội vàng. Các từ láy "tà tà", "thanh thanh", "nho nhỏ", "nao nao" góp phần làm nên sự yên ắng và nỗi buồn của cảnh vật, của con người. Cảnh vật và thời gian được miêu tả bằng bút phá ước lệ cổ điển nhưng vẫn gợi cho người đọc cảm giác gần gũi, thân quen vì nó đã thấm hồn dân tộc, mang bóng dáng cảnh sắc quê hương Việt Nam.Rõ ràng, cảnh ở đây được nhìn qua tâm trạng nhân vật tham gia vào lễ hội. Hai chữ "nao nao" (Nao nao dòng nước uốn quanh) đã nhuốm màu tâm trạng lên cảnh vật. Dòng nước nao nao, trôi chậm lưu luyến bên chân cầu nho nhỏ, phải chăng cũng là nỗi lưu luyến, tiếc nuối của lòng người khi ngày vui chóng qua? Nguyễn Du đã từng viết: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?". Vì vậy, khi vào lễ hội, người vui thì cảnh sắc rộn ràng tươi mới. Lúc lễ hội tan rồi, người về sao tránh khỏi sự xao xuyến, cảnh sắc sao tránh khỏi màu ảm đạm! Dường như có một nỗi niềm man mác, bâng khuâng thấm sâu, lan tỏa trong tâm hồn vốn đa tình, đa cảm như Thúy Kiều. Và ở sáu dòng cuối này, Nguyễn Du không chỉ nhằm nói tâm trạng buồn tiếc khi lễ hội vừa tàn, mà hình như, ông chuẩn bị đưa nhân vật của mình vào một cuộc gặp gỡ khác, một thế giới khác. Như ta đã biết, ngay sau buổi Thanh minh, Nguyễn Du đã sắp đặt để Thúy Kiều gặp Đạm Tiên và Kim Trọng. Vì thế, cảnh vật trong hoàng hôn này cũng là một dự báo, một linh cảm cho đoạn trường mà đời kiều sắp phải bước qua.
Nguyễn Du đã cho ta thấy một ngày xuân nô nức, vui tươi. Nghệ thuật tả cảnh, tả tình của ông như thế thật khéo và cách chuyển ý cũng thật tinh tế, tự nhiên.
Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học - mẫu 3
Với Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ lớn của đất Đồng Nai, bên cạnh những bài văn tế, bài thơ sục sôi quân cướp nước, chứa chan tình yêu nước thương dân trong cảnh li loạn; là những truyện thơ nêu cao nhân nghĩa, đạo lí làm người. "Truyện Lục Vân Tiên'' đã làm cho tên tuổi Đô Chiểu trở thành bất tử. Trung, hiếu, tiết, nghĩa đã chiếu sáng lung linh những vần thơ đẹp:
"Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình".
“Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” là một trích đoạn của tác phẩm “Truyện Lục Vân Tiên”, kể về hành động nhân nghĩa, vô tư của Lục Vân Tiên, khi chàng bắt gặp trên đường cảnh bạo tàn, chàng đã không hề né tránh hay e ngại những tai họa sẽ đến mà hết lòng ra tay cứu giúp người bị nạn. Đoạn trích thể hiện được nét đẹp trong phẩm chất cũng như tâm hồn của Lục Vân Tiên, chàng làm việc nghĩa xuất phát từ tấm lòng mà không hề tính toán đến việc thiệt hơn, báo đáp ân nghĩa. Ngoài ra, Kiều Nguyệt Nga cũng là một nhân vật được xây dựng khá đặc sắc, nàng là một tiểu thư khuê các, khi được cứu giúp bởi Lục Vân Tiên nàng đã thể hiện những phẩm chất tốt đẹp như trọng ân nghĩa, hiền thục đoan trang lại là một người con có hiếu.
Mở đầu đoạn trích, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả một cách chân thực, sống động những hành động của Lục Vân Tiên, đó chính là khi chàng ra tay diệt trừ cái bạo tàn, không cho phép nó làm tổn hại, gây ra đau khổ cho những người dân lương thiện, đây là một hành động đẹp, là biểu hiện ra bên ngoài của một tấm lòng đáng quý, đáng trân trọng.
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhằm làng xông vô
Kêu rằng: “Bớ đảng hung đồ”
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”
Câu thơ miêu tả những hành động của Lục Vân Tiên khi gặp một sự cố ở trên đường, đó là chứng kiến cảnh lũ cướp hoành hành, đang gây họa cho người dân, bản tính cương trực, căm ghét cái ác lại đề cao hành động nhân nghĩa đã thôi thúc Vân Tiên hành động, và hành động của chàng dường như cũng chỉ diễn ra trong một cái chớp mắt, chàng không hề suy nghĩ, tính toán thiệt mất nếu như mình can dự vào mà chàng lập tức ra tay diệt trừ mối nguy hại ấy, bảo vệ người dân. Và sự gấp rút của tình huống nên chàng không kịp chuẩn bị gì mà tiện tay bẻ luôn cành cây bên đường để làm vũ khí diệt trừ cái ác “Bẻ cây làm gậy nhằm đằng xông vô”. Không chỉ nhân nghĩa trong hành động mà lời nói của chàng cũng thể hiện được tính cách cương trực, thẳng thắn của chàng “Kêu rằng bớ đảng hung đồ/ Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân”.
Lời nói của Lục Vân Tiên là hướng đến chỉ trích, phê phán lũ giặc cướp nhưng cũng là tuyên ngôn sống đầy cao đẹp của chàng, sống là phải hướng đến bảo vệ cuộc sống của những người dân lành, chứ không phải mang đến những đau khổ cho họ. Và những hành động bạo tàn, “hồ đồ” chàng càng không cho phép nó xâm hại đến những con người lương thiện ấy. Vân Tiên không chỉ là một con người có tình thương với con người, mang trong mình tinh thần chính nghĩa cao đẹp mà chàng còn là một chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi, điều này được thể hiện ra trong những hành động chàng chống lại những tên cướp:
“Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dang
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”
Những động tác của Vân Tiên đều rất dứt khoát, nhanh nhẹn “tả đột hữu xung”, và những hành động anh hùng này được nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu so sánh với hình ảnh người anh hùng Triệu Tử khi phá vòng Đương Dang. Trước sức mạnh của Lục Vân Tiên thì băng cướp bị đánh tan “Lâu la bốn phía vỡ tan”, chúng hoảng loạn bỏ lại gươm giáo mà tìm đường thoát thân. Và cầm đầu của băng đản này là Phong Lai thì bị Tiên cho một gậy “thác rày thân vong”. Đây là sự trừng phạt thích đáng cho những kẻ lấy việc hại người làm niềm vui, làm mục đích kiếm sống. Đối với những tên cướp ngày Lục Vân Tiên tuyệt đối không khoan nhượng,lời nói và hành động đều hết sức quyết liệt nhưng khi hỏi thăm người bị nạn thì chàng lại trở nên vô cùng dịu dàng, phải phép:
“Dẹp rồi lũ kiến chòm ong
Hỏi: “Ai than khóc ở trong xe này”
Không chỉ ra tay cứu giúp người bị nạn mà chàng còn hết lòng quan tâm đến họ, thể hiện ngay qua lời hỏi thăm ân cần, và động viên, giúp người bị nạn trấn tĩnh lại tinh thần sau cơn hoảng loạn bằng việc thông báo cho họ biết tình hình bên ngoài, rằng những lũ “kiến chòm ong” đã bị tiêu diệt, cũng tức không còn bất cứ sự nguy hiểm nào có thể đe dọa nữa. Và phẩm chất tốt đpẹ của Lục Vân Tiên cũng tiếp tục được bộc lộ khi chàng có cuộc đối thoại với người bị hại, cũng tức Kiều Nguyệt Nga. Khi Kiều Nguyệt Nga có ý định bước ra khỏi kiệu để cúi lậy Lục Vân Tiên vì công cứu mạng thì chàng nhất quyết không chịu nhận:
“Khoan khoan ngồi đó chớ ra
Nàng là phận gái ta là phận trai”
Chỉ thông qua vài câu nói thôi nhưng ta có thể nhận thấy Lục Vân Tiên là một con người trọng đạo lí, cũng như những khuôn phép trong xã hội xưa. Chàng không muốn Kiều Nguyệt Nga ra ngoài cúi lạy mình vì không muốn sự gặp mặt này ảnh hưởng đến phẩm tiết của nàng, vì trong quan niệm của xã hội phong kiến xưa, thì “nam nữ thụ thụ bất thân”, tức là giữa con trai và con gái cần phải có những khoảng cách nhất định, không được tùy tiện gặp mặt hay có những hành động thân thiết. Lời nói của Lục Vân Tiên cũng thể hiện chàng là một con người có học thức, còn đặt lời nói ấy trong xã hội ngày nay thì ta lại thấy có cái gì đấy đáng yêu ở chàng trai này. Nhưng mục đích của Lục Vân Tiên không chỉ vì lễ tiết mà chàng cũng không muốn nhận sự báo đáp của Kiều Nguyệt Nga, bởi hành động cứu giúp của chàng là xuất phát từ tấm lòng chứ không phải vì mục đích vụ lợi gì “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”, câu nói của chàng với Kiều Nguyệt Nga càng làm cho con người chàng trở nên đáng trân trọng hơn.
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”
Trong quan niệm của Lục Vân Tiên thì những việc nhân nghĩa là tất yếu, và nếu làm ơn mà trông ngóng việc trả ơn thì không phải người anh hùng “Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.
Tinh thần nghĩa hiệp của Lục Vân Tiên như viên ngọc quý sáng bừng lên dư vị ngòi bút sắc nhọn của Nguyễn Đình Chiểu:
"Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà."
Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học - mẫu 4
Văn học Việt Nam có rất nhiều cây bút tài hoa, nghị lực hơn người. Văn xuôi chúng ta có một Nam Cao bản lĩnh vượt lên gánh nặng áo cơm để sống và sáng tạo nghệ thuật. Còn thơ ca, chúng ta có Nguyễn Đình Chiểu dũng cảm hơn người, vượt lên trên cuộc đời bất hạnh với đôi mắt không thể nhìn thấy ánh sáng, ông đã cống hiến cho nền văn học nhiều tác phẩm đặc sắc. Tiêu biểu trong số đó phải kể đến Truyện Lục Vân Tiên với đoạn trích ấn tượng “Lục Vân Tiên gặp nạn”. Thông qua tình huống khó khăn của Lục Vân Tiên, đoạn trích đã tái hiện sự đối lập giữa thiện và ác, ngợi ca vẻ đẹp, lòng nhân hậu cũng như tình yêu thương ở con người. Đồng thời tố các tội ác, sự tàn nhẫn của những kẻ giả tạo, hai mặt, ích kỷ tham lam.
Đoạn trích nằm ở phần thứ hai của truyện thơ. Trên đường về quê chịu tang mẹ, khóc nhiều nên Vân Tiên đã bị mù cả hai mắt, chàng và tiểu đồng bơ vơ nơi đất khách quê người. Đúng lúc này, Trịnh Hâm trên đường đi thi trở về gặp được hai người. Vì tâm địa xấu xa, ghen ghét, hắn đã không giúp bạn bè khi gặp hoạn nạn mà còn lập mưu hãm hại Vân Tiên. Hắn lừa tiểu đồng vào rừng rồi trói lại, giả bộ đưa Vân Tiên xuống thuyền, hứa sẽ đưa về nhà. Đợi lúc đêm xuống, hắn thực hiện tội ác của mình. Đoạn thơ thể hiện sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, đồng thời gián tiếp gửi gắm lòng tin của tác giả đối với những người lao động bình thường.
Mở đầu đoạn thơ, Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện hành động mờ ám, xấu xa của kẻ tiểu nhân Trịnh Hâm khi ra tay đẩy Lục Vân Tiên vào chỗ nguy hiểm:
“Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghênh ngang sao mọc mịt mờ sương bay.
Trịnh Hâm khi ấy ra tay
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời"
Trịnh Hâm sau khi lừa gạt tiểu đồng- người theo hầu Vân Tiên vào rừng trói lại, hắn bèn lợi dụng cảnh khốn khó, mù loà của bạn để hãm hại Vân Tiên. Âm mưu được sắp đặt sẵn, hắn chờ đến "đêm khuya" thời điểm mà mọi người đang chìm vào giấc ngủ để dễ bề thực hiện hành động ác độc của mình. Lựa chọn không gian "vắng lặng" cùng "mịt mờ sương bay" lại ở giữa sông giúp hắn ra tay của hắn nhanh chóng mà “người không biết, quỷ không hay” cho thấy hắn thâm hiểm, mưu mô đến mức độ nào. Trịnh Hâm ra tay một cách rất tàn nhẫn, không hề do dự mà đẩy ngày Vân Tiên xuống hồ, khiến chàng hoang mang, không kịp trở tay. Không chỉ vậy, sau khi đẩy Vân Tiên xuống, kẻ bất nhân đó còn giả tạo đến mức diễn cảnh "vừa ăn cắp vừa la làng" khi giả tiếng than khóc, kêu trời, cầu người giúp đỡ, khi mọi người tỉnh dậy, hắn nói những lời lừa dối hòng lấy lòng thương xót từ người khác để che giấu hành động của mình:
“Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời
Cho người thức dậy, lấy lời phôi pha”
"Giả tiếng kêu trời"- thật đáng khinh biết bao. Một kế hoạch do hắn lập ra thật hoàn hảo. Kẻ hại người lại cầu người thương xót. Hắn la làng khiến mọi người nghĩ rằng Vân Tiên tự ngã, còn hắn vô tình thấy và kêu cứu. Thật gian xảo biết bao mới nghĩ ra một kế hoạch trọn vẹn và có lợi cho hắn như thế. Sau khi nghe tiếng kêu mọi người xôn xao hoảng hốt:
“Trong thuyền ai nấy kêu la
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng”
Một người hiền lành, tốt bụng như Lục Vân Tiên thì chẳng ai mà không xót xa, thương tiếc khi nghe tin ấy. Trịnh Hâm thật tàn nhẫn, hẹp hòi khi chỉ vì tư thù, ích kỷ mà sẵn sàng hại người huynh đệ giữa lúc hoạn nạn, khó khăn còn là người mà đã đặt hết niềm tin vào mình. Đã vậy hắn còn sẵn sàng phủi tay, che dấu tội lỗi của mình. Hại người đã là xấu, hại cả người thân cận, bằng hữu của mình lại càng xấu xa biết bao. Qua tám câu thơ đầu ta thấy được bộ mặt gian xảo, xấu xa, mưu mô, độc ác của Trịnh Hâm, một kẻ bất nhân, bất nghĩa đến ghê tởm
Khác với Trịnh Hâm tàn ác, mưu mô, những dòng tiếp theo ta được thấy hình ảnh một Ngư Ông đầy hiền lành, tốt bụng, một người đại diện cho những người lao động nghèo chân chính, họ thương người, giúp đời, làm việc thiện bởi hai chữ "nghĩa tình" đáng quý. Khi thấy Vân Tiên mình lụy giữa dòng nước, ông nhanh chóng cứu vớt chàng lên rồi khẩn trương hối thúc mọi người trong gia đình giúp đỡ:
“Hối con vầy lửa một giờ
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày".
Họ không hề tính toán, so đo thiệt hơn về mình, hành sự đầy hào hiệp, trượng nghĩa. Mỗi người một tay nhanh chóng tập trung cứu người không may, những việc làm tận tâm nơi họ thật đáng trân trọng biết bao, không vì thấy người xa lạ mà bỏ mặc, họ dành cho Vân Tiên sự quan tâm và ủi an hết mực. Ta càng thấy ghê rợn với hành động của Trịnh Hâm bao nhiêu thì ta lại càng cảm động, càng ấm lòng với hành động của gia đình Ngư Ông bấy nhiêu. Khi biết rõ hoàn cảnh trái ngang của Vân Tiên, lão Ngư lại càng không hề khinh khi mà càng cảm thông sâu sắc, rồi mời Vân Tiên ở lại cùng, dẫu gia đình chẳng hề khá giả hay giàu có gì. Thật ân tình và đầy thương cảm, tấm lòng “lá rách ít đùm lá rách nhiều” của lão Ngư là một thứ ánh sáng mang đến vầng hào quang đầy nhân văn cho đoạn trích. Khi Vân Tiên trăn trở không biết lấy gì báo đáp công ơn cứu giúp mình, lão Ngư ân cần mà bảo:
“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”
Còn điều gì đáng trân quý hơn một tấm lòng nhân nghĩa, hành đạo giúp đời chẳng màng báo đáp. Với ông Ngư, đó là điều cần phải làm trong đời sống, là nghĩa vụ và trách nhiệm, tấm lòng mà mỗi người nên có trong đời.
Không chỉ có việc làm, hành động tốt, lão Ngư còn có một tâm hồn, một lối sống, cách nghĩ đầy cao quý. Với lão, chẳng màng vật chất cao sang, chẳng màng phú quý, bạc vàng hay danh lợi to lớn chỉ cần thấy đủ với cuộc sống, tự do, ung dung trước cuộc đời, trước thiên nhiên:
“Rày doi mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng...
Kinh luân đã sẵn trong tay
Thung dung dưới thế vui say trong trời
Thuyền nan một chiếc ở đời,
Tắm mưa trải gió trong vời Hàn Giang”
Cuộc sống thật thanh cao, khoẻ khoắn, chẳng toan tính, nghĩ suy quá nhiều. Sớm mai vui vầy làm bạn cùng mây trời, trăng , gió vui cùng thuyền, câu, sóng, nước. Một cuộc sống bình dị mà ấm êm, đong đầy những tình cảm yêu thương dành cho nhau, cuộc sống ấy thật an nhiên, tự tại biết bao. Hình ảnh ông Ngư và gia đình là hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho hình ảnh những người lao động bình thường, dân giã, ở họ ánh lên sức sống, vẻ đẹp của lương thiện, của chính nghĩa trong đời sống, ở họ ánh lên cả vẻ đẹp của những tấm lòng nhân ái, nhân cách cao cả, sống hành nghĩa, giúp đời đầy cao thượng.
Đoạn trích "Lục Vân Tiên gặp nạn" đã sử dụng cách sắp xếp các tình tiết hợp lí, lời thơ dung dị đời thường, xây dựng các hình ảnh đối lập. Qua đó, người đọc thấy được sự đối lập giữa cái thiện và cái ác, giữa những người cao cả và những kẻ thấp hèn, đặc biệt cảm nhận được niềm tin mãnh liệt của nhà thơ dành cho vẻ đẹp của những người dân lao động bình dị.
Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học - mẫu 5
Truyện thơ nôm Tống Trân - Cúc Hoa có cốt truyện vay mượn từ truyện thơ nôm Kinh Tống Trân Cúc Hoa. Truyện thơ Tống Trân - Cúc Hoa có nguồn gốc từ truyện cổ tích Giã sử quan trạng Gầu. Truyện được xây dựng trên những mâu thuẫn phức tạp của cuộc sống đời thường. Đó là những nghịch cảnh, nghịch lí trớ trêu của cuộc đời mang đến nhiều giá trị nhân sinh sâu sắc.
Truyện nôm là một bộ phận văn hóa độc đáo và có những giá trị sâu sắc trong nền văn học phong kiến Việt Nam. Đây là một loại hình tự sự có khả năng phản ánh hiện thực với một phạm vi rộng vì vậy có người gọi truyện thơ nôm là trung thiên tiểu thuyết. Những giá trị mà truyện nôm mang lại cho cuộc sống được khẳng định qua sự tồn tại của nó theo thời gian.
Chuyện kể rằng Tống Trân vốn là con cầu tự, lên ba tuổi thì cha mất gia đình hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Mẹ con chàng phải đi ăn xin kiếm sống qua ngày, cuộc sống muôn vàn khó khăn vất vả. Một hôm Tống Trân đưa mẹ tới nhà quý phái, tại đi Tống Trân và Cúc Hoa gặp nhau, thương tình cho cảnh nghèo đói của mẹ con chàng, nàng Cúc Hoa đem gạo ra cho và đem lòng yêu Tống Trân. Dưới sự ngăn cản của gia đình Cúc Hoa đi theo Tống Trân, lấy chàng làm chồng. Kể từ đó Cúc Hoa vừa lo phụng dưỡng cho mẹ chồng vừa lo cho chồng ăn học.
Tống Trân lên kinh thi và đỗ Trạng nguyên được vua khen là “quốc sĩ tướng tài trong nước chỉ có một mình Tống Trân không ai sánh được”. Nhà vua muốn gả con gái cho chàng nhưng bị khước từ. Chính vì điều đó là chàng bị cử đi sứ Tần , chàng lúc nào cũng không quên nhớ nhà, nhớ người thân, nhớ hình ảnh mẹ già và người vợ thảo hiền của mình “thân nàng theo mừa đuổi hiên/ Thân nàng về lầu các mái hiên/ Phít se quan Tạng Nguyên nàng vọng/ Dõi theo bóng Trạng Nguyên xa khuất”. Tống Trân là một người tài giỏi, yêu thương gia đình hai vợ chồng chưa được bên nhau bao lâu thì bàng hoàng khi nhận được chiếu chỉ của vua ban “ngày vui ngắn chẳng tày ngang/ chữ hiếu chưa tròn chữ tình dở dang”. Chàng lên đường theo chiếu chỉ của vua thế nhưng lòng vẫn luôn hướng về gia đình. Tống Trân thương người mẹ già tuổi đã cao, thương người vợ hiền đảm bao công nuôi mẹ rồi nuôi chồng nay mới hưởng được chút vinh danh lại phải xa cách mà chưa biết bao giờ mới có ngày đoàn tụ. Cả đoạn Tống Trân chia tay mẹ già và người vợ hiền để lên đường đi sứ mang đến cho ta cảm giác xa cách, chứa chan nước mắt với những từ ngữ đầy buồn đau như “thảm hại”, “lệ tuôn lai láng”, “nước mắt rơi lã chã”,…Tống Trân đến với Cúc Hoa bằng tình cảm chân thành, họ yêu nhau không vì danh lợi bởi tình cảm họ dành cho nhau đều đến từ trái tim. Cúc Hoa nguyện ở nhà nuôi mẹ cho chồng vững bước trên đường xa. Một người vợ với tấm lòng đôn hậu, nghĩa tình thủy chung nặng tình nặng nghĩa như Cúc Hoa quyết định ở lại chăm lo cho mẹ già chờ ngày chồng trở về. Ở nơi xứ lạ quê người, Tống Trân không ngừng nhớ về quê hương, nhớ về mẹ về vợ của mình “thoảng nhớ nàng nhớ đến Cúc Hoa/ Nhớ vợ châu lệ xa không cạn/ Nhớ đến mẹ lão mẫu thân sinh” không gian xuất hiện cũng chỉ nhằm để đi sâu vào tâm trạng của nhân vật trữ tình. Dòng tâm trạng của Tống Trân cuộn chảy theo thiên nhiên, khiến cho lời thơ trở nên mới mẻ sinh động và phong phú.
Cúc Hoa là một người con dâu hiếu thảo, lễ phép ở nhà làm một dạ nuôi con nuôi mẹ chờ chồng. Mặc dù xuất thân trong một gia đình quý phái với đầy đủ về vật chất thế nhưng nàng có một người cha tàn nhẫn và ác độc. Tác phẩm là câu chuyện đẹp để về tình cảm son sắt sự thủy chung giữa Cúc Hoa và Tống Trân. Vì lòng thương chàng trai nghèo khổ nàng quyết định mổ từ bỏ gia đình để về làm vợ chàng. Mặc dù sống cuộc sống nghèo khổ, phải xa chồng nuôi mẹ thế nhưng nàng chưa một lần than thở hay cảm thấy khó chịu mà còn luôn yêu thương chăm sóc cho mẹ khi chồng vắng nhà. Cùng mẹ san sẻ lo lắng cho cuộc sống, lo cho mẹ hơn chính bản thân của mình. Người vợ thủy chung luôn hy sinh và lo lắng cho chồng. Cúc Hoa chấp nhận chịu thiệt, hi sinh bản thân để chăm lo cho chồng, tạo cho chồng có cơ hội được học tập thi đỗ thành tài. “Kể chi phận thiếp đàn bà/ Khó nghèo chớ quản lỗi nhà thảm thương”. Nàng tự ý thức được thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, phải luôn chịu áp lực, thiệt thòi, chịu những định kiến cổ hủ của xã hội. Cúc Hoa và người mẹ già là đại diện tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong xã hội cũ. Dù vậy Cúc Hoa vẫn một lòng tin tưởng chồng không ngại khó khăn nuôi mẹ lại nuôi cả chồng. Có thể thấy Cúc Hoa là một người vợ thủy chung thấu tình đạt lý. Nàng chấp nhận thân phận nữ nhi với nhiều thiệt thòi, bất công để lo cho chồng sự nghiệp phát triển. Không giống như bậc nam nhi trong xã hội đương thời, thật may mắn khi Tống Trân là một người luôn lo lắng cho mẹ, thương yêu vợ của mình. Kết thúc truyện họ đã được trở về bên nhau sống cuộc sống hạnh phúc và viên mãn.
Tác phẩm đã mang đến cho ta những giá trị nhân văn sâu sắc. Nếu như ta thường thấy những mâu thuẫn trong cuộc sống mẹ chồng nàng dâu thì ở đây Cúc Hoa cùng mẹ chồng lại chăm sóc yêu thương nhau, họ cảm thông cho nhau vì cùng là số phận của những người phụ nữ. Nàng dâu hiếu thảo lễ phép hết mực thương yêu gia đình chồng. Tác phẩm đã lên án gay gắt xã hội phong kiến tàn bạo chà đạp lên tình yêu của con người. Số phận những người phụ nữ trong xã hội xưa luôn phải chịu bất công áp bức
Truyện thơ nôm Tống Trân - Cúc Hoa đã mang đến cho ta những giá trị văn hóa, triết lý nhân sinh sâu sắc. Chính tình yêu của quốc hoa của họ đã mang đến thông điệp về sự dũng cảm, nhẫn nại vượt qua mọi khó khăn thách thức trong cuộc sống để đến được hạnh phúc viên mãn.
Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học - mẫu 6
Từ lâu đề tài về tình yêu đôi lứa đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều tác giả sáng tác được nên nhiều tác phẩm hay. Tiễn dặn người yêu cũng là một trong số đó, tác phẩm nổi bật về phong cách sáng tác truyện thơ kết hợp rất nổi tiếng của dân tộc Thái. Những trắc trở trong tình yêu, trong hôn nhân đôi khi như thử thách nằm trên con đường dài dẫn đến hạnh phúc, mà chính những con người trong cuộc mới cảm nhận hết, đặc biệt tâm trạng từ phía người con trai - vế chủ động trong một cuộc tình mang đầy sâu sắc, da diết, được miêu tả rõ qua đoạn trích lời tiễn dặn.
Truyện thơ của các dân tộc chính là một câu chuyện dài kể qua lời thơ, phản ánh cho ta hiểu được nhiều phong tục tập quán, cũng như lối suy nghĩ, tình cảm của người đồng bào thiểu số. Tiễn dặn người yêu,được dịch cụ thể thành 1846 câu thơ,rất nổi tiếng, kể lại câu chuyện tinh yêu - hôn nhân qua lời của 2 nhân vật chính, trong câu chuyện có nhiều diễn biến tương ứng như mỗi quãng đường thăng trầm trong tình yêu của họ bao gồm cả những khát vọng hạnh phúc, nỗi đớn đau khi tình yêu bị chia lìa và cuộc đấu tranh kiên trì, quyết liệt của hai người để bảo vệ tình yêu,ta phải đặt mình vào trong tác phẩm một cách chân thành mới mong hiểu được biết cảm thông được với những biểu hiện mong ngóng người yêu ,cử chỉ ân cần, âu yếm và lời thề nguyền son sắt giữ trọn tình yêu của chàng trai.
Đoạn trích này đặc biệt hoàn toàn là lời của chàng trai, cùng tâm trạng đau đớn trên đường tiễn cô gái về nhà chồng, phải chứng kiến cảnh cô bị chính người chồng đánh đập, hình ảnh cô gái hiện lên gián tiếp trong lời nói chân thành của anh.
Khi đọc ngay từ đầu hình ảnh quay chậm miêu tả hị qua lời anh rõ nét, luôn trong trạng thái níu kéo cho thời gian dài ra, cố trì hoãn những bước đi về nhà người chồng mà chị không hề muốn sống chung, mỗi chữ, chân bước đi mà đầu “còn ngoảnh lại” mắt còn “ngoái trông anh”, chân bước càng xa thì lòng càng đau đớn, mỗi cảnh rừng nàng qua đều biểu hiện sự tha thiết nhớ người yêu cũ, muốn gặp.
Em tới rừng ớt ngắt lá ớt ngồi chờ,
Tới rừng cà ngắt lá cà ngồi đợi,
Tới rừng lá ngón ngóng trông.
Các từ ngữ được dùng với độ dày đặc, lặp đi lặp lại như biểu hiện tính đau khổ, nỗi lòng nhớ thương của cô gái, mãi mong người yêu nhưng chẳng thấy anh.
Rồi anh cũng tới, sau bao nỗ lực của cô gái, vì họ hiểu nhau, vì họ như hẹn ước với nhau:
Anh tới nơi, em bẻ lá xanh em ngồi;
Được nhủ đôi câu, anh mới đành lòng quay lại,
Được dặn đôi lời, anh yêu em mới chịu quay đi.
Lúc tiễn đưa này, anh - người đàn ông dân tộc Thái ấy, cử chỉ thân mật, tình cảm tuyệt vời, trước người con gái mình yêu, hoàn cảnh éo le hiện tại, anh cũng như chị, cũng muốn níu kéo thời gian giây phút ngắn ngủi được ở bên chị, Anh đòi hỏi với mong muốn tha thiết phải được dặn chị đôi lời mới chịu quay gót, phải dặn dù chẳng được nói chuyện nhiều như lúc xưa kia nhưng vì anh luôn cảm thấy chỉ hiểu mình, tin tưởng nhau tuyệt đối như ngày nào nên dù có dặn đôi câu cũng đã yên lòng quay gót đi.
Ngôn ngữ xưng hô trong dân ca Thái và trong tiễn dặn người yêu sao mà ngọt ngào, mở đầu đoạn trích Anh gọi chị là “người đẹp anh yêu”, đến lúc gặp được chị là một câu tự xưng “anh yêu của em” khẳng định tình yêu trong Anh vẫn nồng nàn, thắm thiết.
Phong tục của người Thái cũng lại vang lên đầy tính tình cảm, được nhắc đến trong hoàn cảnh này như sự suy nghĩ sâu xa cho tương lai hai đứa, đến một ngày mà viễn cảnh ấy u ám - là cái ngày một trong hai người chết đi:
Xin hãy cho anh kề vóc mảnh,
Quấn quanh vai ủ lấy hương người,
Cho mai sau lửa xác đượm hơi,
Một lát bên em thay lời tiễn dặn
Dù nhận thức hoàn cảnh hiện tại không hề chấp nhận, cho phép được hành động thân mật táo bạo của anh với chị, nhưng anh vẫn bất chấp, nhất mực, luôn muốn “kề vóc mảnh” gợi ra được sự mảnh mai, nhưng đầy kiêu sa, đẹp tuyệt của người con gái Thái muốn tìm về cái sự thủy chung đâu có gì là sai, anh suy nghĩ không lấy được nhau, có nghĩa không có ai thân yêu suốt cả cuộc đời nhưng vì có hơi hương da thịt người yêu ngay lúc này, mà khi chết xác sẽ cháy đượm, vong hồn được siêu thoát, không còn là kẻ cô đơn.
Tình cảm của người con trai ấy thật cao cả, đáng quý, không những chỉ yêu mình chị, còn dành cả tình yêu luôn cả đứa con riêng của cô gái. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải chấp nhận tình cảm, cũng như đứa con mà tạo thành bởi một cuộc tình không có cảm xúc, lạnh nhạt với người chồng hiện tại. Anh vẫn bao dung, trân trọng cô, anh nựng đứa con của người yêu như chính đưa con ruột của mình.
Con nhỏ hãy đưa anh ẵm,
Bé xinh hãy đưa anh bồng,
Cho anh bế con dòng, đừng ngượng,
Nựng con rồng, con phượng, đừng buồn.
Tiếng nựng kia dù chân thành nhưng làm sao có thể tránh sự đau lòng, ai oán, khi tình yêu đến mà không được cùng nhau đi đến cuối cuộc đời, không được cùng nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc, những đàn con thơ. Vậy nên chàng đã thốt ra lời thề nguyện chan chứa tình cảm, đầy sự quyết tâm về tình yêu sự sắt đá của cả hai người:
“Đôi ta yêu nhau, đợi tới tháng Năm lau nở,
Đợi mùa nước đỏ cá về, Đợi mùa chim tăng ló gọi hè.
Không lấy được nhau mùa hạ, ta sẽ lấy nhau mùa đông,
Không lấy được nhau thời trẻ, ta sẽ lấy nhau khi góa bụa về già’’.
Đây cũng như là ý chính chủ đạo bao bọc của bài thơ, ý thơ hay dào cảm xúc. Có Thời gian cụ thể, bằng cả sự chân thành, tứ thơ bay bổng, lay động mà chân thật, gắn với hai mùa đầu và cuối trong một năm cũng tương tự như là đời người, dù không thể trọn vẹn tình yêu nơi tuổi thanh xuân trẻ trung, nồng nhiệt kia, nhưng tình yêu thì sẽ chẳng bao giờ là muộn để tiếp nối lại, để tạo nên gia đình hạnh phúc của hai người, dù có khi đến tàn phai theo năm tháng họ đều đã về già nhưng sự chờ đợi nhau dù bao nhiêu lâu” tháng năm lau nở”, “nước đỏ cá về”, “chim tăng ló gọi hè”, tình yêu trong sáng ấy không bao giờ bị dập tắt như chính lời thề nguyền ngày nào.
Sự thủy chung son sắt trong tình yêu còn được thể hiện qua đoạn hai những ngày mà chàng trai còn lưu lại ở nhà chồng cô. Là người chứng kiến cảnh người chồng mới đánh đập, hành hạ cô ngã lăn quay bên cối gạo, khi cô trở thành một người khác luôn vì muốn sống trọn với lời thề nguyền cùng chàng, cô đã hóa mình thành một con người sống phản kháng không cam lòng với sự sắp đặt, giả bộ làm những việc để nhà chồng chán ngấy, ghét kinh mình, rồi cô cũng phải lâm vào cái tình cảnh quen thuộc bị đối xử thậm tệ không khác gì người ở cho nhà chồng, chàng trai ấy hiểu hết, đồng cảm, an ủi, chăm sóc cô trong giây phút cô tuyệt vọng nhất.
“Dậy đi em, dậy đi em ơi!
Dậy rũ áo kẻo bọ,
Dậy phủi áo kẻo lấm!
Đầu bù anh chải cho,
Tóc rối đưa anh búi hộ!
Anh chặt tre về đốt gióng đầu,
Chặt tre dày, anh hun gióng giữa,
Lam ống thuốc này em uống khỏi đau.
Anh vực cô dậy không chỉ về thể xác, còn về cả tinh thần, giúp cô có ý chỉ, nghị lực để sống tiếp quãng đường khó khăn này, còn cho nàng hiểu và nhớ rằng dù có chuyện gì xảy ra chàng vẫn luôn bên cạnh ủng hộ, cùng nàng vượt qua mọi chuyện
“Tơ rối đôi ta cùng gỡ
Tơ vò ta vuốt lại quay guồng”
Quay lại guồng gỗ tốt cán thuôn,
Về với người ta thương thuở cũ."
Đoạn thơ này kế tiếp bằng những hình ảnh bi thương- cái chết nhưng một lần nữa khẳng định lại cái quyết tâm kia, lòng dạ, ý chí của anh và cô đầy sự đồng lòng, sự sống mạnh mẽ vực lại tình yêu, không chấp nhận thực tại:
“Chết ba năm hình còn treo đó;
Chết thành sông, vực nước uống mát lòng,
Chết thành đất, mọc dây trầu xanh thắm,
Chết thành bèo, ta trôi nổi ao chung,
Chết thành muôi, ta múc xuống cùng bát,
Chết thành hồn, chung một mái, song song."
Cái sự trân trọng tình yêu chính là cái kết đẹp nhất cho bức tranh này, bằng sự sử dụng phương pháp so sánh dù đơn giản nhưng có sự chọn lọc kĩ càng, biểu hiện đa dạng, nói lên được biết bao nhiêu phong tục, bản sắc văn hóa, thiên nhiên hữu tình của người Thái
Đôi ta yêu nhau, tình Lú - Ủa mặn nồng
Lời đã trao thương không lạc mất;
Như bán trâu ngoài chợ,
Như thu lúa muôn bông.
Lòng ta thương nhau trăm lớp nghìn trùng,
Bền chắc như vàng, như đá.
Toàn bộ đoạn trích có sự sử dụng thành thạo nhiều yếu tố nghệ thuật hấp dẫn, phương pháp diễn tả trùng điệp, lỗi kể chuyện xen lẫn tả thơ cuốn hút. Tạo nên sự cân đối nhịp nhàng, hài hòa về nhạc điệu bộc lộ được sự ân cần, tận tình của người con trai dành cho người yêu xứng đáng, trọn vẹn, hành động xót xa, ân cần, đầy thương cảm, vang mãi trong ta lời thề nguyện tình yêu.
Quả đúng vậy, kết thúc câu chuyện chính là một cái kết rất dân gian, rất có hậu, họ cùng nhau vượt qua số phận khắc nghiệt, đoàn tụ lại, làm lại cuộc đời mới có nhau dù khi cả hai đã không còn trẻ trung, chàng trai đã giữ đúng lời hứa với cô gái ngày nào, bằng chính lòng chân thành, lòng chung thủy, sự cao thượng. Sự trong sáng, chân chính của họ đã làm cho chúng ta một lần nữa tin rằng luôn có sự kì diệu trong cuộc sống này.
Tâm hồn, tập tục hôn nhân của người Thái xưa có thể nói được phản ánh phần nào qua những câu tiễn dặn, cũng vì lí do hoàn cảnh khó, cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến bao nhiêu sự chia ly, bi đát, đau thương của vô vàn các cuộc tình đẹp như thơ. Lời tiễn dặn cũng mang ý nghĩa sâu xa là sự tố cáo lên những cổ hủ, tập quán lạc hậu của người dân, đã làm họ dần mất dần đi sự tự do trong tình yêu, mất tính phản kháng. Vậy nên mỗi chàng trai, cô gái có được những cái khát vọng mạnh mẽ giải phóng trong tình yêu, bất chấp ngăn cản như hai nhân vật chính trong Tiễn Dặn Người Yêu thật là đáng để chúng ta phải học tập, ngưỡng mộ, đồng cảm.
Xem thêm các bài văn mẫu 9 Chân trời sáng tạo hay khác:
Xem thêm các tài liệu học tốt lớp 9 hay khác:
- Soạn văn 9 Chân trời sáng tạo (hay nhất)
- Soạn văn 9 Chân trời sáng tạo (ngắn nhất)
- Giải lớp 9 Chân trời sáng tạo (các môn học)
- Giải lớp 9 Kết nối tri thức (các môn học)
- Giải lớp 9 Cánh diều (các môn học)
Tủ sách VIETJACK luyện thi vào 10 cho 2k10 (2025):
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Loạt bài Soạn văn 9 của chúng tôi được biên soạn bám sát nội dung sgk Ngữ văn 9 Tập 1 và Tập 2 Chân trời sáng tạo (NXB Giáo dục).
Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Soạn văn 9 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 9 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 9 - CTST
- Giải Tiếng Anh 9 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 9 Friends plus
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 9 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 9 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 9 - CTST
- Giải sgk Giáo dục công dân 9 - CTST
- Giải sgk Tin học 9 - CTST
- Giải sgk Công nghệ 9 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 9 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 9 - CTST
- Giải sgk Mĩ thuật 9 - CTST