21+ Phân tích 9 câu đầu Đất nước (điểm cao)
Bài văn Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm gồm dàn ý chi tiết, sơ đồ tư duy và các bài văn mẫu hay nhất, ngắn gọn được tổng hợp và chọn lọc từ những bài văn hay đạt điểm cao của học sinh lớp 12 trên cả nước.
- Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 1
- Dàn ý Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước
- Sơ đồ Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước
- Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 2
- Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 3
- Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 4
- Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 5
- Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 6
- Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 7
- Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 8
- Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 9
- Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước (mẫu khác)
21+ Phân tích 9 câu đầu Đất nước (điểm cao)
Bài giảng: Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 1
Đoạn thơ đã nói lên một cách dung dị mà thấm thía về cội nguồn sâu xa của Đất Nước.
Giọng điệu thủ thỉ tâm tình, nhà thơ gợi lên một không khí trầm lắng như kể chuyện cổ tích, như dẫn hồn ta ngược thời gian trở về cội nguồn Đất Nước và dân tộc. Bốn chữ "ngày xửa ngày xưa" dùng rất khéo:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa ..." mẹ thường hay kể.
Chữ "có" trong "đã có rồi", "Đất Nước có trong những cái..." đã làm cho ý thơ khẳng định, tỏa sáng niềm tin. Tục ăn trầu, truyện cổ tích Trầu - Cau gợi lên hình ảnh Đất Nước xa xưa, "Đất Nước bắt đầu"... Truyền thuyết Thánh Gióng cho biết sự vươn mình của dân tộc, đánh dấu sức mạnh quật khởi "Đất Nước lớn lên". Câu thơ mở rộng đến 12, 13 chữ, với cách gieo vần lưng (đầu - trầu, ăn - dân) nên vẫn thanh thoát, giàu âm điệu:
"Đất Nước bắt đầu với miếng trầu giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dẩn mình trồng tre mà đánh giặc".
Hai chữ "lớn lên" liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Gióng lên ba vươn vai thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt khi Đất Nước bị giặc Ân xâm lược.
Rồi nhà thơ nói đến phong tục và đạo lí tốt đẹp lâu đời của nhân dân ta. Phong tục "bới tóc" của người Lạc Việt. Câu ca dao nói về đạo vợ chồng: "Tay bưng chén muối đĩa gừng - Gừng cay muối mặn xin đừng quên đã nhập hồn vào câu thơ Nguyễn Khoa Điềm:
"Tóc mẹ thì bởi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn".
Chuyện "ngày xửa ngày xưa" nhưng vẫn hiện diện trên "tóc mẹ" trong tình thương của "cha mẹ" bây giờ. "ĐấtNước đã có rồi", "Đất Nước có...", "Đất Nước bắt đầu", "Đất Nước lớn lên" và Đất Nước đang hiện diện quanh ta, gần gũi ta.
Tiếp theo, nhà thơ lấy sự hình thành và phát triển ngôn ngữ dân tộc để nói về nguồn gốc lâu đời của Đất Nước. Mỗi vật dụng đều có một cái tẽn riêng: "Cái cột, cái kèo thành tên". Nhân Dân ta có nghề trồng lúa nưóc lâu đời. Nghề trồng lúa nước tạo nên nền văn minh sông Hồng. Khi hạt gạo được sáng tạo nên bằng công sức "một nắng hai sương", thì ngôn từ "xay, giã, giần, sàng" cũng xuất hiện. Tiếng Việt là của quý lâu đời của Đất Nước ta, Nhân Dân ta. Cách nói của Nguyễn Khoa Điềm thật ý vị:
"Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phái một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó".
Lấp lánh trong đoạn thơ là hình ảnh Đất Nước thân yêu. Quá khứ của Đất Nước "ngày xửa ngày xưa" đồng hiện trong "miếng trầu bây giờ bà ăn". Có Đất Nước anh hùng "biết trồng tre mà đánh giặc". Có Đất Nước cần cù trong lao động sản xuất: "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng". Có nền văn hóa giàu bản sắc, nền văn hiến rực rỡ hội tụ qua thuần phong mĩ tục (tục ăn trầu, tục bới tóc), qua tục ngữ ca dao "gừng cay muối mặn", qua cổ tích thần thoại, truyẻn thuyết.
Đoạn thơ 9 câu, 85 chữ mà không hề có một từ Hán Việt nào. Ngôn từ bình dị, cách nói biểu cảm thân mật. Hiện diện trong đoạn thơ là: ta, dân mình, bà, cha, mẹ. Có miếng trầu,cây tre, tóc mẹ,... Có "gừng cay muối mặn" cái kèo, cái cột, hạt gạo, v.v... Thật là thân thuộc và gần gũi, sâu xa và thấm thìa, rung động. Tưởng tượng thì phong phủ, liên tưởng thì bao la. Đoạn thơ đã "nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp" để ta yêu thêm Đất Nước và tự hào về Đất Nước. Cấu trúc đoạn thơ: "tổng – phân – hợp"; mở đầu là câu "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi", khép lại đoạn thơ là câu "Đất Nước có từ ngày đó".Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ kết hợp hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo nói vế cội nguồn Đất Nước thân yêu.
Dàn ý Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Khoa Điềm, đoạn thơ Đất nước và 9 câu thơ đầu.
2. Thân bài
- "Khi ta lớn lên, đã có rồi": Đất Nước ra đời từ rất xa xưa như một sự tất yếu, trong chiều sâu của lịch sử thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước.
- "Ngày xửa ngày xưa, mẹ thường hay kể": những câu chuyện cổ tích, những bài học đạo lí làm người, ước mơ khát vọng của nhân dân về lẽ công bằng → góp phần tạo nên Đất nước.
- "Miếng trầu": phong tục ăn trầu của dân gian gắn với ta nhiều đời nay và gợi nhớ sự tích Trầu cau.
- "Biết trồng tre mà đánh giặc": gợi nhớ truyền thống chống giặc ngoại xâm và truyền thuyết đầy tự hào của người Việt và truyền thuyết về người anh hùng Thánh Gióng.
- "Tóc mẹ bới sau đầu": những phong tục lâu đời của người Việt, người phụ nữ để tóc dài và bới lên.
- "Cha mẹ, gừng cay muối mặn": gắn với câu ca dao của dân tộc, nói về tình cảm thủy chung của người Việt.
- "Cái kèo, cái cột, hạt gạo, xay, giã, giần, sàng": những vật quen thuộc trong đời sống hằng ngày của người Việt Nam gắn với lao động sản xuất và nền văn minh lúa nước.
→ Đất Nước là những gì có thể bắt gặp ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình, mỗi người: câu chuyện cổ tích của mẹ, miếng trầu bà ăn, hạt gạo ta ăn, ngôi nhà ta ở....
- "Đất Nước có từ ngày đó": Đất Nước có từ khi dân mình biết yêu thương, sống tình nghĩa, từ ngày dân tộc có nền văn hóa riêng, từ khi dân mình biết dựng nước và giữ nước, từ trong cuộc sống hằng ngày của con người.
→ Sự cảm nhận về chiều sâu của lịch sử của Đất Nước thể hiện ngay trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Đất Nước được hình thành từ những gì nhỏ bé, gần gũi trong cuộc sống của mỗi con người, từ bề dày của truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam.
3. Kết bài
- Tổng kết về nội dung, nghệ thuật và nêu cảm nhận về đoạn trích.
Sơ đồ Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 2
Con người Việt Nam ta từ xưa đến nay tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm luôn chảy trong dòng máu, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc. Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ gian khổ, có biết bao nhiêu bài thơ, bài văn ra đời để cổ vũ tinh thần chiến đấu cho quân và dân ta ngoài mặt trận. Một trong số các tác phẩm khơi gợi lòng yêu nước đó không thể không kể đến Trường ca Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm mà nổi bật là đoạn trích Đất nước. Mở đầu đoạn trích, tác giả lí giải về cội nguồn của Đất nước vô cùng thân thương.
Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là nhà thơ với phong cách trữ tình chính luận độc đáo. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thu hút, hấp dẫn người đọc bởi sự đan kết cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của một thanh niên tri thức tự ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu vì đất nước và nhân dân. “Trường ca Mặt đường khát vọng” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ văn của ông. Đoạn trích Đất nước thuộc chương V của bản Trường ca. Ở đoạn trích, tác giả lí giải cội nguồn của Đất nước; và cội nguồn đó được lí giải vô cùng tinh tế qua 9 câu đầu của bài thơ:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
….………………………………..
Đất Nước có từ ngày đó…”
Mở đầu đoạn thơ, tác khẳng định trực tiếp rằng Đất nước này đã tồn tại từ rất lâu rồi, khi mà con người mới sinh ra trên mảnh đất của họ thì chính nơi đó là đất nước, là quê hương. Đất Nước ra đời từ rất xa xưa như một sự tất yếu, trong chiều sâu của lịch sử thời các vua Hùng dựng nước và giữ nước đã đi vào sử sách được lưu truyền đến tận bây giờ. Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Từ lời hát mẹ ru, từ những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ kể đã nuôi dưỡng chúng ta khôn lớn, làm ta hiểu hơn về văn hóa của ta, theo ta đi hết cuộc đời và trở thành một phần kí ức tốt đẹp khiến ta không thể quên. Những câu chuyện cổ tích, những bài học đạo lí làm người, ước mơ khát vọng của nhân dân về lẽ công bằng được gửi gắm vào câu ca dao đó đã góp phần tạo nên Đất nước đa dạng về văn hóa như hiện nay.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Nhai trầu từ lâu đã trở thành một thói quen không thể thiếu của những người phụ nữ Việt Nam nhất là các bà, các mẹ và từ lâu dân gian ta đã có câu chuyện sự tích trầu cau nói về tình nghĩa con người. Từ những năm tháng trước công nguyên, từ thời của hai Bà Trưng, Bà Triệu, là lần đầu tiên nước ta mạnh mẽ đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm. Từ những câu chuyện truyền thuyết Thánh Gióng với hình ảnh nhổ cả lũy tre giơ cao đánh đuổi giặc. Cây tre cũng là hình ảnh biểu tượng của người nông dân Việt Nam, hiền lành, thật thà, chăm chỉ và chất phác nhưng cũng rất kiên cường bất khuất. Từ hình những ảnh thực tế, cho đến đời sống tinh thần, đó là từng bước đi lên trưởng thành của một dân tộc, của một đất nước con người ý thức được về đất nước, về sự tồn tại của đất nước và ý thức về việc phải có trách nghiệm bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ bờ cõi đất nước.
Bên cạnh truyền thống về lòng yêu nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn nhắc đến những hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mĩ tục giản dị của con người Việt Nam :
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Từ ngày xưa, hình ảnh người phụ nữ Việt Nam luôn gắn liền với mái tóc dài, được búi gọn gàng ngay sau đầu. Vẻ đẹp đó của một người bà, người mẹ, người chị, của một người con gái Việt Nam mộc mạc, giản dị nhưng lại rất nữ tính, thuần hậu rất riêng. Tác giả đã vận dụng thành ngữ “gừng cay muối mặn” một cách hết sức tự nhiên, đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm ân tình để nói lên sự thuỷ chung ở trong con người như câu nói “gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa sẽ đong đầy”.
Ngoài những phong tục tập quán và tình yêu thương của con người, Nguyễn Khoa Điềm còn nêu lên truyền thống lao động sản xuất của người dân:
“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Từ xa xưa, con người đã biết chặt gỗ mà làm nhà. Những ngôi nhà đó sử dụng kèo, cột giằng giữ vào nhau vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. Đó cũng chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình có thể đoàn tụ, quây quần bên nhau, cùng nhau chia sẻ niềm vui nỗi buồn; từ đó hình thành nên làng, xóm và Đất nước. Ngôi nhà là mái ấm, là nơi con người “an cư lạc nghiệp” siêng năng tích góp của cải dồn thành sự phát triển đất nước. Nhà thơ vận dụng khéo léo câu thành ngữ “Một nắng hai sương” để nói lên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta trong lao động sản xuất. Các động từ “xay – giã – dần – sàng” đó là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra được hạt gạo, người nông dân phải trải qua biết bao tháng ngày nắng sương vất vả gieo cấy, chăm sóc, xay giã và giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của người nông dân vất vả nắng mưa. Thành quả ngọt ngào này không chỉ giúp dân ta có đời sống no ấm mà nó còn trở thành nền văn minh lúa nước mà khi nhắc đến người ta biết ngay đến Việt Nam; không chỉ dừng lại ở đó, nền văn minh này đã giúp cho nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thế hai thế giới và toàn cầu biết đến lúa gạo Việt Nam.
Từ tất cả các yếu tố trên, nhà thơ khẳng định:
“Đất Nước có từ ngày đó…”
“Ngày đó” là ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng ngày đó chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều văn hoá riêng biệt khác với quốc gia khác. Đó là ngày ta có Đất nước của dân tộc Việt Nam.
Bằng việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi lệ tóc, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, truyền thống làm nông nghiệp và các câu ca dao, tục ngữ cùng các thành ngữ… cùng với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình và điệp từ “Đất nước”, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho bạn đọc một cách nhìn mới mẻ về cội nguồn của đất nước; về vẻ đẹp của một đất nước giàu văn hóa cổ truyền, đất nước của truyền thống, của phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng đất nước của nhân dân.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ cùng với bản trường ca “Mặt đường khát vọng” vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng đẹp đẽ, đọng lại trong tâm tư của bao thế hệ con người Việt Nam trước đây, bây giờ và cả sau này. Bản trường ca của tác giả Nguyễn Khoa Điềm làm ta thêm hiểu và yêu Đất nước đồng thời thôi thúc bản thân hành động để bảo vệ và phát triển đất nước này.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 3
Đất nước, đã từ lâu, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Được khơi nguồn từ đề tài quen thuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có cho mình một lối đi riêng. Nguyễn Khoa Điềm từng chia sẻ: “Đất Nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của những anh hùng nhưng với tôi là của những con người vô danh, của nhân dân”. “Tôi cố gắng thể hiện hình ảnh Đất Nước Giản dị, gần gũi nhất”. Rút ra từ trường ca “Mặt đường khát vọng”, đoạn trích “Đất Nước” là sự kết tinh của những sáng tạo độc đáo, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Với 9 câu thơ mở đầu, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với lịch sử của dân tộc để trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
…………………………..
Đất Nước có từ ngày đó
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ thơ năm chống Mĩ cứu nước. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư. Phân tích Đất Nước mới thấy được đây là một đoạn trích tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Đất Nước là phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” – tác phẩm được ra đời vào năm 1971, giữa lúc của kháng chiến chống Mỹ diễn ra khốc liệt.
Đất Nước bắt đầu từ một cách trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những “cái ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn bây giờ
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Đất Nước vốn là giá trị bền vững, vĩnh hằng; Đất Nước được tạo dựng, bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền từ đời này, sang đời khác: Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi. Đứng trước một Đất Nước thiêng liêng như thế, lòng thơ dâng trào niềm xúc động và thành kính. Hai từ “Đất Nước” được viết hoa một cách trang trọng. Đó là cách mà nhà thơ thể hiện niềm tự hào và lòng thành kính trước Đất Nước của mình. Khi ta cất tiếng khóc chào đời, khi ta lớn lên, Đất Nước đã hiện hữu. Đất Nước có từ bao giờ/ Suy ngẫm về cội nguồn của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm bỗng phát hiện: Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ kể/ Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bà ăn. Mẹ Đất Nước vừa cổ kính lâu đời vừa bình dị, mộc mạc hiện ra trong câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Đất Nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt. Từ truyện cao dao, cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc.
Cùng với tục ăn trầu, Đất Nước còn, gắn liền với những phong tục khác:
– Tóc mẹ thì bới sau đầu
– Cái kèo cái cột thành tên
Thân thương, mộc mạc biết chừng nào là búi tóc sau đầu của mẹ, là những nếp nhà dựng lên từ cái kèo, cái cột, mái lá, tường rơm, vách đất; là cách đặt tên con giản dị nôm na. Mộc mạc, thân thương vật như đó cũng là một phần của Đất Nước. Và Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Hình ảnh Đất Nước thật thân thuộc với những lũy tre xanh rì, những búp măng non bật mình vươn thẳng. Có thể thấy, từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, cây trẻ trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tượng phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Từ “lớn lên” được dùng rất chính xác, rạo rực niềm tin, niềm tự hào dân tộc. Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm làm cho suy từ về cội nguồn Đất Nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận, lí giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh bình dị, thân thuộc đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân thuộc, bình dị ngay trong đời sống mỗi người.
Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước còn ẩn mình trong những vật nhỏ bé nhất. Đất Nước ẩn mình trong hạt muối, nhánh gừng; đằm sâu trong tình thương mẹ cha: Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Được chắt lọc từ văn hóa dân gian, câu thơ trầm tích những ý từ xâu xa. Dù sống cuộc sống thiếu thốn, gian khổ, cha mẹ ta vẫn thương yêu nhau như gừng cay muối mặn, vẫn gắn bó trước sau, mặn mà, đinh ninh. Đất Nước mình giản dị thân thương là thế. Hình ảnh Đất Nước còn có trong từng bông lúa, củ khoai: Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng. Hình ảnh thơ giản dị nhưng gợi ra tập quán sản xuất gắn liền với văn minh lúa nước của dân tộc Việt Nam. Để làm ra hạt gạo trắng ngần, bát cơm thơm, người nông dân phải dầm sương, dãi nắng, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, tỉ mỉ xay, giã, dần, sàng. Hình ảnh thơ gợi lên bao sự lam lũ, vất vả, nhọc nhằn cùng phẩm chất cần cù, chịu khó của những người chân lấm, tay bùn.
9 câu đầu khép lại bằng tứ thơ khái quát về thời điểm hình thành Đất Nước: Đất Nước có từ ngày đó. Ngày đó vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là một phép thế đại từ. Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung. Lịch sử Đất Nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, linh thiêng biết mấy.
Đoạn thơ chín câu, tám lăm chữ mà không hề có một từ Hán Việt. Ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi, nồng hơi thở cuộc sống. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ đã “nhịp mãi một tấm lòng sứ điệp” để ta thêm yêu và tự hào về Đất Nước.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 4
“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về mình mẹ lặng im…”. Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng tôi xốn xao da diết. Nhớ những ngày bé thơ đến lớp, cô giáo dạy tôi viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước. Tôi mơ hồ chả hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm! Thời gian trôi qua nhanh, mang tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa. Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc được tôi đã thấm thía hai tiếng thiêng liêng “Đất Nước”. Trong những vần thơ mến yêu dạt dào cảm hứng ấy, tác phẩm “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là nổi bật hơn cả.., bằng trải nghiệm tuổi trẻ, bằng nhiệt tình cách mạng và cả bằng vốn tri thức được đào tạo bài bản từ mái trường xã hội chủ nghĩa, tạo nên chiều sâu của hình tượng Đất Nước, hoà mạch thơ chính luận – trữ tình.
Đất nước - hai tiếng ấy thật thiêng liêng, tự hào. Nó trở thành đề tài muôn thuở trong thơ ca chỉ có điều các nhà thơ nhà văn hay dùng những hình ảnh mang tính biểu tượng để viết về đất nước hay tự tạo ra một khoảng cách để chiêm ngưỡng. Còn trong thơ Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không phải là một khái niệm trừu tượng mà rất gần gũi đối với mỗi người. Trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước là gì? Đất Nước từ đâu ra?”, mỗi người đều có cách cảm nhận, lí giải riêng của mình. Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước được cảm nhận ở các phương diện lịch sử, địa lý văn hoá …nên tác giả tự hào mà nói rằng “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”. Nhà thơ đã bắt đầu bằng những kí ức tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại của Đất Nước trong nhận thức và tình cảm tự nhiên nhất của con người. Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình, thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi của dân tộc. Cái hay của phần mở đầu chương “Đất Nước” chính là sự xuất hiện của hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…”
Giọng thơ thủ thỉ, chân thành mà sâu lắng ấy đã chuyển tải suy ngẫm của nhà thơ về Nhân Dân – Đất Nước. Đất Nước đã có từ lâu, rất lâu rồi. Khi ta oa oa cất tiếng khóc chào đời, lớn lên và trưởng thành thì đất nước đã có rồi. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt nguồn từ những huyền thoại: “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể” giờ còn đọng lại trong tiềm thức với cô Tấm ngoan hiền, với sự tích bánh chưng bánh dày, bà tiên nhân hậu hay mụ dì ghẻ độc ác, …Hình ảnh Đất Nước vừa hiện lên vừa giản dị gần gũi, vừa thiêng liêng sâu lắng bởi nó gắn với thế giới tâm hồn con người, được nuôi dưỡng từ thuở thơ bé và truyền lại cho muôn đời sau “ngày xưa” chỉ với hai từ mà bao kỉ niệm tuổi ấu thơ lại ùa về.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Trong kho tàng văn học dân gian, nhà thơ đã chọn ra hai câu chuyện để khắc hoạ hình ảnh đất nước bằng chính những cảm nhận sâu sắc của mình. “Đất Nước bắt đầu” một câu thơ lí giải sự hình thành đất nước gắn liền với câu chuyện cổ tích cầu cau. Đó là câu chuyện cổ tích ngợi ca nghĩa anh em và tình vợ chồng gắn bó keo sơn. Đất Nước bắt đầu với miếng trầu có nghĩa là Đất Nước được hình thành trong lối sống tình nghĩa. “Miếng trầu bây giờ bà ăn” bắt nguồn từ thuở xa xưa - đó là truyền thống tốt đẹp - “Miếng trầu bắt đầu câu chuyện”. Đất Nước được sinh ra và nuôi dưỡng trong truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc đó là lối sống nghĩa tình. Đất Nước được hình thành trong tình yêu nhưng lại lớn mạnh và trưởng thành nhờ những cuộc đấu tranh bảo vệ dân tộc.
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Câu thơ gợi nhắc truyền thuyết “Thánh Gióng” làm ta nhớ đến một cậu bé lớn nhanh như thổi để lên đường đánh giặc Ân cứu nước. Một câu chuyện ngợi ca sức mạnh của tình yêu dân tộc và hình ảnh kì vĩ Thánh Gióng. Và đất nước ta cũng trưởng thành khi mọi người cùng nhau đồng lòng chống giặc ngoại xâm, mở mang bờ cõi. Với Nguyễn Khoa Điềm, ông đã nhìn thấy sự trưởng thành của Đất Nước trong đau thương, thử thách nhờ công cuộc đấu tranh và lòng yêu nước của dân tộc. Qua lịch sử, truyền thống ấy đã trở thành truyền thống yêu nước thiêng liêng.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Trong muôn vàn truyền thống đẹp, nhà thơ chọn ra một hình ảnh thật giản dị nhưng rất tinh tế đặc sắc: hình ảnh người phụ nữ Việt với mái tóc bới sau đầu - hình ảnh thật gần gũi, thân quen in sâu trong nếp nghĩ, gợi suy ngẫm về con người trong cuộc sống lam lũ vất vơ nhưng vẫn duyên dáng, tần tảo, đảm đang. Hình ảnh ấy qua bao năm tháng vẫn không thay đổi, vẫn gợi suy ngẫm về cái đẹp giản dị mà thiêng liêng. Và hình ảnh Đất Nước hiện lên qua chính mỹ tục ấy.
Đất Nước còn hiện lên trong sự gắn liền với một lối sống đẹp “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Câu thơ gợi từ một câu ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau”. Ý thơ giản dị mà ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Tình yêu được sinh ra và nuôi dưỡng từ trong khó nghèo, từ trong những hoàn cảnh đầy thử thách thật đáng trân trọng, đáng quý. Đó là lối sống trọn nghĩa, trọn tình, thuỷ chung đã trở thành một truyền thống thiêng liêng được lưu truyền qua bao đời. Và sự sinh thành, phát triển của Đất Nước song hành cùng với sự lưu truyền và phát triển của truyền thống tốt đẹp ấy. “Cái kèo, cái cột thành tên” Đất Nước được gắn liền với những hình ảnh đơn sơ, mộc mạc “cái kèo, cái cột” nhưng chính những thứ đơn sơ, mộc mạc ấy đã tạo nên một mái ấm gia đình, làng xóm, quê hương, đất nước. Nói cách khác, nó chính là tế bào của đất nước.
Đất Nước hiện lên qua cuộc sống lao động sinh hoạt: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Sự hình thành và phát triển của Đất Nước là một quá trình lâu dài, nhờ bàn tay lao động xây dựng của con người từ thuở sơ khai, khi con người tạo dựng những cái đơn giản nhất với nỗ lực một nắng hai sương. Con người lao động đã biết “xay, giã, giần, sàng” để tạo nên hạt gạo, tạo nên những giá trị vật chất để xây dựng Đất Nước no ấm. Cách sử dụng từ ngữ “một nắng hai sương” và chọn lọc hình ảnh “xay, giã, giần, sàng” cùng nhịp điệu lan toả gợi sự suy ngẫm liên tưởng, hình ảnh Đất Nước hiện dần nhờ bàn tay lao động cần cù, sáng tạo của con người, hình ảnh ấy hiện dần trong nhịp điệu gạo rơi trên sân, trong tiếng chày, trong máy xay với cuộc sống lao động bền bỉ dù vất vả, lam lũ. Qua đó ta nhận ra nét đặc trưng riêng của nền văn học Việt - văn hoá lúa nước. Hình ảnh Đất Nước hiện lên trong cuộc sống sinh hoạt là một Đất Nước cần cù, sáng tạo trong lao động.
Cũng chính trong cuộc sống lao động sinh hoạt, nhà thơ còn khám ra sự hình thành, phát triển ngôn ngữ dân tộc gắn liền với nguồn gốc hình thành và phát triển của Đất Nước: Khi con người biết lao động tạo dựng cuộc sống chính là khi họ biết đặt tên cho những sự vật hình tượng gần gũi nhất “cái kèo, cái cột”. Và trong quá trình lao động, trong sự tìm tòi khám phá, sáng tạo nên những giá trị vật chất như hạt gạo, họ đã sáng tạo nên những ngôn từ ghi lại quá trình lao động ấy “xay, giã, giần, sàng”. Đây là kết tinh tinh tuý linh hồn của dân tộc. Đất Nước hình thành và phát triển cùng với sự hình thành tiếng mẹ thiêng liêng ấy. Khám phá Đất Nước ở phương diện văn hóa sinh hoạt, Nguyễn Khoa Điềm đã phát biểu nhận thức của mình như lối định nghĩa độc đáo, một cách lí giải không hề mang tính áp đặt mà đầy sức gợi, sức thuyết phục bằng những câu chuyện, chọn lọc chi tiết giàu ý nghĩa giúp ta nhận ra Đất Nước bắt nguồn từ những điều giản dị nhất, gần gũi nhất, nhưng bền vững đến muôn đời.
Trong đoạn thơ trên tác giả sử dụng nhiều các yếu tố ca dao dân ca tục ngữ truyền thuyết cổ tích không chỉ đem đến sự gần gũi mà còn biểu hiện ý thức tự tôn tự hào dân tộc. Từ “Đất Nước” được viết hoa và lặp lại 5 lần thể hiện sự thành kính. Với chín dòng thơ 85 chữ, không hề có một từ hán việt, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên những vần thơ tự do dạt dào cảm xúc, kết hợp với chất giọng thủ thỉ tâm tình như một điệu ru dễ đi vào lòng người. Nhưng chuyển tải mạch cảm xúc ấy là một lối lập luận chặt chẽ: tổng -phân – hợp. Chính sự kết hợp hài hoà giữa trí tuệ và cảm xúc bay bổng đã làm sáng lên lối thơ trữ tình chính luận - phong cách độc đáo riêng của Nguyễn Khoa Điềm.
Qua những dòng thơ trăn trở và suy tư về một khái niệm tưởng chừng như đã ăn sâu vào máu thịt mỗi người dân Việt, qua chiều sâu văn hóa, sinh hoạt Nguyễn Khoa Điềm đã có một phát hiện, một cảm nhận vô cùng sâu sắc: Đất Nước hiện lên trong thế giới tinh thần của cộng đồng người Việt, trong cuộc sống sinh hoạt từ bao đời. Đất Nước hiện lên gắn liền với những phong tục tập quán với lối sống, nếp nghĩ, qua kho tàng văn học dân gian, qua bản sắc văn hoá... Đó là một Đất Nước không trừu tượng mà cụ thể, chứa đựng mơ ước, khát vọng, quan niệm về vẻ đẹp phẩm chất của tâm hồn dân tộc. Gương mặt Đất Nước hiện lên thật sống động, lung linh: trong cuộc sống, trong lao động và trong chiến đấu.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 5
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm chống Mĩ cứu nước. Thơ ông giàu chất suy tư, cảm xúc lắng đọng, thể hiện tâm tư của người tri thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân, mang màu sắc chính luận. Đoạn trích “Đất Nước” là một trong những bài thơ tiêu biểu của ông. Đoạn trích thể hiện cái nhìn mới mẻ về Đất Nước, và cái mới mẻ ấy thôi thúc chúng ta đi tìm cội nguồn của Đất Nước. Với 9 câu thơ đầu, Nguyễn Khoa Điềm thể hiện quan niệm của mình về cội nguồn của Đất Nước thật đặc sắc.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Đoạn trích Đất Nước thuộc phần đầu, chương V của bản trường ca “Mặt đường khát vọng”. hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ở các đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sự mệnh thế hệ mình, xuống đường đấu tranh chống đế quốc Mĩ.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Câu thơ mở đầu là lời khẳng định tự nhiên, giản dị: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Đất Nước có từ “khi ta lớn lên”, từ khi ta chưa ra đời, xuyên suốt bốn ngàn năm văn hiến. Như vậy, Đất Nước tồn tại như một điều hiển nhiên, nó có chiều sâu cội nguồn cũng như sự hình thành và phát triển bao đời nay. Với Nguyễn Khoa Điềm, Đất Nước thật gần gũi, hiện diện trong những câu chuyện cổ tích thường mở đầu bằng “ngày xửa ngày xưa”. Câu thơ khiến ta nhớ đến hình ảnh của người bà thường hay kể chuyện cho con cháu nghe, là hình ảnh cô Tấm bị mẹ con Cám bắt nạt, là hình là nàng tiên bước ra từ quả thị…. Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” thật quen thuộc và gần gũi với con người Việt Nam. Bởi, mỗi câu chuyện là mỗi bài học đạo lí dạy ta biết “ở hiền gặp lành”, biết thiện thắng ác, biết sống thủy chung, … Tác giả không dùng từ ngữ, hình ảnh hoa mĩ tráng lệ mang tính biểu tượng để thể hiện Đất Nước mà dùng cách nói giản dị, tự nhiên, dễ hiểu, dễ thấm vào lòng người. Tác giả giúp ta tìm hiểu Đất Nước có từ nền văn hóa dân gian cha ông ta để lại.
Tác giả cảm nhận Đất Nước gắn với phong tục tập quán, hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
“Miếng trầu bà ăn” là miếng trầu tình nghĩa trong “sự tích trầu cau” khiến ta rung rung nước mắt về tình cảm vợ chồng, về tình nghĩa anh em gắn bó. Từ đó, hình ảnh “trầu cau” trở thành “miếng trầu là đầu câu chuyện”, trở thành thứ không thể thiếu được trong lễ cưới, tượng trưng cho tình nghĩa đằm thắm, thủy chung.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu”
Đó là hình ảnh đặc thù của người phụ nữ Việt Nam, thùy mị, duyên sáng và thật đáng yêu. Nét đẹp ấy làm ta gợi nhớ đến câu ca dao:
“Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh”
Không những chỉ là những cảm nhận ở trên về Đất Nước mà Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận Đất Nước trong vẻ đẹp tình yêu của cha mẹ với lối sống nặng tình nặng nghĩa như “gừng cay muối mặn”
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Dù gian nan, dù cay đắng nhưng cha mẹ vẫn đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi để tình cảm thêm mặn nồng, thắm thiết. Hình ảnh thơ gợi ta nhớ câu ca dao:
“Tay bưng đĩa muối, chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng vẫn hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”
Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột thành tên”. Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con cái Kèo, cái Cột cũng ra đời.
Đất Nước ta từ ngàn đời đã có truyền thống chống giặc ngoại xâm hào hùng của dân tộc:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh “cây tre” là biểu tượng của người Việt Nam, gắn với đời sống thường ngày và có lúc trở thành vũ khí xông pha ra chiến trường đánh giặc, Thánh Gióng từng nhổ tre đánh giặc Ann, nhà văn Thép Mới cũng từng nhận ra:
“Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”
Tre thật thà chất phác, đôn hậu, yêu thủy chung yêu chuộng hòa bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong chiến tranh. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa cho dân tộc:
“Một cây chông cũng tiến công giặc Mĩ”
Bởi
“Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”
Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó:
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sáng”
Thành ngữ “một nắng hai sương” và các động từ liên tiếp xay, giã, giần, sàng gợi lên sự vất vả và triền miên của người nông dân trên đồng rộng. Đất Nước gắn với nền văn minh lúa nước, lấy hạt gạo làm gia bảo, gắn liền với quá trình lao động vất vả để có được hạt gạo, để sinh tồn. Ý thơ thật sâu sắc. Câu thơ gợi nhắc đến ca dao:
“Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cà
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần"
Từ Đất Nước viết hoa diễn tả tình cảm thiêng liêng đối với Đất Nước. Giọng thơ trữ tình, câu thơ dài ngắn đan xen thể hiện cảm xúc tự nhiên, phóng khoáng. Ngôn ngữ giản dị, sử dụng sáng tạo các chất liệu từ văn học dân gian tạo chiều sâu cho ý thơ.
Đất Nước đối với Nguyễn Khoa Điềm là những gì bình thường, gần gũi nhất. Nó có trong cổ tích, ca dao, gắn liền với nguồn mạch quê hương để làm nên một chân dung trọn vẹn về Đất Nước: Thân thương mà hào hùng, vất vả mà thủy chung.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 6
Đất nước là một trong những đề tài gắn với sự thành công của nhiều cây bút trong các thời kì, nhất là thời kì kháng chiến. Ta không sao quên được hình ảnh đất nước hóa thân vào “mảnh hồn quê Kinh Bắc”, đất nước bị dày xéo dưới chân của bọn giặc ngoại xâm trong thơ của Hoàng Cầm hay hình ảnh một đất nước nhỏ bé, đau thương mà anh hùng, bất khuất “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” trong thơ của Nguyễn Đình Thi. Đến với Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, ta lại có khám phá mới về đất nước của ca dao, thần thoại. Đoạn trích Đất nước nằm trong chương 5 của bản trường ca Mặt đường khát vọng. Với hình tượng trung tâm là đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã cho độc giả thấy được tư tưởng mới mẻ của mình trong hành trình lí giải về cội nguồn đất nước mà đặc biệt là trong chín câu thơ đầu bài:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nới lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
Đất nước là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca, hình tượng đất nước luôn có một vị trí đặc biệt, là hình tượng cao quý, đẹp đẽ nhất trong thơ văn. Macxen Prust: “Một cuộc thám hiểm không phải ở chỗ cần một vùng đất mới mà ở chỗ cần một đôi mắt mới”. Bới thế mà với mỗi một điểm nhìn khác nhau thì đất nước lại có một vẻ đẹp, hình dáng khác, đất nước hiện lên với muôn hình vạn trạng trong con mắt nhà thơ. Nếu như các nhà thơ cùng thời chọn điểm nhìn cảm hứng về đất nước từ lịch sử thông qua các triều đại như:
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng
Hay những hình ảnh vô cùng mỹ lệ, đẹp đẽ:
Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi
Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
Nắng sông Lô hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca
Thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn cho mình một điểm nhìn vô cùng mới mẻ, bình dị, thân quen mà qua đó đất nước hiện lên không kém phần tươi đẹp.
Với cấu trúc tổng-phân-hợp mang đậm phong cách chính luận, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy tư cùng những cảm xúc mãnh liệt về đất nước và trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương, tổ quốc.
Mở đầu bài thơ, Nguyễn Khoa Điềm đưa ta vào câu chuyện về sự hình thành của Đất nước mà theo đó Đất nước có từ những gì quen thuộc, gần gũi nhất.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Câu thơ mở đầu tự nhiên như một lời kể, nhà thơ mượn kí ức tuổi thơ để hình dung ra sự tồn tại của Đất nước trong nhận thức, tình cảm con người. Theo đó, “Đất Nước đã có từ rất lâu, từ khi mà “ta” cất tiếng khóc chào đời, lớn lên thì đất nước đã có và tồn tại cùng với “ta”. “Ta” ở đây phải chăng là anh, là chị, là những người còn sống hay đã chết, là ta của quá khứ hay của tương lai, là cái chung của dân tộc. Năm chữ “Đất Nước đã có rồi” vang lên đầy tự hào, nó giống như một lời khẳng định về sự trường tồn của đất nước qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta đã được Nguyễn Trãi nhắc đến:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Đến hai câu tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm diễn tả cụ thể sự hình thành của Đất nước:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Truy tìm về cội nguồn của đất nước, khó có ai có thể xác định rõ ràng, minh bạch về sự khởi thuỷ của hình tượng này. Với Nguyễn Khoa Điềm thì Đất nước được hình thành từ những nét sống giản dị nhất của người mẹ, người bà. Sau trạng từ chỉ thời gian”ngày xửa ngày xưa”, người đọc đã hình dung ra biết bao kỉ niệm về tuổi thơ với những nhân vật như ông bụt, bà tiên, cô Tấm, Thánh Gióng... Từ những câu chuyện đó hình ảnh Đất nước hiện lên thật đẹp đẽ, thơ mộng. Hình ảnh “miếng trầu bà ăn” gợi cho người đọc về truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Hình ảnh “miếng trầu” gắn liền với nét đẹp của những người phụ nữ Việt xưa. Từ nét đẹp đó, Nguyễn Khoa Điềm đã lý giải về sự “bắt đầu” của Đất nước. Trong cúng lễ, “miếng trầu quả cau” biểu tượng cho tấm lòng thành của con cháu gửi đến những bậc cha ông. “Miếng trầu” còn là biểu tượng của phẩm chất thuỷ chung trong cốt cách con người Việt Nam xưa và nay. Bên cạnh đó, hình ảnh “miếng trầu”còn gợi lên một huyền sử tình yêu”miếng trầu nên dâu nhà người”. Từ “lớn lên” chỉ sự trưởng thành của đất nước qua quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Với Nguyễn Khoa Điềm hay bất kì nhà thơ nào, đất nước không hề vô tri vô giác mà đất nước có dáng, có hồn, đẹp ngất ngây trong con mắt nghệ thuật. Hình ảnh “trồng tre mà đánh giặc” gợi cho ta về truyền thuyết một cậu bé mới ba tuổi đã biết cất tiếng nói trách nhiệm với quê hương, tổ quốc đó là Thánh Gióng, một biểu tượng cho cốt cách con người Việt, kiên cường, mạnh mẽ trong đấu tranh chống lại cái ác. Hình tượng đó đã được Tố Hữu đưa vào thơ của mình:
Ta thuở xưa như thần Phù Đổng
Vụt đứng lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi.
Hình ảnh cây tre đại diện cho cốt cách ngay thẳng, bất khuất của con người Việt Nam:
Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi.
Nguyễn Khoa Điềm đã đem hình tượng cây tre và Thánh Gióng song hành với nhau. Đó là sự đồng hiện trong cốt cách, phẩm chất của con người Việt Nam như thật thà, chất phát, đôn hậu thuỷ chung, yêu hoà bình nhưng lại vô cùng kiên cường trong chiến đấu.
Đến bốn câu thơ tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm ca ngợi những truyền thống, vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.
Có phải chăng hình tượng người mẹ-người phụ nữ với búi tóc sau đầu đã làm sáng tỏ sự kín đáo, nhẹ nhàng mà chân chất trong cách ăn mặc của con người Việt Nam. Nét đẹp của người phụ nữ ấy khiến ta liên tưởng đến câu thơ:
Tóc ngang lưng vừa chừng em búi
Để chi dài bối rối lòng anh
Vẻ đẹp của con người Việt còn ở phẩm chất thuỷ chung trong cốt cách của mình. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng vô cùng độc đáo, nhẹ nhàng mà thấm đẫm câu thơ. Gừng thì tất nhiên phải cay, muối tất nhiên phải mặn, đó là nguyên lý của tạo hoá cũng như tình cảm của những người vợ chồng luôn đong đầy và không lay chuyển. Nó gợi lên ân tình thuỷ chung giữa người với người:“Gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn.” con người ở với nhau càng lâu thì tình cảm càng đong đầy. Ý câu thơ được lấy ra từ câu ca dao:
Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau
“Cái kèo, cái cột thành tên” gợi cho ta nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt xưa. Ngôi nhà là nơi mọi người trong gia đình đoàn tụ, mang đến sự ấm áp, hạnh phúc.. Có lẽ bởi vậy mà tục đặt tên con là “kèo”, là “cột” ra đời, vừa giản dị lại gần gũi và tránh được sự dòm ngó của ma quỷ theo quan niệm xưa.
Không những vậy, con người Việt Nam còn mang trong mình phẩm chất cần cù, chăm chỉ. Thành ngữ “một nắng hai sương” chỉ sự chịu thương chịu khó của ông cha ta trong lao động. Các động từ “xay”, “giã”, “dần”, “sàng” là các công đoạn làm ra hạt gạo. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc người đọc cần phải biết trân trọng những hạt cơm ta ăn hằng ngày vì đó là vào mồ hôi công sức của những người nông dân:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Câu thơ cuối cùng là một lời khẳng định của Nguyễn Khoa Điềm về cội nguồn của Đất nước:
Đất Nước có từ ngày đó...
“Ngày đó” là cái ngày mà ta có truyền thống, có văn hoá. Vậy nên, muốn yêu nước thì trước hết ta phải yêu văn hoá, truyền thống của dân tộc mình. Thật đáng trân quý, nâng niu biết bao lời thơ dung dị, nhẹ nhàng mà chân thành, đằm thắm của Nguyễn Khoa Điềm.
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng đặc sắc, khéo léo các thi liệu dân gian, những phong tục, truyền thống, thành ngữ, điệp từ và cách viết hoa chữ Đất nước thể hiện sự thành kính, thiêng liêng. Tất cả đã làm nên một đoạn thơ đậm chất văn hoá người Việt và sự thành kính đối với đất nước. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.
Đoạn trích trên đã thể hiện những suy tư cùng những cảm xúc mãnh liệt của tác giả về quê hương, đất nước. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với tổ quốc. Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà thơ chân chính là niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp.” Và phải chăng Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy riêng con đường của mình khi tiến đến đất nước, để rồi Đất nước hiện ra thật bình dị, gần gũi và đẹp đẽ biết bao. Đọc đoạn trích Đất nước ta được khám phá một vẻ đẹp mới của đất nước mà qua đó ta nâng cao thêm tinh thần yêu đất nước, yêu tổ quốc và trách nhiệm của ta bây giờ không chỉ là học tập mà còn là gìn giữ truyền thống, gìn giữ đất nước, góp phần làm cho đất nước giàu đẹp hơn.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 7
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm tháng trường kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn đọc giả bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và con người Việt Nam.Nổi lên cho phong cách sáng tác của ông là “Trường ca Mặt đường khát vọng”, được ông sáng tác ở chiến khu Trị-Thiên năm 1971, in xuất bản lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam về trách nhiệm với non sông đất nước và sứ mệnh thế hệ mình , hơn cả là hòa mình với cuộc đấu tranh chống Mĩ xâm lược. Đoạn trích bài thơ “Đất nước” nằm ở phần đầu chương V của tường ca. 9 câu thơ mở đầu của đoạn trích là 9 câu thơ nói lên quan điểm của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.
Với 9 câu thơ đầu tác giả đã thể hiện quan điểm mới mẻ của mình về cội nguồn đất nước.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Mở đầu trong đoạn trích, tác giả đã muốn khẳng định “khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Chẳng biết là đất nước hình thành và có từ bao giờ, chỉ biết là khi ta lớn lên thì đất nước đã có ở đây rồi. Đó chính là lời khẳng định chắc chắn về sự trường tồn của đất nước.
Sau khẳng định chắc nịch về sự tồn tại của đất nước, tác giả dần dần vén màn cho ta thấy rõ hơn về nguồn gốc của đất nước:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Dòng thơ “ngày xửa ngày xưa” là mở đầu cho từng một câu chuyện cổ tích mà các bà, các mẹ hay kể chuyện cho các con cháu nghe.Cũng chẳng biết từ khi nào, chỉ biết là từ “ngày xửa ngày xưa” hình thành đất nước đã có rồi. Những câu chuyện cổ tích truyền thuyết ra đời là từ đất nước.
Đất Nước hiện diện lên trong truyện cổ. Đó là hình ảnh Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại và truyền thuyết. Với nhà thơ, hai từ “đất nước” còn bắt đầu với miếng trầu bà ăn. Người xưa thường xuyên nói “miếng trầu là đầu câu chuyện”, đó hẳn là bởi vì tục ăn trầu là một trong những phong tục lâu đời của Việt Nam ta.
Hình ảnh của “miếng trầu” cũng như là hình ảnh của sự khởi đầu. Đất Nước đã có từ khi dân mình có tục ăn trầu và tục ăn trầu của nhân dân cũng là khởi đầu cho một đất nước, khởi đầu cho một nền văn hiến.
Bắt đầu của một sự sống và những bước trưởng thành của sự sống đó. Sau sự bắt đầu của một Đất Nước chính là sự trưởng thành của cả một dân tộc:
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Từ những năm tháng trước công nguyên, từ thời của hai Bà Trưng, Bà Triệu, là lần đầu tiên nước ta mạnh mẽ đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm. Từ những câu chuyện truyền thuyết Thánh Gióng với hình ảnh nhổ cả luỹ tre dơ cao đánh đuổi giặc.
Cây tre cũng là hình ảnh biểu tượng của người nông dân Việt Nam, hiền lành, thật thà chăm chỉ và chất phác nhưng cũng rất kiên cường bất khuất. Từ hình những ảnh thực tế, cho đến đời sống tinh thần, đó là từng bước đi lên trưởng thành của một dân tộc, của một đất nước con người . Ý thức được về đất nước, về sự tồn tại của đất nước và ý thức về việc phải có trách nghiệm bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ bờ cõi đất nước.
Tiếp theo đó là những hình ảnh mang đậm vẻ đẹp thuần phong mỹ tục giản dị của con người Việt Nam :
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đầu tiên đó chính là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp của một người bà, người mẹ, người chị, của một người con gái mộc mạc Việt Nam, tuy giản dị nhưng lại nữ tình, thuần hậu rất riêng. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” đã vận dụng một cách hết sức tự nhiên nhưng cũng là hết sức đặc sắc, nhẹ nhàng mà thấm đượm ân tình con người , gợi lên sự thuỷ chung ở trong con người như câu nói “gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa sẽ đong đầy”.
Rồi đến câu thơ “Cái kèo cái cột thành tên”, gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt ngày xưa . Nhà được làm bằng cách sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà thêm vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió và thú dữ. Đó cũng chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình có thể đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ máu dồn thành sự sống phát triển đất nước.
Và cả truyền thống cần cù lao động động , chịu thương chịu khó miệt mài của dân tộc ta nữa “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”.Câu thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong cần cù và lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu.
Đó chính là truyền thống lao động cần cù, miệt mài chịu thương chịu khó. Các động từ như “Xay – giã – dần – sang” đó là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra được hạt gạo, người nông dân phải trải qua biết bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã và giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân vất vả nắng mưa.
Và sau tất cả, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã chốt lại “Đất Nước có từ ngày đó … “. “Ngày đó” là ngày nào, chúng ta không hề biết, tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng ngày đó chính là ngày ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều văn hoá. Đó là ngày ta có Đất nước của dân tộc Việt Nam.
Bằng việc vận dụng khéo léo và mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi lệ tóc, truyền thống đánh giặc ngoại xâm, truyền thống làm nông nghiệp và các câu ca dao, tục ngữ cùng các thành ngữ… Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí thơ ca.
Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại rất nhiều lần cũng như việc nhà thơ luôn luôn viết hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thành kính vô cùng thiêng liêng… Tất cả đã làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt.
Qua đoạn thơ trên nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, của phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của con người của nhân dân.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 8
Kho tàng thơ văn của dân tộc Việt Nam ta tựa như một bản hợp xướng du dương với những nốt trầm bổng làm đắm say lòng người… Ta nghe đâu đây lời thơ hùng tráng về một “Nam quốc sơn hà” vừa tự hào lại không kém phần kiêu hãnh; rồi một dấu luyến ngân lên của một thời đại mang đậm nét dân tộc; đột ngột lại giáng một âm dài thâm trầm, đau thương để rồi bản đàn ấy lại thăng lên những âm hào hùng, mang theo khí thế của một dân tộc nồng nàn yêu nước, kiên trung quật cường. Bản hùng ca ấy nên thanh, thành điệu chính là từ ngòi bút và xúc cảm chân thành của rất nhiều thi nhân, mà trong đó, mỗi nhà thơ mang một âm sắc khác nhau. Trong số đó, một trong những nốt hay nhất, dịu dàng và du dương nhất hòa thành hợp âm được viết nên bởi nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mà điển hình là đoạn thơ mở đầu bài thơ Đất Nước - chín câu thơ lý giải cho hai tiếng “Đất Nước” tưởng như xa xăm mà gần gũi, lớn lao mà mộc mạc - mở đầu cho chương thứ năm của bản trường ca “ Mặt đường khát vọng”:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Trong những năm cuối cùng của cuộc kháng chiến vì độc lập tự do, nhà thơ trẻ với hai mươi tám mùa xuân Nguyễn Khoa Điềm năm ấy đã tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho thế hệ thanh niên vào một ngày mai tươi sáng bằng những vần thơ thật đẹp, để rồi giữa những ngày lửa đạn, bom rơi nơi chiến khu Trị -Thiên năm 1971, “Đất Nước” đã ra đời, nhẹ nhàng và dịu êm len lỏi vào sâu trái tim từng người dân con Lạc cháu Hồng, khảm sâu vào trí óc, trường tồn với thời gian…
Bằng giọng thơ thật dịu và thật êm của mình, nhà thơ thủ thỉ những dòng thơ đầu tiên như cất lên tiếng lòng bấy lâu nay dồn nén:
“ Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Câu thơ chỉ là một lời trần thuật nhưng lại mang cho người đọc một cảm giác thật đặc biệt, dường như có chút gì đó xưa cũ gợi về trong kí ức còn mơ hồ. Trước mắt người đọc, hai tiếng “Đất Nước” được cẩn thận viết hoa khiến lòng người không khỏi xao xuyến một nỗi niềm khó tả. Ôi… “Đất Nước”… Xưa nay có ai từng viết hoa hai tiếng thiêng liêng ấy ngoài Nguyễn Khoa Điềm? Ta đã từng biết đến một đất nước qua giọng thơ êm nhẹ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi:
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả dập dờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”
Thế nhưng “đất nước” của Nguyễn Đình Thi không viết hoa! Còn Nguyễn Khoa Điềm, ông viết hoa hai tiếng “Đất Nước” như một niềm tôn kính, thương yêu bằng tất cả trái tim. Với nhà thơ, đất nước mình không chỉ là đất nước vô giác vô tri, đất nước từ lâu đã mang một linh hồn dân tộc thắm thiết, đậm đà mà từ đây, ông khẳng định rõ hơn về sinh thể thiêng liêng, ruột thịt này…Chỉ bao nhiêu đó thôi, nhà thơ đã khiến cho biết bao nhiêu tâm hồn lay động, để rồi kết lại bằng ba tiếng “đã có rồi” chậm và nhỏ, nhấn mạnh sức sống lâu đời của đất nước bằng chính sự dịu êm, ngọt ngào sâu sắc: “ Đất Nước đã có tự ngàn xưa, cùng ta lớn lên, cùng ta trưởng thành, ở bên, yêu thương và chở che cho ta. Ta có thể không rõ Đất Nước khởi nguồn ra sao, thế nhưng Đất Nước thì luôn quan sát và dõi theo bước chân ta đi đến cuối đất cùng trời...”. Cùng với đại từ phiếm chỉ “ta”, không chỉ rõ ràng, cụ thể một ai, nhà thơ đã tô đậm lên được ngàn năm văn hiến lâu đời của đất nước, khắc sâu bề dày lịch sử mà đất nước đã đi qua.
Và rồi hai chữ “mơ hồ” nhòa nhạt dần đi, nhường chỗ cho Đất Nước của nhà thơ hiện thân, rõ ràng và gần gũi, thân thương đến lạ:
“ Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể…
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
"À… thì ra đất nước lại gần ta đến như thế…", tôi thốt lên ngỡ ngàng. Giọng thơ êm ái như ru ta về một thời thơ ấu “ngày xửa ngày xưa”, ngày xưa yên bình với cổ tích, với mái nhà tranh bình dị, với bếp lửa ấm áp, bập bùng - nơi có mẹ, có cha, có ông, có bà, có tình thương gia đình không gì sánh nổi. Ở đó, ta lớn lên trong sự che chở của cha, trong lời ru à ơi dịu dàng của mẹ, trong những câu chuyện cổ xưa thật xưa chẳng rõ ai viết thành và viết năm nào mà chẳng hiểu sao lại in sâu vào trí óc thuở ngây ngô, khờ khạo.Chao ôi! …Dịu dàng và thân thuộc biết mấy bốn tiếng “ngày xửa ngày xưa”, để rồi khi tuổi thơ vụt trôi qua, người ta không khỏi bâng khuâng, bồi hồi xúc động:
“ Tôi yêu truyện cổ nước mình
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần”
(“Truyện cổ nước mình”, Lâm Thị Mỹ Dạ)
Dáng hình của đất nước chính là ẩn trong những điều bình dị và gần gũi ấy, len lỏi vào từng chút một cuộc sống của ta từ thuở nằm nôi, nghe tiếng chõng kẽo cà kẽo kẹt, nghe câu hát ru ngọt ngào ru ta vào giấc ngủ bình an... Đất nước tựa như một sinh thể, cùng ta lớn lên, cùng ta trưởng thành. Đất nước thì bước qua bao thăng trầm lịch sử, còn ta bước qua lửa đạn chiến tranh để trọn vẹn gìn giữ hai tiếng “đất nước” yêu kính ngàn năm…
Đối với câu hỏi hồn hậu: “ Đất nước có tự bao giờ?”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không hề né tránh. Ông không đứng trên quan điểm của một nhà sử học, cũng chẳng hề sử dụng ngôn từ của một nhà nghiên cứu xã hội, ông đơn giản chỉ dùng trái tim và tâm hồn mình để định nghĩa đất nước mà thôi. Thế nhưng cũng chính vì vậy mà đất nước qua thơ ông trở nên gần gũi và thân thuộc hơn bao giờ hết, bình dị và dịu êm như tình mẹ bao la. Từ hai tiếng “đất nước” tưởng như khó có thể nói thành lời, nhà thơ đã dùng ngòi bút tài hoa của mình vẽ nên những đường nét mộc mạc và cụ thể, cho ta thấy dáng hình đất nước mến yêu bằng một định nghĩa rất riêng - định nghĩa từ tiếng lòng của một người con hiếu thuận của quê cha đất tổ, của một hồn thơ không những tinh tế mà còn giàu tình cảm và uyên bác.
Bằng cách gắn liền sự ra đời của sinh linh Đất Nước với sự ra đời của miếng trầu bà vẫn thường ăn, nhà thơ đã cho thấy một tâm hồn thấm nhuần tính dân tộc cùng với sự tinh tế của bản thân. Ông không những trả lời và cụ thể hóa cho khởi nguồn của đất nước thân thương này, ông còn gợi nhắc về truyền thống nhuộm răng, ăn trầu của các bà, các mẹ ngày xưa. Hương trầu thơm tho như phả vào từng con chữ, đưa ta về một miền kí ức nhỏ đầy ắp yêu thương bên người bà kính yêu, nơi có bà miệng nhai trầu móm mém, thơm thật thơm một kí ức sống mãi trong lòng người. Và miếng trầu têm khéo ấy, dẫu thật nhỏ bé, lại chở cả một “Đất Nước” cùng đi…
Cứ thế, thời gian miệt mài chảy trôi, để rồi ta lớn khôn và “Đất Nước” cũng lớn lên cùng với lũy tre làng xanh thật xanh vẫn hiền hòa đong đưa theo làn gió. Tre chẳng biết từ thuở xa xăm nào đã gắn bó sâu sắc với làng quê Việt Nam, đi vào bao câu hát, bài thơ:
“Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
Cũng như đất nước mình vẫn dịu hiền lớn lên, lặng lẽ, âm thầm…
Hai tiếng “dân mình” khi được cất lên cùng “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết biết trồng tre mà đánh giặc” nghe sao mà thân thương quá đỗi, bởi lẽ dâng mình cùng chung một dòng máu Rồng Tiên, cùng một gốc gác, cội nguồn, mang trong mình tương liên huyết mạch, là máu thịt, là anh em… Nếu như vế đầu câu thơ dâng sóng lòng ta lên bởi những thanh âm trong trẻo tràn đầy tình cảm thì nửa sau câu thơ gợi cho ta nhớ về hình ảnh chàng Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre mà đánh đuổi giặc. Từ chính bờ tre Việt Nam hiền lành, mộc mạc ấy, sức mạnh của cả một dân tộc trên lên, vươn mình khôn lớn như Thánh Gióng khi xưa, trưởng thành từ chính những gian truân, thử thách:
“Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”
(Bài thơ của một người yêu nước mình, Trần Vàng Sao)
Đất nước mình đã lớn lên như thế đó, cũng như một sinh thể sống thực sự, trải qua bao biến cố thăng trầm, bao phen nguy nan, “biết bao đời đã chịu nhiều thương đau” thế nhưng cho đến cuối cùng, đất nước mình vẫn vượt qua tất cả, vẫn sừng sững và tồn tại hiên ngang, bởi đất nước luôn có chúng ta - những người con yêu kính đất mẹ sẵn sàng đánh đổi tất cả, dẫu cho có phải hi sinh cả tính mạng vẫn không nề hà, chùn bước mà chịu thua, bởi lẽ thẳm sâu trong tâm trí mỗi người, chỉ cần còn hơi thở cuối, ta đều nguyện dành trọn cho Tổ quốc thân yêu.
Viết về đề tài đất nước không phải là một chủ đề mới lạ mà trái lại, đây luôn là chủ đề khơi gợi lên nhiều xúc cảm, cũng là nguồn cảm hứng bất tận, chắp bút cho sự ra đời của bao bài thơ. Trong bài thơ “Mũi Cà Mau”, nhà thơ Xuân Diệu từng đặt bút:
“ Tổ quốc tôi như một con tàu
Mũi thuyền ta đó - mũi Cà Mau
Những dòng sông rộng hơn ngàn thước
Trùng điệp một màu xanh lá đước”
Hay năm xưa, Nguyễn Trãi từng lưu danh sử sách với tác phẩm bất hủ “Đại cáo bình Ngô”:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Trong khi Xuân Diệu vì Tổ quốc ta như một con tàu, hùng dũng và hiên ngang trên biển khơi, Nguyễn Trãi lại đưa ta bước vào âm vang hào sảng của một đất nước văn hiến ngàn năm, vĩ đại, lớn lao và sừng sững. Hai nhà thơ biểu trưng cho hai thời đại, tuy xa cách nhau bằng khoảng thời gian muôn trùng thế nhưng lại gặp nhau trong giọng thơ đầy mạnh mẽ, tự hào khi nói về đất nước. Còn đối với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm của chúng ta, ông không viết về đất nước bằng những chiến tích hiển hách, hào hùng, lại càng không dùng ngôn từ với thật nhiều tráng lệ, hiển hách. “Đất Nước” của ông chỉ đơn thuần và bình dị như thế, dịu êm như thế, “Đất Nước” ở ngay chính nơi này - trong trái tim ta! Viết về đất nước bằng lối đi riêng, Nguyễn Khoa Điềm không những không bị những tráng khí đi trước lu mờ, trái lại, ông đã khẳng định được tài năng và chỗ đứng riêng của bản thân trên thi đàn Việt Nam.
Viết tiếp những vần thơ vẽ về đất nước mình, nhà thơ vẫn dịu dàng thủ thỉ những lời dịu êm như ban nãy:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Một lần nữa, hình ảnh mẹ lại hiện lên, gợi lên cảm giác thật ấm áp và yêu thương biết mấy, bởi mẹ chính là hiện thân của hơi ấm và tình thương dạt dào, bao la. Câu thơ cất lên như vẽ ra trước mắt người đọc đoạn phim trắng đen ngắn ngủi bên hiên nhà - nơi có mẹ đang ngồi, búi tóc gọn gàng, chỉn chu. Mái tóc mẹ đen huyền, óng ả một màu,mượt mà như dòng suối, từng vòng một được cuộn cẩn thận, búi lên đầu thành mái tóc của người mẹ Việt Nam. Những búi tóc ấy có thể không có trâm cài đính ngọc lấp lánh, nhưng có nhiều hơn thế - có tình yêu, có sự tảo tần, hiền dịu mà mẹ dành cho con. Cùng với cha, mẹ tạo nên tổ ấm thân thương gọi là nhà, là gia đình, là chốn về mỗi khi bước chân đã mỏi. Cha mẹ thương và sống với nhau không chỉ bằng tình yêu mà còn vì ân nghĩa sâu nặng, gắn kết bền chặt với thời gian. Cũng như gừng bao năm gừng vẫn nguyên vẹn vị cay, thậm chí càng già càng cay, càng đậm mùi vị đặc trưng không đổi; hay như vị muối mặn càng không suy suyển, bao năm vẫn mặn mà như xưa. n tình thắm thiết ấy đã đi sâu vào ca dao, như một lời răn dạy về đạo vợ chồng trăm năm như gừng, như muối, dạy con người ta sống có nghĩa có tình, dẫu hết tình thì vẫn còn chữ “nghĩa” một đời không đổi cũng chẳng thay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Dẫu có xa nhau cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Vẫn với lời thơ thủ thỉ, tâm tình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gợi lên một truyền thống khi đặt tên cho con của dân tộc ta:
“ Cái kèo cái cột thành tên”
Từ những điều thân thuộc và đời thường, những cái tên âu yếm, yêu thương ấy đã ra đời bằng những “kèo” và những “cột”. Tên dẫu thật lạ nhưng mang đầy ý nghĩa và tình yêu khi ẩn sâu bên trong cái tên mộc mạc ấy chính là truyền thống về đặt tên cho con không đẹp - để bảo vệ con, mong cho con một đời bình an, hạnh phúc - từ lâu đã được truyền lại từ đời này sang đời khác, tiếp nối và lưu giữ trọn vẹn lời dạy cổ xưa.
Không những vậy, “cái kèo cái cột” còn là những từ chứng kiến sự phát triển giàu mạnh thêm của ngôn ngữ nước mình - tiếng nói mà cả dân tộc ta luôn tự hào là trong sáng và giàu đẹp, tiếng nói mà toàn thể dân tộc Việt Nam ta đã “quyết đem hết tinh thần và lực lượng, của cải và tính mạng” ra để bảo vệ và gìn giữ, phát triển cho đến ngày hôm nay. Cùng với đó, hình ảnh cái kèo, cái cột còn gợi lên cảm giác thật gần gũi và thân thuộc, dường như trong tâm trí chợt hiện lên một mái nhà tranh đơn sơ nhưng lại rất đầm ấm, tuy giản dị nhưng lại có thừa niềm vui và tiếng cười lan tỏa khắp không gian…
Trải khắp bảy câu thơ, nhà thơ đã khéo lồng ghép biết bao truyền thống lâu đời giàu ý nghĩa của dân tộc. Mỗi truyền thống lại gắn với một câu chuyện, mỗi tập tục lại mang đến một cảm xúc riêng. Nguyễn Khoa Điềm đã đi từ những tiếng “ngày xửa ngày xưa”, đến miếng trầu têm thật khéo thật thơm, vòng qua lũy tre làng xanh rì rào để về đến nhà nhìn thấy bóng dáng và mái tóc mẹ, lắng tai nghe những cái tên trìu mến, yêu thương và còn ý nhị nhắc về nghĩa tình sâu nặng tựa như gừng và muối của cha và mẹ… Thế nên không có lí do gì mà nhà thơ lại “bỏ quên” mất một truyền thống đã đi cùng cha ông ta từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước, đã bồi đắp nên lớp nền vững chãi cho ta cắm lên ngọn cờ dân tộc phấp phới tung bay:
“ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Câu thơ như nét vẽ giản dị họa lên truyền thống trồng lúa nước cũng như đức tính cần lao, chịu khó, vốn “một nắng hai sương” biết bao đời tiếp nối và giữ gìn của toàn dân tộc. Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến hình ảnh đồng lúa bát ngát, mênh mông, nơi cò thẳng cánh bay cao, nơi sáo diều vi vu yên bình chao lượn. Nhắc đến bông lúa trổ đòng đòng, thơm thật ngọt mùi hương lúa chín là nhắc đến những giọt mồ hôi mặn đã rơi xuống để đổi lấy tinh túy của đất trời. Những hạt ngọc trời ấy đã được làm ra từ đôi tay chai sạn vì nắng, vì gió, vì đồng áng, ruộng nương của những người nông dân Việt Nam chất phác, thật thà. Từ lúc cấy mạ đến ngày trổ bông, lúa gặt về còn phải “xay, giã, giần, sàng”, công phu lắm mới làm nên được một bát cơm thơm dẻo. Chính vì vậy, lúa gạo vốn quý lại càng quý hơn và ta càng thêm thương những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn. Họ không những cho ta bữa ăn ngọt lành, học còn tiếp nối ngọn lửa truyền thống của ông cha để lại. Vậy nên:
“ Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.
Câu thơ không chỉ dừng lại ở việc nêu lên truyền thống dân tộc mà còn là lời răn dạy dịu dàng, nhắc người ta nhớ đến công lao của người nông dân. Từ đó nhắn nhủ người ta biết yêu, biết quý hạt gạo, bởi mỗi hạt chứa đựng cả lịch sử và truyền thống hàng ngàn năm qua…
Vậy là,
“ Đất Nước có từ ngày đó…”
Đất Nước đã khởi nguồn từ “đó”, nghe như thanh âm từ những ngày xa xôi vọng về. Hai tiếng “ngày đó” gợi lên cảm nhận về khoảng thời gian lâu thật lâu và xưa thật xưa, cùng với dấu ba chấm “…”, câu thơ như được ngân dài hơn, tha thiết và sâu lắng hơn. Dường như mỗi khi “Đất Nước” được cất thành lời, đến câu “Đất Nước có từ ngày đó…”, người đọc đều nhỏ giọng hơn, nhẹ nhàng hơn, để cho thanh âm như nhỏ dần, nhạt dần, hòa dần vào trong không gian và dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi.
Khép lại chín câu thơ đầu của chương V, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hoàn thiện xong bức họa đất nước bằng cách vẽ của riêng mình. Đất nước trong ông đã hiện lên ngay trước mắt người đọc, bằng cả thị giác và cảm xúc cảm bồi hồi, khó tả đang trào dâng.
Thơ ông vốn không vần, cũng chẳng đi theo một niêm luật nào cụ thể, tưởng như sẽ rất nhàm chán và khô khan. Thế nhưng không… “Đất Nước” không những không bị cuốn trôi theo dòng thời gian hay bị lu mờ bởi những tác phẩm cùng đề tài, “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã tỏa sáng từ chính những câu thơ không vần chẳng luật ấy. Chính bởi thơ không vần nên ý thơ mặc sức mà lan tỏa. Chính bởi ngôn từ bình dị, mộc mạc không phô trương, bề thế mà “Đất Nước” dịu êm như bản tình ca khắc ghi sâu vào lòng mỗi người - bản tình ca giữa “ta” và “Đất Nước - thắm thiết, đậm đà và nặng sâu. Cùng với kiến thức phong phú, uyên bác về truyền thống dân tộc mình, nhà thơ đã đưa cả bốn nghìn năm lịch sử vào từng câu, từng chữ, để mỗi khi đọc lên, dải đất uốn lượn hình chữ S cong cong ấy hiện lên trong tâm trí mỗi người dân đất Việt thật trọn vẹn, thật đẹp và thật sáng tươi. Đúng như trong “Học văn đọc văn”, Giáo sư Trần Đình Sử từng nhận định: “ Một Đất Nước như thế không thể có được bằng bút pháp miêu tả bên ngoài, cho nên tất yếu nhà thơ phải dùng hình thức suy ngẫm, liên tưởng, liệt kê, để dần dần đưa người đọc vào trí tưởng tượng của họ, vào kí ức của họ, nhìn Đất Nước trong chính tâm hồn họ”. Đọc “Đất Nước”, người ta không chỉ thấy được một đất nước gần gũi và dịu hiền trong tâm hồn mình, người ta còn thấy cả một tấm lòng yêu nước dịu dàng, tinh tế cùng với tài hoa cầm bút của người nghệ sĩ đã viết nên bài thơ.
Nhìn chung, văn học Việt Nam thời kì những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ chứng kiến sự ra đời của nhiều tuyệt tác, thực sự là một giai đoạn mà thơ văn nở rộ như một vườn hoa rực rỡ sắc màu, đặc biệt là đối với văn học miền Nam. “Đất Nước” đã góp phần hương sắc dìu dịu mà len lỏi in sâu vào trí óc thế hệ thanh niên trẻ miền Nam lúc bấy giờ, cũng như toàn thể người dân Việt Nam, thức tỉnh họ sớm bước đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, bảo vệ độc lập và tự do của một dân tộc anh hùng. Và dẫu ra đời trong hoàn cảnh bão lửa mưa bom, “Đất Nước” vẫn luôn nhẹ nhàng và dịu êm như người mẹ dịu hiền vỗ về lòng ta bởi từng lời thơ du dương ấy, để rồi bốn mươi tám năm qua, như đứng ngoài quy luật của thời gian, “Đất Nước” vẫn giữ được vẹn nguyên giá trị tinh thần mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hướng đến.
Mặc cho bước chân thời gian vẫn chảy trôi không ngừng,thơ văn vẫn ở đó và vẫn tỏa sáng, bởi lẽ “Thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trở thành bất tử” ( Shelly), nên chúng cũng trường tồn mãi với tháng năm. Bài thơ “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã ngân lên một khúc dạo du dương, dịu dàng, khắc sâu vào từng trái tim, từng tâm hồn, gợi lên một niềm yêu thương, tự hào khó tả về mảnh đất quê hương thân thương, nơi ta thuộc từng đường đi lối về, từng hàng cây ngọn cỏ. Dù đi đâu, đi đến tận cuối đất cùng trời, ta vẫn tự hào mang trong mình dòng máu Lạc Hồng hào hùng, hiên ngang. Dù ta là ai, chỉ cần ta sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, trái tim sẽ mãi luôn nhớ: “ Dù đi đâu… Đến phương trời nào, cũng chẳng đẹp hơn nước non Việt Nam”…
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 9
Đất nước" - hình tượng thiêng liêng mà quen thuộc, là đề tài muôn thuở và nguồn cảm hứng bất tận của nghệ thuật, thi ca. "Đất nước" hiện diện trong lời hát, tiếng ru hay làn điệu dân ca mượt mà, dịu ngọt. "Đất nước" làm rung động biết bao mê say xúc cảm của các thế hệ thơ Việt Nam, vì vậy, chân dung Tổ quốc được hiện lên muôn hình vạn trạng dưới những ngòi bút tài hoa. Trong số các tác giả, phải kể đến Nguyễn Khoa Điềm - một nhà thơ, một nhà chính trị. Có lẽ, nhờ những trải nghiệm cá nhân mà thi sĩ được nhào nặn trong những năm tháng đấu tranh vĩ đại của dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm mang cho mình cảm xúc nồng nàn cùng suy tư sâu lắng về tư tưởng "Đất nước của Nhân dân". Với bản trường ca "Mặt đường khát vọng" ( viết năm 1971 tại chiến khu Trị-Thiên) , ông chọn điểm nhìn gần gũi, thân quen nhất để miêu tả hình dáng xứ sở, tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, hào hùng. Tất cả những cảm xúc được dồn nén trong phần đầu đoạn trích "Đất nước" của tác phẩm
"Khi ta lớn lên ......... Đất nước có từ ngày đó"
Giọng điệu tâm tình thủ thỉ như lời kể chuyện cổ tích, câu thơ dẫn dắt ta đi tìm cội nguồn đất nước: "Đất nước có từ bao giờ?" - Lời thắc mắc chẳng phải mới nghĩ ra, mà bao đời nay vẫn không ngừng tìm kiếm câu trả lời thỏa đáng. Bằng những chi tiết giàu sức gợi, Nguyễn Khoa Điềm có sự lý giải của mình: "Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi" - Đất nước có từ lâu rồi, từ khi ta còn thôi nôi, theo từng bước chân ta lớn, đất nước lớn lên cùng ta. "Đất nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể", tham vọng tìm tuổi Đất nước của nhà thơ thật khó có lời giải, bởi "ngày xửa ngày xưa.." là đơn vị đo thời gian trừu tượng, mông lung nhất, chẳng ai biết ngày xửa ngày xưa là từ bao giờ cả, chỉ biết nó rất xa xôi, đã trôi qua từ lâu, rất lâu. "Ngày xửa ngày xưa.." còn vẽ lên trong tiềm thức ta khung cảnh của những câu truyện cổ tích "mẹ thường hay kể": cô Tấm bước ra từ quả thị, Thạch Sanh tốt bụng cứu người, chàng Phù Đổng kiên cường bất khuất, hay những nhân vật chăm chỉ cần cù, người tiều phu chất phác, ông bụt đôn hậu cười hiền giúp đỡ biết bao nhân vật lương thiện,... Tất cả, tất cả thế giới thần tiên ấy cứ xuất hiện ám ảnh tâm trí ta mà một khi nghĩ đến thì thật khó dứt bỏ. "Ngày xửa ngày xưa" mở ra những câu truyện, thì dấu 3 chấm bỏ lửng ở cuối cụm từ lại khiến người ta cứ mãi suy tư. Người đọc hẳn phải hình dung mãi những hình tượng truyền thuyết cổ tích ấy, nhớ về cái thời tấm bé ầu ơ đòi bà, đòi mẹ kể chuyện. Dưới ánh trăng vàng lặng tuyệt đẹp, chất giọng dìu dịu, hiền từ thổi hồn cho ước mơ trong lành của những đứa trẻ. Cổ tích là thế đó, đã là người Việt đâu thể thiếu bóng dáng Thạch Sanh, Thánh Gióng, Mai An Tiêm, hồi nhỏ nghe và liên tưởng đến cuộc sống màu hồng với bao điều tốt đẹp, chân thiện mĩ lúc nào cũng chiến thắng, lớn lên thì hiểu, cổ tích là cả một nền văn học dân gian. Nó quá rộng lớn, quá hùng vĩ, mấy câu thơ đâu thể bao chứa cả một kho tàng văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm bỏ lửng, trao chiếc chìa khóa để người đọc tự mình khám phá thư viện dân tộc khổng lồ kia. "Ngày xửa ngày xưa..." cứ ngân vang, da diết, đưa ta về với hành trình tìm câu hỏi phía ban đầu: "Đất nước hình thành như thế nào"
"Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc"
Nguyễn Khoa Điềm xác định thời khởi thủy của Đất nước, bắt đầu từ miếng trầu, rồi lớn lên cùng hàng tre dân tộc. "Miếng trầu là đầu câu chuyện", một hình ảnh mộc mạc đậm chất dân gian lần nữa xuất hiện. Tưởng chừng những thứ xung quanh thân thuộc và bình dị ấy cứ mãi là điều hiển nhiên, chẳng ai ngờ bằng sự phát hiện của mình, Nguyễn Khoa Điềm khiến cho bao người lặng mình suy nghĩ. Vì đằng sau những câu chữ tự sự, là những mối quan hệ tình nghĩa truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam. Mỗi dịp cúng giỗ, lễ Tết, miếng trầu - quả cau luôn xuất hiện trên bàn thờ tổ tiên, linh thiêng, trân trọng, trở thành biểu tượng cho tấm lòng thành con cháu gửi đến cha ông, hồn thiêng của tiền nhân. Bên cạnh đó, miếng trầu cũng chính là tình yêu e ấp thẹn thùng của đôi lứa thời xưa
"Miếng trầu có bốn chữ tòng
Xin chàng cầm lấy vào trong thăm nhà
Nào là chào mẹ chào cha
Cậu cô chú bác... mời ra xơi trầu"
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 10
Đầu năm 1971, đang công tác trong thành ủy Huế, Nguyễn Khoa Điềm được mời tham gia trại sáng tác tổ chức ở đất bạn Lào. Nhà thơ rất thích nhạc giao hưởng ấy tâm sự: Tôi nghĩ tôi sẽ viết một bản giao hưởng bằng ngôn ngữ. Và trường ca Mặt đường khát vọng đã ra đời. Trường ca gồm chín chương. Đoạn thơ Đất Nước trích từ phần đầu của chương V có tên là Đất Nước. Trong thơ kháng chiến chống Mỹ đất nước là chủ đề bao trùm. Các thế hệ trước nhiều người viết rất hay về đề tài đất nước, cho nên Nguyễn Khoa Điềm tìm cách thể hiện mới, chọn chất liệu từ đời sống dân gian để thấy rằng đất nước là ý niệm thiêng liêng, nhưng cũng thật gần gũi và giản dị.
Đất nước có từ đâu? Đất nước là gì? “Đất nước”, hai chữ thiêng liêng cao cả ấy chẳng phải ở đâu xa mà ở ngay trong mỗi gia đình chúng ta: từ lời kể chuyện của mẹ, miếng trầu của bà, đến phong tục tập quán quen thuộc, tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo, hòn than, cái kèo, cái cột trong nhà:
“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”
Bằng giọng tâm tình, dịu ngọt như lời kể truyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm nhận, suy tưởng của mình về cội nguồn đất nước. Lịch sử sâu thẳm của đất nước ta được tác giả cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp của các vương triều hay các sự kiện lịch sử trọng đại như Nguyễn Trãi đã từng viết trong “Bình Ngô Đại Cáo”:
“Như nước Đại Việt ta từ thuở trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc – Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương”
Mà bằng những hình ảnh gần gũi, thân quen, bằng những câu thơ gợi nhớ đến truyền thuyết xa xưa, đến nền văn minh lúa nước sông Hồng, cùng những phong tục tập quán độc đáo có từ lâu đời. Đó cũng chính là đất nước được cảm nhận trong chiều sâu tâm hồn nhân dân, văn hoá và lịch sử:
“Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Hình ảnh thơ phải chăng đã gợi cho ta về sự tích “Trầu cau” từ đời vua Hùng dựng nước xa xưa, ngợi ca tình nghĩa vợ chồng, anh em đằm thắm, sắt son; về truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân, trở thành bài ca giữ nước hào hùng của nhân dân đã trở thành lịch sử đất nước:
“Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc n
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép làm roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi”
(Tố Hữu)
Nghĩa là, lịch sử lâu đời của đất nước được kết tinh trong từng câu chuyện kể, trong miếng trầu bà ăn thường ngày, trong “cây tre đánh giặc” thân quen quanh ta.
Bằng thể loại trữ tình chính luận, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa ra một cách cảm nhận, một định nghĩa về đất nước để từ đó rút ra một quan niệm về đất nước. Bao trùm là tư tưởng, quan niệm:
Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại
Trước hết, tác giả cảm nhận đất nước qua những hình ảnh bình dị, cụ thể, gần gũi:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa, ngày xưa... mẹ thường hay kể Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phủi một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó
Từ những hình ảnh bình dị, cụ thể: miếng trầu bà ăn, mảnh đất trồng tre đánh giặc, cái kèo, cái cột, ngôi nhà ta ở, hạt gạo một nắng hai sương ta ăn..., tác giả muốn nói rằng đất nước không ở đâu xa mà rất gần gũi, thân thiết, gắn bó trong đời sống của mỗi gia đình hàng ngày và từ bao đời nay. Và mỗi đứa trẻ lớn lên trong không gian cụ thể ấy sẽ được bà, cha mẹ truyền cho ý niệm về đất nước thông qua những câu chuyện huyền thoại cổ tích, dần dần khái niệm về đất nước sẽ hình thành trong tâm hồn mỗi con người, đến khi lớn lên đứa bé sẽ nhận thức được đất nước. Những hình ảnh này còn gợi liên tưởng, mở ra đời sống của dân tộc, theo chiều dài thời gian qua hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước. Trong quá trình lịch sử hình thành và lớn lên đất nước đã được nhân dân xây dựng nền văn minh nông nghiệp lúa nước với phong tục tập quán riêng: ăn trầu, bới tóc. và hình thành tâm hồn tính cách riêng: thủy chung trong tình yêu, cần cù trong lao động. Nhân dân cũng xây dựng truyền thống yêu nước anh hùng chống giặc ngoại xâm: trồng tre đánh giặc. Đất nước được nhân dân xây dựng sáng tạo từ buổi đầu, lại gắn bó với đời sống vật chất và trong tâm thức của nhân dân từ xa xưa đến nay, nên đất nước này là của nhân dân.
Đoạn thơ Đất Nước có giọng điệu tâm tình, sự liên tưởng phóng túng nhưng tập trung thể hiện cách cảm nhận về đất nước của tác giả theo chiều bình diện rất rõ ràng.
Tác giả tiếp tục cảm nhận đất nước ở chiều rộng không gian, địa lí, lãnh thổ. Đó là một không gian cụ thể, thân thiết đầy đủ dấu yêu đối với mỗi con người:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Con đường đến trường, bến sông, nơi lứa đôi yêu nhau hò hẹn, tương tự gợi ra không gian, khung cảnh cụ thể, thân quen gần gũi nhưng không kém phần đẹp đẽ thơ mộng. Đó là không gian sinh tồn của cộng đồng qua bao nhiêu thế hệ. Đất nước luôn gắn bó với anh và em trong suốt cuộc đời. Khi lớn lên nhiều mảnh đất trở thành kỉ niệm. Do đó, đất nước gắn bó trong chiều sâu của tâm hồn. Đất nước sẽ mở rộng ra và lớn lên mãi theo mỗi cuộc đời, lúc đầu là ngôi nhà, rồi con đường, bến sông và xa hơn nữa là không gian rộng lớn với núi sông, rừng, biển:
Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi
Hai câu thơ mượn lời dân ca Bình Trị Thiên đã mở ra một không gian đẹp thơ mộng, bát ngát tráng lệ, huy hoàng; vừa thân quen, cụ thể vừa lãng mạn bay bổng như trong huyền thoại. Viết về phong cảnh non sông gấm vóc, giàu có ấy, nhà thơ đã bộc lộ tình yêu đất nước say đắm.
Thành công nghệ thuật của đoạn thơ là Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một không gian nghệ thuật riêng đưa ta vào thế giới gần gũi, mĩ lệ, giàu sức bay bổng của ca dao truyền thuyết, văn hóa dân gian. Đây là điểm đặc sắc của hình thức nghệ thuật thống nhất với nội dung tư tưởng.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 11
Đất nước, hai từ đơn giản nhưng thiêng liêng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt văn học Việt Nam. Có thể nói tình yêu quê hương đất nước là tình cảm bao trùm lên lý tưởng và cuộc sống của mỗi con người. Chính vì vậy, chủ đề về quê hương đất nước luôn là một trong những đề tài được nhiều tác giả hướng đến để thể hiện quan điểm, góc nhìn cũng như tình cảm của mình đối với đất nước. Và cũng không nằm ngoài quy luật đó, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã có những góc nhìn thật mới mẻ và sâu sắc về vẻ đẹp của lịch sử, của văn hóa cũng như con người Việt Nam.
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ những năm chống Mĩ, với phong cách thơ giàu chất suy tư, xúc cảm dồn nén, mang màu sắc trữ tình-chính luận. Vũ Văn Sỹ từng nhận xét về hồn thơ này: "Nguyễn Khoa Điềm đã thực sự đóng góp vào nền thơ hiện đại một giọng trữ tình đầy chất sử thi, một giọng thơ sôi nổi và cá tính, mộ cây bút gắn kết được tài hoa với vốn sống, vốn tri thức, văn hóa và sự mẫn cảm của một tấm lòng trước từng trang giấy". Tấm lòng nhà thơ có khi nào nguôi yên trước vận mệnh dân tộc, mỗi lần đặt bút viết là mỗi lần trái tim cuộn trào tình cảm thiết tha cùng sự suy tư, trăn trở, triết luận chặt chẽ và thuyết phục. Thơ ông có sức hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồn nàn và suy tư sâu nắng của người trí thức về đất nước. Kết tinh cho hồn thơ ấy phải kể đến bài thơ Đất Nước.
Tác phẩm nằm trong đoạn trích chương V của trường ca "Mặt đường khát vọng", đoạn thơ đã làm nổi bật những cảm nhận mới mẻ của nhà thơ về Đất nước trên nhiều bình diện và được viết vào năm 1971 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ đang bước vào giai đoạn ác liệt. Bấy giờ, phong trào đấu tranh chống Mỹ của nhân dân các đô thị miền Nam ngày càng trở nên mạnh mẽ, sôi nổi tiêu biểu là phong trào xuống đường đấu tranh của học sinh, sinh viên. Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Nguyễn Khoa Điềm đã sáng tác trường ca "Mặt đường khát vọng" để góp thêm tiếng thơ hay về đất nước, để lay động và thức tỉnh ý thức trách nhiệm của mỗi người đặc biệt là của tuổi trẻ đối với quê hương dân tộc, nhằm kêu gọi, khích lệ mọi người đứng lên, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Từ đó, nhà thơ khẳng định tư tưởng lớn: Đất Nước là của Nhân dân, và Nhân dân chính là người đã làm ra Đất Nước.
Nguyễn Khoa Điềm đã mở đầu đoạn trích đoạn thơ của mình bằng lời hồi đáp cho câu hỏi: "Đất Nước có tự bao giờ?"
"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi"
Hai chữ "Đất Nước" vang lên trong trang thơ đầy thiết tha, trìu mến, bắt nguồn từ những gì gần gũi nhất, bình dị nhất trong đời sống vật chất và tâm hồn của mỗi người. Độc giả sẽ phát hiện một điều khác lạ đó là vùng đất vô tri, đất nước là nhân vật, là sinh thể có tâm hồn và với cách viết này cũng đồng thời bày tỏ sự trân trọng của tác giả những tình cảm thành kính, thiêng liêng, trân trọng dành cho đất nước. Điệp từ "Đất Nước" vang vọng suốt cả trường ca như một khúc nhạc thiết tha gợi cảm xúc, đưa ta về một miền không gian nối dài từ quá khứ gắn liền với biết bao phong tục tập quán thân thuộc hàng ngày, lịch sử lâu đời của đất nước và hiện tại đến tương lai. Hai từ thiêng liêng ấy không chỉ xuất hiện trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm mà còn "làm bạn" với rất nhiều thi sĩ khác:
"Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sơm chiều"
Và đất nước cứ như thế đã trở thành một danh từ thiêng liêng trong trái tim của bất cứ ai. Ý thơ của Nguyễn Khoa Điềm bàn về vấn đề chính luận, thời sự, nhưng lại sử dụng đại từ xưng hô "ta" vừa là nhân vật trữ tình vừa là mỗi chúng ta những người dân đất Việt. Qua đó, nhà thơ muốn thể hiện nét tâm tình trò chuyện thân mật giữa người con trai và người con gái, giữa "anh" và "em" về đất nước. Người con trai ở đây – "ta" như đang muốn cắt nghĩa, lý giải về cội nguồn, sự lớn lên của đất nước cho người con gái anh yêu. Tuy nếu mở rộng ý thơ "ta" ở đây cũng có thể coi là tất cả mọi người, là một cách nói bao hàm đại diện cho dân tộc Việt Nam. Cách xưng hô khiến vấn đề trở nên trừu tượng và vô cùng lớn lao khi đất nước đã lớn lao nhưng nay lại càng trở nên gần gũi, rõ ràng, cụ thể. Điều này thể hiện rất rõ qua phong cách thơ trữ tình – chính luận của tác giả. Nhà thơ khẳng định sự hình thành của đất nước từ bao đời nay qua ba chữ "đã có rồi" khiến cho hình ảnh đất nước bỗng sừng sững, hiện hữu trong lòng người đọc. Theo cách lý giải của Nguyễn Khoa Điềm thì "Đất Nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng, đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền từ đời này qua đời khác". Cho nên "Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi" lời khẳng định đầy sự tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua ngàn năm lịch sử. Đất nước cũng như trời và đất, khi ta sinh ra đã có đất và trời cũng như vậy, ta không biết được đất nước hình thành từ bao giờ, chỉ thấy hiện diện xung quanh ta với những gì đẹp và thân thương nhất.
Những câu thơ tiếp tác giả triển khai và làm sáng rõ vấn đề được nên ra ở câu thơ đầu: "Đất Nước đã có từ rất lâu đời". Ngược về quá khứ xa xôi, tuổi thơ của mỗi người lớn lên trong những lời ru, những câu chuyện cổ tích của bà và em:
"Đất Nước có trong những cái 'ngày xửa ngày xưa..'mẹ thường hay kể"
Tác giả đã mượn chất liệu dân gian để diễn tả về sự ra đời của đất nước. Bốn chữ "ngày xưa ngày xưa" đưa chúng ta về một miền thăm thẳm, xa xôi. Nơi đó có hình ảnh của một cô Tấm dịu hiền, Thạch Sanh lương thiện, bà tiên ông Bụt với những phép màu diệu kỳ giúp đỡ cho những con người lương thiện gặp nạn.. Những câu chuyện đó đã khắc sâu về hình ảnh ông cha ta trong quá khứ và đất nước có trong những điều xa xưa ấy, tức là đất nước đã xuất hiện trước khi những câu chuyện này có mặt trong kho tàng dân gian đầy sắc màu. Khi những câu chuyện cổ tích có mặt trong đời sống tinh thần phong phú của nhân dân ta, ta lại thấy hình hài đất nước trong đó. Là đất nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện, cổ tích, truyền thuyết. Chính những câu chuyện và lời ru thân quen thưở nào đã là nguồn sữa ngọt lành nuôi dưỡng tâm hồn ta hướng về những điều tốt đẹp những bài học giá trị gắn liền trong cuộc sống.
Không chỉ có trong cái "ngày xưa ngày xưa" Nguyễn Khoa Điềm còn xác định buổi ban đầu ấy qua một nét giản dị đã trở thành phong tục tập quán tốt đẹp của nhân dân ta đến hiện nay đó là ăn trầu:
"Đất Nước bắt đầu với những miếng trầu bà ăn"
Hình ảnh đất nước lớn lao kì vĩ, đối lập với hình ảnh miếng trầu lại bé nhỏ. Nghe có vẻ câu thơ phi lí vì đất nước kì vĩ và to lớn nhưng lại bắt đầu xuất phát từ miếng trầu nhỏ bé khiến ta liên tưởng đến chân lý: "Những điều lớn lao đều bắt đầu từ những điều nhỏ bé". Câu thơ còn gợi nhắc về truyện cổ tích "Sự tích trầu cau" được xem là câu chuyện xưa nhất trong các truyện cổ. Tục ăn trầu của người Việt cũng bắt nguồn từ chính câu chuyện này. Điều này cho ta thấy miếng trầu tuy nhỏ bé nhưng gắn liền với truyền thống 4000 năm lịch sử, 4000 năm phong tục truyền đời cùng truyền thống hiếu khách: "Miếng trầu làm đầu câu chuyện" . Trải qua biết bao thăng trầm cùng lịch sử, miếng trầu đã trở thành hình ảnh thiêng liêng trong đời sống tinh thần người Việt: Miếng trầu giao duyên, miếng trầu cưới hỏi.. Và từ đó, hình ảnh này trở nên quen thuộc trong thơ ca.
Bên cạnh những phong tục tập quán tốt đẹp của đất nước, nhà thơ còn muốn nhấn mạnh vào quá trình lớn lên của đất nước song hành cùng truyền thống đánh giặc giữ nước của dân ta:
"Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc"
Hai chữ "lớn lên" để chỉ sự trưởng thành của đất nước. Câu thơ như muốn gợi cho ta về 2 hình ảnh: Cây tre và truyền thuyết "Thánh Gióng". Bao đời nay che không còn là hình ảnh xa lạ đối với đời sống của người dân Việt Nam mà nó đã đi sâu vào trong tâm hồn của mỗi con người đi vào những tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa
"Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa.. đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi, đá vôi bạc màu"
Người Việt Nam giống như cây tre mạnh mẽ kiên cường, dù gặp mưa lũ, khó khăn những vẫn kiên cường. Cây tre cũng gắn liền với hình cảnh cậu bé Thánh Giong – cậu bé vụt lớn trở thành tráng sĩ, dũng mãnh nhổ tre bên đường diệt giặc khỏi bờ cõi Việt. Cũng từ đó, Thánh Gióng đã trở thành biểu tượng khỏe khoắn sức vóc cường tráng của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường không khuất phục trước khó khăn, kẻ thù xâm lược. Truyền thống vẻ vag ấy đã đi theo suốt chặng đường dân tộc. Đã có biết bao nhiêu không kể cả tra cả gái họ đều sẵn sàng lên đường ra mặt trận. Họ ra đi mang trong mình tinh thần"Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Những tháng năm ấy và những năm tháng sau này truyền thống yêu nước vẫn luôn là cội nguồn, là dòng huyết chảy trong lịch sử hào hùng của dân tộc.
Cùng với đó, đất nước đã có từ rất lâu đời gắn liền với những thuần phong mĩ tục tốt đẹp. Nhà thơ đã đề cập đến tập tục bới tóc của người phụ nữ Việt Nam qua câu thơ:
"Tóc mẹ thì bới sau đầu"
Do công việc trồng lúa nước, phải lội xuống ruộng nên người phụ nữ phải bới tóc cho gọn gàng. Lâu dần điều đó trở thành nét đẹp mang đậm tính truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Không chỉ thế, Nguyễn Khoa Điềm còn cảm nhận về đất nước qua lối sống, tình cảm gắn bó giữa người với người, quan hệ đối xử giữa vợ và chồng và tình yêu chung thủy của họ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Nhà văn muốn mượn vị mặn của muối, vị cay nồng của gừng để nói về tình yêu dài lâu, nồng thắm, tình cảm thủy chung, sự gắn bó keo sơn của vợ chồng để làm nên một gia đình chan chứa hạnh phúc. Đó cũng là một truyền thống rất quý báu của nhân dân ta. Không chỉ vậy, Đất nước còn được tác giả cảm nhận từ cách đặt tên giản dị: "Cái kèo, cái cột thành tên". Ngôn ngữ Việt Nam có từ lâu đời, bắt nguồn từ việc đặt tên cho những vận dụng quen thuộc trong đời sống sinh hoạt hang ngày, lấy tên của chính những vật dụng ấy để đặt tên cho con cái. Bởi xa xưa, người Việt đã quan niệm đặt tên cho con càng xấu càng dễ nuôi. Hơn thế, là cảm nhận của nhà văn về truyền thống của con người Việt Nam cần cù, chịu khó. Để đất nước được như ngày hôm nay, không thể không kể đến công sức lao động của thế hệ ông cha, hay nói cách khác là quá trình dựng nước. Nhà thơ đã nói đến nghề trồng lúa nước: "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng" . Bằng thành ngữ "một nắng hai sương" kết hợp với một loạt động từ "xay, giã, giần, sàng", tác giả đã diễn tả rất cụ thể công việc của nhà nông, kèm theo đó là nỗi vất vả, cực nhọc, chịu thương chịu khó chăm chỉ lao động. Để làm ra hạt gạo ăn mỗi ngày đó là một quá trình vất vả. Thấm vào trong hạt gạo nhỏ bé còn là mồ hôi mặn, là những nhọc nhằn của những người nông dân tần tảo sớm hôm. Đất nước chúng ta trưởng thành từ những vất vả, lam lũ, một nắng hai sương như thế.
Và sau tất cả những diễn giải ấy, tác giả đã một lần nữa khẳng định cội nguồn của đất nước với niềm tự hào mãnh liệt nhất:
"Đất Nước có từ ngày đó"
"Ngày đó" là một từ mang tính chất phiếm chỉ về thời gian. Ngày đó không biết chính xác là ngày nào nhưng ta chỉ biết rõ một điều: Đất nước của chúng ta đã tồn tại từ lâu đời. Từ khi có những câu truyện cổ tích, truyền thuyết, thời điểm bắt đầu của những phong tục tập quán, thuần phong mỹ tục, truyền thống đánh giặc giữ nước và cả nền văn minh lúa nước từ ngàn đời. Những nét văn hóa đẹp đẽ nhất đã được Nguyễn Khoa Điềm đưa vào thơ mình một cách tự nhiên và được cảm nhận vô cùng sâu sắc từ chiều sâu văn hóa và lịch sử.
Nói tóm lại, chín câu thơ đầu tác giả đã thuyết phục người đọc bởi tư tưởng chính luận mà còn đi vào lòng người đọc bởi vẻ đẹp nghệ thuật độc đáo. Bằng những cảm nhận mới mẻ, sâu sắc về sự hình thành và sự hình thành và phát triển lâu đời của đất nước. Trong đoạn thơ, cấu trúc câu "Đất Nước đã có", "Đất Nước bắt đầu", "Đất Nước lớn lên", "Đất Nước có từ" cho phép hình dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian trường kì. Kết hợp đó là điệp từ "có" đã nối kết những hình ảnh khẳng định sự hiện hữu cùng tính truyền thống vừa đầy ân tình sâu nặng của đất nước như một nét riêng không thể hòa lẫn. Nhà thơ cũng đã thật khéo léo khi sử dụng cách nói giản dị, tự nhiên, đậm đà màu sắc dân gian quen thuộc nhưng trong một thể loại hết sức mới mẻ - trường ca.
Nhìn lại bao quát đoạn thơ ta thấy Nguyễn Khoa Điềm sử dụng cấu trúc tổng-phân-hợp rất chặt chẽ. Hình ảnh thơ hàm súc, giàu chất liệu văn hóa, văn học dân gian nên có sức lắng đọng sâu sắc. Chỉ một đoạn thơ ngắn nhưng đã khơi dậy bao nét văn hóa, văn hóa dân gian quen thuộc, vừa được viết bằng những rung động của cảm xúc, nên rất dễ đi vào lòng người. Trả lời cho câu hỏi "Đất Nước có từ bao giờ?", Nguyễn Khoa Điềm đã chiêm nghiệm là lựa chọn những chi tiết, hình ảnh hết sức thân thuộc, trong đời sống gia đình, đời sống lao động hàng ngày, trong câu chuyện cổ tích và tình cảm giữa những người thân yêu nhất. Từ cội nguồn sâu thẳm của quá trình sinh ra, lớn lên và phát triển, đất nước đã gắn liền với nhân dân. Do đó, tư tưởng mà chín dòng thơ thể hiện là tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" – tư tưởng chủ đạo của đoạn trích, đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật tác phẩm. Tư tưởng này không phải đến Nguyễn Khoa Điềm mới có mà đã có một quá trình dài được khẳng định trong lịch sử văn học dân tộc. Tuy nhiên, để tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm mọi biểu hiện tinh tế nhất của hình tượng Đất Nước, lại được cảm nhận một cách toàn diện sâu sắc trên nhiều bình diện, thì đóng góp đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm thực sự là một viên ngọc sáng.
Thành công khi thể hiện tư tưởng của nhân dân là Nguyễn Khoa Điềm đã lựa chọn cho mình chất liệu văn hóa phù hợp đó là chất liệu văn hóa dân gian. Vẫn biết rằng chất liệu thuộc hình thức nghệ thuật của một bài thơ mà nghệ thuật chỉ làm nên câu thơ còn trái tim là nghệ sĩ. Tuy nhiên, việc thể hiện tiếng nói của trái tim là rất quan trọng. Văn hóa dân gian trong tác phẩm nói chung và trong đoạn trích nói riêng là những câu tục ngữ ca dao, những làn điệu dân ca, những câu hò sông nước, những câu chuyện cổ tích, những phong tục tập quán mà Nguyễn Khoa Điềm đã chiêm nghiệm và chọn lọc dựa trên vốn hiểu biết am tường và sâu rộng.
Đúng như Diệp Tiếp khẳng định: "Thơ là tiếng lòng". Tiếng lòng của thơ thật sự có ý nghĩa khi nó là lời nói chân thành, đằm thắm. Tiếng lòng ấy đủ sức lan tỏa, đồng điệu với lòng người nhịp bước theo tháng năm. Chính tiếng lòng của một trái tim yêu nước bỏng cháy nên Nguyễn Khoa Điềm đã có những vẫn thơ có sức lay động đến trái tim, thức tỉnh nhận thức của nhiều người để nhận ra vẻ đẹp bình diij mà cao đẹp của đất nước, để họ xuống đường đấu tranh với tinh thần phơi phới:
"Xẻ dọc Trường Sơn, đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai!"
(Theo chân Bác – Tố Hữu)
Từ đây, ta mới thấm thía sức mạnh của thơ ca, của nghệ thuật chân chính. Sức mạnh đó chỉ có thể phát huy tối đa khi nó là tiếng lòng chân thành, tha thiết; nó chỉ có thể chạm được vào trái tim khi nó được xuất phát từ trái tim. Chính vì thế, tiếng nói từ trái tim bao giờ cũng là những lời ca tuyệt diệu nhất.
Nói tóm lại, chỉ bằng chín câu thơ đầu trong đoạn trích "Đất Nước" của trường ca "Mặt đường khát vọng" là sự khẳng định về một tư tưởng mới mẻ "Đất Nước là của nhân dân", là lý giải hoàn hảo cho những thắc mắc của độc giả về câu hỏi: "Đất Nước có từ bao giờ và đất nước là của ai?" Một cách cắt nghĩa, giải thích đầy mới mẻ. Chẳng phải nơi chúng ta đang sống, mọi thứ quanh mình, đều là những gì thuộc về đất nước hay sao? Từ những hình ảnh thực tế của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước. Nhà văn cũng muốn khắc sâu vào từng trái tim, từng tâm hồn người đọc về ý thức được về đất nước, sự tồn tại của đất nước khiến mỗi chúng ta phải ý thức được về việc phải có trách nghiệm bảo vệ lão thổ, bảo vệ bờ cõi đất nước. Dù ta là ai, chỉ cần ta sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, trái tim sẽ mãi luôn nhớ, ta lại thấy thấm thía những vần thơ trong "Sao chiến thắng" của Chế Lan Viên:
"Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta, như vợ, như chồng
Ôi Tổ quốc nếu cần ta phải chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông."
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 12
Đất nước - Hai tiếng thiêng liêng gợi lên lòng tự hào dân tộc trong mỗi con người. Có thể nói viết về chủ đề đất nước luôn là niềm cảm hứng bất tận của các nhà thơ, nhà văn. Đất nước trong mỗi tác phẩm đều mang những phong vị rất đặc biệt và rất riêng. Một trong những tác phẩm đặc biệt và để lại nhiều dấu ấn trong lòng người đọc có thể kể đến tác phẩm Đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm. Chỉ với 9 câu thơ đầu tác giả đã cho người đọc cảm nhận được quá trình hình thành đất nước bằng cả chiều sâu văn hóa – lịch sử.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Đất Nước nằm trong trái tim mỗi con người, dù đi xa, đi đến đâu thì những giá trị tồn tại chẳng bao giờ mang đến cảm giác xa lạ ngược lại nó đã trở thành một nguồn gắn kết bền vững, tha thiết. Qua bao thế hệ, Đất Nước lại càng vững bền hơn qua sự dựng xây, bồi đắp của chính những con người Đất Việt. Khi đứng trước Đất Nước thiêng liêng nhà thơ thể hiện cảm xúc dào dạt, trái tim rung động đầy thành kính. “Đất Nước” được viết hoa và lặp lại nhiều trong từng dòng thơ đến hết bài chính là dụng ý của nhà thơ cho thấy sự trang trọng, niềm tự hào lớn lao dành cho nguồn cội của mình. Nhà thơ hay chính chúng ta cũng chẳng ai biết chính xác là Đất Nước có từ bao giờ, chỉ biết rằng khi ta sinh ra, lớn lên Đất Nước đã có rồi. Nguyễn Khoa Điềm đi tìm câu trả lời Đất Nước có từ khi nào thì ông chợt suy ngẫm và nhớ về những điều ngày xửa ngày xưa, đó là: trong những câu truyện khi xưa mẹ thường kể, trong từng miếng trầu quen thuộc bà hay ăn đã có hình bóng của Đất Nước. Hình ảnh hiện về luôn giản dị, mộc mạc đến thế để nói về Đất Nước thiêng liêng, lớn lao thì chỉ có Nguyễn Khoa Điềm mới tài tình trong cách miêu tả như thế.Năm tháng cổ xưa, ca dao tục ngữ kết tinh trong mỗi tâm hồn Việt luôn có Đất Nước đi cùng. Và hơn nữa qua những năm tháng chiến tranh đau thương, Đất Nước cũng đồng hành cùng con người “lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Tình yêu thương, lòng thủy chung son sắt của người dân đất Việt, dân tộc Lạc Hồng luôn được Đât Nước mang theo cùng dù ở bất cứ đâu, thời điểm nào.
Nếu như nhà thơ gắn Đất Nước trong hình ảnh miếng trầu bà ăn thì không quên những phong tục khác như : “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, “cái kèo cái cột thành tên”. Chắc sẽ chẳng nhà thơ nào đi tìm về những điều xưa cũ mà chân phương như thế này, riêng Nguyễn Khoa Điềm thì khác, ông tỉ mỉ cho người đọc thấy được một Đất Nước của nhân dân nghìn năm hùng vĩ. Nào là búi tóc sau đầu của mẹ, từng cái kèo cái cột trầy trước theo thời gian in hằn tên dựng nên tổ ấm cho gia đình. Tác giả không quên công ơn, nhìn vào nỗi vất vả một nắng hai sương, tần tảo sớm hôm để mang lại hạt gạo trắng tinh tuơm cho bữa con thơm ngon. Đất Nước, một phần thân thương mà nhà thơ nghĩ về.
Tóm lại, qua 9 câu thơ đầu bài Đất nước Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh Đất Nước bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp. Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 13
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam với kho tàng tác phẩm đồ sộ như Đất ngoại ô, Ngôi nhà có ngọn lửa ấm, trường ca Mặt đường khát vọng đã làm nên tên tuổi của tác giả. Đã có rất nhiều nhà thơ nhà văn viết về chủ đề đất nước. Nhưng đến với tác phẩm Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, bài thơ nhưng một bức tranh lịch sử về chiều dài quá trình hình thành của đất nước cũng như giải thích cho người đọc về nguồn gốc của đất nước. Điều này đã được tác giả khéo léo thể hiện qua đoạn 1 của tác phẩm.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Trong những năm cuối cùng của cuộc kháng chiến vì độc lập tự do, nhà thơ trẻ với hai mươi tám mùa xuân Nguyễn Khoa Điềm năm ấy đã tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho thế hệ thanh niên vào một ngày mai tươi sáng bằng những vần thơ thật đẹp, để rồi giữa những ngày lửa đạn, bom rơi nơi chiến khu Trị -Thiên năm 1971, “Đất Nước” đã ra đời, nhẹ nhàng và dịu êm len lỏi vào sâu trái tim từng người dân con Lạc cháu Hồng, khảm sâu vào trí óc, trường tồn với thời gian…
Bằng giọng thơ thật dịu và thật êm của mình, nhà thơ thủ thỉ những dòng thơ đầu tiên như cất lên tiếng lòng bấy lâu nay dồn nén:
“ Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Câu thơ chỉ là một lời trần thuật nhưng lại mang cho người đọc một cảm giác thật đặc biệt, dường như có chút gì đó xưa cũ gợi về trong kí ức còn mơ hồ. Trước mắt người đọc, hai tiếng “Đất Nước” được cẩn thận viết hoa khiến lòng người không khỏi xao xuyến một nỗi niềm khó tả. Ôi… “Đất Nước”… Xưa nay có ai từng viết hoa hai tiếng thiêng liêng ấy ngoài Nguyễn Khoa Điềm? Ta đã từng biết đến một đất nước qua giọng thơ êm nhẹ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi:
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả dập dờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”
Thế nhưng “đất nước” của Nguyễn Đình Thi không viết hoa! Còn Nguyễn Khoa Điềm, ông viết hoa hai tiếng “Đất Nước” như một niềm tôn kính, thương yêu bằng tất cả trái tim. Với nhà thơ, đất nước mình không chỉ là đất nước vô giác vô tri, đất nước từ lâu đã mang một linh hồn dân tộc thắm thiết, đậm đà mà từ đây, ông khẳng định rõ hơn về sinh thể thiêng liêng, ruột thịt này…Chỉ bao nhiêu đó thôi, nhà thơ đã khiến cho biết bao nhiêu tâm hồn lay động, để rồi kết lại bằng ba tiếng “đã có rồi” chậm và nhỏ, nhấn mạnh sức sống lâu đời của đất nước bằng chính sự dịu êm, ngọt ngào sâu sắc: “ Đất Nước đã có tự ngàn xưa, cùng ta lớn lên, cùng ta trưởng thành, ở bên, yêu thương và chở che cho ta. Ta có thể không rõ Đất Nước khởi nguồn ra sao, thế nhưng Đất Nước thì luôn quan sát và dõi theo bước chân ta đi đến cuối đất cùng trời...”. Cùng với đại từ phiếm chỉ “ta”, không chỉ rõ ràng, cụ thể một ai, nhà thơ đã tô đậm lên được ngàn năm văn hiến lâu đời của đất nước, khắc sâu bề dày lịch sử mà đất nước đã đi qua.
Và rồi hai chữ “mơ hồ” nhòa nhạt dần đi, nhường chỗ cho Đất Nước của nhà thơ hiện thân, rõ ràng và gần gũi, thân thương đến lạ:
“ Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể…
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
"À… thì ra đất nước lại gần ta đến như thế…", tôi thốt lên ngỡ ngàng. Giọng thơ êm ái như ru ta về một thời thơ ấu “ngày xửa ngày xưa”, ngày xưa yên bình với cổ tích, với mái nhà tranh bình dị, với bếp lửa ấm áp, bập bùng - nơi có mẹ, có cha, có ông, có bà, có tình thương gia đình không gì sánh nổi. Ở đó, ta lớn lên trong sự che chở của cha, trong lời ru à ơi dịu dàng của mẹ, trong những câu chuyện cổ xưa thật xưa chẳng rõ ai viết thành và viết năm nào mà chẳng hiểu sao lại in sâu vào trí óc thuở ngây ngô, khờ khạo.Chao ôi! …Dịu dàng và thân thuộc biết mấy bốn tiếng “ngày xửa ngày xưa”, để rồi khi tuổi thơ vụt trôi qua, người ta không khỏi bâng khuâng, bồi hồi xúc động:
“ Tôi yêu truyện cổ nước mình
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần”
(“Truyện cổ nước mình”, Lâm Thị Mỹ Dạ)
Dáng hình của đất nước chính là ẩn trong những điều bình dị và gần gũi ấy, len lỏi vào từng chút một cuộc sống của ta từ thuở nằm nôi, nghe tiếng chõng kẽo cà kẽo kẹt, nghe câu hát ru ngọt ngào ru ta vào giấc ngủ bình an... Đất nước tựa như một sinh thể, cùng ta lớn lên, cùng ta trưởng thành. Đất nước thì bước qua bao thăng trầm lịch sử, còn ta bước qua lửa đạn chiến tranh để trọn vẹn gìn giữ hai tiếng “đất nước” yêu kính ngàn năm…
Đối với câu hỏi hồn hậu: “ Đất nước có tự bao giờ?”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không hề né tránh. Ông không đứng trên quan điểm của một nhà sử học, cũng chẳng hề sử dụng ngôn từ của một nhà nghiên cứu xã hội, ông đơn giản chỉ dùng trái tim và tâm hồn mình để định nghĩa đất nước mà thôi. Thế nhưng cũng chính vì vậy mà đất nước qua thơ ông trở nên gần gũi và thân thuộc hơn bao giờ hết, bình dị và dịu êm như tình mẹ bao la. Từ hai tiếng “đất nước” tưởng như khó có thể nói thành lời, nhà thơ đã dùng ngòi bút tài hoa của mình vẽ nên những đường nét mộc mạc và cụ thể, cho ta thấy dáng hình đất nước mến yêu bằng một định nghĩa rất riêng - định nghĩa từ tiếng lòng của một người con hiếu thuận của quê cha đất tổ, của một hồn thơ không những tinh tế mà còn giàu tình cảm và uyên bác.
Bằng cách gắn liền sự ra đời của sinh linh Đất Nước với sự ra đời của miếng trầu bà vẫn thường ăn, nhà thơ đã cho thấy một tâm hồn thấm nhuần tính dân tộc cùng với sự tinh tế của bản thân. Ông không những trả lời và cụ thể hóa cho khởi nguồn của đất nước thân thương này, ông còn gợi nhắc về truyền thống nhuộm răng, ăn trầu của các bà, các mẹ ngày xưa. Hương trầu thơm tho như phả vào từng con chữ, đưa ta về một miền kí ức nhỏ đầy ắp yêu thương bên người bà kính yêu, nơi có bà miệng nhai trầu móm mém, thơm thật thơm một kí ức sống mãi trong lòng người. Và miếng trầu têm khéo ấy, dẫu thật nhỏ bé, lại chở cả một “Đất Nước” cùng đi…
Cứ thế, thời gian miệt mài chảy trôi, để rồi ta lớn khôn và “Đất Nước” cũng lớn lên cùng với lũy tre làng xanh thật xanh vẫn hiền hòa đong đưa theo làn gió. Tre chẳng biết từ thuở xa xăm nào đã gắn bó sâu sắc với làng quê Việt Nam, đi vào bao câu hát, bài thơ:
“Tre xanh xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”
(Tre Việt Nam - Nguyễn Duy)
Cũng như đất nước mình vẫn dịu hiền lớn lên, lặng lẽ, âm thầm…
Hai tiếng “dân mình” khi được cất lên cùng “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết biết trồng tre mà đánh giặc” nghe sao mà thân thương quá đỗi, bởi lẽ dâng mình cùng chung một dòng máu Rồng Tiên, cùng một gốc gác, cội nguồn, mang trong mình tương liên huyết mạch, là máu thịt, là anh em… Nếu như vế đầu câu thơ dâng sóng lòng ta lên bởi những thanh âm trong trẻo tràn đầy tình cảm thì nửa sau câu thơ gợi cho ta nhớ về hình ảnh chàng Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre mà đánh đuổi giặc. Từ chính bờ tre Việt Nam hiền lành, mộc mạc ấy, sức mạnh của cả một dân tộc trên lên, vươn mình khôn lớn như Thánh Gióng khi xưa, trưởng thành từ chính những gian truân, thử thách:
“Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”
(Bài thơ của một người yêu nước mình, Trần Vàng Sao)
Đất nước mình đã lớn lên như thế đó, cũng như một sinh thể sống thực sự, trải qua bao biến cố thăng trầm, bao phen nguy nan, “biết bao đời đã chịu nhiều thương đau” thế nhưng cho đến cuối cùng, đất nước mình vẫn vượt qua tất cả, vẫn sừng sững và tồn tại hiên ngang, bởi đất nước luôn có chúng ta - những người con yêu kính đất mẹ sẵn sàng đánh đổi tất cả, dẫu cho có phải hi sinh cả tính mạng vẫn không nề hà, chùn bước mà chịu thua, bởi lẽ thẳm sâu trong tâm trí mỗi người, chỉ cần còn hơi thở cuối, ta đều nguyện dành trọn cho Tổ quốc thân yêu.
Viết về đề tài đất nước không phải là một chủ đề mới lạ mà trái lại, đây luôn là chủ đề khơi gợi lên nhiều xúc cảm, cũng là nguồn cảm hứng bất tận, chắp bút cho sự ra đời của bao bài thơ. Trong bài thơ “Mũi Cà Mau”, nhà thơ Xuân Diệu từng đặt bút:
“ Tổ quốc tôi như một con tàu
Mũi thuyền ta đó - mũi Cà Mau
Những dòng sông rộng hơn ngàn thước
Trùng điệp một màu xanh lá đước”
Hay năm xưa, Nguyễn Trãi từng lưu danh sử sách với tác phẩm bất hủ “Đại cáo bình Ngô”:
“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có”
Trong khi Xuân Diệu vì Tổ quốc ta như một con tàu, hùng dũng và hiên ngang trên biển khơi, Nguyễn Trãi lại đưa ta bước vào âm vang hào sảng của một đất nước văn hiến ngàn năm, vĩ đại, lớn lao và sừng sững. Hai nhà thơ biểu trưng cho hai thời đại, tuy xa cách nhau bằng khoảng thời gian muôn trùng thế nhưng lại gặp nhau trong giọng thơ đầy mạnh mẽ, tự hào khi nói về đất nước. Còn đối với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm của chúng ta, ông không viết về đất nước bằng những chiến tích hiển hách, hào hùng, lại càng không dùng ngôn từ với thật nhiều tráng lệ, hiển hách. “Đất Nước” của ông chỉ đơn thuần và bình dị như thế, dịu êm như thế, “Đất Nước” ở ngay chính nơi này - trong trái tim ta! Viết về đất nước bằng lối đi riêng, Nguyễn Khoa Điềm không những không bị những tráng khí đi trước lu mờ, trái lại, ông đã khẳng định được tài năng và chỗ đứng riêng của bản thân trên thi đàn Việt Nam.
Viết tiếp những vần thơ vẽ về đất nước mình, nhà thơ vẫn dịu dàng thủ thỉ những lời dịu êm như ban nãy:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Một lần nữa, hình ảnh mẹ lại hiện lên, gợi lên cảm giác thật ấm áp và yêu thương biết mấy, bởi mẹ chính là hiện thân của hơi ấm và tình thương dạt dào, bao la. Câu thơ cất lên như vẽ ra trước mắt người đọc đoạn phim trắng đen ngắn ngủi bên hiên nhà - nơi có mẹ đang ngồi, búi tóc gọn gàng, chỉn chu. Mái tóc mẹ đen huyền, óng ả một màu,mượt mà như dòng suối, từng vòng một được cuộn cẩn thận, búi lên đầu thành mái tóc của người mẹ Việt Nam. Những búi tóc ấy có thể không có trâm cài đính ngọc lấp lánh, nhưng có nhiều hơn thế - có tình yêu, có sự tảo tần, hiền dịu mà mẹ dành cho con. Cùng với cha, mẹ tạo nên tổ ấm thân thương gọi là nhà, là gia đình, là chốn về mỗi khi bước chân đã mỏi. Cha mẹ thương và sống với nhau không chỉ bằng tình yêu mà còn vì ân nghĩa sâu nặng, gắn kết bền chặt với thời gian. Cũng như gừng bao năm gừng vẫn nguyên vẹn vị cay, thậm chí càng già càng cay, càng đậm mùi vị đặc trưng không đổi; hay như vị muối mặn càng không suy suyển, bao năm vẫn mặn mà như xưa. n tình thắm thiết ấy đã đi sâu vào ca dao, như một lời răn dạy về đạo vợ chồng trăm năm như gừng, như muối, dạy con người ta sống có nghĩa có tình, dẫu hết tình thì vẫn còn chữ “nghĩa” một đời không đổi cũng chẳng thay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta nghĩa nặng tình dày
Dẫu có xa nhau cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
Vẫn với lời thơ thủ thỉ, tâm tình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gợi lên một truyền thống khi đặt tên cho con của dân tộc ta:
“ Cái kèo cái cột thành tên”
Từ những điều thân thuộc và đời thường, những cái tên âu yếm, yêu thương ấy đã ra đời bằng những “kèo” và những “cột”. Tên dẫu thật lạ nhưng mang đầy ý nghĩa và tình yêu khi ẩn sâu bên trong cái tên mộc mạc ấy chính là truyền thống về đặt tên cho con không đẹp - để bảo vệ con, mong cho con một đời bình an, hạnh phúc - từ lâu đã được truyền lại từ đời này sang đời khác, tiếp nối và lưu giữ trọn vẹn lời dạy cổ xưa.
Không những vậy, “cái kèo cái cột” còn là những từ chứng kiến sự phát triển giàu mạnh thêm của ngôn ngữ nước mình - tiếng nói mà cả dân tộc ta luôn tự hào là trong sáng và giàu đẹp, tiếng nói mà toàn thể dân tộc Việt Nam ta đã “quyết đem hết tinh thần và lực lượng, của cải và tính mạng” ra để bảo vệ và gìn giữ, phát triển cho đến ngày hôm nay. Cùng với đó, hình ảnh cái kèo, cái cột còn gợi lên cảm giác thật gần gũi và thân thuộc, dường như trong tâm trí chợt hiện lên một mái nhà tranh đơn sơ nhưng lại rất đầm ấm, tuy giản dị nhưng lại có thừa niềm vui và tiếng cười lan tỏa khắp không gian…
Trải khắp bảy câu thơ, nhà thơ đã khéo lồng ghép biết bao truyền thống lâu đời giàu ý nghĩa của dân tộc. Mỗi truyền thống lại gắn với một câu chuyện, mỗi tập tục lại mang đến một cảm xúc riêng. Nguyễn Khoa Điềm đã đi từ những tiếng “ngày xửa ngày xưa”, đến miếng trầu têm thật khéo thật thơm, vòng qua lũy tre làng xanh rì rào để về đến nhà nhìn thấy bóng dáng và mái tóc mẹ, lắng tai nghe những cái tên trìu mến, yêu thương và còn ý nhị nhắc về nghĩa tình sâu nặng tựa như gừng và muối của cha và mẹ… Thế nên không có lí do gì mà nhà thơ lại “bỏ quên” mất một truyền thống đã đi cùng cha ông ta từ những ngày đầu dựng nước và giữ nước, đã bồi đắp nên lớp nền vững chãi cho ta cắm lên ngọn cờ dân tộc phấp phới tung bay:
“ Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Câu thơ như nét vẽ giản dị họa lên truyền thống trồng lúa nước cũng như đức tính cần lao, chịu khó, vốn “một nắng hai sương” biết bao đời tiếp nối và giữ gìn của toàn dân tộc. Nhắc đến Việt Nam là nhắc đến hình ảnh đồng lúa bát ngát, mênh mông, nơi cò thẳng cánh bay cao, nơi sáo diều vi vu yên bình chao lượn. Nhắc đến bông lúa trổ đòng đòng, thơm thật ngọt mùi hương lúa chín là nhắc đến những giọt mồ hôi mặn đã rơi xuống để đổi lấy tinh túy của đất trời. Những hạt ngọc trời ấy đã được làm ra từ đôi tay chai sạn vì nắng, vì gió, vì đồng áng, ruộng nương của những người nông dân Việt Nam chất phác, thật thà. Từ lúc cấy mạ đến ngày trổ bông, lúa gặt về còn phải “xay, giã, giần, sàng”, công phu lắm mới làm nên được một bát cơm thơm dẻo. Chính vì vậy, lúa gạo vốn quý lại càng quý hơn và ta càng thêm thương những người nông dân quanh năm chân lấm tay bùn. Họ không những cho ta bữa ăn ngọt lành, học còn tiếp nối ngọn lửa truyền thống của ông cha để lại. Vậy nên:
“ Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”.
Câu thơ không chỉ dừng lại ở việc nêu lên truyền thống dân tộc mà còn là lời răn dạy dịu dàng, nhắc người ta nhớ đến công lao của người nông dân. Từ đó nhắn nhủ người ta biết yêu, biết quý hạt gạo, bởi mỗi hạt chứa đựng cả lịch sử và truyền thống hàng ngàn năm qua…
Vậy là,
“ Đất Nước có từ ngày đó…”
Đất Nước đã khởi nguồn từ “đó”, nghe như thanh âm từ những ngày xa xôi vọng về. Hai tiếng “ngày đó” gợi lên cảm nhận về khoảng thời gian lâu thật lâu và xưa thật xưa, cùng với dấu ba chấm “…”, câu thơ như được ngân dài hơn, tha thiết và sâu lắng hơn. Dường như mỗi khi “Đất Nước” được cất thành lời, đến câu “Đất Nước có từ ngày đó…”, người đọc đều nhỏ giọng hơn, nhẹ nhàng hơn, để cho thanh âm như nhỏ dần, nhạt dần, hòa dần vào trong không gian và dòng thời gian vẫn miệt mài chảy trôi.
Khép lại chín câu thơ đầu của chương V, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hoàn thiện xong bức họa đất nước bằng cách vẽ của riêng mình. Đất nước trong ông đã hiện lên ngay trước mắt người đọc, bằng cả thị giác và cảm xúc cảm bồi hồi, khó tả đang trào dâng.
Thơ ông vốn không vần, cũng chẳng đi theo một niêm luật nào cụ thể, tưởng như sẽ rất nhàm chán và khô khan. Thế nhưng không… “Đất Nước” không những không bị cuốn trôi theo dòng thời gian hay bị lu mờ bởi những tác phẩm cùng đề tài, “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã tỏa sáng từ chính những câu thơ không vần chẳng luật ấy. Chính bởi thơ không vần nên ý thơ mặc sức mà lan tỏa. Chính bởi ngôn từ bình dị, mộc mạc không phô trương, bề thế mà “Đất Nước” dịu êm như bản tình ca khắc ghi sâu vào lòng mỗi người - bản tình ca giữa “ta” và “Đất Nước - thắm thiết, đậm đà và nặng sâu. Cùng với kiến thức phong phú, uyên bác về truyền thống dân tộc mình, nhà thơ đã đưa cả bốn nghìn năm lịch sử vào từng câu, từng chữ, để mỗi khi đọc lên, dải đất uốn lượn hình chữ S cong cong ấy hiện lên trong tâm trí mỗi người dân đất Việt thật trọn vẹn, thật đẹp và thật sáng tươi. Đúng như trong “Học văn đọc văn”, Giáo sư Trần Đình Sử từng nhận định: “ Một Đất Nước như thế không thể có được bằng bút pháp miêu tả bên ngoài, cho nên tất yếu nhà thơ phải dùng hình thức suy ngẫm, liên tưởng, liệt kê, để dần dần đưa người đọc vào trí tưởng tượng của họ, vào kí ức của họ, nhìn Đất Nước trong chính tâm hồn họ”. Đọc “Đất Nước”, người ta không chỉ thấy được một đất nước gần gũi và dịu hiền trong tâm hồn mình, người ta còn thấy cả một tấm lòng yêu nước dịu dàng, tinh tế cùng với tài hoa cầm bút của người nghệ sĩ đã viết nên bài thơ.
Nhìn chung, văn học Việt Nam thời kì những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ chứng kiến sự ra đời của nhiều tuyệt tác, thực sự là một giai đoạn mà thơ văn nở rộ như một vườn hoa rực rỡ sắc màu, đặc biệt là đối với văn học miền Nam. “Đất Nước” đã góp phần hương sắc dìu dịu mà len lỏi in sâu vào trí óc thế hệ thanh niên trẻ miền Nam lúc bấy giờ, cũng như toàn thể người dân Việt Nam, thức tỉnh họ sớm bước đi theo tiếng gọi của Tổ quốc, bảo vệ độc lập và tự do của một dân tộc anh hùng. Và dẫu ra đời trong hoàn cảnh bão lửa mưa bom, “Đất Nước” vẫn luôn nhẹ nhàng và dịu êm như người mẹ dịu hiền vỗ về lòng ta bởi từng lời thơ du dương ấy, để rồi bốn mươi tám năm qua, như đứng ngoài quy luật của thời gian, “Đất Nước” vẫn giữ được vẹn nguyên giá trị tinh thần mà nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã hướng đến.
Mặc cho bước chân thời gian vẫn chảy trôi không ngừng,thơ văn vẫn ở đó và vẫn tỏa sáng, bởi lẽ “Thơ ca làm cho những gì tốt đẹp nhất trở thành bất tử” ( Shelly), nên chúng cũng trường tồn mãi với tháng năm. Bài thơ “Đất Nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã ngân lên một khúc dạo du dương, dịu dàng, khắc sâu vào từng trái tim, từng tâm hồn, gợi lên một niềm yêu thương, tự hào khó tả về mảnh đất quê hương thân thương, nơi ta thuộc từng đường đi lối về, từng hàng cây ngọn cỏ. Dù đi đâu, đi đến tận cuối đất cùng trời, ta vẫn tự hào mang trong mình dòng máu Lạc Hồng hào hùng, hiên ngang. Dù ta là ai, chỉ cần ta sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, trái tim sẽ mãi luôn nhớ: “ Dù đi đâu… Đến phương trời nào, cũng chẳng đẹp hơn nước non Việt Nam”…
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 14
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ tại Việt Nam trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước. Ông đã đóng góp rất nhiều tác phẩm đặc sắc cho nền văn học nước nhà, trong đó phải kể đến bài thơ “Đất Nước” trích phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Tác phẩm nói lên nhiều sự hiện hữu của Đất Nước ở chiều sâu không gian cũng như chiều rộng của thời gian. Đặc biệt ở đoạn đầu bài thơ Đất Nước, tác giả đã cho độc giả thấy được sự thiêng liêng nhưng rất đỗi bình dị của Đất Nước, thể hiện quan điểm nguồn cội một cách đặc sắc.
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.”
Câu thơ mở đầu chính là lời khẳng định Đất Nước đã có từ rất lâu, tồn tại như một điều hiển nhiên với chiều sâu cội nguồn và sự hình thành phát triển suốt bốn ngàn năm văn hiến. Đất Nước hiện lên vô cùng thân quen và gần gũi trong những câu chuyện “ngày xửa ngày xưa”, gợi nhớ lại những kỷ niệm của mỗi người. Bởi trong những câu chuyện mẹ kẻ là những bài học đạo lý dạy ta cách làm người, biết phân biệt thiện ác, sống phải biết ơn, thủy chung son sắc… Tác giả sử dụng những ngôn từ tự nhiên, giản dị, không tráng lệ hoa mỹ nhưng vấn gây ấn tượng với người đọc.
Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận Đất Nước gắn liền với bản sắc văn hóa, phong tục tập quán lâu đời của dân tộc:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
“Miếng trầu bà ăn” chính là miếng trầu tình nghĩa về tình cảm vợ chồng, tình cảm anh em gắn bó trong câu chuyện cổ tích “Sự tích trầu cau”. Cũng từ đó, “miếng trầu” tượng trưng cho sự thủy chung son sắc, hình ảnh không thể thiếu trong những lễ cưới truyền thống của Việt Nam.
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Những năm tháng TCN, từ thời Bà Trưng – Bà Triệu Đất Nước ta đã mạnh mẽ đứng lên khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm. Hay hình ảnh Thánh Gióng nhổ lũy tre để đánh giặc. Cây tre cũng chính là biểu tượng của người nông dân Việt Nam, hiền lành chăm chỉ nhưng cũng rất kiên cường bất khuất.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam, mộc mạc, giản dị lại nữ tính thuần hậu rất riêng với mái tóc được búi ra sau đầu. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được tác giả đặt một cách khéo léo để thể hiện ân tình của con người, sự chung thủy của người vợ người chồng.
“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Câu thơ gợi nhắc cho người độc về phong tục làm nhà cổ của người Việt Nam ngày xưa. Những chiếc kèo cột giằng giữa nhau để giúp cho ngôi nhà thêm bền chặt, vững chãi. Ngôi nhà là tổ ấm của mọi gia đình, nơi để các thành viên được đoàn tụ bên nhau.
Và cả truyền thống lao động siêng năng, chăm chỉ, chịu thương chịu khó của dân tộc. Câu thành ngữ “một nắng hai sương” gợi lên sự cần cù của cha ông ta trong những ngày tháng khó khăn. Hạt gạo làm ra là biết bao mồ hôi công sức dầm mưa dãi nắng, xay giã giần sàng mới có được thành quả.
Và sau tất cả, Nguyễn Khoa Điềm đã chốt lại “Đất Nước có từ ngày đó…”, ta không biết và tác giả cũng không biết Đất Nước có từ khi nào. Chỉ biết rằng đó là ngày mẹ kể những câu chuyện cổ tích, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, khi con người biết tạo ra lương thực, khi có các phong tục búi tóc ăn trầu, khi con người biết yêu thương nhau, chung thủy sắt son cùng nhau….
Đất Nước đối với tác giả Nguyễn Khoa Điềm là những điều giản dị, mộc mạc và gần gũi. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo và thiêng liêng về cuộc nguồn của dân tộc. Qua đó nhắc nhở chúng ta hãy luôn trân trọng, gìn giữ và phát triển những nét đẹp trong văn hóa, truyền thống của người Việt Nam.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 15
Đất nước là một đoạn trích từ bản trường ca Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm. Đến với đoạn trích Đất nước, tác giả đã cho người đọc cảm nhận Đất Nước ở chiều sâu không gian cũng như chiều rộng của thời gian. Đặc biệt trong 9 câu thơ đầu bài Đất nước, người đọc có thể thấy được quan điểm nguồn cội của đất nước rất bình dị những cũng rất thiêng liêng.
Ngay từ những câu thơ đầu tác giả đã khẳng định sự tồn tại của đất nước như một điều hiển nhiên gắn liền với những sự việc thân thuộc mà ta vẫn tiếp xúc hằng ngày như miếng trầu bà ăn, búi tóc của mẹ.
Vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam, mộc mạc, giản dị lại nữ tính thuần hậu rất riêng với mái tóc được búi ra sau đầu. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được tác giả đặt một cách khéo léo để thể hiện ân tình của con người, sự chung thủy của người vợ người chồng.
“Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Câu thơ gợi nhắc cho người độc về phong tục làm nhà cổ của người Việt Nam ngày xưa. Những chiếc kèo cột giằng giữa nhau để giúp cho ngôi nhà thêm bền chặt, vững chãi. Ngôi nhà là tổ ấm của mọi gia đình, nơi để các thành viên được đoàn tụ bên nhau.
Và cả truyền thống lao động siêng năng, chăm chỉ, chịu thương chịu khó của dân tộc. Câu thành ngữ “một nắng hai sương” gợi lên sự cần cù của cha ông ta trong những ngày tháng khó khăn. Hạt gạo làm ra là biết bao mồ hôi công sức dầm mưa dãi nắng, xay giã giần sàng mới có được thành quả.
Và sau tất cả, Nguyễn Khoa Điềm đã chốt lại “Đất Nước có từ ngày đó…”, ta không biết và tác giả cũng không biết Đất Nước có từ khi nào. Chỉ biết rằng đó là ngày mẹ kể những câu chuyện cổ tích, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, khi con người biết tạo ra lương thực, khi có các phong tục búi tóc ăn trầu, khi con người biết yêu thương nhau, chung thủy sắt son cùng nhau….
Đất Nước đối với tác giả Nguyễn Khoa Điềm là những điều giản dị, mộc mạc và gần gũi. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo và thiêng liêng về cuộc nguồn của dân tộc. Qua đó nhắc nhở chúng ta hãy luôn trân trọng, gìn giữ và phát triển những nét đẹp trong văn hóa, truyền thống của người Việt Nam.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 16
Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của bao triệu trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng chính là một trong những vần thơ như thế - dung dị, mộc mạc nhưng rất dỗi sâu sắc. Đặc biệt, trong chín câu thơ đầu đã thể hiện được nguồn gốc sâu xa của mảnh đất quê hương tình nghĩa.
Mở đầu là những lời bình dị nhưng hàm súc: “Khi ta lớn lên, Đất Nước đã có rồi”. Đất nước thành bậc tiền nhân. Mọi người đều được nuôi dưỡng từ đất nước… Nhắc lại điệp khúc “ngày xửa ngày xưa…”, tác giả muốn chứng tỏ đất nước hình thành từ rất lâu, đất nước có trong từng lời mẹ kể.
Gắn liền với sinh hoạt gia đình: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”. Tứ thơ này làm sống lại nhiều câu tục ngữ, ca dao và truyện Trầu cau tình nghĩa. Qua hình ảnh “miếng trầu”, Nguyễn Khoa Điềm “nhân dân hóa” thơ mình và có thêm một bằng chứng về đất nước hình thành từ xa xưa. Tuy vậy, đất nước chỉ lớn lên với truyền thống: “dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” và quá trình hình thành nhiều phong tục, tập quán:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Nguyễn Khoa Điềm thật sự xúc động khi nói đến:“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Đó lời ngợi ca tình nghĩa, thuỷ chung trong gian khó. Chữ “thương” giúp thơ ông gần văn học bình dân. “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”- điều ấy, hiển nhiên như khi ta lớn lên đã có ông bà, cha mẹ… Đất nước gắn bó, thân thiết như người ruột thịt và bao công việc lao động khác:
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Tứ thơ “cái kèo, cái cột thành tên” còn gợi tập tục đặt tên mộc mạc để mong sự bình yên. Đất nước ta gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Làm nên hạt gạo trắng thơm phải trải qua nhiều công đoạn, phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt. Quá trình hình thành đất nước cũng đau đớn như chuyện nhân loại hoài thai, sinh nở.
Từ những lời phân tích trên đây, có thể thấy Nguyễn Khoa Điềm đã khai thác một cách triệt để vốn văn hoá dân gian. Hàng loạt câu tục ngữ, ca dao, truyền thuyết, cổ tích, phong tục, tập quán đã được tái tạo, sáng tạo lại. Không chỉ hay ở phương diện câu chữ, cấu trúc và lời kết đoạn đã gây được ấn tượng. “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”, đất nước bắt đầu, đất nước lớn lên… chặng đường nào cũng song hành với cuộc sống nhân dân. Tác giả nêu nhiều chứng cứ để làm sáng tỏ kết luận: “Đất Nước có từ ngày đó…” – từ “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Trong suốt quá trình ấy, đất nước gắn bó với mọi gia đình và từng cá nhân. Đó là cơ sở vững chắc để tác giả tiếp tục triển khai tư tưởng Đất Nước này là đất Nước Nhân dân ở 3 khổ thơ sau.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 17
Cảm hứng về đất nước, về tầm vóc đáng tự hào của nó là một cảm hứng vốn quen thuộc cùa thơ ca hiện đại giai đoạn từ 1945 đến 1975. Bất cứ ai cũng nhận ra rằng từ sau Cách mạng tháng Tám, dân tộc, tổ quốc đã thực sự lớn mạnh của Thánh Gióng. Đó chính là hiện thực, là tiền đề thẩm mĩ cất cánh cho những dòng cảm xúc đáng trân trọng về vóc dáng của con người Việt Nam, đất nước Việt Nam. Là một nhà thơ trẻ, trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước, nặng tình với non sông, người trí thức Nguyễn Khoa Điềm cũng góp riêng một tiếng nói của mình để khẳng định sự lớn dậy ấy. Với 9 câu thơ mở đầu bài thơ "Đất nước" trích trường ca "Mặt đường khát vọng", Nguyễn Khoa Điềm đã có những cảm nhận mới mẻ về đất nước.
Điểm rất mới của Nguyễn Khoa Điềm là đề cập đến một đề tài rất khái quát, nếu không muốn nói là trừu tượng, đề tài đất nước, nhưng những hình ảnh thơ, chất liệu cụ để dựng nên tầm vóc đó lại rất cụ thể, gần gũi. Để nói lên sự hiện hữu cùa đất nước này ở chiều sâu của thời gian, chiều rộng của không gian, trong đoạn mở đầu, ông đã tập trung sử dụng rất nhiều hình ảnh hết sức cụ thể, gần gũi đầy thân thương nhưng lại có sức liên tưởng mãnh liệt và tính khái quát cao. Đặc biệt, ông nối kết để tạo nên mạch thơ nói về sự hiện hữu của đất nước bằng điệp từ có. Điệp từ này đã nối kết những hình ảnh tưởng chẳng liên quan gì với nhau thành một khối không thể tách rời, khẳng định sự hiện hữu vừa có tính truyền thống vừa đầy ân tình sâu nặng của đất nước như một nét riêng không thể hòa lẫn. Ta hãy nghe nhà thơ bộc lộ suy nghĩ của mình.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó...
Đọc đoạn thơ, ta không thế không chú ý đến những hình ảnh thơ đầy sức tưởng tưởng của tác giả về sự hiện hữu của đất nước. Mỗi hình ảnh lại gợi một sự hiện hữu nhằm khẳng định nét riêng không trộn lẫn của đất nước này. "Ngày xửa ngày xưa" một ngôn ngữ mở đầu cho những câu chuyện cổ tích; hình ảnh người bà - nhà thơ muốn nói rằng đất nước này đã tồn tại từ lâu đời, tồn tại từ thuở "Mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long", cái thuở Nam quốc sơn hà. Từ đó, đất nước lớn lên với những phong tục, cốt cách của một dân tộc đậm tình, đậm nghĩa nhưng cũng sẵn sàng xả thân khi Tổ quốc lâm nguy. Thân thương gần gũi biết bao khi đất nước hiện hữu vừa thật nhỏ nhoi, lại vừa thật tình cảm nơi miếng trầu bây giờ bà ăn. Ở đây, sức liên tưởng thật sáng tạo, đầy ắp những nét đẹp về phong tục, tập quán, bản sắc quê hương:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Ở đó, có những bàn tay, những trái tim, những con người cần cù chịu thương chịu khó, lam lũ cần cù, một nắng hai sương. Đặc biệt ở đó, có sự tồn tụ hiện hữu có khi phải được đánh đổi bằng máu xương, mồ hôi, nước mắt của cả một dân tộc luôn cần phải rũ bùn đứng dậy tự khẳng định mình.
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất nước có từ ngày đó...
Cũng trong đoạn thơ này, ngoài hình ảnh là việc sử dụng những từ xưng hô tạo một quan hệ tình cảm đầy máu thịt của cộng đồng người Việt. Dường như với cách gọi này, tất cả như quây quần, hội tụ, đoàn kết, châu tuần chung một dòng máu, một huyết thống Rồng - Tiên. Đó là từ mẹ, từ cha, từ bà, dân mình quá đỗi ngọt ngào trong những cách xưng hô đằm thắm, mang dẩy bản sắc Việt Nam ấy. Chúng tạo nên một phong vị, một sức gợi đầy thẩm mĩ về Đất Nước, con người Việt Nam, thân ái, thủy chung, giàu truyền thống, giàu tình nghĩa, đạo lí làm người. Ở đoạn hai, tác giả lại ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về những điều đã tạo nên đất nước, hướng người đọc đến những định nghĩa rất riêng rất chung về đất nước.
Có thể khẳng định rằng, sức mạnh của đoạn thơ là do có rất nhiều hình ảnh, phong phú, đa dạng. Tất cả lại được diễn tả với một giọng thơ hết sức tự nhiên, không ồn ào của hình thức thơ - văn xuôi, thơ tự do khiến cho hiệu quả thẩm mĩ càng lớn. Điều đáng nói là từ những hình ảnh đó, với sức suy tưởng lo lắng của một trí thức trẻ khả năng gợi mở, vang ngân, liên tưởng của thơ càng lớn. Nó đủ sức để khái quát một cách đầy đủ tầm vóc, thế đứng, dáng đứng của một Đất Nước trong chiều hướng ấy thật trầm lắng, đáng tự hào về chiều sâu lịch sứ, chiều dài và chiều sâu của thời đại. Đó là một khối thống nhất của quá khứ, hiện tại, tương lai. Một vẻ đẹp nói như Tố Hữu:
Ta đứng dây mắt nhìn bốn hướng
Trông lại nghìn xưa trông tới mai sau
Trông Bắc trông Nam trông cả địa cầu.
Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung. Lịch sử Đất Nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, linh thiêng biết mấy. Đoạn trích Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng xứng đáng là một khúc ca sử thi, hoành tráng đầy chất thơ về quê hương, đất nước và con người Việt Nam.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 18
Đất nước, đã từ lâu, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Được khơi nguồn từ đề tài quen thuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có cho mình một lối đi riêng. Đoạn trích “Đất Nước” là sự kết tinh của những sáng tạo dộc đáo, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Với 9 câu thơ mở đầu, nhà thơ đã đưa người đọc trở về với lịch sử của dân tộc để trả lời cho câu hỏi đất nước có từ bao giờ:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Muốn hiểu về Đất Nước nhưng “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”: lời thơ khẳng định đất nước ra đời từ rất lâu như ta thường bảo 4000 năm lịch sử. Câu thơ cũng khẳng định sự trường tồn của đất nước sau bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu lần đánh giặc ngoại xâm, chống lại nội thù để bảo vệ đất nước. Nhưng câu thơ cũng nói lên nỗi lòng băn khoăn của nhà thơ vì làm sao hiểu được đất nước khi đất nước đã có từ lâu, đã cách ta quá xa, đã ” có từ ngày xửa ngày xưa…”: một cụm từ vô cùng quen thuộc, thân thương vì ai trong chúng ta không từng được đắm mình trong những câu chuyện cổ tích thần tiên” mẹ thường hay kể”. Những câu chuyện kể, những lời ru của mẹ đưa con về với đất nước yêu dấu.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”, câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm khiến con nhớ đến câu chuyện cảm động “Sự tích trầu cau” mẹ kể con nghe về tình nghĩa gia đình thắm thiết, ven tròn, hoà quyện nhau như màu đỏ huyết thống thiêng liêng. Đấy chính là nền tảng để xây dựng gia đình, để khởi đầu đất nước hay đây cũng chính là bài học đầu tiên về đất nước. Miếng trầu bình thường bà vẫn ăn hàng ngày sao bỗng dưng trở thành thiêng liêng, thấp thoáng đâu đó dáng hình đất nước qua tập tục ăn trầu thân quen.
Hình ảnh cây tre trong câu thơ” Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” con đã từng gặp trong “Sự tích Thánh Gióng” khi cậu bé chỉ mới 3 tuổi đã vươn vai thành người chiến sĩ nhổ tre, đánh giặc thù, bảo vệ bờ cõi. Cây tre hiền hoà hằng ngày ta vẫn thấy trong xóm làng cho ta những vật dụng và bóng mát, thế nhưng cây tre đã từng là vũ khí theo suốt con đường cha ông ta đánh giặc để giữ cho con cháu hôm nay đất nước này. Truyền thống đấu tranh bất khuất của người xưa dẫu ko có vũ khí tương xứng nhưng đã để lại cho con cháu một bài học: muốn đất nước lớn lên vững vàng thì dân mình phải biết trồng tre để chuẩn bị thành vũ khí đánh giặc. Bài học lịch sử quý giá này cháu con luôn ghi nhớ và đang vận dụng trong những ngày đánh Mỹ ác liệt để bảo vệ đất nước với “gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” (Thép mới)
Mỗi một đất nước đều có riêng những phong tục tập quán và dân tộc ta cũng thế. Hình ảnh” tóc mẹ thì bới sau đầu” đã nói lên một nét đẹp của phong tục Việt Nam ta từ xưa còn lưu lại đến bây giờ dù đất nước đã phải trải qua bao năm bị ngoại bang đô hộ và đồng hoá nhưng dân tộc này vẫn giữ được tập quán riêng của đất nước mình.
Có được lớn lên từ mái ấm gia đình, từ tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ ta mới thấy câu ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau” là lời nhắn nhủ, dặn dò quý giá biết bao. Với Nguyễn Khoa Điềm “cha mẹ thương nhau bằng gừng ay muối mặn” để con được hưởng hạnh phúc đầy đủ, cho con hiểu thêm một nét đẹp đạo lí dân tộc là tình nghĩa luôn thuỷ chung, son sắc.
Từ cái nhà con ở khi “cái kèo, cái cột thành tên” đến hạt gạo con ăn”phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàn” ta hiểu được bao thế hệ mẹc ha đã lao động vất vả, chắt chiu, dành dụm để tạo dựng cuộc sống cho những đứa con nên người và góp phần dựng xây đất nước. Tất cả chính là đất nước. Thế thì đất nước ko phải đâu xa lạ, vô hình mà là những vật dụng, những hình ảnh hàng ngày ta vẫn thấy quanh đây rất đỗi thân quen đã từng gắn bó với ta từ thời thơ bé khi bên ta có bà, có mẹ , có cha. Nhưng chính những câu chuyện cổ tích mẹ kể con nghe, chính những lời ru ca dao đã đưa con vào thế giới sâu nặng nghĩa tình của đất nước thiêng liêng với bao truyền thống, tập quán tốt đẹp.
Từ những hình ảnh thân quen nhưng ẩn chứa chiều sâu kiến thức văn học dân gian cùng với giọng thơ ngọt ngào đoạn thơ như lời kể chuyện tâm tình, Nguyễn Khoa Điềm đã bình dị hoá đất nước, đất nước hoá thân vào cổ tích, ca dao, vào cuộc sống hàng ngày. Tác giả đã có một cách cảm nhận mới vừa quen vừa lạ, vùa cụ thể vừa trừu tượng, vừa gần gũi vừa rất đỗi thiêng liêng…tạo nên sự xúc động sâu sắc. Điều đó nói lên thành công của tác phẩm cũng như những đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm đối vơi nền Văn học Việt Nam.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 19
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Ông từng là Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin nay đã nghỉ hưu. Các tác phẩm tiêu biểu: Đất ngoại ô, Trường ca Mặt đường khát vọng. Đất nước là bài thơ được trích từ chương V trường ca “Mặt đường khát vọng” được hoàn thành ở chiến trường Bình Trị Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam xuống đường tranh đấu hòa hợp với cuộc kháng chiến của dân tộc. Đặc biệt thể hiện qua 9 câu thơ đầu bài.
Khác với các nhà thơ cùng thế hệ – thường tạo một khoảng cách khá xa để chiêm ngưỡng và ngợi ca đất nước, với các từ ngữ, hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, có tính chất biểu tượng. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt.
Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình chúng ta, từ lời kể chuyện của người mẹ, miếng trầu của bà, các phong tục tập quán quen thuộc (tóc mẹ thì bới sau đầu) cho đến tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo ta ăn hàng ngày, cái kèo cái cột trong nhà… Tất cả những điều đó làm cho Đất nước trở thành cái gần gũi, thân thiết, bình dị trong cuộc sống hàng ngày của con người.
Câu thơ mở đầu được nhà thơ viết theo thể câu khẳng định: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”.
Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm thì “Đất nước là một giá trị lâu bền, vĩnh hằng, đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ đời này sang đời khác. Cho nên “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!” (Nguyễn Khoa Điềm – Tác giả và Tác phẩm). Cách nói “Đất Nước đã có rồi” đã thể hiện niềm tự hào mãnh liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Đất Nước cũng như Trời và Đất, khi ta sinh ra Đất đã ở dưới chân, Trời đã ở trên đầu. Cũng như vậy, không biết Đất Nước có tự bao giờ nhưng khi ta lớn lên ta đã thấy Đất Nước của mình rồi, nó hiện diện quanh ta với những gì yêu thương nhất.
Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả vẻ đẹp của Đất Nước trong chiều sâu văn hóa, phong tục. Những từ ngữ như Đất Nước “có trong”, Đất Nước “bắt đầu” là những từ ngữ diễn tả rất nhẹ nhàng về sự ra đời của Đất Nước:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để diễn tả về Đất Nước. Đối với trẻ thơ, Đất Nước thân thương qua lời kể “Ngày xửa ngày xưa” của bà của mẹ… Có nghĩa là Đất Nước đã có từ lâu đời. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mỹ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
Không chỉ “có trong những cái ngày xửa ngày xưa”, Nguyễn Khoa Điềm còn xác định cái buổi ban đầu ấy qua một nét sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ, người bà Việt Nam. Đó là phong tục ăn trầu: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”. Đất Nước lớn lao, kì vĩ sao lại chứa đựng trong một miếng trầu bé nhỏ? Hình thức câu thơ chứa đựng sự phi lí nhưng lại hoàn toàn hợp lí bởi tất cả những điều lớn lao đều bắt nguồn từ những điều bé nhỏ. Ví không có những dòng suối nhỏ sao trở thành dòng sông, ví như không có những dòng sông sao có thể trở thành biển cả. Cho nên nhắc đến “miếng trầu” chắc hẳn là nhắc đến một điều sâu thẳm. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu chuyện này mà nên. Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời. Hoàng Cầm trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” cũng đã từng nhắc đến nét đặc trưng ấy:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Một Đất Nước không thể thiếu truyền thống mà một trong những truyền thống quý báu của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước qua ý thơ “Đất Nước lớn lên…”. Chữ “lớn lên” là để chỉ sự trưởng thành của Đất Nước. Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, mới lên ba đã biết xông pha trận mạc. Đứa bé ấy đã vươn vai trở thành chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc. Từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tố Hữu cũng đã có thơ:
Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi
(Tố Hữu)
Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi…
Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc “Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ”, bởi:
“Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”.
Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác thêm nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam, không ai khác là những người mẹ với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gợi nhớ ca dao:
Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời. Quy luật của tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn. Quy luật trong tình cảm con người là con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu… đi vào năm tháng. Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột thành tên”.
Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con cái Kèo, cái Cột cũng ra đời.
Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. Câu thơ gợi nhắc bài ca dao:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Để làm ra hạt gạo ta ăn hàng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân bao đời nay.
Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: Đất Nước có từ ngày đó. “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí.
Tóm lại, bằng cảm nhận rất đỗi thân thương, gần gũi. Nguyễn Khoa Điềm đã mang đến cho chúng ta một hình ảnh Đất Nước bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp. Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 20
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của trẻ thơ những năm chống Mĩ cứu nước. Những vần thơ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm bình dị, mộc mạc, lắng đọng cảm xúc, du dương như những lời ru êm đềm. Bài thơ Đất Nước là bài thơ nổi bật cho phong cách nghệ thuật độc đáo ấy. Đất Nước là phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng” – tác phẩm được ra đời vào năm 1971, giữa lúc của kháng chiến chống Mĩ diễn ra vô cùng khốc liệt.
Khúc dạo đầu của Đất Nước hấp dẫn người đọc bởi sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận vã trữ tình, giữa suy tư sâu lắng và cảm xúc nồng nàn. Đoạn thơ xoay quanh hai câu hỏi “Đất Nước có từ bao giiờ?” và “Đất Nước như thế nào”. Nguyễn Khoa Điềm đã trả lời câu hỏi đó bằng những hình ảnh vừa có tính hình tượng cao, vừa dạt dào cảm xúc.
Thể thơ tự do, nhịp thơ biến hóa kết hợp với biện pháp tu từ như liệt kê, điệp từ, điệp ngữ khiến giọng thơ biến hóa. Khi là lời thủ thỉ tâm tình của lứa đôi, khi như lời tự nhủ với chính mình trầm lắng chất suy tư.
Việc vận dụng sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian: Đoạn thơ thấm đượm chất liệu văn hóa dân gian và hương sắc của văn hóa dân gian. Hiếm có trong tác phẩm nào, chất liệu dân gian lại đậm đặc, đa dạng như khúc thơ này. Có đến 7/9 câu thơ sử dụng chất liệu văn hóa độc đáo này. Nào là truyền thuyết, cao dao, tục ngữ; nào là thành ngữ, tục ngữ, rồi đến các phong tục tập quán, truyền thống, lối sống của người dân bao đời.
Cách sử dụng chất liệu văn hóa dân gian lại vô cùng biến hóa, sáng tạo. Có khi trích dẫn nguyên văn ( “ngày xửa ngày xưa”). Còn phần nhiều, Nguyễn Khoa Điềm chỉ lấy ý nảy từ rồi để người đọc tự liên tưởng, tưởng tượng về một miền văn hóa truyền thống mênh mang, thăm thẳm
Ví như, chỉ với hình ảnh “miếng trầu bà ăn bây giờ” đã gơi dậy trong tâm trí người Việt biết bao điều. Đó là tục bà ăn trầu từ ngàn xưa gắn với sự tích trầu cau, là những thành ngữ, tục ngữ, cao dao, dân ca thấp thoáng hình ảnh quả cau, lá trầu. Nhờ cách vận dụng sáng tạo ấy mà vẻ đẹp lung linh của văn học dân gian thấm sâu vào từng câu, từng chữ tạo nên hình tượng thơ vừa bình dị, mộc mạc, gần gũi; vừa thiêng liêng, bay bổng, lãng mạn, vừa mới mẻ, lạ lẫm.
Phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất nước - mẫu 21
Trong bản hợp xướng của thơ ca chống Mỹ, nổi lên những âm vang trầm hùng, sâu lắng thiết tha về đất nước. Đất nước hiện lên qua màu xanh “Tre Việt Nam” của Nguyễn Duy, trong dòng người cuồn cuộn trên trên “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh, “Những người đi tới biển” của Thanh Thảo. Đất nước đó cũng rung lên mạnh mẽ khi tuổi trẻ không yên những tà áo trắng đã xuống đường trong “Mặt đường khát vọng” (1974) của Nguyễn Khoa Điềm. Trong bản trường ca chín chương sôi sục nhiệt huyết của tuổi trẻ trước vận mệnh của dân tộc, ông đã dành
hẳn một chương V để nói về Đất Nước. Đoạn trích “Đất Nước” là sự kết tinh những sáng tạo độc đáo, mới mẻ của nhà thơ. Và với 9 câu thơ mở đầu, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa người đọc đi dọc dòng thời gian lịch sử dân tộc để trả lời cho câu hỏi “Đất Nước có tự bao giờ?”:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sang
Đất Nước có từ ngày đó…
Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ với phong cách thơ trữ tình chính luận giàu chất suy tư, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiên đấu của nhân dân. Một trong những kiệt tác của ông phải kể đến đoạn trích “Đất Nước” thuộc chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”, sáng tác năm ở chiến khu Trị - Thiên trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiên chống Mĩ cứu nước. “Đất Nước” là cái nhìn độc đáo, mang tính phát hiện của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về khái niệm “đất nước”, được thể hiện qua phương diện: phong tục tập
quán, lối sống, truyền thống yêu nước, truyền thống đánh giặc. 9 câu thơ đầu của thi phẩm là tấm vé thời gian, đưa ta về những tháng ngày xưa cũ, cùng tìm lại cội nguồn dân tộc qua đời sống bình thường, bình dị của nhân dân.
Mở đầu đoạn thơ là lời tâm sự chân thành, bày tỏ những cảm xúc trong sáng và bình dị:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”
Để trả lời cho câu hỏi “Đất Nước có tự bao giờ”, Nguyễn Khoa Điềm không trích dẫn sách trời như Lý Thường Kiệt trong bài thơ “Thần”, cũng không đưa ra sự hiện hữu của các triều đại phong kiến Việt Nam như Nguyễn Trãi trong “Bình Ngô đại cáo”. Đất Nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là ở những gì rất gần gũi, thân thiết ở trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất Nước bắt nguồn từ lời hát mẹ ru, từ những câu chuyện cổ tích Việt Nam “ngày xửa ngày xưa” mà mẹ thường hay kể. Đó chính là nhịp điệu ngàn đời của thần thoại, cổ tích và nó đã tồn tại trong tâm trí mỗi người, không gian riêng của những phép màu thần thoại với đôi hài bảy dặm, với Thánh Gióng vươn vai thành tráng sĩ, với cô Tấm thảo hiền từ quả thị bước ra,… Những bài học đạo lý làm người, ước mơ khát vọng của nhân dân từ
bao đời nay được gửi gắm vào những câu chuyện cổ tích làm Đất Nước quá đỗi gần gũi thiêng liêng bởi nó gắn liền với mỗi con người từ thuở ấu thơ. Khi ta lớn lên, ta trưởng thành thì Đất Nước đã sừng sững ở đó từ bao giờ, “Đất Nước đã có rồi”. Cách cảm nhận như vậy gợi cảm giác sự hiện hữu của Đất Nước như là một lẽ tự nhiên. Nhà thơ đã phát hiện ra khuôn mặt của Đất Nước trong phong tục, tập quán, lối sống, truyền thống lao động và truyền thống đánh giặc của nhân dân. Nói về lịch sử mấy ngàn năm của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm sử dụng lối kể đậm đà của nhân gian:
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”
Với người Việt Nam, ăn trầu là một mĩ tục. Miếng trầu có ý nghĩa rất lớn trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Việt cổ. Có miếng trầu giao duyên trong các đám cưới hỏi, có miếng trầu nặng nghĩa nặng tình trong lễ tang của người đã khuất, lại có miếng trầu của sự hiếu kính đặt trên bàn thờ tổ tiên trong mỗi dịp cũng giỗ, lễ tết. Bởi thế miếng trầu đã đi vào văn học dân gian, xuất hiện trong ca dao, cổ tích. Miếng trầu têm cánh phượng trong truyện cổ tích “Tấm Cám” nhắc ta về tình vợ chồng chung thủy, còn ở sự tích “Trầu Cau” lại là miếng trầu của tình
anh em thấm đượm,…Không ai nghĩ rằng miếng trầu bé nhỏ lại mang trong mình kết tinh của cả một nền văn hóa lễ nghi lâu đời đến thế. Lời thơ hàm súc của Nguyễn Khoa Điềm gợi lên những nét riêng trong đời sống sinh hoạt, trong phong tục tập quán và bản sắc tâm hồn người dân Việt Nam.
Ở câu thơ thứ tư, nhà thơ đã diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước khi chinh qua bao trận chiến đấu hào hùng để đánh đuổi giặc ngoại xâm của dân tộc:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Suốt chiều dài lịch sử bốn ngàn năm, chúng ta luôn phải chiến đấu với những kẻ xâm lược hung bạo. Trong những cuộc trường chinh không ngừng nghỉ ấy, tre đã làm nên bao kì tích. Từ truyện cổ tích “Thánh Gióng” chàng trai làng Gióng đã nhổ tre đánh tan giặc Ân đến những cuộc kháng chiến vệ quốc anh hùng thì cây tre, đòn tre, mũi tên tre,…đã tham dự và lập nên bao chiến công. Giống như nhà văn Thép Mới đã từng viết: “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín”, lời thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng vừa làm sống dậy hình ảnh cây tre trong suốt lịch sử dân tộc ta, vừa khẳng định Đất Nước ở phương diện: Đất Nước có trong truyền thống đánh giặc ngàn đời nay.
Không chỉ thế, gương mặt của Đất Nước còn ẩn hiện trong vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam với nghĩa tình chung thủy:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
HÌnh ảnh muối gừng trong ca dao dân ca có rất nhiều:
“Tay nâng chén dĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay:
“Muối đã mặn ba năm vẫn còn mặn
Gừng đã cay chín tháng còn cay.”
Nhưng khi vào thơ Nguyễn Khoa Điềm, nó đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn bền vững của cha mẹ, ông bà, tổ tiên, mở rộng ra là vẻ đẹp tâm hồn dân tộc. Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian, tác giả đã khái quát được diện mạo tinh thần của nhân dân với lối sống trọng nghĩa trọng tình, từ đó góp phần thể hiện tư tưởng Đất Nước là của nhân dân.
Đất Nước còn ẩn hiện trong tục đặt tên con và cách bới tóc sau đầu của mẹ:
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cái kèo, cái cột thành tên”
“Tóc mẹ thì bới sau đầu” hình ảnh người phụ nữ Việt với mái tóc bới sau đầu, hình ảnh thật gần gũi, thân quen in sâu trong nếp nghĩ, gợi suy ngẫm về con người trong cuộc sống lam lũ vất vả nhưng vẫn duyên dáng, đẹp dịu hiền, đảm đang. Thân thương, mộc mạc biết chừng nào là búi tóc sau đầu của mẹ, là những nếp nhà dựng lên từ cái kèo, cái cột, mái lá, tường rơm, vách đất; là cách đặt tên con giản dị nôm na. Vậy mới nói, người Việt Cổ có cách đặt tên con thật độc đáo, không mĩ miều mà “cái kèo, cái cột thành tên.” Mộc mạc, thân thương vật như đó cũng là một phần của Đất nước.
Đất Nước còn ẩn hiện trong truyền thống lao động cần cù của nhân dân, truyền thống ấy đã được gợi nhắc qua hình ảnh hạt gạo:
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sang”
Nghệ thuật liệt kê “xay, giã, giần, sang” đã làm bật lên quá trình vất vả nhọc nhằn để làm ra hạt gạo dẻo thơm. Đặc biệt thành ngữ “một nắng hai sương” đã tô đậm không chỉ những nhọc nhằn, cơ cực mà còn cho ta cảm nhận được sự tần tảo, chịu thương chịu khó của nhân dân
Việt Nam. Qua hình ảnh hạt gạo, nhà thơ vừa gợi nhắc đến tập quán trồng lúa nước của dân tộc, vừa cho ta cả nhận được truyền thống lao động cần cù của nhân dân ta.
Câu thơ cuối cùng khép lại đoạn thơ với một khẳng định tự hào:
“Đất Nước có từ ngày đó…”
“Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”. Dân ca, ca
dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
Bài giảng: Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) - Cô Vũ Phương Thảo (Giáo viên VietJack)
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 hay, ngắn nhất khác:
Sách VietJack thi THPT quốc gia 2025 cho học sinh 2k7:
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều