(10+ mẫu) 14 câu đầu Trao duyên (điểm cao)

Tổng hợp các bài văn mẫu phân tích 14 câu đầu Trao duyên điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

(10+ mẫu) 14 câu đầu Trao duyên (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý 14 câu đầu Trao duyên

1. Mở bài:

- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều và đoạn trích đầu Trao duyên.

- Nội dung đoạn thơ đầu: 14 câu đầu bài Trao duyên là lời Thúy Kiều nhờ cậy Vân thay nàng trả nghĩa Kim Trọng.

2. Thân bài:

Nội dung 14 câu thơ đầu Trao duyên:

- Luận điểm 1: Thúy Kiều ngỏ lời nhờ em gái là Thúy Vân kết duyên cùng Kim Trọng (2 câu đầu)

- Luận điểm 2: Lý lẽ thuyết phục Thúy Vân lời trao duyên của Kiều (10 câu tiếp theo)

- Luận điểm 3: Thúy Kiều trao tín vật lại cho Vân (2 câu tiếp theo)

3. Kết bài: Khái quát nội dung, nghệ thuật của 14 câu thơ đầu

14 câu đầu Trao duyên - mẫu 1

Thúy Kiều, người con gái đẹp đến mức hoa ghen, liễu hờn, là biểu tượng cho vẻ đẹp hoàn mỹ nhưng lại mang trong mình một số phận oan trái. Ở đoạn trích Trao duyên, trước khi phải trở thành món hàng trong tay bọn buôn người, Kiều nhớ về mối tình đầu với chàng Kim Trọng và quyết định trao duyên cho em gái là Thúy Vân. Mười bốn câu thơ mở đầu đã diễn tả một cách tinh tế sự giằng xé nội tâm của Kiều khi quyết định trao duyên cho em.

Quảng cáo

Từ “duyên” trong quan niệm dân gian là thứ trời định, là mối liên kết thiêng liêng giữa những người yêu nhau. Thế nhưng, trong hoàn cảnh của Kiều, duyên không còn là một món quà từ trời mà trở thành một gánh nặng, một sợi dây ràng buộc khiến nàng phải trao lại cho em mình. Hành động này không chỉ đi ngược lại với quy luật tự nhiên mà còn đẩy Kiều vào tình thế mâu thuẫn giữa lý trí và cảm xúc, giữa bổn phận và tình yêu. Kiều tự hỏi liệu có thể trao duyên được không khi duyên là sự đồng cảm, sự hòa hợp giữa hai tâm hồn? Thúy Vân và chàng Kim có yêu nhau đâu mà có thể gọi là duyên được?

Trong những câu thơ đầu, Kiều nhắc đến việc “cậy em” - một từ ngữ thể hiện sự nhờ cậy nhưng đầy đau đớn và xót xa. Thúy Kiều, người chị cả đáng lẽ phải là chỗ dựa cho em mình, giờ lại phải quỳ lạy và cầu xin Thúy Vân chấp nhận thay mình đền đáp mối tình dang dở với Kim Trọng. Đây là một hình ảnh đầy bi kịch, cho thấy Kiều đã phải chịu đựng sự dằn vặt nội tâm đến mức nào để đưa ra quyết định này. Những từ như “lạy”, “thưa”, “cậy” đều được Nguyễn Du sử dụng khéo léo để nhấn mạnh sự nghiêm trọng của tình thế và lòng biết ơn, kính trọng của Kiều đối với em gái mình.

Quảng cáo

Sự tơ vương sầu muộn của Kiều được bộc lộ rõ ràng qua những câu thơ tiếp theo, khi nàng kể về mối tình đã qua với chàng Kim. Tình yêu giữa Kiều và Kim Trọng là một mối tình sâu đậm, được xây dựng trên nền tảng của sự thấu hiểu và tình cảm chân thành. Những kỷ niệm đẹp giữa họ được gói gọn trong những câu thơ như “khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề”, gợi lên một tình yêu tràn đầy hy vọng và ước mơ. Nhưng tất cả đã tan biến trước cơn bão tố của số phận. “Sự đâu sóng gió bất kỳ” - một câu thơ ngắn gọn nhưng đầy ý nghĩa, cho thấy sự vô thường và bất ngờ của cuộc đời, nơi mà Kiều không thể giữ trọn chữ tình và chữ hiếu cùng một lúc.

Kiều nhận ra rằng, trong hoàn cảnh của mình, không thể “hai bề vẹn hai”, không thể vừa giữ trọn tình yêu với Kim Trọng, vừa báo hiếu cha mẹ. Sự đứt gánh giữa đường của mối tình với chàng Kim là điều khiến Kiều đau đớn nhất, nhưng nàng không còn lựa chọn nào khác ngoài việc trao duyên cho em gái, người mà nàng tin tưởng sẽ thay mình hoàn thành trách nhiệm này. Những câu thơ cuối cùng trong đoạn trích, với hình ảnh “chiếc vành” và “bức tờ mây”, là biểu tượng cho kỷ vật tình yêu của Kiều và Kim Trọng. Những kỷ vật này không chỉ là vật chất mà còn là dấu ấn của một mối tình đẹp đẽ nhưng không trọn vẹn, một mối tình mà Kiều không thể giữ lại cho riêng mình.

Quảng cáo

Việc trao duyên không chỉ là hành động trao đi một mối tình mà còn là sự hi sinh lớn lao của Thúy Kiều. Nàng biết rằng từ giây phút này, tình yêu mà nàng hằng ấp ủ sẽ không còn thuộc về mình nữa, và điều này khiến trái tim nàng đau đớn đến tột cùng. Những dòng thơ cuối là tiếng thở dài chua xót của Kiều khi phải chia tay với mối tình đầu, khi phải chấp nhận số phận nghiệt ngã mà xã hội phong kiến đã định đoạt cho nàng.

Có thể nói, Nguyễn Du đã thành công trong việc khắc họa hình ảnh Thúy Kiều qua đoạn trích này, không chỉ là một cô gái tài sắc vẹn toàn mà còn là một người phụ nữ với tâm hồn cao cả, sẵn sàng hi sinh vì gia đình. Nhưng đồng thời, sự giằng xé nội tâm của Kiều cũng phản ánh sự bất lực của nàng trước sức mạnh tàn bạo của xã hội, nơi mà con người bị ép buộc phải từ bỏ những điều quý giá nhất trong cuộc đời.

Đoạn trích “Trao duyên” là một tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao, nơi Nguyễn Du không chỉ thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ mà còn là tấm lòng đồng cảm sâu sắc của ông với số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua những dòng thơ này, người đọc không chỉ cảm nhận được nỗi đau của Thúy Kiều mà còn thấy được sự bi kịch của cả một thời đại, nơi mà tình yêu và hạnh phúc của con người bị chà đạp bởi những định kiến và bất công.

14 câu đầu Trao duyên - mẫu 2

“Truyện Kiều” không chỉ là một kiệt tác vĩ đại trong nền văn học Việt Nam, mà còn là một tuyệt phẩm của nhân loại. Tác phẩm này đã vượt ra ngoài biên giới thời gian và không gian, để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả qua nhiều thế hệ. Trong đó, đoạn trích “Trao duyên” là một trong những phần nổi bật nhất, không chỉ bởi những giá trị nghệ thuật cao cả mà còn bởi cái nhìn hiện thực và nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du đối với con người, đặc biệt là thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Qua nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện một nỗi đau bi thảm, một sự giằng xé giữa tình yêu và trách nhiệm, giữa nghĩa vụ và số phận. “Trao duyên” không chỉ là lời tâm sự đầy xót xa của Thúy Kiều mà còn là tiếng khóc bi thương, là tiếng gọi vô vọng của một người con gái trước định mệnh éo le “tình chị duyên em”.

Sau đêm thề nguyền với Thúy Kiều, Kim Trọng phải về hộ tang chú ở Liêu Dương. Trong thời gian này, gia đình Thúy Kiều bị kẻ xấu vu oan, khiến Vương Ông và Vương Quan bị hành hạ, gia sản tiêu tan. Đứng trước cảnh gia biến, Kiều không còn cách nào khác ngoài việc bán mình để cứu cha và em. Đêm trước ngày phải theo Mã Giám Sinh, nàng quyết định nhờ cậy Thúy Vân thay mình nối tiếp mối duyên dang dở với Kim Trọng. Mở đầu đoạn trích là hình ảnh Kiều mở lời, nhờ cậy Thúy Vân tiếp nối mối duyên dang dở với chàng Kim:

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Từ ngữ mà Nguyễn Du sử dụng ở đây đạt đến đỉnh cao của sự tinh tế. Từ “cậy” với âm điệu nặng nề, gợi lên sự quằn quại, đau đớn của Thúy Kiều khi phải nhờ cậy em gái thay mình gánh vác một trách nhiệm lớn lao. “Cậy” khác hẳn với “nhờ” bởi nó mang hàm ý sâu sắc hơn, như thể hiện sự tin tưởng tuyệt đối, một sự gửi gắm chân thành từ đáy lòng. Từ “chịu” trong câu thơ tiếp theo không chỉ đơn thuần là chấp nhận mà còn hàm chứa sự nài ép, một sự bắt buộc mà Thúy Vân khó có thể từ chối.

Hình ảnh Thúy Kiều “lạy” và “thưa” em mình thể hiện sự kính trọng, trang trọng, và sự cảm kích sâu sắc. Ở đây, Kiều dù là chị nhưng lại đặt mình vào thế yếu, phải cầu xin em gái vì biết rằng mình đang nhờ vả một việc quá lớn, một việc có thể ảnh hưởng đến cả cuộc đời Thúy Vân.

Những câu thơ tiếp theo của “Trao duyên” là lời bộc bạch đầy tâm trạng của Thúy Kiều:

“Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non”

Tình yêu vừa chớm nở giữa Kiều và Kim Trọng bỗng chốc bị cắt đứt bởi “sóng gió bất kỳ” ập đến gia đình nàng. Trong hoàn cảnh éo le đó, Kiều buộc phải lựa chọn giữa hiếu và tình. Kiều không thể từ bỏ trách nhiệm của một người con hiếu thảo, nên đành bán mình để cứu cha và gia đình. Trong lời nhắn nhủ, Kiều như đang van xin em gái hiểu và thông cảm cho hoàn cảnh của mình, đồng thời trông mong Thúy Vân sẽ thay mình trả nghĩa cho chàng Kim.

Những kỉ niệm ngọt ngào giữa Kiều và Kim Trọng, từ “quạt ước” đến “chén thề,” giờ đây chỉ còn là quá khứ đau lòng. Kiều biết rõ Thúy Vân sẽ phải đối mặt với sự thiệt thòi lớn lao khi chấp nhận nối tiếp mối duyên này, nhưng nàng không còn lựa chọn nào khác. Niềm hi vọng duy nhất của Kiều lúc này là tình cảm ruột thịt sẽ giúp Thúy Vân đồng ý, dù biết rằng bản thân đang đẩy em gái vào một tình thế khó xử.

Trong tâm trạng hoang mang và lo lắng, Thúy Kiều như đã nhận ra sự tàn khốc của số phận, khi nàng tự ý thức về cái chết đang đến gần:

“Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Từ bỏ tình duyên với Kim Trọng, Kiều không chỉ từ bỏ hạnh phúc mà còn từ bỏ cả cuộc sống của chính mình. Câu thơ trên thể hiện nỗi lòng đau đớn của Kiều, khi nàng nghĩ đến việc mình sẽ phải chết trong đau khổ và tiếc nuối. Thúy Kiều trao kỉ vật tình yêu cho Thúy Vân, như một lời nhắn nhủ cuối cùng, một sự dặn dò từ sâu thẳm trái tim:

“Chiếc vành với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ vật này của chung.”

Những kỉ vật tình yêu, từng là chứng nhân cho những lời thề nguyền của đôi lứa, giờ đây trở thành biểu tượng cho sự chia ly, cho một mối duyên không trọn vẹn. Dù đã nhờ Thúy Vân nối tiếp mối duyên với Kim Trọng, nhưng trong lòng Kiều vẫn không khỏi xót xa, lưu luyến. Câu thơ “của chung” chứa đựng biết bao nhiêu nỗi niềm, sự đau đớn khi phải chia sẻ một tình yêu mà nàng đã từng trân quý.

14 câu thơ đầu của đoạn trích “Trao duyên” không chỉ miêu tả tinh tế diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều mà còn khắc họa một cách sâu sắc nỗi đau của nàng. Thúy Kiều hiện lên vừa là một người con hiếu thảo, vừa là một người tình thủy chung, nhưng cũng là một nạn nhân của số phận bạc bẽo. Sự kết hợp giữa ngôn ngữ tự sự và trữ tình, cùng với ngôn ngữ độc thoại nội tâm sống động, đã giúp Nguyễn Du tạo nên một bức tranh tâm hồn phong phú và đầy cảm xúc.

Nguyễn Du đã thành công khi vận dụng ngôn ngữ dân gian, kết hợp giữa phong cách bình dân và bác học, tạo nên một ngòi bút tinh tế mà vẫn gần gũi. “Trao duyên” là một phần không thể thiếu trong “Truyện Kiều,” góp phần làm nên giá trị bất hủ của tác phẩm. Qua đoạn trích này, chúng ta càng thêm trân trọng tài năng của Nguyễn Du và hiểu vì sao “Truyện Kiều” được coi là một viên ngọc quý trong nền văn học, một tác phẩm vượt thời gian mà mỗi lần đọc lại là mỗi lần khám phá thêm những tầng ý nghĩa mới.

14 câu đầu Trao duyên - mẫu 3

Một niềm tự hào trong lịch sử văn học Việt Nam chính là đại thi hào Nguyễn Du. Một trong số những tác phẩm để đời, mang tên tuổi của Nguyễn Du lên tầm cao phải kể đến tác phẩm "Truyện Kiều". Được phổ thơ dựa trên cốt truyện của "Kim Vân Kiều truyện", "Truyện Kiều" thông qua câu chuyện cuộc đời thăng trầm của nhân vật chính Thúy Kiều phản ảnh một xã hội mục nát bất công, nhẫn tâm dồn ép con người vào bước đường cùng. Đoạn trích “Trao duyên” là lời Thúy Kiều nói cùng em gái vào đêm trước khi bán mình, lấy tiền cứu cha. Nội dung cuộc nói chuyện là những lời Thúy Kiều gửi cho em mối tình dang dở với Kim Trọng, nhờ em giúp hoàn thành trọn nghĩa tình với người yêu. Lý lẽ thông minh nhưng đầy chua xót được khắc họa rõ nét nhất qua mười bốn câu đầu của đoạn trích:

"Cậy em em có chịu lời,

...

Duyên này thì giữ vật này của chung.”

Nhan đề đoạn trích là Trao duyên nhưng không mang một màu lãng mạn, thơ mộng như bài thơ tình. Phân tích 14 câu đầu đoạn trích Trao duyên ta thấy Thúy Kiều chỉ biết nén đau thương, cho vuông tròn hiếu - tình, đành phải nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng.

Mở đầu đoạn trích Trao duyên là những câu ngỏ lời chân thành, tha thiết của Kiều:

"Cậy em em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa."

Tuy "cậy" và "nhờ" đều có nghĩa là nhờ vả, xin sự giúp đỡ của một ai đó, nhưng Nguyễn Du đã khéo léo chọn từ "cậy" để bộc lộ rõ thái độ của Kiều nhờ với tất cả sự hy vọng và tin tưởng. Cũng như vậy, từ "chịu" được tác giả sử dụng thay vì từ “nhận” dù chúng đồng nghĩa. Bởi vì khác với từ "nhận", từ "chịu" còn thêm một tầng ý bắt buộc, khiến cho người được nhờ vả khó nói lời từ chối.

Trong hoàn cảnh nhờ vả một việc hết sức quan trọng đối với cuộc đời hai chị em thì cách tác giả dùng từ rất chính xác. Thời gian cấp bách cùng sự hệ trọng của chuyện nên Kiều hy vọng Thúy Vân không từ chối, do đó lời van nài cũng có chút ép buộc. Tuy Kiều cũng hiểu việc nhờ Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng có sức ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời của 3 người. Nàng vẫn quyết tâm muốn sống trọn nghĩa cho người yêu. Bỏ qua lẽ thường cùng những cảm xúc cá nhân, nàng "lạy" và "thưa" đối với em mình. Kiều bất chấp dùng chính lễ nghi lạy trước thưa sau, thay bậc đổi ngôi này để ràng buộc Vân.

Sau khi lạy xong, Kiều mới mở lời giãi bày hoàn cảnh với em, nói ra ý định muốn em thay mình kết duyên với Kim Trọng:

"Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em."

Thúy Kiều dùng thành ngữ "đứt gánh tương tư" ám chỉ đoạn tình yêu dang dở với chàng Kim Trọng. Tình cảm của Kiều với Trọng đang say đắm chưa kịp tới hồi viên mãn thì sóng gió đã ập tới gia đình, đành phải dở dang. Người con gái si tình là Kiều đau khổ biết mấy, nhưng vẫn nghĩ cho đại cục hi sinh cứu cha, trao mối duyên lại cho em. Nàng dùng điển tích về "keo loan" để thể hiện ý định muốn Thúy Vân hàn gắn câu chuyện tình dang dở của chị, kết duyên với Kim Trọng. Nàng cũng bày tỏ sự day dứt đối với em, đem mối tình sâu đậm bản thân gìn giữ lâu biến thành một mối "tơ thừa" giao phó cho Thúy Vân, "mặc" cho Thúy Vân định liệu.

Lúc này đây bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu, kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về khiến nàng đau đớn khôn nguôi, không dằn được lòng mình, tâm sự với em:

"Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề."

Từ "khi" được lặp lại ba lần gợi cho người đọc nghĩ đến tình cảm sâu nặng giữa Kiều với chàng Kim, nhớ đến từng khoảnh khắc họ bên nhau, quá trình mà cuộc tình này nảy mầm nở hoa đẹp biết bao. Với nghệ thuật liệt kê "ngày quạt ước", "đêm chén thề" những kỉ niệm đẹp đẽ ấy như sống lại một lần nữa trong lòng Kiều.

Phân tích 14 câu đầu Trao duyên ta thấy những kí ức ấy tưởng chừng vô cùng ngọt ngào, giờ đây khi nhớ đến lại mang một nỗi đau không thể nào nguôi trong lòng nàng. Đặc biệt là khi nghĩ đến nguyên nhân của nỗi đau này:

"Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai."

"Sóng gió bất kì" liên tục ập đến khi Kim Trọng phải về quê chịu tang chú, gia đình Kiều lại bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, chỉ khi Kiều bán thân dùng tiền ấy hối lộ, chuộc cha thì mới mong qua cơn hoạn nạn. Việc đó cũng đồng nghĩa, Kiều phản bội lời thề khi xưa cùng người yêu. Hoàn cảnh trái ngang quá, buộc phải chọn một giữa hai lẽ "hiếu" và "tình". Cuối cùng chữ “hiếu” nặng ngàn cân, vì ơn sinh thành dưỡng dục, Kiều chỉ có thể hy sinh tình yêu của mình. Nàng tỏ nỗi lòng với Vân, dùng nỗi đau của mình để thuyết phục Vân, hy vọng em mình có thể đồng cảm, thấu hiểu cho và chấp nhận lời cậy nhờ của mình.

Dù những lời tỏ bày nỗi lòng cũng đã nói xong nhưng vẫn sợ Vân không đồng ý, Kiều lại dùng những thứ khác để thuyết phục em:

"Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."

Để thuyết phục em, Kiều không ngại dùng đến tình máu mủ, cùng cái chết. Các thành ngữ "tình máu mủ", "lời nước non", "thịt nát xương mòn", "ngậm cười chín suối" được lần lượt dùng đến trong bốn câu thơ trên thể hiện sự quyết tâm của Kiều thuyết phục em cho bằng được. Đối với nàng, việc trả nghĩa cho Kim Trọng như di nguyện cuối đời nhất định phải thực hiện, chỉ cần Vân kết duyên với Kim Trọng, thì cho dù có chết đi thì Kiều cũng thấy an lòng, mãn nguyện. Tình máu mủ và cái chết ấy đã thành công trói buộc khiến cho Vân chẳng thể nào từ chối lời khẩn cầu của nàng.

Thuyết phục cùng tâm sự chuyện tình xưa đã xong, giờ Kiều chỉ còn việc trao lại tín vật định tình thì mối duyên này sẽ thành công trao lại cho em:

“Chiếc vành với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ vật này của chung.”

Những vật chứa kỷ niệm “chiếc vành - tờ mây” như bằng chứng về một cuộc tình đẹp đẽ. Nhưng rồi hôm nay đây, trao chúng cho Vân mong em giữ lấy cũng như duyên chị đã trao cho. Từ nay, cắt đứt đoạn tình này không còn là của Kiều, chỉ có kỉ vật còn vương chút hơi ấm của Kiều thì hãy xem là “của chung”.

Sử dụng thể thơ lục bát một cách nhuần nhuyễn, đầy sáng tạo kết hợp với nhiều biện pháp tu từ, sử dụng sáng tạo thành ngữ và kết hợp tinh tế ngôn ngữ bác học với ngôn ngữ bình dân, Nguyễn Du đã khắc họa thành công nỗi dằn vặt, đau đớn khi phải hi sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu của Kiều. Đồng thời, qua tác phẩm ta còn có thể thấy được sự yêu thương, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du dành cho người tài hoa bạc mệnh.

Thông qua việc thể hiện nỗi đau của Kiều khi phải trao duyên tình dang dở của mình cho em, "Trao duyên" hay “Truyện Kiều” đã mang đến độc giả cái nhìn chân thực về thời đại của tác giả, một thời đại mà con người bị đồng tiền chi phối, bị chính đồng tiền dung tục dồn ép tới đường cùng, không còn lối thoát. Chính giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc ấy mà đoạn trích, cũng như "Truyện Kiều" đã để lại trong lòng nhiều thế hệ độc giả ấn tượng sâu sắc.

14 câu đầu Trao duyên - mẫu 4

Nguyễn Du nói rằng mình là người “Thiên tuế trường ưu vị tử tiền” (trước khi chết còn lo mãi chuyện ngàn năm). Ông là vậy, là bi thương tột cùng, phẫn nộ lớn lao, là tưởng tượng kỳ diệu nhưng bao giờ cũng rất gần trái tim người. Nỗi đau đời lớn đó là bản thể của cốt cách ông và “không gì làm cho chúng ta bằng nỗi đau đớn” (A.Musset). Nỗi đau đớn của Nguyễn Du đã thanh lọc, nâng đỡ tất cả chúng ta. Qua đó, ông hình thành phong cách sáng tác luôn canh cánh trong lòng “khối u sầu một đời” đặc biệt là tác phẩm “Đoạn trường tân thanh”.

Tác phẩm là những dòng thơ lục bát đầy tinh tế nói về cuộc đời nàng Kiều với biết bao cay đắng, tủi hờn và có lẽ đoạn trích “Trao duyên” là một trong những phân đoạn hay nhất của tác phẩm. Chỉ với 14 dòng thơ đầu đoạn trích đã cho người đọc thấy bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của nàng Kiều khiến ta không khỏi mà nhỏ lệ tiếc thương!

Đoạn trích nằm ở câu thơ 723 đến câu 756 trong phần Gia biến và lưu lạc. Đây cũng chính là quãng thời gian khép lại cuộc sống êm đềm, hạnh phúc của Kiều, mở ra đoạn đời nổi lênh, phiêu bạt, đắng cay, đau khổ dằng dặc trong suốt mười lăm năm lưu lạc. Sau đêm thề nguyền, Kim Trọng phải về gấp để chịu tang chú ở Liêu Dương, cũng trong lúc ấy bọn sai nha gây nên vụ án oan sai đối với gia đình Thúy Kiều, nàng buộc phải hy sinh mối tình với Kim Trọng, bán mình làm vợ lẽ cho Mã Giám Sinh để lấy tiền hối lộ cho chúng nhằm cứu cha và em khỏi đòn đánh tra khảo dã man. Chính vì thế mà nàng chẳng thể giữ trọn lời thề với chàng Kim - một nỗi đau khôn cùng:

“Một mình nàng ngọn đèn khuya

Áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu”

Việc nhà đã sắp xếp xong xuôi, Kiều ngồi trắng đêm nghĩ đến thân phận và tình yêu rồi nàng nhờ em gái là Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Kiều trao duyên, xong mới bán mình còn trong Truyện Kiều của Nguyễn Du thì ngược lại. Bởi lẽ đó là mọi chuyên đã rồi, nếu không bán mình thì Vân không đồng ý, vì chữ hiếu, thấy mình không còn xứng đáng. Lúc này Kiều không còn làm chủ cuộc đời mình, thứ duy nhất Kiều có thể sắp đặt là “Trao duyên”. Trăn trở “vì ta khăng khít cho người dở dang”, những thổn thức thúc đẩy Kiều hành động sau những đắn đo:

“Hở môi ra cũng thẹn thùng,

Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.”

Bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của nàng Kiều được thể hiện rất rõ trong đoạn thơ. Nàng phải đem tình yêu đầu đời vẫn còn mặn nồng để trao cho em nhưng “ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên”, chuyện vợ chồng là việc hệ trọng cả đời, không yêu sao có thể lấy làm chồng ấy vậy mà Kiều đành thương cha bán mình, thương người tình nàng đành cậy em:

“Cậy em em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Từ những dòng thơ đầu đã thấy sự thông minh của Kiều qua cách sử dụng từ ngữ đầy khéo léo. Nàng “cậy em” chứ không phải “nhờ”, một thanh trắc với âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói trước việc vô cùng tế nhị. Trong hoàn cảnh ấy, dường như Vân chính là niềm an ủi cuối cùng mà Kiều có thể bấu víu vào để vượt qua cơn thác lũ của số phận oan nghiệt.

“Cậy” không chỉ mang ý là nhờ vả mà bao trùm lên cả nó chính là sự tin cậy, trông cậy, hi vọng, ủy thác và cả sự phó mặc. Bên cạnh đó Kiều còn khéo léo sử dụng từ “chịu” thay vì từ “nhận”. Bằng việc sử dụng từ trên, ta có thể thấy rõ Kiều hiểu em mình đang trong tình huống khó xử như thế nào, “chịu” là bị ép buộc, bắt buộc phải chấp nhận điều mình không mong muốn. Nó gợi lên rõ sự thiệt thòi của Thúy Vân, thế mới thấy, Kiều đâu chỉ đơn thuần thuyết phục em mà còn đặt mình vào vị trí của Vân để hiểu được rằng Vân chẳng mấy vui vẻ, hài lòng.

Điều ấy đã giúp người đọc hình dung ra một nàng Kiều ngay trong lúc đau đớn nhất vẫn nghĩ đến nỗi đau của người khác, một nàng Kiều vị tha, sâu sắc. Phải chăng đó chính là nhân cách cao đẹp của nàng? Nguyễn Du đã chọn lọc từ ngữ chính xác, phù hợp với hoàn cảnh nhân vật. Song, không chỉ là từ ngữ, ông cũng chú trọng vào hành động của Thúy Kiều khi dùng lễ nghi: “lạy” và “thưa”. Trong xã hội phong kiến xưa, đó là những hành động của kẻ bề dưới với người bề trên, của con cái với ông bà, cha mẹ, với tổ tiên, trời đất nhưng đây tại sao Thúy Kiều lại lạy Thúy Vân?

Nàng vốn sinh ra trong một gia đình gia giáo, một xã hội coi trọng lễ nghi, rõ ràng Kiều là bề trên của Vân, cái “lạy” đó thật trái với lẽ thường tình nhưng ta lại không biết rằng nàng tinh tế đến nhường nào. Hành động ấy một lần nữa giúp ta thấu tỏ hơn về một nàng Kiều ngay trong cơn thác lũ của cuộc đời, nàng vẫn thấu lí đạt tình, ý thức sâu sắc về hoàn cảnh của mình trong hiện tại, tình yêu vô cùng mãnh liệt, khao khát hạnh phúc thì vô biên mà thời gian yêu thương thì ngắn ngủi, chật hẹp. Sóng gió cuộc đời khủng khiếp ập tới bất cứ lúc nào.

Chính ý thức đó đã khiến Kiều phải hành động như thế. Kiều muốn tranh chấp với số mệnh bởi ngay trước đó nàng biết có biết bao người “nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”, hiểu thấu những phi lý cuộc đời “Thề hoa chưa ráo chén vàng” chàng Kim đã ra đi, gia đình đang hạnh phúc thì cha mẹ “rường cao rút ngược dây oan”, tai họa ập tới bất ngờ, con người không thể chống đỡ nổi nên giờ đây Kiều phải hành động để tranh chấp với thời gian, số mệnh để cứu lấy tình yêu của mình với Kim Trọng. Kiều hiểu rằng chỉ có thành tâm, cúi mình thì mới đặt Vân vào vị trí không thể từ chối lời khẩn cầu của mình.

Một câu chuyện khó nói phải mở lời một cách tế nhị. Một trách nhiệm nặng nề phải được đặt vấn đề một cách trang trọng. Kết hợp cách ngắt nhịp và giọng thơ nhẹ nhàng mà tha thiết giúp ta cảm nhận được sự nghẹn ngào, sự nấc nhẹ trong cảm xúc của nàng. Hai câu thơ mở đầu đã gợi ra một không khí thiêng liêng, trang trọng, ở đó khắc họa lên một Thúy Kiều thông minh, khéo léo, chu toàn mà chẳng kém phần tinh tế.

Nguyễn Du đã thâm nhập vào sâu thẳm của nội tâm nhân vật, miêu tả nàng Kiều với tất cả trạng thái tình cảm phong phú, phức tạp như một con người thật ở ngoài đời của mình, không che giấu tình cảm sâu nặng của mình đối với chàng Kim:

“Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

Nàng Kiều trong đoạn Trao duyên cũng như xuyên suốt Truyện Kiều không đơn giản chỉ là một con người hành động vì mục đích nào đó. Nàng Kiều ấy còn luôn sống với những tâm tư, tình cảm thầm kín của mình. Hình ảnh đứt “gánh tương tư” thật giàu sức gợi hình: thường thì “gánh” dùng để chỉ một khối lượng vật chất, còn “tương tư” chỉ một khái niệm phi vật chất. Người xưa xem tình yêu cũng là một gánh nghĩa vụ, gánh nặng: Duyên tình nặng gánh ai ơi (ca dao).

Vận dụng lời ăn tiếng nói và lối suy nghĩ của nhân dân lao động, Nguyễn Du đã thêm vào kho tàng từ điển nước nhà một khái niệm trữ tình mới: “gánh tương tư”. Thành ngữ “gánh tương tư” vốn để diễn tả tình yêu trai gái tha thiết, mặn nồng với nỗi nhớ da diết, khắc khoải không thôi. Cũng bởi vậy mà “tương tư” đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi ca như Nguyễn Bình từng viết rằng:

“Gió mưa là bệnh của giời

Tương tư là chuyện của tôi yêu nàng”

hay như ca dao có câu:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”

“Tương tư” đẹp đến vậy lại được Kiều dùng cùng từ “đứt” làm cho người đọc thấy chua xót trước mối tình dở dang của chàng Kim và nàng. “Keo loan” là thứ máu của chim loan mà giờ đây nàng phải dùng nó để chắp “mối tơ thừa”. Hai từ “tơ thừa” nghe sao mà xót xa! “Tơ” ở đây là “tơ duyên” (Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong), nhưng tơ duyên đã đứt, cần phải “chắp mối”. Đối với Thúy Vân, đó chỉ là “tơ thừa”.

Kiều hiểu thấu cảm giác và tình cảm thiệt thòi của em nên nói thẳng ra luôn. Duyên ấy trong chị, tình ấy trong chị là mối tình khắc cốt ghi tâm vậy mà khi song Vân lại thành “mối tơ thừa”, ta đâu ngờ rằng, để gắn “mối tơ thừa” ấy với Kim Trọng nàng đã phải dùng chính thứ máu của tình chị em ruột thịt thế mới thấy Kiều đau đớn nhường nào, Vân xót xa đến ra sao. Ngay cả lúc đang kể về mối tình của mình, Kiều vẫn không quên việc thuyết phục Vân. Dù trái tim đang chịu những giằng xé, nàng vẫn phải tỉnh táo trong việc lựa chọn từ ngữ để nói với Vân. “Mặc em” chính là sự tin tưởng, ủy thác, trong đó có cả tình chị em thân thiết. Nếu quá khứ chỉ hiện lên qua các sự kiện thì hiện tại lại được Kiều nói lên bằng những điển tích, điển cố giàu sức gợi vì vậy mà ta mới thấu hiểu bi kịch tình yêu của nàng chua xót, đắng cay khôn cùng!

Tình yêu ai mà chẳng từng có những kỉ niệm đẹp, những lời hẹn ước, thề nguyền nhưng với Kiều đó chỉ là quá khứ mà thôi và rồi khi nàng quay lại thực tại thì nó mới bẽ bàng, xót xa làm sao:

“Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”

Đúng như Mộng Liên Đường Chủ Nhân từng nói rằng: “Tài mà không gặp gỡ, tình mà không được hả hê. Đây là cái căn nguyên của hai chữ đoạn trường”. Bi kịch tình yêu của Kiều được nàng tâm sự với Vân chỉ mong em mình có thể cảm thông, sẻ chia. Nàng chọn cách nói điểm xuyết phải chăng là để tránh đau thương giằng xé hay là để Vân không cảm thấy khó xử? Phép trùng điệp ba từ “khi” thể hiện những kỷ niệm giữa kí ức và thực tại, đẩy đời Kiều vào miền kí ức đau thương dù cho nàng cố kìm nén. Dùng từ “khi” đẻ diễn tả sự tan vỡ là điều ta luôn bắt gặp trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du:

“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Nhờ lối nói trùng điệp kết hợp với thủ pháp tiểu đối (ngày - đêm, quạt ước - chén thề) chúng ta có thể cảm nhận sự dở dang, bẽ bàng đến xót xa của tình yêu giữa Kiều và chàng Kim. Hơn cả, nàng còn sử dụng từ ngữ chỉ thời gian: “ngày”, “đêm”. Nó chính là hoán dụ cho những kí ức tươi đẹp và rực rỡ trong đêm thề nguyền “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”, cùng với đó là hình ảnh ước lệ “quạt ước”, “chén thề” làm cho những miền kí ức ấy dù chỉ điểm xuyết nhưng cứ như những cơn sóng dâng trào mãnh liệt trong nàng.

Cấu trúc câu “Kể từ khi gặp… khi ngày… khi đêm” tạo âm điệu thơ luyến láy, nhịp điệu gấp gáp cho thấy dù Kiều đang tự bộc bạch về mối tình đầu, nhắc lại kỷ niệm tình yêu tha thiết nhưng thái độ lại không hề hạnh phúc. Phải chăng Kiều ý thức được sự ngắn ngủi, mong manh của hạnh phúc giữa cuộc đời dâu bể. Tất cả làm nổi bật bi kịch oan trái của cuộc đời Kiều: khao khát hạnh phúc thì vô biên “quạt ước, chén thề” nhưng hiện thực đời sống tàn nhẫn khủng khiếp “đứt gánh, tơ thừa” đã biến hạnh phúc thành chốc lát, còn lại chỉ là xót xa, tiếc nuối khôn nguôi. Kiều khẩn thiết nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, Kiều càng đặt tình cảm của mình cho mối tình này thì tâm tư, nguyện vọng dành cho Vân càng nhiều. Đồng thời khi hồi tưởng lại, Kiều thể hiện tình cảm đầy tiếc nuối như mới hôm qua.

Kiều không chỉ dùng câu chuyện tình yêu để lay động em gái, Kiều còn dùng những lí lẽ tình và lý để thuyết phục Vân đồng ý:

“Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Chỉ với hai từ “sóng gió”, Nguyễn Du đã làm hiện lên trong đầu ta cả một bầu trời liên tưởng. Đó là khó khăn, là bão tố, là mây đen bắt đầu xuất hiện và bao trùm lên cuộc đời của nàng. Là người chị cả, Kiều đành hy sinh bản thân mình để gia đình được yên ổn, êm ấm bởi lẽ: “có ba trăm lạng việc này mới xuôi”. Kể từ đây, mối tơ duyên của nàng đã đứt, nhưng đó cũng chỉ là khởi đầu, Nguyễn Du đã từng đưa ra những điềm báo tai ương cho đời Kiều.

Trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, khi miêu tả Thúy Vân “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” thiên nhiên nhường bước trước vẻ đẹp của nàng, dự báo một cuộc đời êm ả, còn Thúy Kiều “Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, thiên nhiên nổi loạn hờn ghen trước vẻ đẹp của Kiều, dự báo về một cuộc đời bão tố. Và giờ đây là thời điểm “sóng gió” bắt đầu gợn lên, cuộc đời nàng đã sang một trang mới, u ám hơn nhiều. Không chỉ nói lên tiếng lòng của nàng Kiều mà Nguyễn Du còn lên án tố cáo chế độ phong kiến đã cướp đi cảnh yên bình của rất nhiều gia đình:

“Thuở trời đất nổi cơn gió bụi

Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên

Xanh kia thăm thẳm tầng trên

Vì ai gây dựng cho nên nỗi này”

Bên cạnh các thế lực thống trị và lũ người hung ác, đó còn là sức mạnh của đồng tiền “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”. Chính vì tiền mà bọn quan lại tham ô đẩy gia đình Kiều sa vào tai họa, vì tiền mà bọn buôn người “cò kè bớt một thêm hai” đã đẩy Kiều vào chốn bùn nhơ, lũ lưu manh bắt cớ đánh đập người vô tội:

“Một ngày lạ thói sai nha

Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”

Nàng Kiều “tài sắc vẹn toàn” đáng ra phải được sống trong cảnh yên bình. Thế mà giờ đây, nàng phải chịu lấy tai ương của số phận, của xã hội phong kiến chèn ép, đè nén, bóp méo cuộc sống trọn vẹn của người dân:

“Bắt phong trần phải phong trần

Cho thanh cao mới được phần thanh cao”

Số phận của Kiều cũng chính là mẫu số chung của thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến xưa:

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Chữ hiếu là một phạm trù đạo đức trong nho giáo, vì hiếu con người ta có thể phải dẹp bỏ tình riêng và Kiều cũng vậy, nàng không cho phép mình trở thành một người con bất hiếu. Nàng đành chôn vùi tình cảm riêng tư để báo hiếu cho cha, cho mẹ:

“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng

Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”

Ở đời phàm, người ta thường hi sinh tất cả vì tình yêu bởi ai chẳng khát khao được gắn bó với người mình yêu, được hạnh phúc bên cạnh họ. Nhưng với Kiều, khát khao ấy lại mãnh liệt gấp bội, vì tình yêu mà nàng đã từng vượt qua cả lễ giáo phong kiến khắt khe để: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” vậy mà giờ đây đành lòng vứt bỏ thật đau đớn xiết bao! Nhưng vì:

“Duyên hội ngộ, đứt cù lao

Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”

Trăm nghìn nuối tiếc, đắng cay, nàng cố cầm lòng, nén lại tiếng khóc để bình tĩnh bắc một bàn cân chập chờn hai phía hiếu - hình. Kiều đã có trong lòng mình sự lựa chọn giữa hiếu và tình (hy sinh chữ tình vì chữ hiếu cho nên mới có cuộc trao duyên), nhưng sao trong lời nói vẫn có phần phân vân: “khôn lẽ”! Những lời này khiến Vân phải suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối với lời ủy thác của chị.

Cái điều mà Kiều muốn thưa với Vân chính là bi kịch tình yêu tan vỡ của mình và tha thiết cầu khẩn Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng:

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”

Có lẽ chỉ có những người con gái mang trong mình nhân cách cao đẹp như Kiều mới đủ sức mạnh để làm những điều tưởng chừng khó khăn nhất như thế! Ta đều biết rằng chị em Thúy Kiều đều là những thiếu nữ tuổi mười tám đôi mươi: “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” nhưng rồi trong đêm trao duyên ấy nàng Kiều lại nhắn nhủ với Vân rằng: “Ngày xuân em hãy còn dài” phải chăng nàng có ẩn ý gì? Và rồi khi ta biết được cái ẩn ý ấy thì mới thật chua xót làm sao!

Với Kiều, Vân đang được tự do, ngày tháng tuổi trẻ vẫn còn rộng, còn dài nhưng với Kiều nàng đã phải bán mình chuộc cha chẳng khác nào bán đi chính tuổi xuân, hạnh phúc của đời mình? Tính từ “xót” mang sắc thái đặc biệt diễn tả mối quan hệ ruột thịt, cùng huyết thống, khi dùng tính từ ấy, Kiều như lay động tấm chân tình, như chạm đến tình máu mủ thiêng liêng vậy thì sao Vân không động lòng chứ? Từ “xót” ở đây còn giúp ta hiểu được Vân nhận lời trao duyên vì xót thương cho chị chứ không phải vì tình yêu, còn với Kiều, nàng xót vì Vân phải “lấy người mình không yêu - lấy người không yêu mình”.

Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du cũng từng dùng từ “xót” khi thể hiện nỗi lòng của cha mẹ Kiều khi nhớ thương con cái đang biền biệt phương xa:

“Xót con lòng nặng chề chề”

Lời lẽ thuyết phục như chạm vào các cung bậc cảm xúc để ngân vang lên âm thanh của sự đồng cảm khiến nàng như được an ủi phần nào trước cái bi kịch tình yêu, trước thân phận bất hạnh của chính mình. Cùng với việc sử dụng phép đối “Tình máu mủ - lời nước non” thể hiện tình cảm sâu nặng của Kiều và Vân, việc Vân chấp nhận lời trao duyên có ý nghĩa như việc nước thế mới thấy Kiều trân trọng em mình ra sao.

Kiều còn viện cả cái chết của mình ra để nói lên sự toại nguyện nếu Vân nhận lời thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng:

“Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Thành ngữ “thịt nát xương mòn” nói lên Kiều tự ý thức về thân phận hồng nhan bạc mệnh, dự cảm về bi kịch cuộc đời mình một cách sâu sắc. Kiều dùng cách nói “Ngậm cười chín suối”, “thơm lây” như muốn dồn hết công lao cho em, phủ nhận hết công sức của mình. Qua đó, nàng bày tỏ sự biết ơn và như một sự khích lệ đối với nàng Vân. Lời thỉnh cầu của Kiều vừa chân thành, vừa thuyết phục, vừa thiết tha, vừa ràng buộc, đưa Vân đến tình thế mặc nhiên phải chấp nhận.

Nàng Kiều của Nguyễn Du tỏ ra “sắc sảo mặn mà” cả trong bi kịch đau đớn nhất của mình. Mượn cả cái chết “ngậm cười chín suối” để nói lên sự thanh thản của mình nếu như Vân nhận lời nối duyên với chàng Kim. Cách nói mỗi lúc một nặng, khiến Vân hiểu rõ được điều mình nên làm, qua đó một lần nữa cho người đọc thấy sự nhạy bén, thông minh của Kiều trong những lập luận khéo léo, uyển chuyển và sắc bén của mình.

Chỉ một nỗi đau nhưng được soi từ nhiều phía và phía nào cũng là đối nghịch giữa còn - mất; hợp - tan; âm - dương cách trở. Kẻ đáng thương duy nhất chính là nàng. Đến đây, lời trao duyên đã hóa thành lời trăng trối, là ước nguyện cuối cùng của người trao. Qua những lý lẽ mà Kiều giãi bày với Vân, có thể thấy: Kiều không hoàn toàn ép buộc mà chủ yếu kêu gọi lòng thương, sự đồng cảm và tinh thần tự nguyện của Vân.

Nói xong lời thỏa nguyện bình sinh và hàm ơn đối với em, Kiều làm nốt cái phần việc cuối cùng và khó khăn nhất: trao kỷ vật cho Vân. Tay Kiều thì trao nhưng lòng Kiều còn cố níu kéo giữ lại một chút gì cho mình:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung.”

Nhịp điệu đã không còn hoàn toàn bình thường nữa. Nếu ở câu một, nhịp điệu vẫn còn phẳng lặng thì ở câu sau “Rõ ràng là Thúy Kiều bắt đầu lúng túng” (Nguyễn Lộc). Biết phân biệt thế nào những cái không dễ rạch ròi? “Tờ mây”, “chiếc vành” là những vật hữu hình, nhưng nó lại là tiếng nói bền bỉ, lặng thầm của những khái niệm vô hình - giây phút gặp gỡ và thề nguyền giữa Kim và Kiều (Giờ kim thoa với khăn hồng trao tay, Tiên thề cùng thảo một chương). Cái bối rối trong sự phân chia của Thúy Kiều giữa “vật này” với “duyên này”. Kỷ vật có thể là chung, nhưng tình yêu của con người thì dứt khoát khó lòng mà sẻ chia.

Hoài Thanh viết: “Của chung là của ai? Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ!”. Biết bao giằng xé, đau đớn, chua chát trong hai chữ “của chung” đầy phi lí ấy. Khẩn khoản, van nài em nhận lời trao duyên của mình, vậy mà Kiều lại thấy mình như là kẻ bị mất, coi mình như là người mệnh bạc. Tất cả những tình cảm mâu thuẫn ấy càng làm cho tấm bi kịch tình yêu tan vỡ của Kiều thêm đau đớn. Khi nghĩ đến việc hy sinh chữ Tình vì chữ Hiếu, chắc ý nghĩ mất Kim Trọng đã đến trong nàng.

Trong lúc lựa lời thuyết phục em, cảm giác mất mát ấy có đến gần hơn. Nhưng có lẽ phải đến lúc này đây, nỗi mất mát ấy mới thực sự choáng ngợp tâm hồn nàng. Còn giữ kỷ vật, ít nhiều người ta vẫn có cái ảo giác người yêu hãy còn là của mình. Chỉ đến khi cầm kỷ vật trao đi cho kẻ khác, người ta mới thật sự rơi vào hụt hẫng. Nỗi mất mát ấy mới thật sự khiến cho con người thấy trống hoang cả cõi lòng. Bắt đầu từ giây phút này, cùng với kỷ vật này, chàng Kim sẽ vĩnh viễn thuộc về người khác. Câu thơ như một nỗi nghẹn ngào!

Hoài Thanh từng nói rằng: “Nếu cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ca ngợi vẻ đẹp của con người thì cảm hứng nhân đạo là bao trùm”. Thật vậy, khép lại mười bốn dòng thơ đầu ta thấy sự đồng cảm, xót xa trước nỗi đau khi tình yêu tan vỡ của Kiều, là sự ngợi ca phẩm chất tốt đẹp về một nàng Kiều vừa có hiếu, vừa có tình, biết cảm thông, biết hi sinh. Đồng thời Nguyễn Du còn tố cáo xã hội vì đồng tiền có sức mạnh vạn năng chi phối và đày ảo con người, “đồng tiền lăn tròn trên mọi đáy lương tâm” (Balzac).

Ngoài ra, bằng tài năng miêu tả nội tâm nhân vật, sử dụng ngôn ngữ điêu luyện kết hợp giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học đồng thời sử dụng hình ảnh giàu giá trị biểu cảm. Qua đó nàng Kiều hiện lên như một lý tưởng, một khát vọng của thời đại. Vì thế ta mới hiểu được tại sao Huỳnh Thúc Kháng sau này có viết rằng: “Truyện Kiều về mặt mỹ thuật rõ là cực tốt, mà ở trong đựng nhân vật có chất độc”.

Đoạn trích Trao duyên đã cho ta thấy cuộc đời nàng Kiều là một chuỗi đau thương nối tiếp đau thương. Để rồi, Nguyễn Du đã cúi xuống, nâng niu và đồng cảm với thân phận của nàng. Ông đã đi sâu, đã len lỏi vào từng ngóc ngách tâm hồn của nàng để cảm thông và dành cho nàng một sự trân trọng đặc biệt. Nếu như đương thời chỉ có một Hồ Xuân Hương “học rộng mà thuần thục, dùng chữ ít mà đầy đủ, từ mới lạ mà đẹp đẽ, thơ đúng phép mà văn hóa” hay một Phạm Thái tài hoa mà ngang tàn, ngang tàn mà chân thực, chân thực mà ngông nghênh, bảo thủ thì đương nhiên cũng chỉ có một Tố Như “lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy”, một Tố Như “tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh như hệt, đàm tình đã thiết, con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời” (Mộng Liên Đường, Bài tựa “Truyện Kiều”).

“Một ngày kia Truyện Kiều mới phóng ra hết lượng tử của mình

Những vỉa thơ nhân loại quên đi, và phát hiện ra những hồn thơ ẩn náu

Hồn ta ơi! Hôm nay ngươi thanh bình mà ngày mai giông bão

Trong câu Kiều xưa, ta tìm ra Nguyễn Du mà tìm cả chính mình.”

(Đọc Kiều, một ngày kia - Chế Lan Viên)

Tản Đà từng nhận xét: “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như đây. Đoạn này thật lâm ly mà như thế mới hết tình sự”. Chỉ một đoạn Trao duyên, từ lời nói đến hành động, lúc lý trí, lúc tình cảm, khi bình tĩnh, lúc van xin… đủ các cung bậc của mênh mông thế giới tinh thần. Thúy Kiều đã hiện lên như một bức chân dung phẩm hạnh cao quý, một nỗi đau nhân bản thẳm sâu:

“Người sao hiếu nghĩa đủ đường

Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi”

Cảm thông, trân trọng nàng Kiều, chúng ta càng cảm thông, trân trọng cái tài, cái đức và bao trùm tất cả là cái tâm của Nguyễn Du. Vì có ở đâu xa, chính nàng Kiều được sinh ra từ trái tim thi sỹ, một trái tim mà “Nỗi đau anh trùng nỗi đau nhân loại - Mượn câu Kiều anh hóa thạch cuộc đời riêng” (Chế Lan Viên). Từ bao năm nay, đoạn Trao duyên, với hình tượng nhân vật nàng Kiều đẹp đẽ, sống động, đã “hóa thạch” trong lịch sử văn chương Việt Nam, trong vạn triệu tâm hồn giàu tình thương và lòng mến trọng nhân nghĩa là ở những khía cạnh nội dung, nghệ thuật, những cảm hứng thẩm mỹ như vậy đó!

14 câu đầu Trao duyên - mẫu 5

Nguyễn Du là tác giả của bài thơ Trao duyên, được trích từ “Truyện Kiều”. Ông là một nhà văn, nhà thơ lớn, để lại cho đời vô số tác phẩm giá trị, niềm tự hào của dân tộc ta. Ông sinh ra và lớn lên dưới chế độ phong kiến, chứng kiến nhiều sự bất bình trong cuộc sống thời xưa. Truyện Kiều được viết tại Trung Quốc, đây là một kiệt tác của Nguyễn Du. Cùng phân tích 14 câu đầu bài Trao duyên để cảm nhận sự đau xót, tiếc nuối của Thuý Kiều khi trao lại tình yêu duy nhất cho em gái.

Bài thơ Trao duyên nói về ba nhân vật Thuý Kiều, Thuý Vân, Kim Trọng khi số phận đưa đẩy họ vào một tình huống khó. Thuý Kiều và Kim Trọng yêu nhau, trước hoàn cảnh gia đình gặp nạn, Kiều chọn chữ hiếu, bán mình chuộc cha. Kim Trọng vẫn luôn chờ đợi Kiều nhưng lại bén duyên cùng em gái Thuý Vân. Khi Kiều may mắn sống sót trở về, cô mở lời với em gái:

“Cậy em, em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

Cô chị Thuý Kiều đã rất thật tâm, dùng những lời lẽ chân tình và trò chuyện cùng em gái. Kiều dùng từ “cậy” thật ấn tượng, khéo léo để truyền đạt đến em gái. Cậy là giao phó tất cả cho em, còn nhờ thì Vân có thể nhận hoặc từ chối. Cô thương em gái mình hơn ai hết, sẵn sàng hy sinh hạnh phúc đời mình. Kiều trao hết những gì mình có, tin tưởng vào Vân, hy vọng em sẽ có cuộc sống tốt. Kiều là chị nhưng không hề bắt ép em gái, cô sẵn sàng “lạy rồi sẽ thưa”, để Vân bằng lòng.

Phân tích 14 câu đầu bài Trao duyên để hiểu rõ hơn về con người cũng như tấm lòng của nhân vật. Kiều đặt mình ở vị trí thấp hơn, chia sẻ cùng Vân như một người lớn. Kiều van xin Vân, bằng những từ ngữ như đấng bề trên, kể cả “thưa”, “lạy”. Đây đều là những lời nói bắt đầu, dẫn dắt vào câu chuyện chính. Điều mà Kiều sắp nói ra sẽ khá khó khăn để Vân quyết định. Kiều có cả “gánh tương tư” nhưng không trọn vẹn, giữa đường bị đứt, tình yêu cũng tan biến.

Tình yêu đó là của Kiều, khi trao lại cho Vân đã là “tơ thừa”, nên cô xin em hãy thương chị. Mặc dù Vân còn quá trẻ, chưa tình trả về tình yêu, còn rất thơ ngây. Kiều trao nhân duyên của mình lại cho Vân, xin em hãy xây dựng, chăm sóc, vun vén cho tình yêu ấy.

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.

Sự đâu sóng gió bất kỳ,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Từ khi gặp gỡ Kim Trọng, Kiều rung động con tim, đêm ngày nhớ về chàng. Họ đã từng hẹn ước cùng nhau xây dựng hạnh phúc. Tuy nhiên mọi thứ không như ý muốn, sóng gió ập tới, Kiều không thể trọn hiếu mà vẫn nguyên vẹn tình yêu. Vì thương cha mẹ, Kiều bán thân, phải chịu một chuỗi ngày u ám về sau. Vân đang độ tuổi thanh xuân đẹp nhất, tình cảm sẽ từ từ vun đắp, gầy dựng nên. Kiều hy vọng Vân sẽ vì tình nghĩa chị em mà đồng ý lời cầu xin của cô. Như vậy, dù sau này số phận có ra sao, Kiều cũng an lòng mà ra đi, chấp nhận số phận.

Kiều gửi lại kỷ vật tình yêu cho em gái, gồm “chiếc thoa với bức tờ mây”. Tuy nhiên, Kiều chỉ muốn giữ lại tình yêu cho riêng mình.

14 câu đầu Trao duyên - mẫu 6

          Belinxki đã từng nói: “Bất cứ thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại bởi vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ khoảng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là khí quan và đại biểu của xã hội, của thời đại và của nhân loại.” Thơ ca cũng như văn chương và các loại hình nghệ thuật khác, nếu không hút nhựa sống dạt dào ngầm chảy trong lòng cuộc sống thì nó sẽ mãi mãi là một cây non èo uột, không mang trên mình những cành cây săn chắc, những chiếc lá xanh tươi phơi phới dưới ánh mặt trời. Là nhà thơ, ngòi bút của anh phải chấm vào nghiên mực của cuộc đời thì thơ anh mới tươi màu, neo chặt trong bến tâm hồn người thưởng thức. Và hơn cả, để trở thành “thi sĩ vĩ đại” đòi hỏi anh ta có một trái tim đồng cảm với những linh hồn đơn côi quạnh quẽ, anh ta phải lắng nghe tiếng khóc khổ đau của nhân loại từ đó biến tác phẩm của anh thành tiếng nói đại diện cho những kiếp người mòn mỏi trong đời sống xã hội. Đến với nhưng vần thơ của Nguyễn Du, ông đã cất lên tiếng lòng của mình, để linh hồn của tác phẩm Truyện Kiều mang đến những trang thơ neo đậu mãi trong chúng ta về hình tượng nàng Kiều sắc sảo nhưng lại trải qua những đau thương chất chồng lên cuộc đời của người con gái tài sắc. Nếu Thúy Kiều đứt ruột trao duyên thì Nguyễn Du cũng đã viết nên cảnh Trao duyên bằng những lời thơ tan nát can tràng, đặc biệt qua mười bốn câu thơ đầu:

“Cậy em em có chịu lời,

Duyên này thì giữ vật này của chung.”

Trong dòng chảy văn học Việt Nam, có lẽ cái tên Nguyễn Du không còn xa lạ gì bởi ông chính là nhà thơ lớn của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một bậc thầy “phù thủy” về ngôn ngữ và hơn cả là một người có quan điểm tư tưởng tiến bộ bậc nhất trong xã hội phong kiến đương thời. Cuộc đời ông là những trải nghiệm cuộc sống phong trần; từ chốn quan trường xa hoa cho đến nông thôn nghèo khó, tất cả điều ấy đã giúp Nguyễn Du nắm vững ngôn ngữ nghệ thuật dân gian “thôn ca sơ học táng ma ngữ”. Nguyễn Du nói rằng mình là người “Thiên tuế trường ưu vị tử tiền” (trước khi chết còn lo mãi chuyện ngàn năm). Ông là vậy, là bi thương tột cùng, phẫn nộ lớn lao, là tưởng tượng kỳ diệu nhưng bao giờ cũng rất gần trái tim người. Nỗi đau đời lớn đó là bản thể của cốt cách ông và “không gì làm cho chúng ta bằng nỗi đau đớn” (A.Musset). Nỗi đau đớn của Nguyễn Du đã thanh lọc, nâng đỡ tất cả chúng ta. Qua đó, ông hình thành phong cách sáng tác luôn canh cánh trong lòng “khối u sầu một đời” đặc biệt là tác phẩm “Đoạn trường tân thanh”. Tác phẩm là những dòng thơ lục bát đầy tinh tế nói về cuộc đời nàng Kiều với biết bao cay đắng, tủi hờn và có lẽ đoạn trích “Trao duyên” là một trong những phân đoạn hay nhất của tác phẩm. Chỉ với mười bốn dòng thơ đầu đoạn trích đã cho người đọc thấy bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của nàng Kiều khiến ta không khỏi mà nhỏ lệ tiếc thương!

Đoạn trích nằm ở câu thơ 723 đến câu 756 trong phần gia biến và lưu lạc. Đây cũng chính là quãng thời gian khép lại cuộc sống êm đềm, hạnh phúc của Kiều, mở ra đoạn đời nổi lênh, phiêu bạt, đắng cay, đau khổ dằng dặc trong suốt mười lăm năm lưu lạc. Sau đêm thề nguyền, Kim Trọng phải về gấp để chịu tang chú ở Liêu Dương, cũng trong lúc ấy bọn sai nha gây nên vụ án oan sai đối với gia đình Thúy Kiều, nàng buộc phải hy sinh mối tình với Kim Trọng, bán mình làm vợ lẻ cho Mã Giám Sinh để lấy tiền hối lộ cho chúng nhằm cứu cha và em khỏi đòn đánh tra khảo dã man. Chính vì thế mà nàng chẳng thể giữ trọn lời thề với chàng Kim một nỗi đau khôn cùng:

“Một mình nàng ngọn đèn khuya

Áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu”

Việc nhà đã sắp xếp xong xuôi, Kiều ngồi trắng đêm nghĩ đến thân phận và tình yêu rồi nàng nhờ em gái là Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. Trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Kiều trao duyên, xong mới bán mình còn trong Truyện Kiều của Nguyễn Du thì ngược lại. Bởi lẽ đó là mọi chuyên đã rồi, nếu không bán mình thì Vân không đồng ý, vì chữ Hiếu, thấy mình không còn xứng đáng. Lúc này Kiều không còn làm chủ cuộc đời mình, thứ duy nhất Kiều có thể sắp đặt là “Trao duyên”. Trăn trở “vì ta khăng khít cho người dở dang”, những thổn thức thúc đẩy Kiều hành động sau những đắn đo:

“Hở môi ra cũng thẹn thùng,

Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.”

Bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của nàng Kiều được thể hiện rất rõ trong đoạn thơ. Nàng phải đem tình yêu đầu đời vẫn còn mặn nồng để trao cho em nhưng “ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên”, chuyện vợ chồng là việc hệ trọng cả đời, không yêu sao có thể lấy làm chồng ấy vậy mà Kiều đành thương cha bán mình, thương người tình nàng đành cậy em:

“Cậy em em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Từ những dòng thơ đầu đã thấy sự thông minh của Kiều qua cách sử dụng từ ngữ đầy khéo léo. Nàng “Cậy em” chứ không phải “nhờ”, một thanh trắc với âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói trước việc vô cùng tế nhị. Trong hoàn cảnh ấy, dường như Vân chính là niềm an ủi cuối cùng mà Kiều có thể bấu víu vào để vượt qua cơn thác lũ của số phận oan nghiệt. “Cậy” không chỉ mang ý là nhờ vả nhưng bao trùm lên cả nó chính là sự tin cậy, trông cậy, hi vọng, ủy thác và cả sự phó mặc. Bên cạnh đó Kiều còn khéo léo sử dụng từ “chịu” thay vì từ “nhận”. Bằng việc sử dụng từ trên, ta có thể thấy rõ Kiều hiểu em mình đang trong tình huống khó xử như thế nào, “chịu” là bị ép buộc, bắt buộc phải chấp nhận điều mình không mong muốn. Nó gợi lên rõ sự thiệt thòi của Thúy Vân, thế mới thấy, Kiều đâu chỉ đơn thuần thuyết phục em mà còn đặt mình vào vị trí của Vân để hiểu được rằng Vân chẳng mấy vui vẻ, hài lòng. Điều ấy đã giúp người đọc hình dung ra một nàng Kiều ngay trong lúc đau đớn nhất vẫn nghĩ đến nỗi đau của người khác, một nàng Kiều vị tha, sâu sắc. Phải chăng đó chính là nhân cách cao đẹp của nàng? Nguyễn Du đã chọn lọc từ ngữ chính xác, phù hợp với hoàn cảnh nhân vật. Song, không chỉ là từ ngữ, ông cũng chú trọng vào hành động của Thúy Kiều khi dùng lễ nghi: “lạy” và “thưa”. Trong xã hội phong kiến xưa, đó là những hành động của kẻ bề dưới với người bề trên, của con cái với ông bà, cha mẹ, với tổ tiên, trời đất nhưng đây tại sao Thúy Kiều lại lạy Thúy vân? Nàng vốn sinh ra trong một gia đình gia giáo, một xã hội coi trọng lễ nghi, rõ ràng Kiều là bề trên của Vân, cái “lạy” đó thật trái với lẽ thường tình nhưng ta lại không biết rằng nàng tinh tế đến nhường nào. Hành động ấy một lần nữa giúp ta thấu tỏ hơn về một nàng Kiều ngay trong cơn thác lũ của cuộc đời, nàng vẫn thấu lí đạt tình, ý thức sâu sắc về hoàn cảnh của mình trong hiện tại, tình yêu vô cùng mãnh liệt, khao khát hạnh phúc thì vô biên mà thời gian yêu thương thì ngắn ngủi, chật hẹp. Sóng gió cuộc đời khủng khiếp ập tới bất cứ lúc nào. Chính ý thức đó đã khiến Kiều phải hành động như thế. Kiều muốn tranh chấp với số mệnh bởi ngay trước đó nàng biết có biết bao người “nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương”, hiểu thấu những phi lý cuộc đời “Thề hoa chưa ráo chén vàng” chàng Kim đã ra đi, gia đình đang hạnh phúc thì cha mẹ “rường cao rút ngược dây oan”, tai họa ập tới bất ngờ, con người không thể chống đỡ nổi nên giờ đây Kiều phải hành động để tranh chấp với thời gian, số mệnh để cứu lấy tình yêu của mình với Kim Trọng. Kiều hiểu rằng chỉ có thành tâm, cúi mình thì mới đặt Vân vào vị trí không thể từ chối lời khẩn cầu của mình. Một câu chuyện khó nói phải mở lời một cách tế nhị. Một trách nhiệm nặng nề phải được đặt vấn đề một cách trang trọng. Kết hợp cách ngắt nhịp và giọng thơ nhẹ nhàng mà tha thiết giúp ta cảm nhận được sự nghẹn ngào, sự nấc nhẹ trong cảm xúc của nàng. Hai câu thơ mở đầu đã gợi ra một không khí thiêng liêng, trang trọng, ở đó khắc họa lên một Thúy Kiều thông minh, khéo léo, chu toàn mà chẳng kém phần tinh tế.

Nguyễn Du đã thâm nhập vào sâu thẳm của nội tâm nhân vật, miêu tả nàng Kiều với tất cả trạng thái tình cảm phong phú, phức tạp như một con người thật ở ngoài đời của mình, không che giấu tình cảm sâu nặng của mình đối với chàng Kim:

“Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

Nàng Kiều trong đoạn Trao duyên cũng như xuyên suốt Truyện Kiều không đơn giản chỉ là một con người hành động vì mục đích nào đó. Nàng Kiều ấy còn luôn sống với những tâm tư, tình cảm thầm kín của mình. Hình ảnh đứt “gánh tương tư” thật giàu sức gợi hình: thường thì “gánh” dùng để chỉ một khối lượng vật chất, còn “tương tư” chỉ một khái niệm phi vật chất. Người xưa xem tình yêu cũng là một gánh nghĩa vụ, gánh nặng: Duyên tình nặng gánh ai ơi (ca dao). Vận dụng lời ăn tiếng nói và lối suy nghĩ của nhân dân lao động, Nguyễn Du đã thêm vào kho tàng từ điển nước nhà một khái niệm trữ tình mới: “gánh tương tư”. Thành ngữ “gánh tương tư” vốn để diễn tả tình yêu trai gái tha thiết, mặn nồng với nỗi nhớ da diết, khắc khoải không thôi. Cũng bởi vậy mà “tương tư” đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận của thi ca như Nguyễn Bình từng viết rằng:

“Gió mưa là bệnh của giời

Tương tư là chuyện của tôi yêu nàng”

hay như ca dao có câu:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”

“tương tư” đẹp đến vậy lại được Kiều dùng cùng từ “đứt” làm cho người đọc thấy chua xót trước mối tình dở dang của chàng Kim và nàng. “Keo loan” là thứ máu của chim loan mà giờ đây nàng phải dùng nó để chắp “mối tơ thừa”. Hai từ “tơ thừa” nghe sao mà xót xa! “Tơ” ở đây là “tơ duyên” (Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong), nhưng tơ duyên đã đứt, cần phải “chắp mối”. Đối với Thúy Vân, đó chỉ là “tơ thừa”. Kiều hiểu thấu cảm giác và tình cảm thiệt thòi của em nên nói thẳng ra luôn. Duyên ấy trong chị, tình ấy trong chị là mối tình khắc cốt ghi tâm vậy mà khi song Vân lại thành “mối tơ thừa”, ta đâu ngờ rằng, để gắn “mối tơ thừa” ấy với Kim Trọng nàng đã phải dùng chính thứ máu của tình chị em ruột thịt thế mới thấy Kiều đau đớn nhường nào, Vân xót xa đến ra sao. Ngay cả lúc đang kể về mối tình của mình, Kiều vẫn không quên việc thuyết phục Vân. Dù trái tim đang chịu những giằng xé, nàng vẫn phải tỉnh táo trong việc lựa chọn từ ngữ để nói với Vân. “Mặc em” chính là sự tin tưởng, ủy thác, trong đó có cả tình chị em thân thiết. Nếu quá khứ chỉ hiện lên qua các sự kiện thì hiện tại lại được Kiều nói lên bằng những điển tích, điển cố giàu sức gợi vì vậy mà ta mới thấu hiểu bi kịch tình yêu của nàng chua xót, đắng cay khôn cùng!

Tình yêu ai mà chẳng từng có những kỉ niệm đẹp, những lời hẹn ước, thề nguyền nhưng với Kiều đó chỉ là quá khứ mà thôi và rồi khi nàng quay lại thực tại thì nó mới bẽ bàng, xót xa làm sao:

“Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”

Đúng như Mộng Liên Đường Chủ Nhân từng nói rằng: “Tài mà không gặp gỡ, tình mà không được hả hê. Đây là cái căn nguyên của hai chữ đoạn trường”. Bi kịch tình yêu của Kiều được nàng tâm sự với Vân chỉ mong em mình có thể cảm thông, sẻ chia. Nàng chọn cách nói điểm xuyết phải chăng là để tránh đau thương giằng xé hay là để Vân không cảm thấy khó xử? Phép trùng điệp ba từ “khi” thể hiện những kỷ niệm giữa kí ức và thực tại, đẩy đời Kiều vào miền kí ức đau thương dù cho nàng cố kìm nén. Dùng từ “khi” đẻ diễn tả sự tan vỡ là điều ta luôn bắt gặp trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du:

“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh

Giật mình mình lại thương mình xót xa”

Nhờ lối nói trùng điệp kết hợp với thủ pháp tiểu đối (ngày - đêm, quạt ước - chén thề) chúng ta có thể cảm nhận sự dở dang, bẽ bàng đến xót xa của tình yêu giữa chàng Kim. Hơn cả, nàng còn sử dụng từ ngữ chỉ thời gian: “ngày”, “đêm”. Nó chính là hoán dụ cho những kí ức tươi đẹp và rực rỡ trong đêm thề nguyền “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương”, cùng với đó là hình ảnh ước lệ “quạt ước”, “chén thề” làm cho những miền kí ức ấy dù chỉ điểm xuyết nhưng cứ như những cơn sóng dâng trào mãnh liệt trong nàng. Cấu trúc câu “Kể từ khi gặp… khi ngày… khi đêm” tạo âm điệu thơ luyến láy, nhịp điệu gấp gáp cho thấy dù Kiều đang tự bộc bạch về mối tình đầu, nhắc lại kỷ niệm tình yêu tha thiết nhưng thái độ lại không hề hạnh phúc. Phải chăng Kiều ý thức được sự ngắn ngủi, mong manh của hạnh phúc giữa cuộc đời dâu bể. Tất cả làm nổi bât bi kịch oan trái của cuộc đời Kiều: khao khát hạnh phúc thì vô biên “quạt ước, chén thề” nhưng hiện thực đời sống tàn nhẫn khủng khiếp “đứt gánh, tơ thừa” đã biến hạnh phúc thành chốc lát, còn lại chỉ là xót xa, tiếc nuối khôn nguôi. Kiều khẩn thiết nhờ em thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng, Kiều càng đặt tình cảm của mình cho mối tình này thì tâm tư, nguyện vọng dành cho Vân càng nhiều. Đồng thời khi hồi tưởng lại, Kiều thể hiện tình cảm đầy tiếc nuối như mới hôm qua.

Kiều không chỉ dùng câu chuyện tình yêu để lay động em gái, Kiều còn dùng những lí lẽ tình và lý để thuyết phục Vân đồng ý:

“Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Chỉ với hai từ “sóng gió”, Nguyễn Du đã làm hiện lên trong đầu ta cả một bầu trời liên tưởng. Đó là khó khăn, là bão tố, là mây đen bắt đầu xuất hiện và bao trùm lên cuộc đời của nàng. Là người chị cả, Kiều đành hy sinh bản thân mình để gia đình được yên ổn, êm ấm bởi lẽ: “có ba trăm lạng việc này mới xuôi”. Kể từ đây, mối tơ duyên của nàng đã đứt, nhưng đó cũng chỉ là khởi đầu, Nguyễn Du đã từng đưa ra những điềm báo tai ương cho đời Kiều, trong đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” khi miêu tả Thúy Vân “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da” thiên nhiên nhường bước trước vẻ đẹp của nàng, dự báo một cuộc đời êm ả, còn Thúy Kiều “Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”, thiên nhiên nổi loạn hờn ghen trước vẻ đẹp của nàng, dự báo về một cuộc đời bão tố. Và giờ đây là thời điểm “sóng gió” bắt đầu gợn lên, cuộc đời nàng đã sang một trang mới, u ám hơn nhiều. Không chỉ nói lên tiếng lòng của nàng Kiều mà Nguyễn Du còn lên án tố cáo chế độ phong kiến đã cướp đi cảnh yên bình của rất nhiều gia đình:

“Thuở trời đất nổi cơn gió bụi

Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên

Xanh kia thăm thẳm tầng trên

Vì ai gây dựng cho nên nỗi này”

Bên cạnh các thế lực thống trị và lũ người hung ác, đó còn là sức mạnh của đồng tiền “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham”. Chính vì tiền mà bọn quan lại tham ô đẩy gia đình Kiều sa vào tai họa, vì tiền mà bọn buôn người “cò kè bớt một thêm hai” đã đẩy Kiều vào chốn bùn nhơ, lũ lưu manh bắt cớ đánh đập người vô tội:

“Một ngày lạ thói sai nha

Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”

Nàng Kiều “tài sắc vẹn toàn” đáng ra phải được sống trong cảnh yên bình. Thế mà giờ đây, nàng phải chịu lấy tai ương của số phận, của xã hội phong kiến chèn ép, đè nén, bóp méo cuộc sống trọn vẹn của người dân:

“Bắt phong trần phải phong trần

Cho thanh cao mới được phần thanh cao”

Số phận của Kiều cũng chính là mẫu số chung của thân phận người phụ nữ trong chế độ phong kiến xưa:

“Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

Chữ Hiếu là một phạm trù đạo đức trong nho giáo, vì hiếu con người ta có thể phải dẹp bỏ tình riêng và Kiều cũng vậy, nàng không cho phép mình trở thành một người con bất hiếu. Nàng đành chôn vùi tình cảm riêng tư để báo hiếu cho cha, cho mẹ:

“Nỗi riêng riêng những bàng hoàng

Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn”

Ở đời phàm, người ta thường hi sinh tất cả vì tình yêu bởi ai chẳng khát khao được gắn bó với người mình yêu, được hạnh phúc bên cạnh họ. Nhưng với Kiều, khát khao ấy lại mãnh liệt gấp bội, vì tình yêu mà nàng đã từng vượt qua cả lễ giáo phong kiến khắt khe để: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” vậy mà giờ đây đành lòng vứt bỏ thật đau đớn xiết bao! Nhưng vì:

“Duyên hội ngộ, đứt cù lao

Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn?”

Trăm nghìn nuối tiếc, đắng cay, nàng cố cầm lòng, nén lại tiếng khóc để bình tĩnh bắc một bàn cân chập chờn hai phía Hiếu - Tình. Kiều đã có trong lòng mình sự lựa chọn giữa Hiếu và Tình (hy sinh chữ Tình vì chữ Hiếu cho nên mới có cuộc trao duyên), nhưng sao trong lời nói vẫn có phần phân vân: “khôn lẽ”! Những lời này khiến Vân phải suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối với lời ủy thác của chị.

Cái điều mà Kiều muốn thưa với Vân chính là bi kịch tình yêu tan vỡ của mình và tha thiết cầu khẩn Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng:

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”

Có lẽ chỉ có những người con gái mang trong mình nhân cách cao đẹp như Kiều mới đủ sức mạnh để làm những điều tưởng chừng khó khăn nhất như thế! Ta đều biết rằng chị em Thúy Kiều đều là những thiếu nữ tuổi mười tám đôi mươi: “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” nhưng rồi trong đêm trao duyên ấy nàng Kiều lại nhắn nhủ với Vân rằng: “Ngày xuân em hãy còn dài” phải chăng nàng có ẩn ý gì? Và rồi khi ta biết được cái ẩn ý ấy thì mới thật chua xót làm sao! Với Kiều, Vân đang được tự do, ngày tháng tuổi trẻ vẫn còn rộng, còn dài nhưng với Kiều nàng đã phải bán mình chuộc cha chẳng khác nào bán đi chính tuổi xuân, hạnh phúc của đời mình? Tính từ “xót” mang sắc thái đặc biệt diễn tả mối quan hệ ruột thịt, cùng huyết thống, khi dùng tính từ ấy, Kiều như lay động tấm chân tình, như chạm đến tình máu mủ thiêng liêng vậy thì sao Vân không động lòng chứ? Từ “xót” ở đây còn giúp ta hiểu được Vân nhận lời trao duyên vì xót thương cho chị chứ không phải vì tình yêu, còn với Kiều, nàng xót vì Vân phải “lấy người mình không yêu - lấy người không yêu mình”. Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du cũng từng dùng từ “xót” khi thể hiện nỗi lòng của cha mẹ Kiều khi nhớ thương con cái đang biền biệt phương xa:

“Xót con lòng nặng chề chề”

Lời lẽ thuyết phục như chạm vào các cung bậc cảm xúc để ngân vang lên âm thanh của sự đồng cảm khiến nàng như được an ủi phần nào trước cái bi kịch tình yêu, trước thân phận bất hạnh của chính mình. Cùng với việc sử dụng phép đối “Tình máu mủ - lời nước non” thể hiện tình cảm sâu nặng của Kiều và Vân, việc Vân chấp nhận lời trao duyên có ý nghĩa như việc nước thế mới thấy Kiều trân trọng em mình ra sao.
Kiều còn viện cả cái chết của mình ra để nói lên sự toại nguyện nếu Vân nhận lời thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng:

“Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Thành ngữ “thịt nát xương mòn” nói lên Kiều tự ý thức về thân phận hồng nhan bạc mệnh, dự cảm về bi kịch cuộc đời mình một cách sâu sắc. Kiều dùng cách nói “Ngậm cười chín suối”, “thơm lây” như muốn dồn hết công lao cho em, phủ nhận hết công sức của mình. Qua đó, nàng bày tỏ sự biết ơn và như một sự khích lệ đối với nàng Vân. Lời thỉnh cầu của Kiều vừa chân thành, vừa thuyết phục, vừa thiết tha, vừa ràng buộc, đưa Vân đến tình thế mặc nhiên phải chấp nhận. Nàng Kiều của Nguyễn Du tỏ ra “sắc sảo mặn mà” cả trong bi kịch đau đớn nhất của mình. Mượn cả cái chết “ngậm cười chín suối” để nói lên sự thanh thản của mình nếu như Vân nhận lời nối duyên với chàng Kim. Cách nói mỗi lúc một nặng, khiến Vân hiểu rõ được điều mình nên làm, qua đó một lần nữa cho người đọc thấy sự nhạy bén, thông minh của Kiều trong những lập luận khéo léo, uyển chuyển và sắc bén của mình. Chỉ một nỗi đau nhưng được soi từ nhiều phía và phía nào cũng là đối nghịch giữa còn- mất; hợp- tan; âm- dương cách trở. Kẻ đáng thương duy nhất chính là nàng. Đến đây, lời trao duyên đã hóa thành lời trăng trối, là ước nguyện cuối cùng của người trao. Qua những lý lẽ mà Kiều giãi bày với Vân, có thể thấy: Kiều không hoàn toàn ép buộc mà chủ yếu kêu gọi lòng thương, sự đồng cảm và tinh thần tự nguyện của Vân.

Nói xong lời thỏa nguyện bình sinh và hàm ơn đối với em, Kiều làm nốt cái phần việc cuối cùng và khó khăn nhất: tra kỷ vật cho Vân. Tay Kiều thì trao nhưng lòng Kiều còn cố níu kéo giữ lại một chút gì cho mình:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung.”

Nhịp điệu đã không còn hoàn toàn bình thường nữa. Nếu ở câu một, nhịp điệu vẫn còn phẳng lặng thì ở câu sau “Rõ ràng là Thúy Kiều bắt đầu lúng túng” (Nguyễn Lộc). Biết phân biệt thế nào những cái không dễ rạch ròi? “Tờ mây”, “chiếc vành” là những vật hữu hình, nhưng nó lại là tiếng nói bền bỉ, lặng thầm của những khái niệm vô hình - giây phút gặp gỡ và thề nguyền giữa Kim và Kiều (Giở kim thoa với khăn hồng trao tay, Tiên thề cùng thảo một chương). Cái bối rối trong sự phân chia của Thúy Kiều giữa “vật này” với “duyên này”. Kỷ vật có thể là chung, nhưng tình yêu của con người thì dứt khoát khó lòng mà sẻ chia. Hoài Thanh viết: “Của chung là của ai? Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ!” Biết bao giằng xé, đau đớn, chua chát trong hai chữ “của chung” đầy phi lí ấy. Khẩn khoản, van nài em nhận lời trao duyên của mình, vậy mà Kiều lại thấy mình như là kẻ bị mất, coi mình như là người mệnh bạc. Tất cả những tình cảm mâu thuẫn ấy càng làm cho tấm bi kịch tình yêu tan vỡ của Kiều thêm đau đớn. Khi nghĩ đến việc hy sinh chữ Tình vì chữ Hiếu, chắc ý nghĩ mất Kim Trọng đã đến trong nàng. Trong lúc lựa lời thuyết phục em, cảm giác mất mát ấy có đến gần hơn. Nhưng có lẽ phải đến lúc này đây, nỗi mất mát ấy mới thực sự choáng ngợp tâm hồn nàng. Còn giữ kỷ vật, ít nhiều người ta vẫn có cái ảo giác người yêu hãy còn là của mình. Chỉ đến khi cầm kỷ vật trao đi cho kẻ khác, người ta mới thật sự rơi vào hụt hẫng. Nỗi mất mát ấy mới thật sự khiến cho con người thấy trống hoang cả cõi lòng. Bắt đầu từ giây phút này, cùng với kỷ vật này, chàng Kim sẽ vĩnh viễn thuộc về người khác. Câu thơ như một nỗi nghẹn ngào!

Hoài Thanh từng nói rằng: “Nếu cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ca ngợi vẻ đẹp của con người thì cảm hứng nhân đạo là bao trùm”. Thật vậy, khép lại mười bốn dòng thơ đầu ta thấy sự đồng cảm, xót xa trước nỗi đau khi tình yêu tan vỡ của Kiều, là sự ngợi ca phẩm chất tốt đẹp về một nàng Kiều vừa có hiếu, vừa có tình, biết cảm thông, biết hi sinh. Đồng thời Nguyễn Du còn tố cáo xã hội vì đồng tiền có sức mạnh vạn năng chi phối và đày ảo con người, “đồng tiền lăn tròn trên mọi đáy lương tâm” (Balzac). Ngoài ra, bằng tài năng miêu tả nội tâm nhân vật, sử dụng ngôn ngữ điêu luyện kết hợp giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học đồng thời sử dụng hình ảnh giàu giá trị biểu cảm. Qua đó nàng Kiều hiện lên như một lý tưởng, một khát vọng của thời đại. Vì thế ta mới hiểu được tại sao Huỳnh Thúc Kháng sau này có viết rằng: “Truyện Kiều về mặt mỹ thuật rõ là cực tốt, mà ở trong đựng nhân vật có chất độc”

Đoạn trích Trao duyên đã cho ta thấy cuộc đời nàng Kiều là một chuỗi đau thương nối tiếp đau thương. Để rồi, Nguyễn Du đã cúi xuống, nâng niu và đồng cảm với thân phận của nàng. Ông đã đi sâu, đã len lỏi vào từng ngóc ngách tâm hồn của nàng để cảm thông và dành cho nàng một sự trân trọng đặc biệt. Nếu như đương thời chỉ có một Hồ Xuân Hương “học rộng mà thuần thục, dùng chữ ít mà đầy đủ, từ mới lạ mà đẹp đẽ, thơ đúng phép mà văn hóa” hay một Phạm Thái tài hoa mà ngang tàn, ngang tàn mà chân thực, chân thực mà ngông nghênh, bảo thủ thì đương nhiên cũng chỉ có một Tố Như “lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy”, một Tố Như “tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh như hệt, đàm tình đã thiết, con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời” (Mộng Liên Đường, Bài tựa “Truyện Kiều”).

“Một ngày kia Truyện Kiều mới phóng ra hết lượng tử của mình Những vỉa thơ nhân loại quên đi, và phát hiện ra những hồn thơ ẩn náu Hồn ta ơi! Hôm nay ngươi thanh bình mà ngày mai giông bão. Trong câu Kiều xưa, ta tìm ra Nguyễn Du mà tìm cả chính mình.” (Đọc Kiều, một ngày kia - Chế Lan Viên)

Tản Đà từng nhận xét: “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như đây. Đoạn này thật lâm ly mà như thế mới hết tình sự”. Chỉ một đoạn Trao duyên, từ lời nói đến hành động, lúc lý trí, lúc tình cảm, khi bình tĩnh, lúc van xin… đủ các cung bậc của mênh mông thế giới tinh thần. Thúy Kiều đã hiện lên như một bức chân dung phẩm hạnh cao quý, một nỗi đau nhân bản thẳm sâu:

“Người sao hiếu nghĩa đủ đường

Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi”

Cảm thông, trân trọng nàng Kiều, chúng ta càng cảm thông, trân trọng cái tài, cái đức và bao trùm tất cả là cái tâm của Nguyễn Du. Vì có ở đâu xa, chính nàng Kiều được sinh ra từ trái tim thi sỹ, một trái tim mà “Nỗi đau anh trùng nỗi đau nhân loại - Mượn câu Kiều anh hóa thạch cuộc đời riêng” (Chế Lan Viên). Từ bao năm nay, đoạn Trao duyên, với hình tượng nhân vật nàng Kiều đẹp đẽ, sống động, đã “hóa thạch” trong lịch sử văn chương Việt Nam, trong vạn triệu tâm hồn giàu tình thương và lòng mến trọng nhân nghĩa là ở những khía cạnh nội dung, nghệ thuật, những cảm hứng thẩm mỹ như vậy đó!

14 câu đầu Trao duyên - mẫu 7

Một niềm tự hào trong lịch sử văn học Việt Nam chính là đại thi hào Nguyễn Du. Một trong số những tác phẩm để đời, mang tên tuổi của Nguyễn Du lên tầm cao phải kể đến tác phẩm "Truyện Kiều". Được phổ thơ dựa trên cốt truyện của "Kim Vân Kiều truyện", "Truyện Kiều" thông qua câu chuyện cuộc đời thăng trầm của nhân vật chính Thúy Kiều phản ảnh một xã hội mục nát bất công, nhẫn tâm dồn ép con người vào bước đường cùng. Đoạn trích “Trao duyên” là lời Thúy Kiều nói cùng em gái vào đêm trước khi bán mình, lấy tiền cứu cha. Nội dung cuộc nói chuyện là những lời Thúy Kiều gửi cho em mối tình dang dở với Kim Trọng, nhờ em giúp hoàn thành trọn nghĩa tình với người yêu. Lý lẽ thông minh nhưng đầy chua xót được khắc họa rõ nét nhất qua mười bốn câu đầu của đoạn trích:

"Cậy em em có chịu lời,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."

Nhan đề đoạn trích là Trao duyên nhưng không mang một màu lãng mạn, thơ mộng như bài thơ tình. Cảm nhận 14 câu đầu đoạn trích Trao duyên t thấy Thúy Kiều chỉ biết nén đau thương, cho vuông tròn hiếu - tình. Đành phải nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng.

Mở đầu đoạn trích trao duyên là những câu ngỏ lời chân thành, tha thiết của Kiều:

"Cậy em em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa."

Tuy "cậy" và "nhờ" đều có nghĩa là nhờ vả, xin sự giúp đỡ của một ai đó, nhưng cách Nguyễn Du đã khéo léo chọn từ "cậy" đã bộc lộ được thái độ của Kiều nhờ với tất cả sự hy vọng và tin tưởng. Cũng như vậy, từ "chịu" được tác giả sử dụng thay vì từ “nhận” dù chúng đồng nghĩa. Bởi vì khác với từ "nhận", từ "chịu" còn thêm một tầng ý bắt buộc, khiến cho người được nhờ vả khó nói lời từ chối.

Trong hoàn cảnh nhờ vả một việc hết sức quan trọng đối với cuộc đời hai chị em thì cách tác giả dùng từ rất chính xác. Thời gian cấp bách cùng sự hệ trọng của chuyện nên Kiều hy vọng Thúy Vân không từ chối, do đó lời van nài cũng có chút ép buộc. Tuy Kiều cũng hiểu việc nhờ Thúy Vân kết duyên với Kim Trọng có sức ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời của 3 người. Nàng vẫn quyết tâm muốn sống trọn nghĩa cho người yêu. Bỏ qua lẽ thường cùng những cảm xúc cá nhân, nàng "lạy" và "thưa" đối với em mình. Kiều bất chấp dùng chính lễ nghi lạy trước thưa sau, thay bậc đổi ngôi này để ràng buộc Vân.

Sau khi lạy xong, Kiều mới mở lời giãi bày hoàn cảnh với em, nói ra ý định muốn em thay mình kết duyên với Kim Trọng:

"Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em."

Thúy Kiều dùng thành ngữ "đứt gánh tương tư" ám chỉ đoạn tình yêu dang dở với chàng Kim Trong. Tình cảm của Kiều với Trọng đang say đắm chưa kịp tới hồi viên mãn thì sóng gió đã ập tới gia đình, đành phải dở dang. Người con gái si tình là Kiều đau khổ biết mấy, nhưng vẫn nghĩ cho đại cục hi sinh cứu cha, trao mối duyên lại cho em. Nàng dùng điển tích về "keo loan" để thể hiện ý định muốn Thúy Vân hàn gắn câu chuyện tình giang dở của chị, kết duyên với Kim Trọng. Nàng cũng bày tỏ sự ray rứt đối với em, đem mối tình sâu đậm bản thân gìn giữ lâu biến thành một mối "tơ thừa" giao phó cho Thúy Vân, "mặc" cho Thúy Vân  định liệu.

Lúc này đây bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu, kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về khiến nàng đau đớn khôn nguôi, không dằn được lòng mình, tâm sự với em:

"Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề."

Từ "khi" được lặp lại ba lần gợi cho người đọc nghĩ đến tình cảm sâu nặng giữa Kiều với chàng Kim, nhớ đến từng khoảnh khắc họ bên nhau, quá trình mà cuộc tình này nảy mầm nở hoa đẹp biết bao. Với nghệ thuật liệt kê "ngày quạt ước", "đêm chén thề" những kỉ niệm đẹp đẽ ấy như sống lại một lần nữa trong lòng Kiều.

Phân tích 14 câu đầu trao duyên ta thấy những kí ức ấy tưởng chừng vô cùng ngọt ngào, giờ đây khi nhớ đến lại mang một nỗi đau không thể nào nguôi trong lòng nàng. Đặc biệt là khi nghĩ đến nguyên nhân của nỗi đau này:

"Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai."

"Sóng gió bất kì" liên tục ập đến khi Kim Trọng phải về quê chịu tang chú, gia đình Kiều lại bị mắc oan, cha và em Kiều bị bắt, chỉ khi Kiều bán thân dùng tiền ấy hối lộ, chuộc cha thì mới mong qua cơn hoạn nạn. Việc đó cũng đồng nghĩa, Kiều phản bội lời thề khi xưa cùng người yêu. Hoàn cảnh trái ngang quá, buộc phải chọn một giữa hai lẽ "hiếu" và "tình".Cuối cùng chữ “hiếu” nặng ngàn cân, vì ơn sinh thành dưỡng dục, Kiều chỉ có thể hy sinh tình yêu của mình. Nàng tỏ nỗi lòng với Vân, dùng nỗi đau của mình để thuyết phục Vân, hy vọng em mình có thể đồng cảm, thấu hiểu cho và chấp nhận lời cậy nhờ của mình.

Dù những lời tỏ bày nỗi lòng cũng đã nói xong nhưng vẫn sợ Vân không đồng ý, Kiều lại dùng những thứ khác để thuyết phục em:

"Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây."

Để thuyết phục em, Kiều không ngại dùng đến tình máu mủ, cùng cái chết. Các thành ngữ "tình máu mủ", "lời nước non", "thịt nát xương mòn", "ngậm cười chín suối" được lần lượt dùng đến trong bốn câu thơ trên thể hiện sự quyết tâm của Kiều thuyết phục em cho bằng được. Đối với nàng, việc trả nghĩa cho Kim Trọng như di nguyện cuối đời nhất định phải thực hiện, chỉ cần Vân kết duyên với Kim Trọng, thì cho dù có chết đi thì Kiều cũng thấy an lòng, mãn nguyện. Tình máu mủ và cái chết ấy đã thành công trói buộc khiến cho Vân chẳng thể nào từ chối lời khẩn cầu của nàng.

Thuyết phục cùng tâm sự chuyện tình xưa đã xong. Giờ Kiều chỉ còn việc trao lại tín vật định tình thì mối duyên này sẽ thành công trao lại cho em:

“Chiếc vành với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ vật này của chung.”

Những vật chứa kỷ niệm “chiếc vành - tờ mây” như bằng chứng về một cuộc tình đẹp đẽ. Nhưng rồi hôm nay đây, trao chúng cho Vân mong em giữ lấy cũng như duyên chị đã trao cho. Từ nay, cắt đứt đoạn tình này không còn là của Kiều, chỉ có kỉ vật còn vương chút hơi ấm của Kiều thì hãy xem là “của chung”.

Sử dụng thể thơ lục bát một cách nhuần nhuyễn, đầy sáng tạo kết hợp với nhiều biện pháp tu từ, sử dụng sáng tạo thành ngữ và kết hợp tinh tế ngôn ngữ bác học với ngôn ngữ bình dân, Nguyễn Du đã khắc họa thành công nỗi dằn vặt, đau đớn khi phải hi sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu của Kiều. Đồng thời, qua tác phẩm ta còn có thể thấy được sự yêu thương, cảm thông sâu sắc của Nguyễn Du dành cho người tài hoa bạc mệnh.

Thông qua việc thể hiện nỗi đau của Kiều khi phải trao duyên tình dang dở của mình cho em, "Trao duyên" hay “Truyện Kiều” đã  mang đến độc giả cái nhìn chân thực về thời đại của tác giả, một thời đại mà con người bị đồng tiền chi phối, bị chính đồng tiền dung tục dồn ép tới đường cùng, không còn lối thoát. Chính giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc ấy mà đoạn trích, cũng như "Truyện Kiều" đã để lại trong lòng nhiều thế hệ độc giả ấn tượng sâu sắc.

14 câu đầu Trao duyên - mẫu 8

Nguyễn Du là nhà thơ, nhà văn, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của dân tộc, ông đã góp vào nền văn học Việt Nam nhiều tác phẩm xuất sắc viết bằng cả chữ Nôm và chữ Hán. “Truyện Kiều” là một trong số những tác phẩm xuất sắc nhất của ông. Mỗi trích đoạn trong “Truyện Kiều” đều để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc và đoạn trích “Trao duyên” - trích từ câu 723 đến câu 752 là một trong số đó. Đoạn trích đã thể hiện bi kịch tình yêu của Thúy Kiều, đồng thời cũng cho thấy phẩm chất cao đẹp của nàng.

Mở đầu đoạn trích, tác giả đã cho người đọc cảm nhận được nỗi lòng của Thúy Kiều khi nàng tìm cách thuyết phục để trao duyên cho Thúy Vân - em gái của mình. “Trao duyên” trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng là điều khó nói và Thúy Kiều cũng không ngoại lệ, để rồi nàng đã thật ý tứ và tế nhị tìm lí do để thuyết phục Thúy Vân. Hai câu thơ đầu tiên của đoạn trích đã gợi lên tư thế, dáng điệu của Thúy Kiều khi thuyết phục em.

Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Tác giả Nguyễn Du đã có cách sử dụng từ ngữ thật độc đáo và gợi lên thật nhiều ý nghĩa. “Cậy” là từ ngữ dùng để diễn tả thái độ van nài, năn nỉ, như phó thác tất cả vào người đối diện. “Thưa” là thái độ kính cẩn, của người bề dưới nói với người bề trên, của người chịu ơn đối với người ban ơn. Chính việc sử dụng hai từ ngữ này đã cho thấy tư thế, vị trí của Thúy Kiều đối với Thúy Vân.

Kiều lạy, thưa Thúy Vân bởi lẽ hơn ai hết, Kiều hiểu trong hoàn cảnh hiện tại, Kiều đang phải nhờ vả, phải mang ơn em gái của mình khi nhờ em nối duyên với một người mà em gái cô chưa một lần gặp mặt, quen biết. Kiều lạy thưa em gái mình chính là lạy thưa một ân tình, một đức hi sinh cao cả. Hành động ấy của Kiều tưởng chừng như vô lí, trái với luân thường đạo lí nhưng trong hoàn cảnh của Kiều nó lại thật hợp lí bởi Thúy Vân đang ở vị trí của người ân nhân.

Thúy Kiều lạy, thưa Thúy Vân xong rồi nàng đã giãi bày nỗi niềm của mình với em và có lẽ đó cũng chính là những lí do để thuyết phục Thúy Vân, trao duyên cho em.

“Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa gặp em

Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”

Sáu câu thơ, ngắn thôi, nhưng có lẽ cũng đủ để Thúy Kiều nói hết nỗi lòng, hoàn cảnh của mình ở thời điểm hiện tại. Chuyện tình yêu của Thúy Kiều đang độ mặn mà, nồng thắm với biết bao ước thề, ấy vậy mà “giữa đường đứt gánh tương tư”, tai họa ập đến, chuyện tình đẹp như mơ ấy dường như đã “đứt gành rồi”. Thúy Kiều đang đứng giữa sự lựa chọn giữa “hiếu” và “tình” - một sự lựa chọn không mấy dễ dàng. Giờ đây, Thúy Kiều không còn sự lựa chọn nào khác, nàng chỉ còn biết trông chờ vào Thúy Vân, nhờ em “chắp mối tơ thừa”.

Hai chữ “mặc em” như đổ dồn tất cả lên vai Thúy Vân, như một lời khẩn cầu, một sự phó thác tha thiết từ tận đáy lòng của Kiều. Không chỉ giãi bày với em về cảnh ngộ của mình hiện tại, Thúy Kiều còn kể lại thật ngắn gọn nhưng cũng thật đầy đủ về chuyện tình của mình với chàng Kim - một mối tình với biết bao thề hẹn, bao ước thề nhưng giờ đây đã giang dở. Đồng thời, để tăng thêm phần thuyết phục, Thúy Kiều đã đưa ra thêm những lí lẽ khác, thuyết phục Thúy Vân bằng tình cảm chị em, tình máu mủ:

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ, thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Kiều biết Vân vẫn còn trẻ, “ngày xuân còn dài” với biết bao yêu thương, hạnh phúc đang đón chờ nhưng vì tình chị em, tình máu mủ ruột thịt mà đồng ý thay mình bén duyên với Kim Trọng. Thêm vào đó, với việc sử dụng thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”, Kiều đã nói về cái chết của mình - một cái chết đầy mãn nguyện, thể hiện sự cảm kích của mình đối với Vân.

Như vậy, với cách lập luận chặt chẽ, Thúy Kiều đã nhờ cậy, thuyết phục Thúy Vân thay mình nối duyên với Kim Trọng. Đồng thời, qua đó cho thấy diễn biến tâm trạng đầy phức tạp và sự sắc sảo, thông minh, giàu đức hi sinh và sự nghĩa tình của Thúy Kiều.

Sau khi thuyết phục Thúy Vân, Kiều đã trao lại kỉ vật tình yêu của mình với Kim Trọng cho em.

“Chiếc thoa với bức tờ mây

Duyên này thì giữ vật này của chung”

Đọc những câu thơ trên, ắt hẳn người đọc sẽ không thể nào không cảm thấy đau đớn, xót xa cho số phận, tình cảnh của Thúy Kiều. Có thể dễ dàng nhận thấy, “chiếc thoa”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền” là “của tin”, là vật đính ước thề nguyền, là kỉ vật tình yêu đã chứng kiến cho chuyện tình của Thúy Kiều và Kim Trọng.

Ấy vậy mà giờ đây Thúy Kiều đành dứt lòng để trao lại cho em, chúng trở thành “của chung” của Thúy Kiều, Kim Trọng và cả của Thúy Vân nữa. Thứ duy nhất Kiều giữ lại cho mình đó chính là “duyên này” - là tình yêu của Thúy Kiều và Kim Trọng.

Tóm lại, 14 câu thơ đầu củađoạn trích “Trao duyên” bằng hình thức thơ độc đáo, ngôn ngữ vừa trang trọng, vừa giản dị, sử nhiều thành ngữ quen thuộc đã thể hiện một cách chân thực và rõ nét nỗi đau đớn, xót xa của Thúy Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Đồng thời, qua đó thấy được bi kịch tình yêu của Thúy Kiều và hơn ai hết, Nguyễn Du cảm thấy đau đớn, xót xa về điều đó.

14 câu đầu Trao duyên - mẫu 9

“Trao duyên” là nỗi đau lớn và cũng chính là bi kịch đầu tiên trong cuộc đời lưu lạc 15 năm của nàng. Đoạn trích sau là những lời Kiều nói với Vân nhằm thuyết phục Vân thay mình gá nghĩa cho Kim Trọng.

“… Cậy em em có chịu lời,

Duyên này thì giữ vật này cửa chung.”

Sau đêm thề nguyền, Kim Trọng phải về Liêu Dương để hộ tang chú. Gia đình Thúy Kiều bị thằng bán tơ vu oan giá họa. Kiều mở lời trao duyên rất đặc biệt (2 câu đầu). Trao duyên là một chuyện khó nói, cho dù là nói với em gái mình cũng vậy. Hơn nữa, đây không phải là tình yêu thoáng qua mà đã thề nguyền vàng đá, kết giải đồng tâm. Nó trở thành thiêng liêng, khó có thể đổi thay. Nay nhờ Vân thay mình kết nghĩa cùng Kim Trọng.

Nguyễn Du là một bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ. Điều đó có thể dễ dàng thấy được qua hai câu thơ trên. “Cậy” và “nhờ” đều có nghĩa là nhờ vả, xin sự giúp đỡ của một ai đó, nhưng thay vì sử dụng từ “nhờ”. Nguyễn Du đã khéo léo chọn từ “cậy”, bởi vì từ “cậy” này có nghĩa là nhờ với tất cả sự hy vọng và tin tưởng.

Kiều dùng chính lễ nghi lạy trước thưa sau. Thay bậc đổi ngôi này để ràng buộc Vân. Nàng là phận làm chị, nhưng lại bảo Vân “ngồi lên cho chị lạy”. Giờ đây, nàng không còn là người chị của Vân nữa. Nàng chỉ đơn thuần là một người đang nhờ cậy người khác, và Vân sẽ là người giúp nàng.

Tiếp đó, Kiều giao phó, ủy thác trách nhiệm cho em về duyên tình dang dở của mình:

“Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.”

“Gánh tương tư” là tình yêu sâu sắc của Kiều với Kim Trọng. “Giữa đường đứt gánh” là thành ngữ chỉ sự tan vỡ đột ngột của tình yêu. Tơ duyên là của chị, khi đến với em nó đã là “tơ thừa”, “thừa” nghĩa là bị đứt, vỡ - tơ duyên bị đứt đoạn.

Bao nhiêu kỉ niệm ngày xưa của mối tình đầu, kỉ niệm đẹp đẽ của một thời ào ạt trở về khiến nàng đau đớn khôn nguôi. Nàng không dằn được lòng mình, nàng kể vắn tắt với em về tình cảnh của mình:

“Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”

“Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”

Điệp từ “khi” nhấn mạnh tình cảm sâu nặng, bền chặt giữa Kiều với chàng Kim. Với nghệ thuật liệt kê “ngày quạt ước”, “đêm chén thề” diễn tả những kỉ niệm tình yêu ngọt ngào, đẹp đẽ, trong sáng của Kiều cùng Kim Trọng. Hai người đã tự do đính ước trao kỉ vật và uống chén rượu thề nguyền, hẹn ước nhưng giờ đây tất cả đã trở thành quá khứ

Đã tỏ bày nỗi lòng nhưng vẫn sợ Vân không đồng ý, Kiều dùng lí lẽ, viện nhiều lý do để thuyết phục em. Kiều dùng tình máu mủ, ruột thịt để ràng buộc em và bằng thái độ mãn nguyện của mình dẫu có chết đi:

“Ngày xuân em hãy còn dài,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

“Ngày xuân” là hình ảnh ẩn dụ chỉ tuổi đời cụ thể là tuổi trẻ. “Tình máu mủ” là tình cảm huyết thống, ruột rà. Đúng vậy Vân vẫn còn trẻ, có cả một cuộc đời phía trước để vun đắp cho hạnh phúc. Hơn nữa chị và em là tình cảm ruột thịt “một giọt máu đào hơn ao nước lã” nên xin em hãy vì chị, vì tình chị em mà “thay lời nước non”.

Sau khi tìm cách thuyết phục và trao duyên cho em, khi thấy Vân đã cảm thông, Thúy Kiều từ từ trao lại những kỉ vật tình yêu:   

“Chiếc vành với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ vật này của chung.”

Thúy Kiều từ từ trao lại những kỉ vật tình yêu “chiếc vành”, ”bức tờ mây” rồi đến ”phím đàn”, ”mảnh hương nguyền” cho Thúy Vân. Những kỷ vật tình yêu thiêng liêng đối với Kiều giờ đã thành quá khứ xa xôi. Trớ trêu thay của tin vẫn còn đó mà người lại mất: “Mất người còn chút của tin”, lời nói của Kiều đề cập đến cái chết mà vẫn mang âm điệu trầm trầm như là chuyện tất yếu. Khiến cho người đọc cảm thấy đau lòng.

Đó cũng là tài năng miêu tả tâm lí độc đáo của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Nhịp thơ 4/4 đứt đoạn như một tiếng nấc uất ức nghẹn ngào thể hiện nỗi đau giằng xé. Sự mâu thuẫn giữa lí trí và tình cảm trong lòng Kiều.

14 câu đầu Trao duyên - mẫu 10

“Truyện Kiều” của Nguyễn Du không còn là tác phẩm xa lạ đối với các thế hệ bạn đọc. “Trao duyên” là một trong những đoạn trích tiêu biểu của thiên kiệt tác này. Nhận xét về “Trao duyên”, Tản Đà từng viết: “Trong cả quyển Kiều, văn tả tình không mấy đoạn dài hơn như vậy. Đoạn này thật lâm ly, mà như thế mới biết hết tình sự”.

“Trao duyên” là đoạn thơ bắt đầu từ câu 723 đến câu 752 của “Truyện Kiều”. Đoạn trích đã khắc họa những tâm trạng đớn đau, giằng xé của Thúy Kiều khi nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng để làm trọn chữ “tình”. Ngay từ nhan đề, đoạn trích đã gây nên sự tò mò cho bạn đọc.

Chúng ta thường trao lại cho người khác vàng bạc, châu báu hay những thứ vật chất dễ nhìn thấy, dễ cầm nắm chứ mấy ai lại trao cho người khác thứ khó xác định, khó hình dung như trao duyên? “Duyên” là thứ con người khó có thể lí giải một cách thỏa đáng và nó rất khó để định hình. Vậy mà Thúy Kiều lại có hành động trao duyên, phải chăng có điều gì khó nói, uẩn khúc ở đây?

Phải từ bỏ tình yêu của mình là điều không ai mong muốn nhưng trong trường hợp này, Thúy Kiều không thể làm khác. Nàng buộc phải hi sinh tình cảm, hạnh phúc riêng tư của bản thân để chuộc cha và em trai. Đêm cuối cùng ở nhà trước khi theo Mã Giám Sinh ra đi, Thúy Kiều đã nhờ cậy Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng:

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

“Cậy” và “nhờ” là hai từ đồng nghĩa nhưng tại sao trong trường hợp này, Thúy Kiều lại nhờ từ “cậy”? Ngoài ý nghĩa nhờ vả, mong muốn người khác giúp đỡ mình thì từ “cậy” còn hàm chứa cả lòng tin tưởng, sự hi vọng vào người được nhờ vả của chủ thể. Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em ruột, vì thế nàng Kiều đã dốc hết lòng tin để gửi gắm mối duyên tình.

Thanh trắc ở từ “cậy” khiến âm hưởng câu thơ trở nên nặng nề hơn, đồng thời cũng thể hiện mức độ quan trọng của việc nhờ vả. Người được nhờ có thể nhận lời hoặc từ chối giúp đỡ nhưng trong trường hợp này, Thúy Kiều đã đặt Thúy Vân vào hoàn cảnh mà nàng chỉ có thể “chịu lời”.

“Chịu lời” là một sự chấp nhận bắt buộc, không còn sự lựa chọn nào khác. Biết mình đã khiến Thúy Vân rơi vào hoàn cảnh khó xử và có lẽ sẽ khiến Thúy Vân phải chịu nhiều thiệt thòi nên nàng đã dùng lễ nghi trang trọng để bày tỏ nỗi lòng của mình với em. “Lạy”, “thưa” là những lễ nghi trang trọng thường dùng đối với các bậc bề trên trong xã hội phong kiến, đồng thời hành động ấy cũng được dành cho những bậc ân nhân, những người có ơn đối với mình.

Trong trường hợp này, Thúy Vân là người mà Thúy Kiều sẽ mang ơn suốt cả cuộc đời nên hành động mời em gái “ngồi lên” để mình “lạy”, “thưa” cũng là điều dễ hiểu. Chuyện tình yêu của nàng đang tốt đẹp thì bỗng nhiên tai ương xảy đến:

“Giữa đường đứt gánh tương tư

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

“Gánh tương tư” bị “đứt” giữa đường thật đột ngột, đây là điều mà Thúy Kiều không ngờ tới. Hình ảnh “gánh tương tư” chính là ẩn dụ cho mối tình thắm thiết đó. Chỉ còn đêm nay là đêm cuối cùng ở nhà bởi ngày mai nàng đã trở thành vợ lẽ của người khác, tình yêu với Kim Trọng chỉ còn trong kí ức chứ không thể nào tiếp tục được nữa.

Nhưng Thúy Kiều không phải là kẻ bạc tình, bạc nghĩa, nàng đã nhờ cậy Thúy Vân “chắp mối tơ thừa”. Tình yêu ấy đối với Thúy Kiều có thể là một tình yêu đẹp nhưng đối với Thúy Vân thì đó có thể là “tơ thừa” vì nàng không hề có tình cảm với Kim Trọng cũng như không liên quan đến mối tình Kim - Kiều.

Vậy mà giờ đây, nàng phải thay chị kết duyên với một người mà mình không hề yêu, hoàn cảnh ấy thật khó xử. Dân gian có câu “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên”, duyên là thứ con người không nên ép buộc nhưng Thúy Vân là người mà Thúy Kiều tin tưởng nhất, ngoài Thúy Vân ra thì không ai có thể giúp nàng chuyện này. Chỉ có Thúy Vân mới có thể thay Kiều kết duyên cùng chàng Kim và cũng chỉ có Thúy Vân mới khiến nàng yên tâm gửi gắm mối duyên tình.

Thúy Kiều để “mặc em” quyết định nhưng thực chất là phó thác, ép buộc Thúy Vân phải đồng ý giúp đỡ. Nàng muốn Thúy Vân hãy dùng thứ keo gắn chắc được chế từ máu của loài chim loan để nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Không chỉ bằng lời nói, lễ nghi trang trọng mà Thúy Kiều còn kể cho Vân nghe chi tiết chuyện tình yêu của mình để thuyết phục em:

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình hai lẽ khôn bề vẹn hai”

Những đôi trai gái yêu nhau thường hay tặng nhau chiếc quạt vì chiếc quạt có hai mặt giấy hoặc lụa được dán áp sát vào nhau tượng trưng cho sự gắn kết, hòa hợp, Thúy Kiều và Kim Trong cũng như vậy. Thúy Kiều đã tặng Kim Trọng chiếc quạt trong đêm thề nguyền, ước hẹn. Điệp từ “khi” được lặp lại ba lần đã cho thấy tình cảm của họ thật khăng khít, sâu nặng. “Quạt ước”, “chén thề” gợi nhắc nàng nhớ đến đêm thề nguyền thiêng liêng ấy:

“Tiên thề cùng thảo một chương

Tóc mây một món dao vàng chia đôi”

Lời thề “Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương” đến nay đã không thể thực hiện bởi “sóng gió bất kì”. Trong hoàn cảnh éo le như vậy, giữa chữ “hiếu” và chữ “tình”, nàng bắt buộc chỉ được chọn một. Và với sự hiếu thảo của một người con, nàng đã chọn chữ “hiếu” còn chữ “tình” nàng trông cậy Thúy Vân nhận lời giúp mình.

Trong xã hội phong kiến, có mấy ai làm trọn vẹn được cả “tình” cả “hiếu” và Thúy Kiều cũng vậy, nàng thật vị tha khi luôn nghĩ cho người khác mà quên đi bản thân mình. Sự lựa chọn chữ “hiếu” của nàng cũng là điều hợp tình hợp lí bởi cha mẹ đã dành cả cuộc đời để chăm lo cho mỗi chúng ta, công ơn ấy chúng ta không thể nào đền đáp hết. Nàng thực sự là “người thục nữ đủ đường hiếu nghĩa” (Chu Mạnh Trinh). Tha thiết mong muốn Thúy Vân chấp nhận lời khẩn cầu của mình, Thúy Kiều đã dùng những lí lẽ xác đáng:

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

So sánh với Thúy Kiều thì những ngày xuân của Thúy Vân vẫn còn dài, Thúy Vân hoàn toàn có thể giúp được việc mà Thúy Kiều nhờ vả. Hơn nữa, Thúy Kiều còn nhắc tới cả “tình máu mủ”, tình chị em ruột thịt thì làm sao Vân có thể từ chối. Ở một thế giới khác, Kiều vẫn vui vẻ, mãn nguyện vì em đã “chắp mối tơ thừa” giúp mình.

Tâm trạng ấy đã được Nguyễn Du thể hiện qua thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”. Dù nàng ở chốn âm phủ, cửu tuyền thì cũng được “thơm lây” với hạnh phúc của Thúy Vân và Kim Trọng. Nhắc đến cái chết của chính mình, Thúy Kiều đau đớn biết nhường nào. Dù không muốn thì nàng cũng trao lại những kỉ vật tình yêu của mình để em gìn giữ, trân trọng mối tơ duyên đó:

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung.”

Người ta thường nói mối tình đầu là mối tình đẹp nhất nhưng cũng là mối tình gây cho ta nhiều đau khổ nhất, điều ấy quả không sai. Mối tình đầu với Kim Trọng đẹp đẽ, thắm thiết là thế mà bây giờ lỡ dở, làm sao Thúy Kiều không khỏi xót xa, dằn vặt? Chiếc vòng xuyến đeo tay và tờ giấy ghi lời thề ước của hai người giờ đây đã trở thành kỉ vật chung của cả Thúy Kiều, Kim Trọng và Thúy Vân.

Đó vốn là những kỉ vật gắn với những kỉ niệm riêng tư của chuyện tình Kim - Kiều nhưng vì hoàn cảnh trớ trêu mà nó trở thành “của chung”. Nỗi đau đớn của nàng dường như đã bật thành tiếng nấc nghẹn ngào. Nàng đâu muốn trao duyên lại cho một người khác, nàng đâu muốn phụ bạc chàng Kim nhưng hoàn cảnh nghiệt ngã đã buộc nàng phải làm như vậy.

Qua 14 câu đầu đoạn trích Trao duyên, chúng ta có thể thấy được nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đạt đến đỉnh cao của Nguyễn Du. Ông đã sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, những thành ngữ dân gian cùng sự kết hợp ngôn ngữ bác học trang trọng và ngôn ngữ dân gian để diễn tả những tâm trạng đau khổ, xót xa của Thúy Kiều khi trao duyên lại cho Thúy Vân.

Ngôn ngữ đối thoại và ngôn ngữ độc thoại được sử dụng một cách linh hoạt. Bên cạnh đó, thể thơ lục bát uyển chuyển, nhịp nhàng cũng góp một phần không nhỏ vào sự thành công của đoạn trích. “Trao duyên” đã thể hiện tấm lòng nhân đạo, thể hiện sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ đối với số phận những người phụ nữ. Chẳng vậy mà ông đã viết:

“Thương thay cũng một kiếp người

Hại thay mang lấy sắc tài làm chi

Những là oan khổ lưu li

Chờ cho hết kiếp còn gì là thân”.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 12

Bộ giáo án, đề thi, bài giảng powerpoint, khóa học dành cho các thầy cô và học sinh lớp 12, đẩy đủ các bộ sách cánh diều, kết nối tri thức, chân trời sáng tạo tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên