10+ Thuyết minh về món ăn (điểm cao)

Bài văn thuyết minh về món ăn điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Thuyết minh về món ăn (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Thuyết minh về món ăn

I. Mở bài

- Giới thiệu chung về món ăn được thuyết minh (tên món ăn, xuất xứ, phổ biến ở đâu, trong dịp nào, v.v.).

- Nêu lên sự hấp dẫn hoặc ý nghĩa đặc biệt của món ăn trong đời sống.

II. Thân bài

1. Nguồn gốc và ý nghĩa của món ăn

- Xuất xứ của món ăn (truyền thống hay hiện đại, vùng miền, quốc gia nào phổ biến).

- Ý nghĩa của món ăn trong đời sống văn hóa (món ăn gắn với dịp lễ, Tết, hoặc có ý nghĩa phong tục, tâm linh).

2.Nguyên liệu chế biến

- Danh sách các nguyên liệu chính để làm món ăn.

- Đặc điểm của nguyên liệu (tươi, khô, dễ tìm hay hiếm, ảnh hưởng đến hương vị thế nào).

3. Cách chế biến món ăn

- Các bước thực hiện (sơ chế nguyên liệu, chế biến, nấu nướng, trang trí).

- Những bí quyết để món ăn ngon hơn, đúng hương vị truyền thống.

Quảng cáo

4. Hương vị và cách thưởng thức

- Màu sắc, mùi hương, vị đặc trưng của món ăn.

- Cách thưởng thức đúng chuẩn (ăn kèm với gì, dùng nóng hay nguội, chấm với loại nước chấm nào).

- Sự khác biệt giữa cách thưởng thức theo vùng miền hoặc phong cách cá nhân.

5. Giá trị dinh dưỡng và lợi ích của món ăn

- Giá trị dinh dưỡng của món ăn (cung cấp năng lượng, vitamin, khoáng chất gì).

- Lợi ích cho sức khỏe (có tốt cho hệ tiêu hóa, tim mạch, hay giúp bổ sung dưỡng chất gì không).

III. Kết bài

- Khẳng định lại sự hấp dẫn, đặc trưng hoặc giá trị của món ăn.

- Cảm nhận cá nhân về món ăn và lời khuyến khích thưởng thức.

Thuyết minh về món ăn - mẫu 1

Nem chua Thanh Hóa là một đặc sản nổi tiếng, biểu tượng ẩm thực của vùng đất này. Món ăn được chế biến tỉ mỉ qua nhiều công đoạn, từ việc lựa chọn nguyên liệu đến khâu đóng gói sản phẩm...

Quảng cáo

Để làm nem chua, thịt heo phải được sử dụng ngay sau khi mổ, không để lâu, để đảm bảo độ bóng và kết dính của nem trong quá trình lên men. Trước đây, người ta giã thịt bằng tay trên cối đá, tạo ra chất lượng nem giòn và dẻo hơn so với việc xay bằng máy. Bì lợn cũng cần được chọn lựa kỹ lưỡng, phải là loại heo đã được cạo sạch bằng nước sôi để tránh lông và tiết kiệm thời gian chế biến. Những sợi bì phải được cạo sạch mỡ và đạt độ mỏng, trắng tinh để khi thái chỉ, bì sẽ giòn và dai. Khi thịt và bì đã sẵn sàng, người thợ sẽ trộn chúng với gia vị như muối, bột ngọt, đường, và một chút nước mắm để tăng hương vị. Sau đó, hỗn hợp sẽ được đóng gói cùng với tỏi, lá đinh lăng, và ớt để tạo hương vị phong phú và cân bằng. Lá chuối gói nem phải là lá xanh và dày để đảm bảo nem tiếp tục lên men trong quá trình bảo quản. Để bảo quản lâu dài, nem thường được bọc thêm giấy bóng bên trong. Sau khoảng 3 ngày, nem sẽ chín và có thể dùng được. Khi mở lớp lá chuối, bạn sẽ thấy màu hồng của thịt, màu trắng của bì, và màu đỏ của ớt.

Khi thưởng thức, bạn sẽ cảm nhận vị chua thanh của thịt, độ giòn dai của bì, cay nồng của ớt, thơm ngon của tỏi và chút ngọt của đinh lăng, tạo nên một hương vị đặc biệt mà không nơi nào có được như nem chua Thanh. Nem Thanh có hương vị khác biệt hoàn toàn so với nem chua Hà Nội hay nem lụi Huế, và chắc chắn không giống nem rán hay nem tai. Hương vị chua, cay, mặn, và ngọt hòa quyện khiến bạn không thể ngừng ăn.

Nem chua Thanh Hóa vừa ngon lại vừa rẻ, có thể dùng làm món nhắm hay ăn cùng cơm. Bạn có thể thưởng thức nem chua ở bất kỳ đâu. Mỗi khi nghĩ đến nem chua quê hương, tôi cảm nhận được vị cay cay, ngọt ngọt trên đầu lưỡi. Cảm giác khi thưởng thức nem chua quê hương nơi xa xôi thật khó tả.

Quảng cáo

Khi đến xứ Thanh, bạn hãy thử ngay món nem chua đặc trưng này. Vị chua ngọt đậm đà cùng hương thơm khó quên của nem chua Thanh Hóa nổi tiếng từ Bắc vào Nam. Người Thanh Hóa tự hào vì món quà đặc sản này, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác qua nhiều năm.

Thuyết minh về món ăn - mẫu 2

Trong số các món bánh mặn nổi tiếng của miền Nam, bánh xèo là món được ưa chuộng nhất. Đây là món bánh không thể thiếu trong các bữa tiệc đông người vì quá trình làm bánh đòi hỏi nhiều công đoạn và sự phối hợp của nhiều người. Các công đoạn thường được chia theo các câu vè hài hước như: “Người nào vụng vụng xay bột, lật hành. Người nào khéo léo băm nhân, dò bánh...”

Để có bánh xèo ngon, bạn cần bỏ chút công sức. Phần bột là yếu tố quyết định chất lượng bánh. Người dân quê không ưa chuộng loại bột gạo đóng gói sẵn vì nó thường có chất lượng kém, bột bị chua và mất hương vị thơm ngon. Bột làm bánh xèo nên được làm từ gạo thơm, mới, ngâm qua đêm rồi xay nhuyễn. Dù hiện nay có bột bánh xèo pha sẵn, bạn vẫn nên trộn thêm một ít bột chiên giòn hoặc bột bắp và nước cốt dừa để bánh có độ giòn và béo.

Để bột bánh xèo ngon, sau khi lược bột xong, bạn nên pha thêm bột chiên giòn, nước cốt dừa, đường, muối sao cho phù hợp với khẩu vị, thêm hành lá xắt nhỏ, bột nghệ, và trứng gà. Nước cốt dừa là yếu tố không thể thiếu, nó giúp bánh có độ béo và hương vị đặc trưng, dễ lấy ra khi chín. Nhân bánh cần có nấm rơm, nấm hương, tôm, thịt gà hoặc thịt vịt băm nhỏ, giá sống, và củ sắn. Một số người còn thêm cá cơm dừa xắt sợi hoặc đậu xanh nấu chín, nhưng có thể làm cho bánh bị ngán. Các loại nấm có thể thay đổi theo mùa, ví dụ như nấm rơm vào mùa nấm, hoặc nấm mèo trong mùa mưa. Rau sống và nước mắm là phần không thể thiếu để làm bánh thêm ngon. Rau sống bao gồm diếp cá, xà lách, tần ô, húng cây, húng lủi, quế, cùng lá cách và cải bẹ xanh. Nước mắm cần nêm đủ độ mặn, ngọt, chua, với màu đỏ của ớt, màu vàng của nước mắm, màu xanh của xoài sống bằm nhuyễn và màu đỏ trắng của dưa cải. Khi tất cả nguyên liệu đã sẵn sàng, bạn mới bắt đầu đổ bánh. Nếu có nhiều người ăn, hãy chuẩn bị hai chảo để kịp phục vụ. Ở miền quê, các bà nội trợ thường dùng chảo gang hoặc chảo cắt từ vỏ trái bom, trong khi ở thành phố có chảo chống dính tiện lợi. Khi chảo nóng, hãy thử đổ một ít bột để kiểm tra độ đặc lỏng, sau đó đổ bánh thật sự. Lấy miếng mỡ heo cắt nhỏ cho vào chảo, rồi thêm tôm hoặc tép, thịt ba rọi, đảo cho đến khi vàng, sau đó đổ bột lên chảo, tráng đều. Tiếp theo, cho nấm, thịt gà, giá, củ sắn vào và đậy nắp lại. Sau hai phút, mở nắp, để bánh chín đều với màu vàng đẹp, tôm đỏ, hành xanh, nấm nâu hoặc trắng. Bánh xếp lại theo hình quạt, nóng hổi trên mâm lá chuối hoặc đĩa sứ trắng.

Ăn bánh xèo nên dùng tay để cuốn bánh và cảm nhận độ nóng ấm của bánh, sẽ thấy ngon hơn. Kèm theo bánh xèo có thể uống trà nóng hoặc bia, rượu để tiêu mỡ dầu. Trong khi ăn, có người có thể ăn cả chục cái bánh hoặc bỏ bữa cơm cả ngày.

Ở Huế, có loại bánh xèo nhỏ hơn, ít giòn và không béo bằng, có lẽ do họ không ưa nước cốt dừa như người miền Nam. Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều quán bán bánh xèo, ví dụ như bánh xèo A Phủ, Đinh Công Tráng, với giá từ hai chục đến ba, bốn chục ngàn đồng mỗi cái. Tuy nhiên, một số quán dùng nhiều thịt và mỡ, làm bánh không được ăn nhiều.

Bánh xèo với màu sắc đẹp, hương vị hấp dẫn và dinh dưỡng cao, là món bánh đặc trưng, đậm đà hương vị miền Nam.

Thuyết minh về món ăn - mẫu 3

Nhắc đến người mẹ thân yêu là em nghĩ đến những bữa ăn gia đình ấm cúng với bao món ăn ngon do chính tay mẹ làm. Có một món được gọi là "món tủ" của người, nguyên liệu rất dễ tìm, đơn giản nhưng dưới đôi tay tài hoa của mẹ, chúng được chế biến thành món ăn thật hấp dẫn: món mì xào giòn.

Để làm món mì xào giòn, ta cần chuẩn bị mười hai vắt mì tươi, một cái cật heo, một bộ lòng gà, 100 gram nấm rơm búp,  100 gram bông cải, 50gram đậu hà lan, một chiếc đùi gà (hoặc ức gà), 150g tôm bạc thẻ, hai trái cà chua, hai trái ớt, 150gram xương heo nấu lấy một chén nước lèo, 50gram hành ta, một củ tỏi, một củ hành tây, hai muỗng cà phê dầu mè, một muỗng súp bột năng, nửa muỗng cà phê thuốc muối, 100 gram bột mì hoặc bột năng để rắc mì, mỡ nước hoặc dầu ăn, muối, tiêu, đường, bột ngọt, xì dầu ngò, dấm.

Để chuẩn bị làm món ăn này, cần đem mì trứng sơ nước sôi rồi để ráo, sau đó gỡ mì cho rời ra. Cật heo bổ đôi, lạng bỏ lõm trong của cật rửa sạch, ngâm cật trong nước có pha chút dấm và muối độ 15 phút, vớt ra, rửa sạch, xắt ra từng miếng độ dày 1,5cm. Lòng gà và gan xắt mỏng, mề xắt hoa (khía ngang và khía dọc có bảng khoảng một li). Nấm rơm gọt rửa sạch, trụng sơ nước sôi có cho chút muối cho nấm được giòn. Bông cải cắt miếng vừa ăn, trụng sơ nước sôi. Đậu hà lan tước xơ hai bên mép, trụng sơ nước sôi có cho chút muối và thuốc muối cho đậu được xanh. Với đùi gà ta lóc nạc, xát mỏng; tôm bạc thẻ ta rửa sạch, bóc vỏ, rút bỏ chỉ đen, để ráo. Cà chua tỉa hoa một quả, còn lại xắt dọc theo trái độ 8 miếng (xắt theo múi xà). Hành ta và tỏi băm nhỏ. Còn hành tầy tỉa lá, hoặc xắt dọc theo củ có bảng độ một cm.

Sau giai đoạn sơ chế, ta bắt đầu chiên mì. Đầu tiên, rây bột mì (hoặc bột năng) vào các sợi mì đã luộc chín, cho mì này vào chảo mờ đã cho một ít tỏi đập dập, chiên từng cọng cho mì được vàng và giòn. Tiếp đến, ta xào thịt. Bắc chảo mỡ nóng, phi hành tỏi cho thơm, cho thịt gà vào xào. Với cật heo, lòng gà ta cũng xào lên cho đều, nêm tiêu, xì dầu, đường, bột ngọt cho vừa ăn. Khi thịt săn, cho nấm rơm, bông cải, đậu hà lan, sau cùng cho cà chua và hành tây, nêm lại cho vừa ăn, nhắc xuống, cho dầu hào và dầu mè (xào cho rau cải vừa chín tới mới ngon).

Khi các phần của món ăn đã nấu xong, ta bắc ra trang trí món ăn. Đầu tiên, cho mì ra đĩa, phía trên cho hỗn hợp rau và thịt. Khi gần ăn thì hâm sốt lại cho nóng chế lên mì, ở giữa để cà chua và ớt tỉa hoa, rắc tiêu vàng cho thơm, dùng nóng với xì dầu, ớt xắt khoanh mỏng.

Món mì xào giòn có thể nấu dùng trong những bữa ăn thường ngày hoặc được nằm trong thực đơn của những quán ăn bình dân. Với riêng em, món ăn này gắn với hình ảnh người mẹ đảm đang và vô cùng khéo léo, tinh tế.

Thuyết minh về món ăn - mẫu 4

Phở là một trong những món ăn tiêu biểu của ẩm thực Việt Nam, được nhiều người yêu thích không chỉ trong nước mà còn trên thế giới. Với hương vị đậm đà, phở không chỉ là một món ăn quen thuộc trong bữa sáng của người Việt mà còn là biểu tượng văn hóa, mang trong mình tinh hoa ẩm thực truyền thống. Dù có nhiều biến tấu khác nhau, nhưng phở bò và phở gà vẫn là hai loại phổ biến nhất, được chế biến theo công thức cầu kỳ để tạo ra hương vị thơm ngon đặc trưng.

Phở có lịch sử lâu đời, xuất hiện từ đầu thế kỷ XX tại miền Bắc Việt Nam, đặc biệt là Hà Nội. Ban đầu, phở chỉ đơn giản gồm nước dùng, bánh phở và thịt bò tái. Qua thời gian, món ăn này được phát triển với nhiều nguyên liệu và phương pháp chế biến khác nhau, từ phở gà, phở sốt vang đến phở cuốn, phở xào. Đến nay, phở đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa ẩm thực Việt, thậm chí được công nhận là một trong những món ăn hấp dẫn nhất thế giới.

Phở được tạo nên từ ba thành phần chính: bánh phở, nước dùng và thịt. Bánh phở là loại sợi trắng, mềm và dai, làm từ bột gạo. Bánh phở có kích thước khác nhau tùy theo vùng miền, nhưng thường có độ dày vừa phải để khi ăn không bị bở hay quá cứng. Nước dùng là yếu tố quan trọng nhất quyết định chất lượng bát phở. Nước dùng phở được ninh từ xương bò hoặc xương gà trong nhiều giờ để tạo vị ngọt tự nhiên. Ngoài ra, người nấu còn cho thêm quế, hồi, thảo quả, gừng nướng và hành nướng để tạo hương thơm đặc trưng. Phở truyền thống thường dùng thịt bò hoặc gà. Phở bò có thể sử dụng nhiều loại thịt khác nhau như bò tái, bò chín, nạm, gầu, gân. Phở gà thì dùng thịt gà ta, được luộc chín rồi xé nhỏ hoặc để nguyên miếng.

Để làm ra một bát phở ngon, người nấu phải trải qua nhiều công đoạn tỉ mỉ. Xương bò hoặc xương gà được rửa sạch, chần qua nước sôi để loại bỏ tạp chất, sau đó hầm với các loại gia vị trong nhiều giờ để tạo nước dùng thơm ngon. Sau khi hầm xương, nước dùng được lọc bỏ xương và bọt để có độ trong đẹp mắt. Nêm nếm gia vị như muối, đường phèn, mắm để tạo vị đậm đà. Bánh phở trụng qua nước sôi để làm mềm. Thịt bò thái mỏng, thịt gà xé hoặc chặt miếng vừa ăn. Cuối cùng, xếp bánh phở vào tô, thêm thịt, chan nước dùng nóng hổi, rồi rắc hành lá, rau thơm, giá đỗ lên trên.

Phở được ăn kèm với rau thơm như hành lá, ngò gai, rau quế, giá đỗ để tăng hương vị. Nhiều người thích cho thêm chanh, ớt hoặc tương đen, tương ớt để tạo vị cay và chua nhẹ. Một số nơi còn có quẩy giòn đi kèm để chấm nước dùng. Khi thưởng thức, người ăn sẽ cảm nhận được sự hòa quyện của các nguyên liệu: vị ngọt thanh của nước dùng, độ mềm dai của bánh phở, hương thơm của rau và gia vị. Không chỉ có hương vị thơm ngon, phở còn mang lại nhiều giá trị dinh dưỡng. Bánh phở chứa tinh bột, giúp cung cấp năng lượng cần thiết cho cơ thể. Thịt bò và gà giúp bổ sung protein, tốt cho cơ bắp và sức khỏe. Ngoài ra, rau thơm, hành lá cung cấp nhiều vitamin A, C và chất xơ, giúp tăng cường hệ miễn dịch.

Phở là món ăn không chỉ thể hiện nét tinh túy của ẩm thực Việt Nam mà còn là niềm tự hào của người dân Việt trên thế giới. Hương vị đặc trưng, cách chế biến cầu kỳ và giá trị dinh dưỡng cao khiến phở trở thành một lựa chọn hoàn hảo cho mọi bữa ăn. Nếu có dịp đến Việt Nam, du khách nhất định phải thưởng thức một bát phở nóng hổi để cảm nhận trọn vẹn hương vị truyền thống của đất nước này.

Thuyết minh về món ăn - mẫu 5

Bánh chưng là một trong những món ăn truyền thống không thể thiếu trong dịp Tết Nguyên Đán của người Việt Nam. Không chỉ đơn thuần là một món ăn, bánh chưng còn mang ý nghĩa văn hóa sâu sắc, gắn liền với truyền thuyết về Lang Liêu và quan niệm về sự trọn vẹn, ấm no. Hình ảnh chiếc bánh chưng xanh gói gọn trong nó biết bao tình cảm gia đình và tinh thần đoàn kết của dân tộc.

Bánh chưng có nguồn gốc từ thời vua Hùng thứ 6, khi hoàng tử Lang Liêu sáng tạo ra món bánh tượng trưng cho đất trời để dâng lên vua cha. Kể từ đó, bánh chưng trở thành biểu tượng của sự tri ân tổ tiên và được lưu truyền qua nhiều thế hệ.  

Bánh chưng có hình vuông, tượng trưng cho mặt đất theo quan niệm của người Việt xưa. Nguyên liệu chính để làm bánh gồm gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn và lá dong. Gạo nếp phải được chọn loại dẻo thơm, hạt tròn đều. Đỗ xanh được đãi sạch vỏ, đồ chín để tạo độ bùi. Thịt lợn thường là thịt ba chỉ có cả nạc lẫn mỡ để nhân bánh không bị khô. Lá dong phải xanh tươi, to bản, giúp gói bánh vuông vức đẹp mắt.

Cách gói bánh chưng tuy đơn giản nhưng đòi hỏi sự khéo léo. Người gói xếp lá dong sao cho mặt xanh láng ở ngoài, đặt gạo nếp vào, tiếp theo là lớp đỗ xanh, rồi đến thịt lợn, cuối cùng phủ thêm một lớp đỗ và gạo. Sau đó, bánh được gói chặt tay và buộc bằng lạt tre. Khi luộc, bánh phải được xếp ngay ngắn trong nồi, đổ nước ngập và nấu liên tục trong khoảng 10 - 12 tiếng.

Bánh chưng không chỉ ngon mà còn rất giàu dinh dưỡng. Gạo nếp cung cấp tinh bột, giúp tạo năng lượng cho cơ thể. Đỗ xanh giàu chất xơ và vitamin, tốt cho tiêu hóa. Thịt lợn bổ sung protein và chất béo cần thiết. Khi thưởng thức, bánh có vị thơm của lá dong, dẻo bùi của gạo và đỗ, béo ngậy của thịt. Bánh chưng thường được ăn kèm với dưa hành để tạo sự hài hòa về hương vị.

Bánh chưng không chỉ là một món ăn truyền thống mà còn là biểu tượng của sự sum vầy, đoàn tụ trong mỗi dịp Tết. Dù cuộc sống hiện đại có nhiều thay đổi, nhưng hình ảnh gia đình quây quần bên nồi bánh chưng đỏ lửa vẫn mãi là một nét đẹp văn hóa không thể thay thế của người Việt Nam.

Thuyết minh về món ăn - mẫu 6

Gỏi cuốn là một món ăn dân dã nhưng đầy tinh tế của ẩm thực Việt Nam. Với sự kết hợp hài hòa giữa các nguyên liệu tươi ngon, gỏi cuốn không chỉ hấp dẫn về hương vị mà còn mang lại giá trị dinh dưỡng cao. Đây là món ăn được ưa chuộng trong những ngày hè oi bức bởi sự thanh đạm, mát lành và dễ ăn.

Gỏi cuốn có nguồn gốc từ miền Nam Việt Nam, sau đó dần phổ biến trên khắp cả nước và được nhiều thực khách quốc tế yêu thích. Món ăn này còn được xem là một phiên bản lành mạnh hơn của chả giò (nem rán) bởi không qua quá trình chiên rán mà vẫn đảm bảo hương vị đậm đà.

Nguyên liệu để làm gỏi cuốn rất đơn giản và dễ tìm. Món ăn này gồm bánh tráng mỏng, tôm luộc, thịt heo, bún, rau thơm và rau sống như xà lách, húng quế, diếp cá. Tôm dùng để cuốn thường là tôm sú hoặc tôm thẻ, được luộc chín, bóc vỏ, giữ lại phần đuôi để tăng tính thẩm mỹ. Thịt heo thường là thịt ba chỉ luộc mềm, thái mỏng. Rau sống giúp cân bằng hương vị, tạo sự tươi mát cho món ăn.

Cách cuốn gỏi đòi hỏi sự khéo léo để tạo ra những cuốn đẹp mắt, chắc tay. Đầu tiên, người làm nhúng bánh tráng qua nước để làm mềm. Sau đó, xếp lần lượt các nguyên liệu gồm rau, bún, thịt, tôm lên trên bánh tráng rồi cuộn chặt tay để gỏi cuốn không bị bung. Gỏi cuốn có thể chấm với nhiều loại nước chấm khác nhau, nhưng phổ biến nhất là nước mắm chua ngọt hoặc tương đậu phộng. Nước mắm chua ngọt được pha từ nước mắm, đường, chanh và tỏi ớt, tạo vị đậm đà, hài hòa. Trong khi đó, tương đậu phộng béo ngậy, thơm ngon, phù hợp với những ai thích hương vị đậm đà.

Không chỉ thơm ngon, gỏi cuốn còn rất bổ dưỡng. Rau sống cung cấp vitamin và chất xơ, giúp thanh lọc cơ thể. Bún và bánh tráng cung cấp tinh bột, tạo năng lượng cần thiết. Tôm và thịt heo giúp bổ sung protein, hỗ trợ quá trình phát triển cơ bắp. Nhờ thành phần ít dầu mỡ, gỏi cuốn là một lựa chọn tuyệt vời cho những ai muốn duy trì chế độ ăn lành mạnh.

Gỏi cuốn là một món ăn thanh đạm nhưng đầy đủ dinh dưỡng, thể hiện sự tinh tế trong cách kết hợp nguyên liệu của ẩm thực Việt Nam. Với vị ngon tự nhiên, dễ ăn và tốt cho sức khỏe, gỏi cuốn không chỉ được người Việt yêu thích mà còn trở thành món ăn nổi tiếng trên thế giới, góp phần đưa ẩm thực Việt vươn xa.

Thuyết minh về món ăn - mẫu 7

Nhắc đến ẩm thực Huế, người ta không thể không nhắc đến bún bò Huế – một trong những món ăn đặc trưng mang hương vị đậm đà, tinh tế của mảnh đất cố đô. Với nước dùng thơm nồng, sợi bún mềm dai, thịt bò ngọt đậm, món ăn này đã trở thành niềm tự hào của người dân Huế và được thực khách khắp nơi yêu thích.

Bún bò Huế có nguồn gốc từ Huế, là món ăn được nấu theo phong cách cung đình, nhưng dần phổ biến và trở thành món ăn quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày. Không chỉ là một món ăn sáng, bún bò Huế còn được dùng trong những bữa ăn chính của nhiều gia đình.

Nguyên liệu chính để làm bún bò Huế gồm bún, thịt bò, giò heo, nước dùng, rau sống và các loại gia vị đặc trưng. Bún dùng cho món này là loại bún sợi to, trắng mềm, dai ngon. Thịt bò có thể là bắp bò hoặc nạm bò, được hầm mềm để giữ được vị ngọt. Giò heo được chọn phần móng hoặc chân giò, luộc chín mềm, tạo độ béo ngậy cho nước dùng. Đặc biệt, nước dùng của bún bò Huế có hương vị rất riêng, được nấu từ xương bò, sả, mắm ruốc Huế và ớt, tạo nên vị cay nhẹ, thơm nồng đặc trưng.

Cách nấu bún bò Huế khá cầu kỳ. Xương bò được hầm trong nhiều giờ để lấy nước dùng ngọt tự nhiên. Sau đó, người nấu cho mắm ruốc Huế đã lọc vào để tạo độ đậm đà. Sả băm nhuyễn, ớt bột, hành tím được phi thơm rồi cho vào nồi nước dùng. Bắp bò, giò heo được luộc riêng, thái lát vừa ăn. Khi ăn, bún được chần sơ, cho vào tô, xếp thịt bò, giò heo lên trên rồi chan nước dùng nóng hổi, rắc thêm hành lá, rau mùi để tăng thêm hương thơm.

Bún bò Huế thường được ăn kèm với rau sống như rau chuối bào, giá đỗ, rau quế, húng lủi. Một số nơi còn thêm chanh, ớt và sa tế để làm tăng hương vị. Khi thưởng thức, thực khách sẽ cảm nhận được sự hòa quyện giữa vị ngọt của nước dùng, cay nhẹ của ớt, dai mềm của thịt bò và sợi bún thơm ngon.

Không chỉ hấp dẫn về hương vị, bún bò Huế còn rất bổ dưỡng. Thịt bò cung cấp protein và sắt, giò heo chứa nhiều collagen giúp đẹp da, nước hầm xương bổ sung canxi cho cơ thể. Rau sống cung cấp vitamin và khoáng chất, giúp cân bằng dinh dưỡng.

Bún bò Huế không chỉ là một món ăn ngon mà còn là biểu tượng văn hóa ẩm thực của xứ Huế. Với sự hòa quyện của các nguyên liệu, hương vị đậm đà, bún bò Huế đã chinh phục thực khách trong và ngoài nước. Nếu có dịp đến Huế, đừng quên thưởng thức một tô bún bò Huế chính gốc để cảm nhận hết sự đặc sắc của món ăn này.

Thuyết minh về món ăn - mẫu 8

Bánh mì Việt Nam là một trong những món ăn đường phố được yêu thích nhất, không chỉ trong nước mà còn trên thế giới. Với lớp vỏ giòn rụm, nhân phong phú, nước sốt đậm đà và hương vị đặc trưng, bánh mì đã trở thành một biểu tượng ẩm thực Việt Nam, góp phần quảng bá văn hóa Việt ra thế giới.

Bánh mì có nguồn gốc từ thời kỳ Pháp thuộc, khi người Pháp mang bánh mì baguette vào Việt Nam. Ban đầu, người Việt sử dụng bánh mì như một loại thực phẩm kèm với bơ, thịt nguội và phô mai theo phong cách châu Âu. Tuy nhiên, qua thời gian, người Việt đã biến tấu món ăn này, thay đổi kích thước ổ bánh, làm vỏ giòn hơn và sáng tạo ra nhiều loại nhân khác nhau để phù hợp với khẩu vị người Việt. Từ đó, bánh mì Việt Nam dần phát triển và trở thành một món ăn độc đáo, khác biệt hoàn toàn so với bánh mì phương Tây.

Bánh mì Việt Nam gồm hai phần chính: vỏ bánh và nhân bánh. Vỏ bánh mì có hình dáng nhỏ gọn, dài khoảng 15–20 cm, lớp vỏ giòn tan, bên trong ruột mềm và xốp. Để làm được vỏ bánh giòn đúng chuẩn, bột mì được pha trộn với men nở, nước, muối và ủ kỹ trước khi đem nướng ở nhiệt độ cao. Nhân bánh mì rất đa dạng, có thể là pate gan béo ngậy, thịt nguội, chả lụa, trứng chiên, chả cá, xíu mại, thịt nướng… Ngoài ra, nhân bánh còn được kết hợp với các loại rau sống như dưa leo, ngò rí, đồ chua (cà rốt, củ cải muối chua), ớt tươi để tăng thêm hương vị. Một yếu tố quan trọng tạo nên sự hấp dẫn của bánh mì là nước sốt, thường được làm từ bơ, tương ớt, sốt mayonnaise hoặc nước thịt hầm, giúp bánh mì trở nên đậm đà và đặc trưng.

Cách chế biến bánh mì đòi hỏi sự khéo léo để tạo nên sự hài hòa giữa các nguyên liệu. Trước tiên, vỏ bánh được nướng giòn, sau đó phết một lớp pate hoặc bơ mỏng để tăng thêm độ béo ngậy. Tiếp theo, người bán xếp lần lượt các loại nhân như thịt, trứng, chả, rồi thêm đồ chua và rau thơm để cân bằng vị. Cuối cùng, nước sốt được rưới đều lên phần nhân, tạo nên một tổng thể hòa quyện giữa vị béo, mặn, ngọt, chua cay.

Bánh mì không chỉ là một món ăn ngon mà còn giàu dinh dưỡng. Vỏ bánh cung cấp tinh bột, thịt và trứng bổ sung protein, rau củ cung cấp vitamin và chất xơ. Ngoài ra, bánh mì còn là một món ăn nhanh gọn, tiện lợi, có thể ăn vào bất cứ thời điểm nào trong ngày, từ bữa sáng, bữa trưa đến bữa tối.

Bánh mì Việt Nam ngày nay đã nổi tiếng trên toàn thế giới, xuất hiện trên nhiều tạp chí ẩm thực danh tiếng và được du khách quốc tế khen ngợi. Dù có nhiều biến tấu khác nhau, bánh mì Việt vẫn giữ được nét đặc trưng riêng, thể hiện sự sáng tạo và tinh hoa của ẩm thực nước ta. Với hương vị thơm ngon, hấp dẫn và giá thành hợp lý, bánh mì thực sự là niềm tự hào của ẩm thực Việt Nam.

Thuyết minh về món ăn - mẫu 9

Nem rán (hay chả giò ở miền Nam) là một trong những món ăn truyền thống lâu đời của Việt Nam, thường xuất hiện trong các bữa cơm gia đình, tiệc cưới, lễ Tết. Với lớp vỏ giòn rụm, nhân thơm ngon và nước chấm đậm đà, nem rán không chỉ là một món ăn mà còn là nét đẹp văn hóa trong ẩm thực Việt.

Nguồn gốc của nem rán chưa có tài liệu nào ghi chép chính xác, nhưng từ lâu, món ăn này đã trở thành một phần không thể thiếu trong ẩm thực Việt Nam. Nem rán xuất hiện trong các mâm cỗ truyền thống, thể hiện sự khéo léo của người nội trợ trong việc lựa chọn nguyên liệu và chế biến món ăn.

Nem rán được làm từ nhiều nguyên liệu khác nhau, nhưng phổ biến nhất là bánh tráng, thịt heo băm nhuyễn, miến dong, mộc nhĩ, nấm hương, cà rốt, hành lá và trứng gà. Ngoài ra, có thể thêm tôm, cua hoặc đậu phụ để tạo ra những biến tấu khác nhau. Gia vị như tiêu, nước mắm, muối được sử dụng để tăng thêm hương vị cho nhân nem.

Cách chế biến nem rán đòi hỏi sự cẩn thận và tỉ mỉ. Trước tiên, các nguyên liệu được sơ chế, thái nhỏ rồi trộn đều với trứng để kết dính. Sau đó, nhân được trải lên bánh tráng, cuộn chặt tay sao cho nem không bị bung khi chiên. Khi chiên, nem phải được rán ngập dầu trên lửa vừa để chín đều và có lớp vỏ vàng giòn đẹp mắt. Một bí quyết để nem giòn lâu là pha chút giấm hoặc chanh vào dầu chiên. Nem rán không thể thiếu nước chấm chua ngọt, được pha từ nước mắm ngon, đường, giấm, tỏi băm và ớt để tạo vị hài hòa. Khi ăn, nem thường được cuốn với rau sống như xà lách, rau thơm, húng quế và bún, tạo nên sự cân bằng giữa vị giòn rụm của vỏ nem, vị béo của nhân và vị thanh mát của rau.

Không chỉ hấp dẫn về hương vị, nem rán còn có giá trị dinh dưỡng cao. Thịt cung cấp protein, rau củ giàu vitamin, trong khi nấm hương và mộc nhĩ chứa nhiều chất xơ và khoáng chất có lợi cho sức khỏe. Đây là một món ăn không chỉ ngon mà còn bổ dưỡng, phù hợp với nhiều lứa tuổi.

Ngày nay, nem rán không chỉ phổ biến ở Việt Nam mà còn xuất hiện trong thực đơn của nhiều nhà hàng quốc tế. Nem rán được yêu thích bởi sự kết hợp hoàn hảo giữa các nguyên liệu, cách chế biến tinh tế và hương vị đậm đà. Dù ở bất cứ đâu, món nem rán vẫn mang trong mình tinh thần của ẩm thực Việt Nam, là niềm tự hào của người Việt trên bản đồ ẩm thực thế giới.

Thuyết minh về món ăn - mẫu 10

Phở là một trong những món ăn tiêu biểu của Việt Nam, được biết đến trên toàn thế giới với hương vị thơm ngon, đậm đà. Không chỉ là một món ăn, phở còn chứa đựng tinh hoa ẩm thực và văn hóa của người Việt, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa nguyên liệu và cách chế biến tinh tế.

Nguồn gốc của phở vẫn còn nhiều tranh cãi, nhưng nhiều tài liệu cho rằng món ăn này xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 ở miền Bắc, đặc biệt là Hà Nội và Nam Định. Ban đầu, phở chủ yếu được bán rong với những gánh phở trên phố. Dần dần, món ăn này phát triển, có mặt khắp cả nước và trở thành một phần không thể thiếu trong ẩm thực Việt. Ngày nay, phở không chỉ phổ biến trong nước mà còn được yêu thích ở nhiều quốc gia trên thế giới.

Phở bao gồm ba thành phần chính: nước dùng, bánh phở và thịt. Nước dùng là linh hồn của món phở, được ninh từ xương bò hoặc xương heo trong nhiều giờ để tạo vị ngọt thanh. Gia vị quan trọng tạo nên hương vị đặc trưng của nước dùng bao gồm quế, hồi, thảo quả, gừng và hành nướng, giúp tạo mùi thơm đặc trưng. Bánh phở được làm từ bột gạo, cắt thành sợi mỏng, dai và mềm. Thịt dùng cho phở có thể là thịt bò hoặc thịt gà, được thái mỏng và chần tái hoặc nấu chín tùy theo khẩu vị. Ngoài ra, phở còn được ăn kèm với hành lá, rau thơm, giá đỗ, chanh và ớt để tăng thêm độ tươi ngon.

Cách chế biến phở đòi hỏi sự tỉ mỉ và khéo léo. Xương bò hoặc heo được rửa sạch, chần qua nước sôi rồi mới đem ninh để nước trong và không bị đục. Quá trình ninh xương kéo dài từ 6–10 tiếng để tạo ra vị ngọt tự nhiên. Gia vị như quế, hồi, gừng, thảo quả được nướng sơ trước khi cho vào nồi nước dùng để tăng thêm hương thơm. Khi ăn, bánh phở được chần qua nước sôi, xếp thịt lên trên rồi chan nước dùng nóng hổi.

Phở không chỉ hấp dẫn bởi hương vị mà còn cung cấp nhiều dinh dưỡng. Nước dùng chứa nhiều khoáng chất từ xương, thịt bò giàu protein, bánh phở cung cấp tinh bột, rau thơm bổ sung vitamin. Nhờ sự kết hợp giữa các thành phần, phở không chỉ ngon mà còn giúp cơ thể khỏe mạnh, cung cấp năng lượng cho ngày mới.

Hiện nay, phở có nhiều biến thể khác nhau như phở bò, phở gà, phở chay, phở trộn. Dù có nhiều cách biến tấu, nhưng phở Việt Nam vẫn giữ được nét đặc trưng riêng, với nước dùng thanh ngọt, bánh phở mềm dai và hương thơm quyến rũ. Món ăn này đã trở thành biểu tượng của ẩm thực Việt Nam trên bản đồ thế giới, là niềm tự hào của người Việt mỗi khi nhắc đến quê hương.

Thuyết minh về món ăn - mẫu 11

Việt Nam ta là đất nước với nền ẩm thực rất phong phú và đa dạng theo vùng miền. Với mỗi vùng đất trên cả nước đều có những món ăn rất đặc sắc tạo nên hương vị khó quên cho thực khách. Và món cơm lam của người Mường ở Thanh Sơn Phú Thọ cũng là một trong số các đặc sản để lại nhiều ấn tượng đối với những người đã có dịp thưởng thức.

Từ xa xưa, người Mường phải đi rừng, đi nương làm việc từ sáng sớm nên món ăn mà mọi người thường lựa chọn mang theo chính là cơm lam. Đây là cơm được nấu trong ống tre, ống nứa. Người đồng bào cho gạo vào trong ống rồi đem nướng trên lửa để chín thành cơm.

Để làm ra được món cơm lam ngon và có dấu ấn riêng của dân tộc mình, người Mường thường rất cầu kỳ, kỹ lưỡng trong việc chọn nguyên liệu. Đầu tiên phải chọn đồ đựng là một ống nứa thon dài khoảng 20- 30cm, không to, không nhỏ, không quá dày cũng không quá mỏng. Vì nếu quá dày nướng sẽ rất lâu, lúc bóc sẽ rất tốn công, còn nếu quá mỏng sẽ dễ bị cháy. Điều đặc biệt nứa phải là cây còn non, bà con lấy luôn nước có ở trong từng đốt ống nứa để nướng cơm, người Mường cho rằng đó là thứ tinh hoa của đất trời còn vương lại. Ống nứa tươi xanh giúp lửa không bén vào gạo và chất nhựa trong vỏ sẽ ngấm sâu vào cơm làm cho cơm có vị ngọt và mùi hương tự nhiên.

Tiếp theo là đến việc chọn gạo, đồng bào chọn loại nếp nương thơm, dẻo của vùng cao. Gạo trước khi được đem đi “lam” sẽ được ngâm khoảng 2- 3 tiếng, sau đó vo sạch, rắc ít muối và trộn đều rồi đổ vào ống nứa đã có sẵn nước. Khi gạo đổ vào, không nén chặt mà để cách miệng ống 5cm để khi gạo chín nở ra sẽ vừa khít miệng ống. Nếu thấy ống nứa có ít nước, có thể thêm nước xăm xắp mặt gạo. Nước này người Mường thường lấy nước trên những khe đồi, khe suối nhằm tạo nên vị ngọt mát. Sau đó, đem nút miệng ống lại bằng lá dong hoặc lá chuối.

Đốt lửa dựng các ống quanh bếp, có thể nướng ống cơm lam bằng than củi, than tre hoặc rơm khoảng một giờ, khi cơm sủi thỉnh thoảng nhấc ra dằn mạnh ống xuống đất để gạo dồn xuống phía dưới cho hạt cơm săn chắc. Nước cạn, đặt ống nằm ngang và nướng xoay đều. Dùng ngón tay nhấn, thấy cơm mềm và có mùi thơm bốc lên là cơm đã chín.

Lấy dao róc bỏ phần vỏ cháy bên ngoài. Đợi cho nguội hẳn bóc lớp vỏ còn lại sẽ để lộ ra lớp cơm vẫn được bao bọc bởi phần vỏ lụa trắng ngà của ruột tre, nứa khiến cơm lam có một màu sắc thuần hậu. Đồng bào cắt mỗi ống ra thành từng khúc ngắn vừa phải. Khi ăn chỉ cần bóc bỏ lớp nứa màu trắng bên ngoài. Cơm lam thường được bày trên mâm cơm của đồng bào cùng các món ăn như: thịt gà, thịt lợn rừng nướng, cá nướng, nhưng ngon nhất vẫn là chấm với muối vừng.

Hiện nay, người Mường còn tạo ra món cơm lam với nhiều màu sắc phong phú: xanh, đỏ, tím, vàng trông rất đẹp mắt. Đồng bào tạo ra màu tự nhiên từ các loại lá cây, củ, quả ở rừng: Màu đỏ được tạo ra từ cây cơm lông hay từ quả gấc, màu xanh của lá gừng, màu tím của lá cẩm và màu vàng của nghệ già, chắt lấy nước đem ngâm vào gạo. Vị dẻo thơm của gạo nếp được bao bọc bởi một lớp vỏ lụa mịn màng và những màu sắc sặc sỡ của cơm khiến cho cơm lam trông đẹp, bắt mắt và hấp dẫn hơn.

Cuộc sống của đồng bào Mường Thanh Sơn hôm nay đã có nhiều đổi thay nhưng cơm lam vẫn là một món ăn truyền thống không thể mai một. Cơm lam của người Mường không chỉ được biết đến như một món ăn dân tộc, được các gia đình người Mường làm để tiếp khách đến chơi nhà mà còn được làm để mang đi giới thiệu, trưng bày ở các hội chợ, lễ hội lớn của tỉnh, huyện. Hơn cả, cơm lam là nơi hội tụ tấm lòng của đồng bào Mường nơi đây, mộc mạc bình dị nhưng cũng thật sâu nặng nghĩa tình.

Thuyết minh về món ăn - mẫu 12

Mỗi vùng, mỗi dân tộc, mỗi tỉnh có một đặc sản riêng, nó là tiếng nó chung sở thích chung mà ông cha ta để lại. Mang tầm nhìn văn hóa đối với vùng đó, dân tộc đó. Cũng vì vậy mà khi đến từng nơi mọi người thường hay thưởng thức đặc sản ở đó và mua về làm quà cho gia đình cho bạn bè.

Cũng vậy đến với vùng văn hóa của miền trung, gé thăm Quảng Nam. Ở đây đặc sản nỗi tiếng là mỳ quảng và gà ta Tam Kỳ. Đi một tí là chúng tôi thấy quán mỳ quảng và gà ta. Dù biết hai món này được bán rất nhiều ở thành phố nhưng chúng tôi vẫn thích ăn.

Ghé bên đường, chúng tôi vào một quán mỳ quảng nhỏ thôi. Nhưng cách phục vụ ở đây rất chu đáo, bà chủ nhìn chúng tôi vói ánh mắt trìu mến như gọi mời đến với xứ Quảng vậy. Không chỉ vậy à còn trò chuyện hỏi thăm rồi làm cho chúng tôi mỗi người một tô mỳ quảng đặc biệt. Khi ăn chúng tôi ăn từng miếng một thưởng thức một cách từ và nhẹ nhàng, hương vị nó khác xa so với ở thành phố mà chúng tôi ăn. Có vị đậm đà, mặn mà của thịt và tôm, mùi thơm của chén nước mắm bốc lên làm chúng tôi rất thích.

Tại đây chúng tôi được trò chuyện cùng bà chủ quán ở đây, chúng tôi hỏi về cách để làm một tô mỳ ngon, bà chủ vẫn không ngại ngầm vẫn chia sẽ bí quyết cho chúng tôi một cách cỡ mỡ. bà nói bí quyết đề nấu ngon rất dể bà chỉ sơ qua cho chúng tôi một cách tỉ mỉ.

Bà chỉ cho chúng tôi về cách chọn nguyên liệu cũng như cách chế biến. Bà nói: Muốn có một tô mì ngon, thì sơi mì phải mềm dai, dài và không bị nát muốn vậy phải dùng gạo tốt (gạo nguyên). Nước nhưng của mì là quan trọng nhất nó ảnh hương đến mùi vị của mì. Nước nhưng phải có vị ngọt tinh khiết của xương heo, do vậy xương phải ninh từ đêm hôm trước, đun lửa vừa phải và chỉ ninh đến khi xương mềm. Nếu không phải là xương mà là thịt thì phải là thịt đùi thái lát to, không mỏng quá cũng không dày quá, ướp gia vị đầy đủ rồi xào lên cho đến khi gia vị thầm đều miếng thịt. Để tạo màu sắc cho nước nhưng người ta thường phi loại ớt bột ít cay trong mỡ để cho vào nước nhưng làm cho tô mì cò những hạt mỡ vàng lóng lánh trên mặt. Khi tô mì được mang ra, trên mì có vài con tôm xào đỏ thắm, nửa quả trứng vịt cùng dăm lát thịt và xương heo, rắc thêm một nhún hành lá thái nhỏ, vài hạt đậu phộng rang cùng mấy lát ớt đỏ xếp bên cạnh một dĩa rau sống. Mùi xương mùi thịt hoà thành thứ hương thơm đặc biệt.

Thật tuyệt với với bí quyết thế này. Dừng lại tại đây chúng tôi ăn xong nghỉ trò chuyện tí và trả tiền đi ra. Khi lên xe đi tới chổ khác, nhưng chúng tôi vẫn không muốn đi, cứ chần chừ mãi. Có lẽ cái mặn mà của mỳ quảng và cách nói chuyện của người chủ quán làm chúng tôi không muốn rời.

Lên xe, nhưng tôi vẫn nhớ mãi bí quyết mà bà chủ chia sẻ, hi vọng tôi sẽ làm được nhưng lời bà chỉ bày. Và ngon đậm đà nhưng hương vị và nền văn hóa của xứ Quảng này bày dạy.

Thuyết minh về món ăn - mẫu 13

Việt Nam được biết đến là đất nước có nền văn hóa ẩm thực khá phong phú. Chúng ta có thể kể tên các món ăn đặc sản của dân tộc như bánh chưng, bánh cốm, phở, bún bò,... và đặc biệt là món nem rán. Đây là món ăn vừa cao quý lại vừa dân dã, bình dị để lại một mùi vị khó phai mờ trong mỗi chúng ta.

Nem rán có nguồn gốc từ Trung Quốc, thuộc nhóm các món Dimsum. Món ăn này đã theo chân những người Hoa khi di cư sang nước ta và được biến đổi thành món ăn phù hợp với khẩu vị người Việt. Nem rán không chỉ phổ biến ở Việt Nam, Trung Quốc mà nó còn góp mặt trong ẩm thực của đất nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Đức, Ba Lan và nhiều nước Trung, Nam Mĩ,... với các tên gọi khác nhau như Harumaki, Chungwon, Rouleau de printemps, Sajgonki,...Ở Việt Nam, tùy theo vùng miền mà món ăn này có những tên gọi riêng. Nem rán là cách gọi của người dân miền Bắc, người miền Trung gọi là chả cuốn và chả giò là cách gọi của người dân miền Nam.

Nguyên liệu chế biến món nem rán khá đa dạng nhưng cũng hết sức dễ tìm. Để món ăn đầy đủ các thành phần dinh dưỡng chúng ta cần chuẩn bị thịt băm, trứng gà hoặc trứng vịt, hành tây, hành lá, cà rốt, su hào, giá đỗ, rau mùi, rau thơm, mộc nhĩ, mì hoặc miến,...và một số loại gia vị như mì chính, bột canh, hạt tiêu, nước mắm,...Những gia vị này sẽ giúp món ăn thêm phần đậm đà, hấp dẫn. Một thứ không thể thiếu đó chính là bánh đa nem. Bánh đa nem được làm từ gạo và khi chọn ta cần lựa những lá bánh mềm, dẻo để khi gói không bị vỡ.

Để có được món nem rán thơm phức hoàn hảo, trước hết chúng ta cần sơ chế các nguyên liệu đã chuẩn bị. Chúng ta ngâm nấm và mộc nhĩ cho đến khi chúng nở ra rồi rửa sạch, thái nhỏ. Đồng thời các loại rau củ cũng gọt vỏ, rửa sạch và thái. Mì hoặc miến ngâm nước ấm trong khoảng năm phút rồi cũng cắt thành từng đoạn ngắn. Sau đó, cho tất cả các nguyên liệu vào âu hoặc bát to, đập thêm trứng, nêm thêm gia vị rồi trộn đều.

Số trứng dùng để làm nem không nên quá nhiều vì như thế sẽ khiến nhân nem ướt rất khó cuộn và cũng không nên quá ít vì nem sẽ bị khô. Vì vậy, khi đập trứng ta nên đập lần lượt từng quả để ước lượng lượng trứng phù hợp. Màu cam của những sợi cà rốt, màu trắng của mì, màu xanh của rau, màu vàng của trứng,... tất cả hòa quyện với nhau trông thật hài hòa. Chúng ta sẽ ướp phần nhân nem từ 5 đến 10 phút để các gia vị ngấm đều.

Tiếp theo, chúng ta trải bánh đa nem trên một mặt phẳng rồi cho nhân nem vào cuộn tròn. Bánh đa nem có loại hình tròn, hình vuông, cũng có loại hình chữ nhật, tùy theo sở thích mà mỗi người lại lựa chọn những loại bánh đa nem khác nhau. Nếu muốn bánh đa nem mềm và giòn thì trước khi cuốn nem nên phết lên bánh đa nem một chút nước giấm pha loãng với đường và nước lọc.

Chúng ta nên gấp hai mép bánh đa nem lại để phần nhân nem không bị chảy ra ngoài. Sau đó, đun sôi dầu ăn rồi cho nem vào rán. Khi rán nên để nhỏ lửa và lật qua lật lại để nem được chín vàng đều rồi vớt ra giấy thấm để nó hút bớt dầu mỡ, tránh cảm giác bị ngấy khi thưởng thức.

Nước chấm là thứ không thể thiếu để món nem trở nên đậm đà. Muốn có nước chấm ngon, chúng ta cần chuẩn bị một chút đường, tỏi, giấm, ớt, chanh và nước mắm. Đầu tiên, ta hòa tan đường bằng nước ấm rồi cho thêm tỏi, ớt đã băm nhỏ. Sau đó đổ từ từ giấm và nước mắm vào rồi khuấy đều cho các gia vị ngấm đều. Ta có thể thay giấm bằng chanh hoặc quất. Tùy khẩu vị của mỗi người mà nước chấm có độ mặn ngọt khác nhau.

Cuối cùng, bày nem ra đĩa, trang trí thêm rau sống, cà chua hay dưa chuột thái lát để đĩa nem trông thật đẹp mắt. Những bông hồng được làm từ cà chua, những bông hoa được tỉa từ dưa chuột sẽ khiến món ăn vô cùng hấp dẫn. Nem rán chấm với nước chấm tỏi ớt sẽ mang lại cảm giác rất thú vị. Bánh đa nem vàng giòn cùng nhân nem thơm phức quyện hòa với nhau cùng vị cay cay của ớt, chua chua của giấm, ngòn ngọt của đường sẽ khiến những ai thưởng thức nó không bao giờ có thể quên được mùi vị đặc biệt này.

Nem rán đã trở thành một món ăn phổ biến trên khắp đất nước Việt Nam. Nó không chỉ có mặt trong những bữa cơm bình dị thường nhật mà còn xuất hiện trong mâm cơm thờ cúng tổ tiên. Đây là món ăn mang ý nghĩa trang trọng, cao quý. Ngoài ra nem rán còn dùng để ăn kèm với bún đậu và các món ăn khác. Giữa tiết trời se lạnh như thế này còn gì tuyệt vời hơn khi thưởng thức món em rán nóng hổi. Sự kết hợp các nguyên liệu làm nên nhân nem như mang một ý nghĩa biểu tượng về sự đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của người dân đất Việt.

Nem rán không chỉ là món ăn giàu chất dinh dưỡng mà còn là món ăn góp phần tạo nên nền ẩm thực Việt với những đặc trưng và sự độc đáo riêng biệt. Món ăn này tuy dễ thực hiện nhưng lại đòi hỏi sự kì công và khéo léo nên người chế biến cần có sự tập trung nhất định. Đây còn là một trong những món ăn thu hút khách quốc tế khi đến thăm Việt Nam. Có thể nói, món nem rán nói riêng và ẩm thực Việt nói chung đang ngày càng khẳng định được giá trị trên thế giới.

Thuyết minh về món ăn - mẫu 14

Đặc sản Hà Nội có nhiều, Hà Nội là địa điểm nổi tiếng với ẩm thực hấp dẫn, không chỉ đối với du khách nước ngoài mà còn lôi cuốn người Việt Nam. Nhưng nhắc đến món ăn Hà Nội là người ta nhắc đầu tiên đến phở. Phở như một thứ đại diện mang tính bản sắc, đặc thù của món ăn Hà Nội. Lý do thật đơn giản phở Hà Nội khác hẳn các nơi khác, nó không thể trộn lẫn với bất cứ một thứ phở nơi nào, cho dù ở đó người ta đã cố tình trương lên cái biển Phở Hà Nội.

Không biết, phở Hà Nội có tự bao giờ, chỉ biết rằng, phở đã đi vào trang viết của rất nhiều nhà văn như: Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Băng Sơn hay Vũ Bằng,... Phở, dưới những ngòi bút ấy, gần như chẳng còn ai có thể tả hay hơn nữa, và cũng chẳng cần ai phải tốn công mà viết thêm về Phở nữa vì nó đã quá đủ đầy, đã quá nổi tiếng rồi.

Và cũng không biết từ bao giờ phở đã trở thành món ngon nổi tiếng và khi thưởng thức phở ở Hà Nội người ta mới thấy được hương vị truyền thống. Phở Hà Nội là một món ăn đặc biệt của người Hà Nội đã có từ rất lâu.

Thạch Lam trong "Hà Nội ba 36 phố phường" viết: Phở là một thứ quà đặc biệt của Hà Nội, không phải chỉ riêng Hà Nội mới có, nhưng chính là vì chỉ ở Hà Nội mới ngon". Phở ngon phải là phở "cổ điển", nấu bằng thịt bò, "nước dùng trong và ngọt, bánh dẻo mà không nát, thịt mỡ gầu giòn chứ không dai, chanh ớt với hành tây đủ cả", "rau thơm tươi, hồ tiêu bắc, giọt chanh cốm gắt, lại điểm thêm một ít cà cuống, thoảng nhẹ như một nghi ngờ". Vào thời những năm 1940, phở đã rất phổ biến ở Hà Nội: "Đó là thứ quà ăn suốt ngày của tất cả các hạng người, nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trưa và ăn phở tối....

Nguyễn Tuân, nhà văn của "Vang bóng một thời" đã có một tùy bút xuất sắc về phở. Ông cho phở có một "tâm hồn", phở là "một miếng ăn kỳ diệu của tất cả người Việt Nam chân chính". Cố đạo diễn điện ảnh Phạm Văn Khoa lúc sinh thời kể rằng, có lần ông cùng Nguyễn Tuân đang ăn phở, một người yêu thích nhận ra nhà văn bước lại chào nhưng Nguyễn Tuân vẫn vục đầu vào ăn. Người kia chắc chắn mình không nhầm đã kiên trì chờ đợi. Hết tô phở Nguyễn Tuân mới ngẩng mặt lên bảo "Tôi đang thưởng thức nên không trả lời, anh thứ lỗi". Nhà văn không dùng chữ ăn mà dùng chữ thưởng thức.

Phở được dùng riêng như là một món quà sáng hoặc trưa và tối, không ăn cùng các món ăn khác. Nước dùng của phở được làm từ nước ninh của xương bò: xương cục, xương ống và xương vè. Thịt dùng cho món phở có thể là bò, hoặc gà. Bánh phở phải mỏng và dai mềm, gia vị của phở là hành lá, hạt tiêu, giấm ớt, lát chanh thái. Phở luôn phải ăn nóng mới ngon, người Hà Nội còn ăn kèm với những miếng quẩy nhỏ. Tuy nhiên, để có được những bát phở ngon còn tùy thuộc vào kinh nghiệm và bí quyết truyền thống của nghề nấu phở.

Trong món phở Hà Nội công đoạn chế biến nước dùng, còn gọi nước lèo, là công đoạn quan trọng nhất. Nước dùng của phở truyền thống là phải được ninh từ xương ống của bò cùng với một số gia vị. Xương phải được rửa sạch, cạo sạch hết thịt bám vào xương cho vào nồi đun với nước lạnh. Nước luộc xương lần đầu phải đổ đi để nước dùng khỏi bị nhiễm mùi hôi của xương bò, nước luộc lần sau mới dùng làm nước lèo. Gừng và củ hành đã nướng đồng thời cũng được cho vào.

Lửa đun được bật lớn để nước sôi lên, khi nước đã sôi thì phải giảm bớt lửa và bắt đầu vớt bọt. Khi đã vớt hết bọt, cho thêm một ít nước lạnh và lại đợi nước tiếp tục sôi tiếp để vớt bọt...Cứ làm như vậy liên tục cho đến khi nước trong và không còn cặn trong bọt nữa. Sau đó, cho một ít gia vị vào và điều chỉnh độ lửa sao cho nồi nước chỉ sôi lăn tăn để giữ cho nước khỏi bị đục và chất ngọt từ xương có đủ thời gian để tan vào nước lèo.

Có thể nói, phở Hà Nội có cái ngọt chân chất của xương bò, cái thơm của thịt vừa chín đến độ để vẫn dẻo mà lại không dai. Màu nước phở trong, bánh phở mỏng và mềm. Chỉ nhìn bát phở thôi cũng đủ thấy cái chất sành điệu, kỹ càng trong ăn uống của người Hà Nội. Một nhúm bánh phở đã trần qua nước nóng mềm mại dàn đều trong bát, bên trên là những lát thịt thái mỏng như lụa điểm mấy ngọn hành hoa xanh nõn, mấy cọng rau thơm xinh xắn, mấy nhát gừng màu vàng chanh thái mướt như tơ, lại thêm mấy lát ớt thái mỏng vừa đỏ sậm vừa màu hoa hiên.

Tất cả màu sắc đó như một bức họa lập thể hơi bạo màu nhưng đẹp mắt cứ dậy lên hương vị, quyện với hơi nước phở bỏng rẫy, bốc lên nghi ngút, đánh thức tất thảy khả năng vị giác, khứu giác của người ăn, khiến ta có cảm giác đang được hưởng cái tinh tế của đất trời và con người hợp lại. Chỉ húp một tý nước thôi đã thấy tỉnh người. Thịt thì mềm, bánh thì dẻo, thỉnh thoảng lại thấy cái cay dịu của gừng, cái cay nồng của ớt, cái thơm nhè nhẹ của rau thơm, cái thơm của thịt bò tươi mềm. Tất cả cứ ngọt lừ đi, ngọt một cách hiền lành, êm nhẹ mà chân thật, tuyệt kỹ hài hòa.

Ta có thể thưởng thức nhiều hương vị phở tại Hà Nội. Có ba món phở chính: Phở nước, Phở xào, Phở áp chảo. Trong ba loại phở trên thì phở nước là phổ biến hơn cả. Phở nước gồm có: Phở Bò, phở Gà, phở Tim gan. Tuy nhiên, người sành điệu chỉ ăn phở chuộng nhất phở Bò, thứ đến là phở gà và không chấp nhận những loại phở khác.

Đối với du khách nước ngoài thì phở được coi là món ngon hấp dẫn và lạ miệng bởi sự tinh túy. Để thưởng thức phở ngon thì cần phải để phở trong bát sứ chứ không phải là bát thủy tinh hay bát nhựa. Bát đựng phở không được quá to hay quá nhỏ. Nếu bát quá nhỏ, nước dùng sẽ chóng nguội và không có đủ chỗ để thịt, rau thơm và gia vị. Nếu bát to quá thì chưa ăn hết một bát bạn đã thấy chán vì phở chỉ là một món ăn nhẹ hoặc món ăn thêm.

Khi ăn phở, một tay cầm đũa còn tay kia cầm thìa. Dùng đũa tre là thích hợp nhất vì nó giản dị và không bị trơn khi gắp bánh phở. Bàn ăn phở cần hơi thấp so với bình thường để nước dùng không vương vào quần áo bạn khi cúi xuống gắp sợi bánh phở lên ăn.

Trông bạn sẽ rất kỳ cục nếu bạn uống bia hoặc trà đá khi ăn phở. Tuy nhiên, bạn nhấm nháp một chén cuốc lủi để bát phở thêm ngon thì có thể chấp nhận được. Nhưng thường thì không dùng đồ uống hoặc các đồ ăn khác khi ăn phở, ăn như vậy mới càng thấy phở ngon.

Nếu có cơ hội đến với Hà Nội thì bạn nên thưởng thức hương vị phở đặc trưng này nhé! Phở Hà Nội là như thế, đó là cái ngon của tất thảy những chất liệu đời thường Việt Nam nhưng đã được bàn tay tài hoa của người Hà Nội làm thành tác phẩm!

Thuyết minh về món ăn - mẫu 15

Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu thảo.Từ một câu ca đến những huyền thoại:

"Muốn ăn bánh ít lá gai

Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi" (Ca dao)

Chiếc bánh ít lá gai là một đặc trưng của xứ dừa Bình Định. Không chỉ đặc trưng từ hương vị ngọt bùi thơm dẻo kết tinh từ lao động và sáng tạo của người nông dân; không chỉ đặc trưng từ hình dáng tựa những ngôi tháp Chàm cổ kính rêu phong, từ sắc màu đen lục của lá gai và nếp dẻo mà còn đặc trưng bởi cái tên gọi mang đầy chất huyền thoại...

Theo sự tích xưa, thì sau khi chàng Lang Liêu - con trai của vua Hùng thứ sáu đã thắng cuộc trong hội thi làm các món ăn để cúng trời đất, tổ tiên trong ngày tết đầu năm mới với hai thứ bánh ngon lành và đầy ý nghĩa là bánh chưng và bánh dày, một nàng con gái út của vua thường được mọi người gọi trìu mến là nàng Út ít, vốn rất giỏi giang, khéo léo trong công việc bếp núc, đã nhân dịp đó trổ tài, sáng tạo thêm ra những món bánh mới.

Nàng Út muốn có một thứ bánh mới vừa mang hương vị bánh dày, vừa mang hương vị bánh chưng của anh mình. Nàng liền lấy chiếc bánh dày bọc lấy nhân của chiếc bánh chưng. Thứ bánh mới này quả đã đạt được yêu cầu tuy hai mà một của nàng Út.

Có thứ bánh mới, nàng Út lại suy nghĩ rồi quyết định phỏng theo hình dáng của bánh dày và bánh chưng để làm thành hai dáng bánh khác nhau, một thứ dáng tròn không gói lá, giống hệt như bánh dày, mộ thứ dùng lá gói kín thành dáng vuông giống hệt như bánh chưng để đạt được ý nghĩa "tuy hai mà một". Nhưng cả hai thứ bánh đó đều làm nho nhỏ xinh xinh để tỏ ý khiêm nhường với thứ bậc út ít của mình trước các anh chị.

Sau hội thi, ngoài bánh dày, bánh chưng được coi như những thứ bánh thiêng liêng ra, những cặp bánh mang ý nghĩa "tuy một mà hai, tuy hai mà một" của nàng Út cũng được mọi người khen ngợi không ngớt. Sau này, những thứ bánh ấy được lưu truyền trong dân gian, mọi người làm theo và cứ gọi bánh này là bánh Út Ít. Trải qua nhiều thời đại, bánh nàng Út Ít đã được cải tiến trở thành nhiều hình vẻ hơn và tên bánh được gọi vắn tắt là bánh út ít, rồi thành bánh ít như ngày nay.

Cũng có người giải thích rằng loại bánh này nhiều hình nhiều vẻ: Thứ gói lá, thứ để trần, nặn cao, nặn dẹt, thứ trắng, xanh, đen, thứ nhân dừa, nhân đậu... nên khi làm bánh, dù là để ăn hay để bán, người ta cũng thường làm mỗi thứ một ít cho có thứ nọ, thứ kia, đủ vẻ, đủ hình, do đó mà thành bánh ít. Có câu ca dao:

Bánh thật nhiều, sao kêu bánh ít

Trầu có đầy sao gọi trầu không?

Đó là cách lý giải của người Việt xưa, còn người Bình Định thì lại lý giải bằng cách liên hệ giữa hình dáng bánh ít với tháp Chàm ở Bình Định. Hầu hết các tháp Chàm ở Bình Định đều đứng trên đồi cao, tạo môt đỉnh nhọn ở giữa như chiếc bánh ít. Và thực tế, tại Bình Định cũng có hẳn một ngôi tháp mang tên Bánh Ít đi vào ca dao:

Tháp Bánh Ít đứng sít cầu Bà Di

Vật vô tri cũng thế huống chi tui với bà.

Cách lý giải thứ hai là dựa vào tục lễ hồi dâu của các cặp vợ chồng mới cưới. Ở Bình Định, mỗi khi về hồi dâu sau ba ngày cưới, cô gái nào cũng chuẩn bị một quả bánh ít do tự tay mình làm, mang về cúng gia tiên và biếu bố mẹ ruột làm quà để tỏ lòng hiếu thảo. Món quà tuy "ít", nhưng là "của ít lòng nhiều", ở đó nó còn có cả những giọt mồ hôi, sự nhẫn nại kiên trì, đôi bàn tay khéo léo, và đặc biệt là tấm lòng hiếu để của cô gái xa cha mẹ về làm dâu xứ người.

Dù chỉ trong ba ngày cưới, bận rộn với bao nhiêu niềm hạnh phúc, lo toan, song người con gái vẫn không quên cha mẹ mình, vẫn dành thì giờ để làm những chiếc bánh "ít" thơm thảo chờ ngày hồi dâu mang về làm quà cho bố mẹ. Nghĩa cử ấy thật không có gì bằng!

Để làm được chiếc bánh ít, người ta phải trải qua nhiều công đoạn, dụng khá nhiều công sức, sự dẻo dai, bền bỉ và khéo léo. Đầu tiên là phải chọn nếp để xay (nếp dùng làm bánh ít phải là nếp mới, thơm, độ dẻo vừa) rồi vo kỹ, ngâm với nước vài giờ, sau đó mới xay nhuyễn. Nếu xay bằng cối xay thủ công, phải đăng cho ráo nước để được một khối bột dẻo.

Để có màu xanh đen và hương vị thơm chát cho bánh, người ta hái lá gai non (Cây lá gai thường mọc sẵng ở các hàng rào quanh nhà), rửa sạch rồi luộc chín, vắt khô, sau đó trộn với bột dẻo đem đi giã. Đây là công đoạn dụng khá nhiều sức. Vì nếu giã chưa nhuyễn, bánh ăn lợn cợn, tạo cảm giác không ngon.

Tiếp đến là công đoạn làm nhân "nhưng" bánh. Nhưng bánh ít lá gai bao gồm đậu xanh, đường, dừa, có chút quế và bột va-ni cho thơm. Đậu xanh đem xay vỡ đôi rồi ngâm và đãi cho sạch vỏ trước khi luộc chín. Cùi dừa được bào ra thành sợi, bỏ vào chảo gang xào chung với đường một lúc cho đến độ chín tới mới trộn tiếp đậu xanh. Xào nhưng trên bếp lửa liu riu cho đến khi nào đường chín tới, nhưng có màu vàng sẫm, dẻo quánh, mùi thơm bốc lên ngào ngạt là vừa.

Làm bánh ít không khó, nhưng đòi hỏi phải tỉ mỉ. Sau khi đã xào nhưng xong, ngắt một miếng bột nếp tẻ thành bánh mỏng hình tròn trên lòng bàn tay, rồi vốc một nhúm nhưng bỏ vào giữa, túm bốn bên lại cho khít mối, sau đó vo tròn trong lòng bàn tay. Lúc này bột nếp đã bọc toàn bộ nhưng bánh thành một khối tròn.

Để cho bánh khỏi dính, người ta chấm một chút dầu phộng, xoa đều trên tấm lá chuối xanh, sau đó bọc bánh lại theo hình tháp rồi mang đi hấp. Có nơi, người ta hấp bánh trần, bánh chín mới gói để giữ màu xanh của lá chuối. Khi ăn chỉ cần bóc nhẹ lớp lá chuối xanh là hiện ra lớp da bánh ít màu đen bóng, đầy vẻ quyến rũ, huyền bí.

Ngoài bánh ít lá gai, có một số nơi làm bánh ít thường bằng bột nếp, màu trắng, có nhưng đậu xanh, nhân dừa đường hoặc nhân tôm, thịt; có loại gói lá chuối, có loại để trần; Cũng có loại làm bằng bột khoai mì, bột củ dong... và đều làm chín bằng phương pháp hấp như trên, song người An Nhơn, Bình Định thì chỉ làm bánh ít lá gai nhân dừa hoặc nhân đậu xanh gói lá chuối rồi mới đem đi hấp.

Ở hầu hết các làng quê Bình Định, đám giỗ nào cũng có bánh ít lá gai. Bánh cúng xong được dọn lên mâm cỗ làm món quà tráng miệng và làm quà bánh cho người ở nhà. Đây cũng là nét khác biệt trong văn hoá ẩm thực và văn hoá ứng xử của người Bình Định.

Ngày nay, dù có nhiều loại bánh hiện đại, ngon, rẻ và hấp dẫn hơn nhiều, song người Bình Định vẫn không bỏ nghề làm bánh ít lá gai. Nếu không làm để bán được thì cũng làm để cúng giỗ và làm quà cho lễ hồi dâu. Họ truyền nghề này cho thế hệ con cái, nhất là con gái, như một thứ bảo bối gia truyền, một nét đẹp văn hóa.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học