10+ Cảm nhận bài Vợ chồng A Phủ (điểm cao)

Tổng hợp 10+ Cảm nhận bài Vợ chồng A Phủ điểm cao, hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

10+ Cảm nhận bài Vợ chồng A Phủ (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Cảm nhận bài Vợ chồng A Phủ

a) Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

b) Thân bài:

* Hoàn cảnh cuộc đời của Mị:

+ Mị là một cô gái xinh đẹp, trẻ tuổi, lại có tài thổi sáo, có riêng cho mình một mối tình đẹp với một chàng trai trẻ trong làng.

+ Mị là con gái nhà nông, lại nghèo khó nên thành thử ra Mị có sẵn trong mình tính cần cù, chịu khó.

Khi nhà thống lý Pá Tra đòi bắt Mị làm con dâu gán nợ, Mị đã kiên quyết phản đối, nàng tự tin rằng bản thân mình có thể trồng bắp, trồng sắn trả nợ thay cho cha, chứ không muốn về làm dâu nhà giàu, không muốn sống cuộc đời mất tự do.

+ Thế nhưng vẫn bị người nhà thống lý Pá Tra bắt về làm dâu, làm vợ A Sử, để trả món nợ truyền kiếp thay cha.

+ Phải nai lưng ra làm lụng như một nô lệ, vì khổ sở quá Mị đã bỏ trốn về nhà, khóc lóc với cha, rồi định ăn lá ngón để chết quách đi cho đỡ khổ. Thế nhưng vì thương cha vì chữ "hiếu" nặng trên đôi vai Mị buộc phải quay về tiếp tục làm kiếp con dâu gán nợ, sống còn không bằng một con gia súc trong nhà.

Quảng cáo

* Nỗi đau đớn của Mị với kiếp làm dâu gạt nợ:

- Thể xác:

+ Mị trở nên chai lì, cứ lầm lũi như một con rùa trong xó cửa, toàn bộ suy nghĩ của Mị không có gì ngoài việc đi làm và không còn một tia tha thiết nào khác.

+ Là một cỗ máy lao động biết nói, có chân có tay, thậm chí còn chẳng được sống như một con trâu con bò.

- Tâm hồn:

+ Không có niềm vui giao tiếp, niềm vui sống cuộc đời của một người phụ nữ trẻ đẹp, khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi, đầu cúi xuống, thậm chí gần như Mị đã quên mất cả khả năng nói chuyện.

+ Bị mất tự do, thật không khác nào một kẻ tù chung thân, với căn buồng có cái lỗ vuông bé bằng bàn tay, "lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng".

* Sự hồi sinh của Mị:

Quảng cáo

+ Âm thanh của sự sống đã đánh thức trong tâm hồn Mị những niềm vui sống, những ký ức tươi đẹp: Tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân réo rắt, thúc giục, rộn ràng.

+ Mị từ một người gần như chẳng thiết tha gì đến nói năng, thờ ơ với tất cả mọi thứ, nay lại nhẩm hát theo tiếng sáo. Mị vẩn vơ nghĩ về những ngày còn ở nhà với cha.

+ Mị uống rượu, Mị "uống ừng ực từng bát", thổi lá

+ Mị muốn đi chơi, "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết".

+ A Sử về thấy Mị muốn đi chơi, A Sử túm tóc Mị, rồi trói chặt nàng và cây cột trong buồng, Mị ngẩn ngơ nghĩ về việc trong nhà này trước đây cũng từng có người đàn bà bị trói như thế này cho đến chết.

Sợ chết, cái nỗi đau siết da siết thịt bộc lộ rõ một điều rằng Mị còn tha thiết với cuộc đời này lắm, Mị không muốn chết trong nhà này, Mị đã hoàn toàn sống lại một cách trọn vẹn cả về thể xác lẫn tinh thần.

Quảng cáo

* Bước ngoặt lớn trong cuộc đời của Mị:

+ Mị chứng kiến tất cả mọi việc, cũng hiểu cho cái nỗi đớn đau bất hạnh của A Phủ nhưng vì bản thân Mị cũng bất lực trước số phận nên đành thờ ơ xem như không thấy.

+ Khi Mị trông thấy "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen" của A Phủ, thì lòng Mị bỗng nổi lên những sóng gió:

Mị thấy căm giận, phẫn nộ, sao những kẻ trong nhà này lại tàn ác đến vậy chúng nó trói chết đàn bà trong nhà này, trói chết Mị thì cũng đành, bởi lẽ Mị đã trình ma nhà nó rồi.

Xót thương cho người đàn ông chỉ vì mất một con bò mà bắt người ta phải trả giá bằng mạng sống.

Thật bất công và đáng căm hận, Mị muốn làm gì đó để cứu A Phủ.

+ Dù sợ hãi, Mị vẫn rón rén cầm dao cắt thừng trói A Phủ rồi thì thào nhan hai tiếng "đi đi", giải thoát cho một con người đáng thương, đáng sống.

+ Tận mắt trông thấy một người đã cạn kiệt sức lực,chỉ trực sụp xuống vậy mà vẫn cố lấy hết sức bình sinh chạy, lăn xuống sườn đồi => Mị nhận ra Mị đã giải thoát cho người ta, thì Mị cũng có thể tự cứu lấy mình chứ, thế rồi không chần chừ Mị cũng chạy theo A Phủ.

+ Câu nói "Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất" chính là minh chứng rõ nét về ý thức của Mị về cuộc đời bế tắc của mình ở nhà thống lý Pá Tra, đồng thời cũng bộc lộ sức sống tiềm tàng mãnh liệt, niềm khao khát tự do mạnh mẽ, sức phản kháng dữ dội đến từ những con người ở tận cùng đau khổ, đang bị cường quyền và thần quyền chèn ép.

c) Kết bài: Nêu cảm nhận về Vợ chồng A Phủ.

Cảm nhận bài Vợ chồng A Phủ - mẫu 1

Tô Hoài là một cây bút thực lực đầy sáng tạo và phong phú của nền văn học Việt Nam cả trước và sau cách mạng tháng tám, viết văn từ khi tuổi đời còn rất trẻ, đồng thời sớm trở nên nổi tiếng với các bộ truyện dành cho thiếu nhi. Sau khi tham gia vào cách mạng, Tô Hoài bắt đầu chú ý đến những vấn đề hiện thực xã hội và cuộc sống của con người trong những năm tháng đất nước quằn quại đau thương nhất. Tuy cùng viết về đề tài người nông dân dưới chế độ cũ, thế nhưng giọng văn của Tô Hoài có một cái gì đó rất khác, ngập tràn yêu thương và dịu dàng. Đi đến đâu Tô Hoài cũng có một lòng gắn bó tha thiết với từng mảnh đất và con người của quê hương, ngoài Hà Nội thì có lẽ miền Tây Bắc là nơi mà ông gửi gắm lại nhiều tình cảm yêu thương nhất. Điều đó được bộc lộ rõ nét thông qua bộ 3 truyện Tây Bắc, trong đó Vợ chồng A Phủ là tác phẩm được được biết đến nhiều hơn cả.

Viết về người nông dân nghèo khổ bị đàn áp dưới chế độ nửa phong kiến thực dân hay cụ thể hơn là viết về người phụ nữ nông dân với những cái khổ sở bao đời không phải là một chủ đề hiếm và có nhiều thứ để khai thác bởi lẽ hầu như những cây bút như Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố,... viết được gì đều đã viết cả rồi. Thế nhưng viết về người phụ nữ miền cao, chịu ách áp bức từ cả cường quyền lẫn thần quyền, cuộc đời không bằng con trâu con ngựa thì có lẽ là lần đầu tiên xuất hiện trên văn đàn Việt Nam và sớm nhất trên những trang văn của Tô Hoài. Vợ chồng A Phủ viết về một người phụ nữ có số phận bất hạnh, cũng là đại diện cho số phận khốn khổ của nhiều phụ nữ khác ở Hồng Ngài, ở vùng rừng núi Tây Bắc. Trước hết nói về xuất thân và hoàn cảnh của Mị, Mị là một cô gái xinh đẹp, trẻ tuổi, lại có tài thổi sáo, thổi lá, trai làng vì Mị mà đứng nhẵn hết cả một góc nhà cạnh đầu giường nơi Mị ngủ. Đồng thời cô cũng có riêng cho mình một mối tình đẹp với một chàng trai trẻ trong làng. Mị là con gái nhà nông, lại nghèo khó nên thành thử ra Mị có sẵn trong mình tính cần cù, chịu khó. Khi nhà thống lý Pá Tra đòi bắt Mị làm con dâu gán nợ, Mị đã kiên quyết phản đối, nàng tự tin rằng bản thân mình có thể trồng bắp, trồng sắn trả nợ thay cho cha, chứ không muốn về làm dâu nhà giàu, không muốn sống cuộc đời mất tự do. Thế nhưng cuộc đời của một cô gái có nhiều phẩm chất tốt đẹp lại dường như rơi vào một hố đen bế tắc, khi cô bị người nhà thống lý Pá Tra bắt về làm dâu, làm vợ A Sử, để trả món nợ truyền kiếp thay cha. Mang tiếng làm dâu nhà giàu nhưng Mị chẳng được sung sướng mà phải nai lưng ra làm lụng như một nô lệ, vì khổ sở quá Mị đã bỏ trốn về nhà, khóc lóc với cha, rồi định ăn lá ngón để chết quách đi cho đỡ khổ. Thế nhưng vì thương cha vì chữ "hiếu" nặng trên đôi vai Mị buộc phải quay về tiếp tục làm kiếp con dâu gán nợ, sống còn không bằng một con gia súc trong nhà. Vì đau đớn quá, vì cuộc đời sống không bằng chết, Mị trở nên chai lì, cứ lầm lũi như một con rùa trong xó cửa, toàn bộ suy nghĩ của Mị không có gì ngoài việc đi làm và không còn một tia tha thiết nào khác. Mị đâu chỉ phải về nhà A Sử để làm lụng trả nợ cho cha, mà Mị đã cúng trình ma nhà nó rồi, cái thần quyền đã vĩnh viễn trói chân Mị trong căn nhà lạnh lẽo và tàn khốc này, cướp hết những tự do và hạnh phúc mà Mị từng mong mỏi. Trong suốt những năm tháng sống tại nhà A Sử Mị tưởng mình đã chết rồi, tâm hồn Mị giờ chỉ còn là một nắm tro tàn nguội lạnh, đến nỗi cô tưởng mình chỉ là một cỗ máy lao động biết nói, có chân có tay, thậm chí còn chẳng được sống như một con trâu con bò. Bị giày vò cùng cực đến độ "ở lâu trong cái khổ, Mị cũng quen khổ rồi. Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa. Con ngựa chỉ biết ăn cỏ, biết đi làm mà thôi". Thậm chí còn Mị còn ý thức một cách đau đớn rằng "Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm còn được đứng gãi chân, nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này vùi vào việc cả đêm cả ngày". Không chỉ đau đớn về thể xác mà cái khổ của Mị còn đến từ những nỗi thống khổ trong tâm hồn, tại nhà thống lý Pá Tra, chính cái cuộc đời nô lệ đã không cho Mị được những niềm vui giao tiếp, niềm vui sống cuộc đời của một người phụ nữ trẻ đẹp. Người ta chỉ thấy Mị cặm cụi làm lụng như một cái máy, khuôn mặt lúc nào cũng buồn rười rượi, đầu cúi xuống, thậm chí gần như Mị đã quên mất cả khả năng nói chuyện, bởi biết nói với ai. Không những thế cuộc đời Mị còn bị mất tự do, thật không khác nào một kẻ tù chung thân, với căn buồng có cái lỗ vuông bé bằng bàn tay, "lúc nào cũng thấy trăng trắng không biết là sương hay là nắng". Trong căn buồng của Mị, Mị không có được hạnh phúc của tình yêu, lại chịu cảnh đau đớn, tù túng, dần dà Mị buông tay tuyệt vọng, nghĩ rằng có lẽ cho đến hết đời mình sẽ chết ở đây thôi, chứ không còn cách nào khác. Mà một loạt những đau khổ của Mị đều xuất phát từ cái nghèo, từ cái món nợ truyền kiếp, từ cái phong kiến thần quyền, cường quyền đáng hận.

Những tưởng đời của Mị có lẽ sẽ đến ngày trăm năm mà không một đổi dời, đầy bế tắc, thế nhưng một điều kỳ diệu đã xảy đến, một âm thanh của sự sống đã đánh thức trong tâm hồn Mị những niềm vui sống, những ký ức tươi đẹp, đó là tiếng sáo gọi bạn trong đêm tình mùa xuân réo rắt, thúc giục, rộn ràng. Nghe thấy những âm thanh trầm bổng ấy, Mị từ một người gần như chẳng thiết tha gì đến nói năng, thờ ơ với tất cả mọi thứ, nay lại nhẩm hát theo tiếng sáo. Hóa ra lòng Mị chưa chết hẳn, Mị vẫn còn ham vui, ham sống, yêu tha thiết tiếng sáo nhiều lắm, Mị vẩn vơ nghĩ về những ngày còn ở nhà với cha, tiếng sáo của Mị đã làm say lòng biết bao trai làng, Mị nhớ về tình yêu đã chết của mình. Biết bao nỗi nhớ, nỗi đau trào lên trong lòng Mị, thành thử Mị uống rượu, Mị "uống ừng ực từng bát", uống như thể muốn rửa trôi, muốn nuốt xuống bao nhiêu những uất ức đau đớn mà Mị phải gánh chịu suốt mấy năm trời đằng đẵng. Rồi Mị thổi lá, Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo vậy. Đọc đến đây người ta đã không ngần ngại gì nữa mà khẳng định rằng tâm hồn Mị chưa bao giờ chết hẳn, nó chỉ cố bảo vệ mình bằng cách tạo ra một lớp vỏ sần sùi, khô cứng, chai lì mà thôi. Còn giờ đây, như tằm phá kén, Mị muốn đi chơi, Mị nghĩ một cách tích cực và hồn nhiên hơn bao giờ hết, Mị quên hẳn chuyện mình đang ở trong nhà thống lí, Mị thấy mình vẫn còn trẻ lắm, Mị muốn được chơi xuân, được hòa vào cái không khí rộn ràng, hạnh phúc và tự do mà bao người vẫn đang được hưởng. "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi Tết". Nghĩ là làm, Mị đi vào căn buồng của mình, mặc chiếc váy hoa, vấn lại tóc, chuẩn bị cho chuyến đi chơi của mình. Thế nhưng thật không may, thật đau khổ thay, khi A Sử về thấy Mị muốn đi chơi, A Sử túm tóc Mị, rồi trói chặt chị và cây cột trong buồng, cắt đứt hết tất cả những niềm vui, những vọng tưởng tốt đẹp của Mị. Và cũng lại lúc này đây ta mới thấy được niềm khao khát sống của Mị nó mãnh liệt đến độ nào. Mị ngẩn ngơ nghĩ về việc trong nhà này trước đây cũng từng có người đàn bà bị trói như thế này cho đến chết, "Mị sợ quá, Mị cựa quậy xem mình còn sống hay đã chết. Cổ tay, đầu, bắp chân bị dây trói xiết lại, đau từng mảnh thịt". Cái sự sợ chết, cái nỗi đau siết da siết thịt bộc lộ rõ một điều rằng Mị còn tha thiết với cuộc đời này lắm, Mị không muốn chết trong nhà này, Mị đã hoàn toàn sống lại một cách trọn vẹn cả về thể xác lẫn tinh thần để chuẩn bị cho những bước ngoặt tiếp theo trong cuộc đời mình.

Bước ngoặt lớn trong cuộc đời của Mị đến từ cái số phận bất hạnh của A Phủ, một người đàn ông nghèo khó, bị bắt vạ mà cũng giống như Mị phải trở thành nô lệ, nai lưng ra làm lụng để trả cho bằng hết món nợ vô lý của mình. Thế rồi trong buổi chăn ngựa chăn bò, A Phủ lỡ làm mất một con bò, anh bị người ta trói đứng vào cái cột giữa sân, với một mệnh lệnh tàn ác: "Mày ra ngoài kia, lấy vào đây một cái cọc, một cuộn dây mây. Tao trói mày đứng chỗ kia. Bao giờ chúng nó bắn được con hổ về thì mày khỏi phải chết. Nếu không được con hổ thì tao cho mày đứng chết ở đấy". Mấy ngày liền người ta vẫn chẳng bắt được hổ, có lẽ A Phủ phải chịu cái chết ở ngay tại đây thôi, chết đói, chết rét, chết khát, ... dù gì cũng sẽ chết. Mị chứng kiến tất cả mọi việc, cũng hiểu cho cái nỗi đớn đau bất hạnh của A Phủ nhưng vì bản thân Mị cũng bất lực trước số phận nên đành thờ ơ xem như không thấy. Chỉ đến khi Mị trông thấy "dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen" của A Phủ, thì lòng Mị bỗng nổi lên những sóng gió, nó tựa như giọt nước tràn ly nhỏ vào trong tâm hồn đầy ăm ắp những nỗi căm hận của nàng. Mị thấy căm giận, phẫn nộ, sao những kẻ trong nhà này lại tàn ác đến vậy chúng nó trói chết đàn bà trong nhà này, trói chết Mị thì cũng đành, bởi lẽ Mị đã trình ma nhà nó rồi. Thế nhưng người đàn ông kia thì có tội tình gì, chỉ vì mất một con bò mà bắt người ta phải trả giá bằng mạng sống, kết thúc một cuộc đời đầy tương lai phía trước hay sao. Thật bất công và đáng căm hận, Mị muốn làm gì đó để cứu A Phủ, Mị chết cũng chẳng sao, nhưng Mị không muốn một con người khác cũng chết oan ức như Mị. Thế nên dù sợ hãi, Mị vẫn rón rén cầm dao cắt thừng trói A Phủ rồi thì thào nhan hai tiếng "đi đi", giải thoát cho một con người đáng thương, đáng sống. Tận mắt trông thấy một người đã cạn kiệt sức lực, chỉ trực sụp xuống vậy mà vẫn cố lấy hết sức bình sinh chạy, lăn xuống sườn đồi, đột nhiên Mị nhận ra điều gì đó. Phải rồi, Mị đã giải thoát cho người ta, thì Mị cũng có thể tự cứu lấy mình chứ, thế rồi không chần chừ Mị cũng chạy theo A Phủ. Câu nói "Cho tôi theo với, ở đây thì chết mất" chính là minh chứng rõ nét về ý thức của Mị về cuộc đời bế tắc của mình ở nhà thống lý Pá Tra, đồng thời cũng bộc lộ sức sống tiềm tàng mãnh liệt, niềm khao khát tự do mạnh mẽ, sức phản kháng dữ dội đến từ những con người ở tận cùng đau khổ, đang bị cường quyền và thần quyền chèn ép.

Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một truyện ngắn xuất sắc, tiêu biểu nhất cho những tác phẩm viết về đề tài cuộc sống và con người ở miền núi rừng Tây Bắc những năm tháng cách mạng sôi nổi. Không chỉ phản ánh sự tàn ác của chính quyền tay sai, hủ lậu, mà quan trọng hơn còn bộc lộ được những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, sức sống, sự phản kháng mạnh mẽ ở những người nông dân nghèo khó, và mở ra cho họ một con đường sáng - đến với cách mạng.

Cảm nhận bài Vợ chồng A Phủ - mẫu 2

Tô Hoài là nhà văn của sự thật đời sống với lối văn trần thuật hóm hỉnh, sinh động, cách sử dụng từ ngữ đắc địa. Vốn sống phong phú, hiểu biết sâu rộng về phong tục, tập quá các vùng miền, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ(1953) in trong tập Truyện Tây Bắc là tấm lòng nhân ái của nhà văn đối với những con người cùng khổ.

Tiếp cận tác phẩm Vợ chồng A Phủ, ta thấy được tấm lòng yêu thương con người của nhà văn qua việc lên án, phê phán hiện thực xã hội lúc bấy giờ, tố cáo sự tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi đồng thời cảm thông với nỗi bất hạnh của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi Tây Bắc; nhà văn trân trọng những khát vọng và mở ra cho họ con đường giải phóng bản thân, giải phóng đồng bào. Truyện ngắn vừa mang giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả.

Với lối kể truyện lôi cuốn, miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật tinh tế với cách dựng cảnh sinh động, ngôn ngữ giàu chất thơ, nhà văn Tô Hoài đã viết lên những trang văn sinh động trên vốn hiểu biết văn hóa sâu rộng về đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Bắc.

Thành công trước hết của tác phẩm là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Với nhân vật A Phủ, Tô Hoài làm đậm thêm bức tranh hiện thực cuộc sống thời bấy giờ. A Phủ là đứa bé mồ côi phải lang bạt kiếm sống nuôi thân và khi lớn lên trở thành nô lệ nhà thống lí vì đánh lại con quan. Với nhân vật Mị, tác giả sử dụng thủ pháp tương phản để nói lên mâu thuẫn giữa hoàn cảnh và số phận, giữa ngoại hình với nội tâm và sự phát triển tính cách nhân vật.

Tính cách của hai nhân vậy này được Tô Hoài thể hiện độc đáo, A Phủ và Mị mang phẩm chất tiêu biểu của người Mông, đó là sự âm thầm và mãnh liệt, mộc mạc mà dữ dội đến không ngờ. Họ sống tự nhiên, phóng khoáng và đầy bản lĩnh. Trang văn miêu tả sinh động, hấp dẫn nếp sống, phong tục tập quá và phong vị đặc trưng của đất và người Tây Bắc; đó là tục cướp vợ, lễ cúng trình ma, tục xử kiện,… thể hiện vốn sống, am tường về vùng đất mà nhà văn gắn bó, yêu mến.

Với nhân vật Mị, số phận và tâm lý được ông phác họa như đồ thị hình sin, đi xuống để tạo sức nén cho lần sau vút cao và giải phóng chính mình. Mị từ một cô gái hồn nhiên, yêu đời bỗng trở thành nô lệ, sống với người chồng không yêu mình, bị bóc lột cả về thể xác lẫn tinh thần khiến tâm hồn người thiếu nữ bị tê liệt, phải sống như cái xác không hồn, như con rùa lầm lũi trong xó cửa… tưởng chừng không bao giờ thoát ra được. Tâm hồn Mị được thức tỉnh trong đêm tình mùa xuân, nảy sinh hành động cắt dây trói cứu A Phủ, giải phóng cuộc đời khỏi ách thống trị, khỏi sự khổ đau và mở ra tương lai cho chính mình.

Viết về A Phủ, Tô Hoài thương cảm cho cuộc đời của cậu bé mồ côi bị bán lấy thóc. A Phủ bị quỳ, bị đánh chửi suốt ngày mà vẫn phải câm như thóc; phải phục vụ cho kẻ đã tra tấn, lăng nhục mình… Có lẽ viết về nỗi đau, nỗi bất hạnh của hai nhân vật này, ngòi bút Tô Hoài thấm ướt trang giấy, ông đã gieo vào lòng người đọc niềm thương cảm trước số phận con người. Ngòi bút của nhà văn đi sâu khám phá và sâu bên trong thế giới nội tâm nhân vật, ông hiểu nỗi niềm và trân trọng những khát vọng của họ. Miêu tả quá trình diễn biến nội tâm nhân vật tự nhiên và sống động, mở ra cho họ lối thoát.

Tô Hoài là nhà văn của đời thường, với Vợ chồng A Phủ là một điển hình với những con người thường, chuyện thường của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Bắc, những con người hiền lành, phóng khoáng phải sống dưới ách thống trị miền núi tàn bạo. Qua trang văn, Tô Hoài đã nhân danh quyền con người để lên án tố cáo tội ác của bọn chúa đất phong kiến miền núi đã đày đọa, cướp đi quyền sống của làm người của họ và qua đó cũng đồng cảm và mở ra cho họ lối đi tươi sáng.

Cảm nhận bài Vợ chồng A Phủ - mẫu 3

Tô Hoài là nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại VN, ông đã để cho thế hệ sau số lượng tác phẩm đạt kỉ lục. Vợ chồng A Phủ là 1 trong số truyện ngắn thành công nhất trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm mang giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị, qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với cách mạng của nhân dân Tây Bắc và cũng góp phần thể hiện sự bạo tàn của chế độ phong kiến ở miền núi lúc bấy giờ qua đó lên án tố cáo chế độ bạo tàn đó.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ lấy ấn tượng bởi cách mở đầu bằng việc giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý.“Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Lẽ ra Mị là một người vợ của một nhà giàu có thì phải có cuộc sống sung túc nhưng qua cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về một cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tảng đá, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào “buồn rười rượi”. Từ những miêu tả đó khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ, bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng. Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp, có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Là một cô gái nhạy cảm giàu khát khao yêu thương, được yêu, nhưng vì hoàn cảnh, Mị buộc phải bán mình cho nhà thống lí về làm vợ của A Sử và từ đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh.

Không chỉ nói tới nỗi đau thể xác của Mị mà còn khắc họa cả nỗi đau về tinh thần và tâm hồn của Mị. Một cô gái mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô.

Chính vì vậy có những lúc Mị đã từng muốn chết mà không được chết, vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha. Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn khi sống kiếp người dùng mình để trả nợ cho gia đình cho cha mà chịu bán mình và sống cuộc đời cơ cực. Bởi chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn và đó cũng chỉ là cái xác không hồn của Mị mà thôi.

Dù không một chút tình cảm với A sử nhưng với Mị thì A Sử vẫn là chồng Danh nghĩa và Mị phải phục tùng hắn chứ không phải là chăm sóc của một người vợ dành cho người chồng của mình nữa. Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của tuổi xuân cứ lớn dần, khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như trong một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, không nghe thấy A Sử hỏi“. Nhưng phũ phàng thay A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi chơi, bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của kẻ mộng du. 

Mị một trong những nhân vật tiêu biểu nhất của chuyên là người gỡ nút thắt của truyện, ở cô một người con gái nhỏ bé nhưng có sức sống mãnh liệt. Mị và A phủ cuối cùng cũng tìm tới với một cuộc sống tự do hào phóng ở một vùng đất mới. Đây là cách mà Tô Hoài muốn thực hiện.

Những lời văn như chính tác giả đang chứng kiến mọi thứ, tuy nhẹ nhàng nhưng tỉ mỉ chi tiết và để lại nhiều cảm xúc trong lòng người đọc. Truyện còn góp phần thể hiện 2 tư tưởng lớn đó là hiện thực và nhân đạo. Vợ chồng A Phủ đã phản ánh được một cách khá chân thực và sinh động bức tranh đời sống xã hội của dân tộc miền núi Tây Bắc trước ngày giải phóng Điện Biên. Cách khai thác của tác giả đã tạo ra thành công có ý nghĩa khai phá về đề tài miền núi trong văn học Việt Nam.

Qua tác phẩm người đọc thấy được trong vùng giặc Pháp chiếm đóng thời bấy giờ vẫn tồn tại chế độ lang đạo Thổ Ty, và nó còn khắc nghiệt tàn ác hơn nhiều so với chế độ phong kiến thực dân ở miền xuôi. Hiện thân của chế độ lang đạo Thổ Ty dã man ấy chính là cha con nhà thống lý Pá Tra. Chúng đã lợi dụng cường quyền cùng hủ tục phong kiến miền núi để biến những người lao động thành nô lệ không công, lao động khổ sai như trâu ngựa để làm giàu cho chúng.

Tác phẩm “Vợ chồng A Phủ không chỉ vạch trần tội ác của bọn phong kiến miền núi mà còn phơi bày tội ác của bọn thực dân Pháp lâu nay đang chiếm đóng Tây Bắc..

Không chỉ dừng lại với giá trị hiện thực, mà còn ẩn chứa những giá trị nhân đạo sâu sắc. Từ chính niềm cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau của con người, sự trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người và lòng tin vào khả năng vươn dậy của họ. Và trong tác phẩm chủ nghĩa nhân đạo mới không chỉ yêu thương, đồng cảm với những nỗi khổ của con người mà còn hướng tới, nhằm giải phóng cho con người khỏi mọi xiềng xích áp bức khổ, xây dựng cuộc sống hạnh phúc cho mình. Cách kết truyện khi Mị và A phủ tháo chạy, đi tìm miền đất mới .. là một trong số những nét tiêu biểu này.

Qua tác phẩm Vợ chồng A Phủ, tác giả đã góp phần tái hiện một cách chân thực và sâu sắc những giá trị về cuộc sống, những triết lí sống nhân văn, những sự cảm thông của chính tác giả với đứa con tinh thần của mình. Qua tác phẩm, Tô Hoài đã lên án những thế lực phong kiến miền núi, thế lực thực dân xâm lược; và ông đặc biệt  thông cảm sâu sắc với số phận của người nông dân miền núi đồng thời khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của họ.

Cảm nhận bài Vợ chồng A Phủ - mẫu 4

Lão Hạc, Chị Dậu, Đời Thừa… của Nam Cao là những thước phim quay chậm về xã hội đen tối của một thời trong lịch sử, về những con người bần cùng khổ cực và bế tắc. Họ sống mòn sống mỏi bên lề lịch sử với những tháng ngày tăm tối, vật vã vô cùng. Đến tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, ta cũng lại tiếp tục bắt gặp những mảnh đời như thế. Nhưng điều mới mẻ hơn ở đây là các nhân vật của Tô Hoài đã biết đứng lên tự giải phóng chính mình, tìm đến con đường giải cứu dân tộc, giải cứu đồng bào dù họ cũng phải sống trong kiếp nô lệ lầm than. Chính ngòi bút hiện thực và tấm lòng giàu nhân ái, giàu niềm tin và hi vọng vào ngày mai tươi sáng của Tô Hoài đã nâng tầm, đã hướng cho các nhân vật đến con đường giải phóng để tự do, để hòa bình, độc lập.

Câu chuyện kể về quãng đời của Mị và A Phủ khi phải sống làm trâu làm ngựa trong nhà thống lý Pá Tra. Hai con người, hai thân phận nhưng cùng chung một cảnh ngộ, một kiếp sống lầm than, nhục nhã. Và cả hai đều là đại diện tiêu biểu cho tầng lớp nhân dân thấp cổ bé họng, bị bọn thống trị, quan liêu tàn ác bất nhân hành hạ. Qua đó, nói lên tiếng lòng của nhà văn, ông cảm thương sâu sắc tới những con người hiền lành chất phác nhưng bị giam cầm trong khổ cực, đớn đau. Ông đã dùng nhân vật của mình để nói lên sự thật căm phẫn và tàn nhẫn về những kiếp người lay lắt dưới chế độ phong kiến hà khắc, bất nhân. Và có lẽ cũng vì vậy ông chọn cho tác phẩm của mình hai nhân vật chính đang ở độ tuổi giàu hoài bão nhất, yêu đời nhất. Và rồi ông đặt họ vào trong “chiếc cũi” của chế độ phong kiến, để thể hiện một cách toàn diện nhất, chân thực nhất về những tội ác mà bọn quan lại ác độc kia đã gây nên.

Trước hết là nhân vật Mị. Một cô gái thùy mị nết na đúng như cái tên của cô, bước ra từ những câu văn rất nhẹ nhàng và đằm thắm. Hơn nữa, Mị lại may mắn được mang vẻ đẹp thuần khiết của người con gái miền sơn cước, khiến các chàng trai bản ai cũng mê và ước ao được lấy Mị về làm vợ. Vừa ngoan hiền, vừa xinh đẹp, một cô gái như vậy hẳn là được nhiều người yêu mến. Và rồi, cô cũng chọn riêng cho mình một tình yêu trong sáng. Nhưng chỉ tiếc rằng, tình yêu ấy chưa kịp trao lời ước hẹn thì một tai họa lớn ập xuống cuộc đời Mị, phá tan những ước mơ và hoài bão mà Mị đang ấp ủ trong lòng. Mị bị gả bán vào nhà Thống lí Pá Tra để trừ nợ cho gia đình. Chẳng ai muốn phải lấy người mình không yêu. Hơn nữa, nhà thống lí lại là nơi nổi tiếng là gian ác, tham lam. Mị cầu cứu cha, van xin cha đừng gả bán Mị vào nhà đó. Nhưng chẳng còn cách nào khác. Mấy đời nhà Mị đã nợ nhà hắn, không trả được, và đều rơi vào cảnh lầm than. Không ai có thể giúp Mị được, vì tất cả đều đói khổ như nhau.

Vậy là một tình yêu trong sáng sắp đến ngày đơm bông, một đời xuân đang tràn đầy sức sống bỗng chốc vụt tan trong cái xã hội tàn, thối nát. Cuộc đời Mị bước sang một trang mới kể từ khi đặt chân vào nhà thống lý Pá Tra. Trên danh nghĩa, Mị đến đó để làm dâu, nhưng kiếp sống còn khổ hơn con trâu con ngựa. Con trâu con ngựa còn có lúc đứng gãi chân, gặm cỏ, còn phụ nữ, con gái nhà này làm thâu đêm suốt sáng. Đã thế còn phải hứng chịu những trận mưa roi khi chủ nhà không vui. Những buổi hẹn hò ngày nào của Mị giờ thay vào những tháng ngày triền miên trong công việc. Những nụ cười, những tiếng sáo chẳng còn ròn rã, véo von bên con suối hẹn hò. Thay vào đó là ngày đêm u tối trong thầm lặng, chịu đựng. Ngày này qua ngày khác, Mị quen dần với cuộc sống nơi đây. Hay nói đúng hơn là Mị đã bị “thôi miên” và chìm đắm trong cuộc sống ê trề không còn chút hi vọng. Ngày ngày, Mị chỉ biết trông ra một ô cửa nhỏ như lòng bàn tay, mờ mờ trắng trắng mà Mị chẳng biết là sương hay là nắng. Những dòng tự sự của Tô Hoài mỗi lúc lại khắc họa sâu hơn vào lòng người đọc về hình ảnh một cô gái đáng thương, tội nghiệp. Và ai cũng muốn đưa tay kéo cô ấy ra khỏi vũng bùn lầy lội nhưng không thể nào làm được. Mị cứ sống triền miên những ngày như thế. Mị không còn ý thức về không gian hay thời gian nữa. Có lẽ trong tâm hồn Mị đang hoàn toàn trống rỗng. Giống như cái mờ mờ trắng trắng bên ngoài ô cửa kia, mọi người chẳng còn biết Mị đang tồn tại như thế nào nữa.

Nhưng bản chất mạnh mẽ và sức sống tiềm tàng của một cô gái trẻ đâu có thể dễ dàng vùi dập như vậy. Chỉ là tạm thời bị hoàn cảnh đẩy lui. Thế nên, trong đêm tình mùa xuân hiếm hoi ấy, ta đã tình cờ gặp lại một cô Mị tràn trề sức sống và niềm vui. Dù lúc đầu Mị không có ý định đi chơi. Người ta uống rượu, Mị cũng uống, uống để say chứ không phải để vui. Nhưng vô tình men rượu lại dẫn lối mở đường cho Mị trở về những năm tháng thanh xuân tươi trẻ của mình. Mị thấy mình vẫn còn trẻ lắm. Cuộc đời ê trề và lắm truân chuyên ở chốn giam cầm này bỗng dưng chững lại. Chỉ còn có những hình ảnh nhảy múa, hẹn hò vui vẻ hiện ra trước mắt Mị. Tiếng sáo gọi bạn tình của các chàng trai bản lại càng làm Mị nhớ lại khoảng thời gian hạnh phúc của mình. Và Mị chợt nhận ra Mị vẫn còn trẻ lắm. Vậy mà bao lâu này Mị phải chôn thân ở nơi này. Nơi chỉ có bóng tối, có đòn roi và khổ nhục. Đúng là sống trong cảnh đớn đau ê trề, con người ta càng quý trọng hơn những phút giây hạnh phúc, tự do. Nhưng hai chữ “tự do” đối với Mị lúc này quá xa vời, có lẽ Mị cũng không dám mơ tới, mà chỉ nhớ lại trong tiềm thức của mình thôi. Qua những dòng văn chân thật giàu hình ảnh của nhà văn, ta càng thấu hiểu hơn về sức sống tiềm tàng của con người Mị. Dù thực tại có phải trải qua bao nhiêu đòn roi, bao nhiêu sự hành hạ cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng tâm hồn Mị vẫn còn vẹn nguyên.

Cho tới khi Mị gặp A Phủ, như một hòn than đã ủ lâu ngày và nay gặp được gió. Dù ban đầu, Mị cũng chẳng có ý thức gì về sự xuất hiện của A Phủ. A Phủ đứng chịu trói, bất động. Cả người đọc và Mị đều không biết A Phủ đã chết hay chưa. Nhưng điều đó có gì quan trọng đâu, khi mà Mị đã không còn ý thức về sự sống và cái chết. Với Mị, dù A Phủ có là cái xác đứng đó thì cũng thế thôi. Mị quen với cảnh này rồi. Những câu văn của Tô Hoài khiến người đọc không khỏi rợn người. Nhưng Mị lại khác, Mị thản nhiên ngồi hơ tay bên bếp lửa. Một cô gái từng rất hồn nhiên, yêu đời, yêu cuộc sống là thế, mà nay lại dửng dưng trước một người đang cận kề cái chết. Thế mới hiểu cuộc sống ở nhà thống lí Pá Tra khắc nghiệt như thế nào. A Phủ trước đây cũng từng là một chàng thanh niên khỏe mạnh, gan dạ, vốn dĩ từ nhỏ đã chẳng biết sợ sệt dù là đứng trước thú dữ. Vậy mà giờ đây lại phải dang tay chịu trói trước những kẻ ác độc, lòng lang dạ sói. Chứng tỏ bọn chúng còn ác hơn cả loài cầm thú mà A Phủ đã từng đối mặt trong rừng. Một sự tình cờ nhưng lại ngẫu nhiên làm lộ bản chất của bọn cầm quyền gian xảo, độc ác. Và rồi, trong tình cảnh bần cùng như thế, dù có sắt đá đến thế nào cũng không thể ngăn được những xúc cảm của một con người vốn chân chất, thật thà. Giọt nước mắt rơi xuống hõm má, tác giả không lý giải vì sao A Phủ lại khóc, nhưng người đọc cũng tự hiểu giọt nước mắt ấy là sự uất hận, sự nuối tiếc cho một đời trai trẻ bị giam cầm ở nơi tối tăm này. Và còn không biết bao nhiêu con người nữa cũng đang chịu chung cảnh ngộ với A Phủ. Hẳn là A Phủ cũng đang khát khao được sống, được rong chơi bên bờ suối, được lang thang trên bản lang nhìn ngắm bà con dân bản mình. Nhưng niềm hi vọng le lói ấy có lẽ đang lụi lụi dần. Và chính lúc cả hai con người, Mị và A Phủ, đi vào bước đường cùng, tưởng chừng như chỉ còn lại hai cái xác không hồn lại là lúc ngọn lửa trong họ bừng lên.

Trong đêm ấy, Mị đã cởi trói cho A Phủ. Một hành động mà người ngoài cuộc nhìn vào sẽ cảm thấy rất táo bạo và nguy hiểm. Nhưng với Mị, việc ấy chẳng có gì quan trọng. Bởi hiện giờ, Mị sống mà không bằng chết. Thế nên, khi cởi trói cho A Phủ, nếu bị người nhà thống lí phát hiện, chắc chắn Mị sẽ bị bọn chúng giết chết. Nhưng nếu cứ sống như thế này, Mị cũng sẽ chết dần dần mòn từng ngày từng ngày. Cùng là chết, vậy thì tại sao Mị lại không chọn chết một cách có ích hơn? Mị quyết định cởi trói cho A Phủ. Lúc đầu, Mị chỉ định đứng đó nhìn A Phủ chạy, nhưng chỉ trong giây lát ngắn ngủi, Mị lại vội vàng chạy theo A Phủ cùng trốn thoát. Trong phút giây sinh tử, cả hai con người bấu víu vào nhau, cùng dìu nhau qua cửa ải tử thần của nhà thống lí Pá Tra. Và họ đã thoát khỏi nơi ấy, đã tự giải phóng được mình. Không những thế, hai người còn liên kết và tập hợp mọi người cùng nhau đứng lên để giải phóng đồng bào, giải phóng dân tộc.

Như vậy, câu chuyện không chỉ dừng lại ở hai cuộc đời Mị và A Phủ, mà qua đó còn là thông điệp mang tầm vóc quốc gia. Rằng hãy đứng lên đấu tranh, hãy đoàn kết để tìm đến con đường độc lập tự do. Đừng như chị Dậu cả cuộc đời cam chịu trong số phận khổ đau, đến cuối truyện lại lầm lũi đi vào trong đêm tối. Hay như lão Hạc đã kết liễu cuộc đời mình…

Qua tác phẩm, nhà văn Tô Hoài đã vừa vạch trần tội ác của giai cấp thống trị, vừa nói lên sự sống mãnh liệt của con người. Họ không bao giờ chịu khuất phục trước những đàn áp bất chính. Dù có phải trải qua những năm tháng ê trề trong đau khổ, nhưng sau cùng những con người ấy vẫn vùng dậy đấu tranh. Và họ đã chiến thắng, đã làm chủ được cuộc đời. Thế nên, Vợ chồng A Phủ được coi là lá cờ tiên phong cho phong trào cổ động nhân dân đứng lên giải phóng dân tộc, giải phóng chính mình.

Cảm nhận bài Vợ chồng A Phủ - mẫu 5

Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách Tô Hoài sau Cách mạng tháng Tám. Hiện thực và nhân đạo là nội dung nổi bật của thiên truyện này. Nội dung ấy lại được thể hiện bằng giọng văn trần thuật, miêu tả và thể hiện tâm trạng, tính cách nhân vật hết sức tinh vi và sâu sắc. Đoạn vân trên thể hiện rất rõ tài năng của Tô Hoài trong việc mô tả và khắc họạ tâm trạng nhân vật Mị, một nhân vật trung tâm của thiên truyện Vợ chồng A Phủ.

Đoạn văn chủ yếu nhằm diễn tả tâm trạng của Mị trong một đêm sau bữa cơm Tết cúng ma ở nhà thống lý Pá Tra. Một tâm trạng hỗn hợp: vui sướng và đau khổ, ham sống và tủi nhục muốn chết. Và chủ yếu là thể hiện nội tâm nhân vật, ta thấy ít lời thoại. Mị không nói câu nào. Chỉ một câu hỏi duy nhất của A Sử: “Mày muốn đi chơi à? Mị không nổi. A Sử cũng không hỏi thêm nữa”. Tất cả chìm đi trong im lặng, lầm lũi. Mị như chiếc bóng câm lặng, vật vờ trong bóng đêm nhà A Sử. Đọc đoạn văn, người đọc thấy thời khắc trôi đi với Mi thực chậm chạp và nặng nổ làm sao. Trong bóng  tối nặng nề,  mòn mỏi ấy, hành động của Mị cũng rất ít. Tô Hoài chỉ để vài dòng miêu tả vài ba hành động “Mị lén lấy hũ rượu, cứ  uống ực từng bát… Mị đứng dậy… từ từ bước vào buồng. ..Mị quấn lại tóc… Với tay lấy cái váy hoa vắt ở trong vách…”, Chỉ có thế, phần lớn đoạn văn còn lại là những dòng nội tâm đang trỗi dậy, tuôn trào lòng Mị. Cũng vì để thể hiện nội tâm nhân vật rất đặc biệt này, không có cách nào hơn là trần thuật theo con mắt của chính người trong cuộc, con mắt và tấm lòng của Mị - Một người con gái tràn đầy sức sống nhưng bị đè nén đầy đoạ trong đau  khổ và tủi nhục. Một số phận bi thảm. Và chính vì giàu sức sống nên bị kịch càng trở nên sâu đậm. Giá như tâm hồn Mi đã khô cạn, đã chết hẳn; giá như Mị quên hết được những kỉ niệm ngày trước…thì chắc Mị sẽ bớt đi được nhiều đau khổ’, dằn vặt. Tô Hoài đã rất thành công trong việc diễn tả bi kịch tinh thần này. Rõ ràng là ban đầu Mị chỉ hành động theo thói quen một cách vô thức “Ngày Tết Mị cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát rồi say’. “Cũng uống” tức là chỉ làm theo người xung quanh. Ngày tết người ta uống, Mị cũng uống. Tuy nhiên “uống ực từng bát”, là hành vi bước đầu thể  hiện một cái gì khác thường trong tâm lý người con gái rồi đây. Bi kịch bắt đầu nổi lên khi ý thức Mị bắt đầu hoạt động thật sự. Mở đầu là nỗi nhớ “Lòng Mi thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi  bạn đầu   làng”. Rồi Mị nhớ lại những ngày xuân  trước, Mị thổi sáo giỏi ‘Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm  dã thổi sáo đi theo Mị”… Chính vì sống quá sâu sắc với quá khứ mà Mị quên tất cả hiện tại ”Rượu đã tan lúc nào. Người về, kẻ đi chơi đã văn cả. Mị không biết”. Cũng chính vì sống lại  với quá khứ, quên hiện tại mà “Đá từ này, Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước’ và cô thấy mình còn trẻ “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Giá như đừng nhớ lại, không nhớ lại được những ngày ấy thì Mị không rơi vào tâm trạng ”Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nưóc mát ứa ra”. Đấy chính là tâm trạng khi Mị bừng tỉnh lại sống trong hiện tại. Quá khứ và hiện tại dằng xé trong tâm hốn Mị. Hiện tại tăm tối, ngột ngạt “Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vản lơ lửng bay ngoài dường” thức dậy quá khứ đẹp đẽ đang náo nức trong lòng Mị. Để làm nổi bật sức sống nội tâm vẫn mãnh liệt, nồng nàn trong tâm hổn Mị, như trên đã nói (đoạn văn ít hành động và chỉ duy nhất có một câu hỏi của A Sử mà Mị không trả lời), Tô Hoài đã tạo ra một cô Mị bên trong đang rạo rực, náo nức và quằn quại niềm ham sống và một cô Mị bên ngoài như cái bóng lầm lũi, như đã chết. Bên ngoài một cô Mị không nói, không hề phản ứng gì trước những việc A Sử làm, A Sử nổi. Ngay cả việc A Sử “Còn muốn rình bắt mấy người con gái nữa về làm vợ. Cũng chẳng bao giờ Mị nói gì”. A Sử hỏi, Mị không trả lời. A Sử bắt đẩu trói Mị bằng cả một thúng sợi đay, quấn tóc lên cột ”làm cho Mị không cúi, không nghiêng đầu được nữa”. Không có một dòng hay một chữ nào mô tả lại hành động phản kháng của Mị. Suốt từ đầu đến cuối, chỉ thấy cô im lặng, âm thầm cam chịu. Ẩn chứa bên trong lại là một cô Mị khác, một cô Mị đang náo nức, say sưa với những kỷ niệm tình yêu. Say sưa đến nỗi “như không biết mình đang bị trói… Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được” lại đưa Mị trở về với hiện thực cay đắng “Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”.

Kết thúc đoạn trích ta lại thấy con người bên trong của Mị xuất hiện. “Mị nín khóc, Mị lại bồi hồi”. Đấy chính là lúc Mị quên đi thực tại, nhớ về thời điểm trai làng “đến bên vách làm hiệu, rủ người yêu dỡ vách ra rừng chơi.” Cố thể thấy rõ thực tại và kỷ niệm cứ đan xen nhau, giằng xé tâm hồn Mị. Càng nhớ tới kỷ niệm Mị càng xót xa, đau khổ với thực tại phũ phàng. Đoạn văn cho ta thấy trong con người lầm lũi, khốn khổ đó, vẫn tiềm tàng một sức sống âm thầm nhưng mãnh liệt. Người đọc không mấy khó khăn khi muốn phân tích giá trị phản ánh hiện thực xã hội một cách sâu sắc ở đoạn văn. Chỉ cần dẫn ra chi tiết tác giả mô tả thái độ của A Sử khi trói Mị một cách lạnh lùng, tàn nhẫn cũng đủ thấy bộ mặt thật ghê tởm của lũ chúa đất và số phận khốn khổ, tủi nhục của người dân miền núi, đặc biệt là người phụ nữ dưới ách thực dân phong kiến. Bên cạnh giá trị hiện thực ấy, đoạn văn tuy được trần thuật bằng một chất giọng có vẻ rất khách quan, người đọc vẫn nhận ra thái độ đồng cảm, xót thương của Tô Hoài đối với nhân vật Mị. Không thấu hiểu và thông cảm với những người bị chà đạp như Mị, nhà văn không thể hoá thân và diễn tả được thành công đời sống nội tâm phức tạp và phong phú của Mị trong cái đêm mùa xuân ấy. Cũng qua đoạn văn này, người ta còn thấy được thái độ căm phẫn của tác giả đối với loại người như A Sử. Không một lời bình phẩm, bình luận, chỉ qua vài nét phác họạ hành động của A Sử hoặc tác giả chỉ cần hạ vài chữ như “trói vợ xong” cũng đủ thấy thái độ căm phẫn của tác giả… Đó chính là ý nghĩa nhân đạo của đoạn văn.

Đoạn văn trên là một trong những đoạn văn hay nhất của truyện Vợ chồng A Phủ. Tuy rất ngắn ngủi so với toàn bộ thiên truyện nó đã thể hiện được rõ nét tài năng miêu tả diễn biến nội tâm của nhân vật một cách chân thật, sinh động trên tinh thần hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

Cảm nhận bài Vợ chồng A Phủ - mẫu 6

"Vợ chồng A Phủ" là truyện ngắn xuất sắc rút từ tập "Truyện Tây Bắc" của nhà văn Tô Hoài. Truyện kể về cuộc sống, số phận của Mị, A Phủ dưới sự chuyên chế, bạo tàn của phong kiến miền núi, họ không chỉ bị đối xử bất công mà còn bị tước đoạt tự do, hạnh phúc. "Vợ chồng A Phủ" đặc biệt thành công trong việc xây dựng nhân vật Mị - một cô gái trẻ trung, yêu đời nhưng bị buộc trở thành "con dâu trừ nợ" cho gia đình thống lí. Qua hành trình đi từ đau khổ đến hạnh phúc của Mị, Tô Hoài đã ca ngợi vẻ đẹp của sức sống tiềm tàng bên trong những con người nhỏ bé.

Mở đầu, tác giả Tô Hoài sử dụng thủ pháp miêu tả phác hoạ ngoại hình để gợi mở nội tâm nhân vật Mị và đặt nhân vật trong sự đối lập với khung cảnh xung quanh: giữa cảnh giàu có, tấp nập của nhà thống lí Pá Tra "nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng" thì Mị luôn được đặt ở vị trí cạnh tảng đá và bên tàu ngựa. Cuộc sống Mị ngày qua ngày gần như đã gắn liền với những cảnh vật ấy. Mị cứ lầm lũi làm việc như trâu, như ngựa giữa khung cảnh giàu sang, phú quý của nhà Thống lí. Chân dung nhân vật Mị được khắc họa bằng một nét đậm: "Lúc nào cũng vậy, ..., cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi". Cảm giác những năm tháng làm dâu cho nhà thống lí đã khiến Mị thành một cái xác vô hồn từ lúc nào.

Sau khi tạo ấn tượng với người đọc bằng những nét phác hoạc chân dung nhân vật, tác giả mới lí giải về câu chuyện Mị về làm dâu gạt nợ cho nhà Pá Tra. Mị vốn xuất thân là cô gái trẻ, đẹp và giàu lòng yêu đời, lại chăm chỉ và hiếu thảo. Đang sống trong những ngày tươi đẹp của tuổi xuân, dù trong cảnh nghèo khó. Mùa xuân đến, Mị lại hân hoan niềm vui sướng, hồi hộp chờ nghe tiếng sáo quen thuộc của người yêu. Thế nhưng cũng vào một đêm xuân như thế, Mị đã mất đi tất cả, bị bắt cóc về làm dâu trừ nợ cho nhà thống lí Pá Tra. Nguyên do chỉ vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ Mị. Ngày trước hai người lấy nhau, không có tiền cưới, phải đến vay tiền thống lí, bố của Pá Tra. Bố mẹ Mị không trả được, thì đến Mị phải thay cha mẹ trả số nợ trời ơi đất hỡi ấy! Nhà văn đã không ngần ngại mà lên tiếng vạch trần bóc lột phổ biến của bọn phong kiến ở miền núi cũng như ở miền xuôi: nạn cho vay nặng lãi.

Trong thời gian đầu bị bắt về làm dâu nhà Pá tra, Mị đã ra sức phản kháng bằng cách hàng mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, rồi Mị định tự tử bằng lá ngón. Nhưng rồi Mị nhận có chết thì món nợ vẫn còn, bố còn khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ. Thế là Mị không đành lòng chết. Những tháng ngày làm dâu trong nhà Pá Tra là một chuỗi dài triền miên những cực nhọc vất vả nối tiếp không dứt đến mức dường như đã làm tê liệt cả ý thức về bản thân. Và dần Mị cũng đã quên đi những mong muốn đấu tranh, phản kháng lại số phận "Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu ... biết đi làm mà thôi". Bổ trợ thêm cho những ách áp bức nặng nề còn là sự áp chế về tinh thần bởi mê tín, thần quyền. Mị cho rằng bố con Pá Tra đã "trình ma", có nghĩa là mình đã là người nhà này và chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác trong nhà nó mà thôi. Chân dung Mị được khắc đậm một nét này: "cúi mặt không nghĩ ngợi nữa", "Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như một con rùa nuôi trong xó cửa", lúc nào "cũng cúi mặt buồn rười rượi". Căn buồng Mị nằm lúc nào cũng âm u, chạng vạng với cái cửa sổ "một lỗ vuông bằng bàn tay", là một biểu tượng gắn với cuộc đời nhân vật. Cái cửa sổ "Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi". Thậm chí Mị cũng không có ý nghĩa vẻ cái chết nữa: "Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa". Mị sống như một cái bóng vật vờ, sống mà như đã chết, không còn cả ý thức về thời gian nữa. Mị không còn nhớ mình về làm dâu nhà Pá Tra đã bao nhiêu năm. Với Mị, giờ đây đã không còn nhận thức cả về thời gian, tất cả chẳng gợi cho cô một ấn tượng, cảm xúc gì, vẫn chỉ là một cái màu nhờ nhờ trăng trắng "không biết là sương hay là nắng", cái sắc màu mờ mờ đùng đục của những hoàng hôn đằng đẵng buồn tẻ và tê tái. Cuộc sống của Mị bị giam hãm trong cái không gian chật hẹp và tù đọng của nhà Pá Tra, với một nhịp điệu buồn tẻ, nặng nề của những công việc khổ sai lặp di lặp lại, trong một thời gian ngưng đọng như không dĩ vãng và không tương lai. Tác giải sử dụng lời trần thuật với nhịp chậm, trầm lặng tạo ra giọng điệu có chiều sâu thấm đượm nỗi xót xa và thương cảm đối với nhân vật. Phải chăng tâm hồn Mị đã hoàn toàn nguội lạnh?

Ngòi bút của Tô Hoài không chỉ hướng tới việc phơi bày cái đen tối, ảm đạm của cuộc đời mà còn thiết tha hướng tới phía sự sống và ánh sáng. Ngòi bút ấy đã khai phá sâu vào tận cùng của ý thức và trong đáy sâu tiềm thức nhân vật để khơi bừng lên chút ánh sáng và hơi ấm của niềm ham sống khát khao hạnh phúc. Sự thức tỉnh đời sống ý thức của Mị trước hết là nhờ tác động của hoàn cảnh - đêm hội mùa xuân về trên miền núi cao Tây Bắc. Mùa xuân là thời điểm gợi dậy ở con người, ở thiên nhiên sức sống tiềm tàng và những khát vọng. Cái Tết năm ấy đến vào lúc gió và rét dữ dội, nhưng vẫn không ngăn được những sắc màu của mùa xuân trong thiên nhiên và cả ở con người. Sự sống của tạo vật và con người như được mùa xuân khơi dậy, làm bừng tỉnh và cũng làm cho ngọn lửa sống trong lòng Mị bừng lên đã đến. Đấy là một "đêm tình mùa xuân" khi mà tiếng sáo gọi bạn tình cứ thiết tha, bồi hồi "tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng". Trong tâm trí của Mị, tiếng sáo gọi bạn là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của khát vọng hạnh phúc: "Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị" hết núi này sang núi khác. Cái nồng nàn của đêm xuân lại được tăng thêm bởi bữa rượu ngày Tết, trong tiếng chiêng đánh ầm ĩ và những người lên đồng, người hát: "Ngày Tết, Mị cũng uống rượu, Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say...". Chính trong một trạng thái đã được kích thích bởi men rượu, bởi những âm thanh náo động của bữa cơm cúng ma trong nhà Pá Tra và sự lôi cuốn của tiếng sáo gọi bạn ngoài đường, Mị đã giải thoát cho tâm hồn đã nguội lạnh bấy lâu nay của mình. Đây chính là dấu hiệu đầu tiên cho thấy Mị sống lại với những hồi tưởng về những ngày xuân quá khứ, những kỉ niệm đẹp về ngày trước, những ngày hạnh phúc ngắn ngủi của tuổi trẻ. Thông qua việc nhớ lại quá khứ, Mị như được sống lại sau thời gian dài chết tâm bấy lâu nay, rồi Mị sống lại với niềm ham sống của tuổi trẻ: "Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm Tết ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi". Sức sống bấy lâu nay bị đè nén, tưởng đã tắt lịm, thì giờ đây bỗng bật trào dậy. Cũng bởi vì chưa kịp thích nghi với quá khứ chợt ùa về mà phản ứng đầu tiên đến với Mị là ý nghĩ: "Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa". Ý nghĩ về cái chết lúc này là sự phản kháng với hoàn cảnh, nó chứng tỏ rằng Mị đã ý thức lại được tình cảnh đau xót dai dẳng của mình. Trong khi ấy thì tiếng sáo - biểu tượng của khát vọng tình yêu và tự do - cứ theo sát diễn biến tâm trạng của Mị. Nó là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa trong lòng Mị. Tiếng sáo từ chỗ là một hiện tượng ngoại cánh đã xâm nhập thế giới nội tâm của Mị, trở thành một hiện hữu ở trong tâm linh nhân vật: "Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo". Từ suy nghĩ giờ đây đã  bước phát triển quyết định Mị bước tới hành động. Đầu tiên là một hành động có nhiều ý nghĩa: "Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng". Đấy là một hành động của sự thức tỉnh. Mị thắp sáng ngọn đèn trong càn phòng vốn âm u, mờ mịt của mình, cũng tức là Mị thắp lên một ánh sáng trong cuộc đời tăm tối triền miên của mình trong nhà Pá Tra. Và hành động này thúc đẩy hành động tiếp theo, như những đợt sóng tiếp nhau. Dường như không đếm xỉa gì đến những trói buộc khắt khe của nhà Pá Tra, đến A Sử, Mị tự mình hành động như một con người tự do, theo tiếng gọi của lòng mình: quấn lại tóc, rút lấy cái váy hoa, sửa soạn đi chơi Tết. Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mạnh mẽ thì nó bị dập xuống phũ phàng: A Sử bước vào, thản nhiên, lầm lì, trói đứng Mị vào cây cột nhà rồi y "tắt đèn, đi ra, khép cửa buồng lại". Suốt cái đêm bị trói vào cột ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé giữa niềm khao khát sống tự do và thực tại nghiệt ngã. Ban đầu, Mị như quên những vòng dây trói và những đau đớn thể xác mà vẫn sống với tiếng sáo, "tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi" ở ngoài kia, đến nỗi Mị "vùng bước đi". Nhưng rồi những vòng dây trói thít chặt và nỗi đau đớn đến tê dại toàn thân đã kéo Mị trở về với thực tại. Thay thế cho tiếng sáo gọi bạn, chỉ còn "tiếng chân ngựa đạp vào vách. Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa". Thực tại phũ phàng đã bóp chết những khao khát tự do và hạnh phúc ở Mị. Ngòi bút của tác giả đã thấm nhuần tinh thần nhân đạo, thể hiện ở niềm tin và sự trân trọng niềm khát khao vươn lên đời sống tự do và hạnh phúc của những con người bị đọa đày đau khổ.

Giữa lúc xung đột đã dẫn đến căng thẳng, ngòi bút đã hướng sự chú ý của người đọc bằng sự xuất hiện của A Phủ trong cuộc đánh nhau của toán thanh niên làng bên với A Sử. Đây cũng là lối giới thiệu nhân vật một cách tự nhiên và gây sự chú ý ngay từ đầu. A Phủ xuất hiện trong cuộc đánh nhau của trai làng bên với bọn A Sử. "Lũ phá đám ta đêm qua đây rồi.

- A Phủ đâu? A Phủ đánh chết nó đi!

Một người to lớn chạy vụt ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử. Con quay gổ ngát lăng vào giữa mặt. Nó vừa kịp bưng tay lên. A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp".

A Phủ xuất hiện đối đầu với A Sử thật hiên ngang và trận đòn đánh mới áp đảo và hả hê làm sao! Một loạt từ chỉ hành động với nhịp nhanh, mạnh, dồn dập, chạy vụt ra, vung tay ném, xộc tới nắm, kéo đập đầu, xé, đánh tới tấp để mô tả cảnh A Phủ đối đầu với A Sử. A Phủ vốn là một thanh niên nghèo, suốt đời đi làm thuê làm mướn, không có ruộng, không có cả đến cái vòng bạc đeo cổ để đi chơi Tết. Cha mẹ đã chết cả trong một trận dịch đậu mùa, A Phủ đã từng bị bắt bán xuống vùng người Thái,... Nhưng chính cuộc sống cùng cực ấy đã hun đúc thêm ở A Phủ một sức sống mạnh mẽ, lòng ham chuông tự do và một tính cách thật gan góc, cùng với một tài năng lao động đáng quý. A Phủ thạo và ham thích những công việc lao động nặng nhọc mà khó khăn, nguy hiểm: "biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và đi săn bò tót rất bạo", "Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng". A Phủ là đứa con của núi rừng tự do. Cuộc sống phóng khoáng, ưa tự do, gần gũi thiên nhiên và chất phác của A Phủ cũng là một nét tính cách đặc trưng của người Mông. Việc A Phủ bị bắt làm người ở gạt nợ càng góp phần tố cáo cho tội ác của giai cấp thống trị: một chàng trai khoẻ mạnh, gan góc, vốn không nợ nần gì nhà Pá Tra, lại lao động giỏi, sống tự do như chim trời giữa núi rừng, vậy mà cuối cùng cũng không thoát khỏi ách áp bức của chúa đất, phải rơi vào thân phận kẻ nô lệ suốt đời trong nhà Pá Tra. Hơn thế nữa, cho đến cả đời con, đời cháu cũng vậy, bao giờ trả hết nợ mới thôi! Ngoài ra, cảnh bọn quan chức trong làng xử kiện A Phủ lại thêm một bức tranh cụ thể sống động, giàu sức tố cáo vé một tập tục là hiện thân của ách áp chế kiểu trung cổ ở miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong khói thuốc phiện mù mịt "tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp" và "Người thì đánh, người thì quỳ lạy, kể lể, chửi bới. Xong một lượt đánh, kể, chửi, lại hút", cứ thế suốt từ trưa cho đến hết đêm. Còn A Phủ gan góc, quỳ chịu đòn chỉ im như tượng đá.

Sự gặp gỡ của hai người cùng cảnh ngộ nô lệ Mị và A Phủ đã tạp bước ngoặt lớn cho tác phẩm. Khi mà A Phủ đi chăn bò để hổ bắt mất một con. Pá Tra trói đứng A Phủ vào cọc ở giữa nhà, một tình cành bị trói chờ chết như năm nào Mị đã phải chịu. Lúc đầu, nhìn A Phủ bị trói, Mị vẫn chưa có một suy nghĩ gì. Nào phải đâu Mị là người nhẫn tâm, chỉ vì những hành động tội ác trong nhà Pá Tra là chuyện diễn ra hằng ngày và Mị cũng chỉ là một nạn nhân bất lực mà thôi. Hơn nữa, Mị vẫn đang chìm trong trạng thái sống gần như vô cảm. Nhưng đến một đêm, khi Mị trở dậy thổi lửa sưởi, "Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Chính dòng nước mắt ấy của A Phủ, dòng nước mắt tuyệt vọng, đau đớn của người trai Mông gan góc, quả cảm đã đánh thức đời sống ý thức và tình cảm ở Mị. Mị bừng tinh, thoát khỏi tình trạng "vô cảm", mà dấu hiệu đầu tiên của sự thức tính ấy cũng lại là sự hồi tưởng. Kí ức sống dậy, Mị nhớ lại những nỗi đau đớn khi bị trói đứng vào cột. "Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được". Mị nhớ đến một người đàn bà khác đã từng bị trói đến chết. Từ sự xót thương người đồng cảnh ngộ, ở Mị đã hình thành mối đồng cảm giai cấp tự nhiên. Ý nghĩ cứu A Phủ đã mạnh hơn cả nỗi lo sợ cho chính mình. Từ tình cảm và ý nghĩ ấy, ắt dẫn tới hành động quyết định của Mị: cắt dây trói cứu A Phủ. Cắt dây trói cứu A Phủ, Mị cũng đã tự cắt sợi dây trói buộc đời mình với nhà Pá Tra. Để tự cứu mình, Mị đã chạy theo A Phủ thoát khỏi địa ngục nhà Pá Tra. Đến dây cái vòng trói buộc cuộc đời Mị và A Phủ đã được tháo gỡ nút thứ nhất. Mặc dù đây chỉ là những hành động đấu tranh tự phát, nhưng cũng chính là từ những khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ ấy mà họ sẽ nhanh chóng đến với cách mạng, để giải phóng triệt để cho số phận của mình và của những người nghèo khổ khác. 

Thông qua những miêu tả chi tiết về thái độ cũng như những chuyển biến tâm lí của nhân vật Mị, nhà văn Tô Hoài trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ đã làm nổi bật lên vẻ đẹp của sức sống tiềm tàng bên trong Mị hay cũng chính là sức sống của những người nông dân nghèo vùng núi Tây Bắc. Giá trị nhân văn sâu sắc của truyện ngắn này còn thể hiện ở chỗ Tô Hoài không chỉ hướng đến phản ánh cuộc sống khổ đau của người nông dân mà còn hướng họ đến con đường "sáng" - đi theo cách mạng để giải phóng bản thân, giải phóng quê hương, đất nước.

Cảm nhận bài Vợ chồng A Phủ - mẫu 7

Tô Hoài là nhà văn của sự thật đời sống với lối văn trần thuật hóm hỉnh, sinh động, cách sử dụng từ ngữ đắc địa. Vốn sống phong phú, hiểu biết sâu rộng về phong tục, tập quá các vùng miền, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ(1953) in trong tập Truyện Tây Bắc là tấm lòng nhân ái của nhà văn đối với những con người cùng khổ.

Tiếp cận tác phẩm Vợ chồng A Phủ, ta thấy được tấm lòng yêu thương con người của nhà văn qua việc lên án, phê phán hiện thực xã hội lúc bấy giờ, tố cáo sự tàn bạo của giai cấp thống trị miền núi đồng thời cảm thông với nỗi bất hạnh của đồng bào dân tộc thiểu số miền núi Tây Bắc; nhà văn trân trọng những khát vọng và mở ra cho họ con đường giải phóng bản thân, giải phóng đồng bào. Truyện ngắn vừa mang giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả.

Với lối kể truyện lôi cuốn, miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật tinh tế với cách dựng cảnh sinh động, ngôn ngữ giàu chất thơ, nhà văn Tô Hoài đã viết lên những trang văn sinh động trên vốn hiểu biết văn hóa sâu rộng về đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Bắc.

Thành công trước hết của tác phẩm là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Với nhân vật A Phủ, Tô Hoài làm đậm thêm bức tranh hiện thực cuộc sống thời bấy giờ. A Phủ là đứa bé mồ côi phải lang bạt kiếm sống nuôi thân và khi lớn lên trở thành nô lệ nhà thống lí vì đánh lại con quan. Với nhân vật Mị, tác giả sử dụng thủ pháp tương phản để nói lên mâu thuẫn giữa hoàn cảnh và số phận, giữa ngoại hình với nội tâm và sự phát triển tính cách nhân vật.

Tính cách của hai nhân vậy này được Tô Hoài thể hiện độc đáo, A Phủ và Mị mang phẩm chất tiêu biểu của người Mông, đó là sự âm thầm và mãnh liệt, mộc mạc mà dữ dội đến không ngờ. Họ sống tự nhiên, phóng khoáng và đầy bản lĩnh. Trang văn miêu tả sinh động, hấp dẫn nếp sống, phong tục tập quá và phong vị đặc trưng của đất và người Tây Bắc; đó là tục cướp vợ, lễ cúng trình ma, tục xử kiện,… thể hiện vốn sống, am tường về vùng đất mà nhà văn gắn bó, yêu mến.

Với nhân vật Mị, số phận và tâm lý được ông phác họa như đồ thị hình sin, đi xuống để tạo sức nén cho lần sau vút cao và giải phóng chính mình. Mị từ một cô gái hồn nhiên, yêu đời bỗng trở thành nô lệ, sống với người chồng không yêu mình, bị bóc lột cả về thể xác lẫn tinh thần khiến tâm hồn người thiếu nữ bị tê liệt, phải sống như cái xác không hồn, như con rùa lầm lũi trong xó cửa… tưởng chừng không bao giờ thoát ra được. Tâm hồn Mị được thức tỉnh trong đêm tình mùa xuân, nảy sinh hành động cắt dây trói cứu A Phủ, giải phóng cuộc đời khỏi ách thống trị, khỏi sự khổ đau và mở ra tương lai cho chính mình.

Viết về A Phủ, Tô Hoài thương cảm cho cuộc đời của cậu bé mồ côi bị bán lấy thóc. A Phủ bị quỳ, bị đánh chửi suốt ngày mà vẫn phải câm như thóc; phải phục vụ cho kẻ đã tra tấn, lăng nhục mình… Có lẽ viết về nỗi đau, nỗi bất hạnh của hai nhân vật này, ngòi bút Tô Hoài thấm ướt trang giấy, ông đã gieo vào lòng người đọc niềm thương cảm trước số phận con người. Ngòi bút của nhà văn đi sâu khám phá và sâu bên trong thế giới nội tâm nhân vật, ông hiểu nỗi  niềm và trân trọng những khát vọng của họ. Miêu tả quá trình diễn biến nội tâm nhân vật tự nhiên và sống động, mở ra cho họ lối thoát.

Tô Hoài là nhà văn của đời thường, với Vợ chồng A Phủ là một điển hình với những con người thường, chuyện thường của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Bắc, những con người hiền lành, phóng khoáng phải sống dưới ách thống trị miền núi tàn bạo. Qua trang văn, Tô Hoài đã nhân danh quyền con người để lên án tố cáo tội ác của bọn chúa đất phong kiến miền núi đã đày đọa, cướp đi quyền sống của làm người của họ và  qua đó cũng đồng cảm và mở ra cho họ lối đi tươi sáng.

Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học