10+ Cảm nhận đoạn 2 trong bài Phú sông Bạch Đằng (điểm cao)

Tổng hợp 10+ Cảm nhận đoạn 2 trong bài Phú sông Bạch Đằng điểm cao, hay nhất giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

10+ Cảm nhận đoạn 2 trong bài Phú sông Bạch Đằng (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Cảm nhận đoạn 2 trong bài Phú sông Bạch Đằng

1. Mở bài

+ Giới thiệu tác giả, tác phẩm. 

+ Dẫn dắt vấn đề phân tích: đoạn 2 Phú sông Bạch Đằng.

2. Thân bài

+ Phân tích hình ảnh bô lão trong đoạn 2 Phú sông Bạch Đằng:

* Trong đoạn văn này, tác giả đã đưa ra một số mô tả về các bô lão xuất hiện trên sông Bạch Đằng. Có thể những nhân vật này là các vị cao niên thực sự sống ở hai bên bờ sông, cũng có thể là tác giả đã tạo ra một số nhân vật hư cấu để khách quan kể về những chiến công trên sông Bạch Đằng.

* Tác giả cũng đã mô tả thái độ của các bô lão với khách, trong đó có sự tôn kính và hiếu khách được thể hiện qua các từ như “vái” và “thưa”.

* Ngoài ra, đoạn văn cũng đề cập đến những chiến công tiêu biểu của các vị tướng trong lịch sử Việt Nam như Ngô Quyền đánh quân Nam Hán, Hoằng Tháo thua trận và chết ở sông Bạch Đằng năm 938 và Trùng Hưng nhị thánh bắt sống Ô Mã năm 1288.

Quảng cáo

* Tuy nhiên, để tránh sự khô khan của đoạn văn, có thể thêm một số chi tiết thú vị hơn, chẳng hạn như mô tả về cảnh sông Bạch Đằng vào thời điểm đó, hoặc thêm một số tình tiết liên quan đến các vị tướng và cuộc chiến trên sông để làm cho bài viết thêm sinh động và hấp dẫn hơn.

+ Phân tích không khí chiến trường xưa trong đoạn 2 Phú sông Bạch Đằng:

* Dưới sự lãnh đạo của nhà Trần, quân đội đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng với muôn đội thuyền bè được trang bị tinh kỳ phấp phới, sáu quân hùng hổ, vũ khí gươm giáo sáng chói. 

* Tuy nhiên, sự chuẩn bị đó không chỉ dừng lại ở đó mà còn bao gồm việc hỗ trợ binh lực hùng hậu và tạo ra hào khí ngút trời để giúp quân đội chiến đấu một cách hiệu quả.

+ Phân tích diễn biến trận đánh trong đoạn 2 Phú sông Bạch Đằng:

* Trận đánh tại Phú sông Bạch Đằng được miêu tả bằng những cụm từ và hình ảnh ấn tượng. Cụ thể, cách diễn đạt “được thua chửa phân”, “bắc nam chống đối” và hình ảnh “nhật – nguyệt phải mờ, bầu trời đất sắp đổi” đã phóng đại tình hình căng thẳng của trận đánh. Trận đánh này không chỉ gay go, quyết liệt mà còn có sự giằng co căng thẳng giữa hai bên.

Quảng cáo

* Quân giặc được miêu tả với thái độ kiêu căng, hống hách và ngạo mạn khi nghĩ rằng mình có thể gieo roi một lần quét sạch Nam bang bốn cõi. Tuy nhiên, kết quả trận đánh đã chứng minh rằng họ đã thất bại thảm hại và ê chề. Thủ pháp so sánh tăng cấp đã được sử dụng để nhấn mạnh sự thất bại của kẻ thù và làm tô đậm cảm giác nhục nhã của họ.

* Kết thúc trận đánh, các Hung đồ đã hết lối và khác nào… chết trụi. Tuy nhiên, trận đánh này vẫn là niềm tự hào của dân tộc và khẳng định tình yêu và lòng tự hào dành cho đất nước.

3. Kết bài

+ Đánh giá khái quát lại vấn đề phân tích. 

+ Liên hệ bản thân.

Cảm nhận đoạn 2 trong bài Phú sông Bạch Đằng - mẫu 1

Quảng cáo

Trương Hán Siêu, một nhà văn, một học giả có tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử văn học Việt Nam. Ông sinh ra và lớn lên tại Ninh Bình, một vùng đất đầy những cảnh đẹp thiên nhiên, lịch sử và văn hóa. Trước khi trở thành một nhà văn, Trương Hán Siêu từng là một môn khách trong phủ Trần Hưng Đạo. Sau này, khi vua Trần Anh Tông lên ngôi, ông được bổ nhiệm vào chức Tham tri chính sự – một vị trí quan trọng trong triều đình ngày xưa. Với sự đóng góp của mình, Trương Hán Siêu được phong Thái Bảo, Thái Phó và cho thờ trong Văn Miếu. Đương thời Trương Hán Siêu là người có tính tình cương trực, học vấn uyên thâm, rất được các vua Trần tin dùng và nhân dân yêu mến kính trọng. Tuy nhiên, đáng tiếc rằng hầu hết các tác phẩm văn chương của ông đều bị thất lạc. Chỉ còn lại một ít trong đó có Phú sông Bạch Đằng – một trong những tác phẩm hay và nổi tiếng nhất. Trong tác phẩm này, Trương Hán Siêu thể hiện cảm hứng yêu nước nồng nàn, tha thiết của mình. Ông đã tái hiện một cách sinh động cái không khí hào hùng vẻ vang của dân tộc trong những trận chiến lịch sử. Ở đoạn 2 của tác phẩm, ông đã sử dụng hình ảnh nhân vật “các bô lão” để khắc họa rõ những khoảnh khắc oai hùng, cùng truyền thống yêu nước bất khuất, kiên cường thông qua lời thuật lại của các bô lão.

Phú sông Bạch Đằng là một tác phẩm văn chương rất đặc biệt, truyền cảm hứng yêu nước cực mạnh cho người đọc. Trong tác phẩm này, Trương Hán Siêu đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong lòng các độc giả, đặc biệt là những người yêu thích văn chương. Nói đến tác phẩm nổi tiếng này, không thể không nhắc đến những hình ảnh oai hùng, những khoảnh khắc lịch sử được tái hiện một cách chân thật, sinh động bởi lời thuật của Trương Hán Siêu.

Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở Phú sông Bạch Đằng, Trương Hán Siêu còn để lại cho đời nhiều tác phẩm văn chương khác với độ sâu triết lý và nghệ thuật cao. Đó là những tác phẩm mà chúng ta cần bảo vệ và trân trọng giữ gìn, để truyền lại cho các thế hệ sau đó có thể tìm hiểu và học tập từ những tác phẩm này.

“Đây là chiến địa buổi trùng hưng nhị thánh bắt Ô Mã,

Cũng là bãi đất xưa, thuở trước Ngô chúa phá Hoằng Thao.”

Đương khi ấy:

Thuyền tàu muôn đội, tinh kì phấp phới.

Hùng hổ sáu quân,giáo gươm sáng chói.

Trận đánh được thua chửa phân,

Chiến luỹ bắc nam chống đối.

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,Bầu trời đất chừ sắp đổi.

Kìa:

Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối.

Những tưởng gieo roi một lần,

Quét sạch Nam bang bốn cõi.

Thế nhưng: Trời cũng chiều người,

Hung đồ hết lối

Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,

Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Đến nay sông nước tuy chảy hoài,

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.”

Lũ giặc ngang tàn đã được miêu tả như “Thuyền tàu muôn đội, tinh kỳ phấp phới”, và quân ta đứng đơn lực bạc nhưng vẫn đối đầu với sự tàn bạo của kẻ thù, như trong câu “Những tưởng gieo roi một lần/ Quét sạch Nam bang bốn cõi”. Tuy nhiên, những kẻ gieo tai vạ và hung hăng bạo ngược sẽ chịu kết cục tiêu vong, dù có là “Tất Liệt thế cường” hay “Lưu Cung chước đối”. Kết cục này sẽ giống như trận Xích Bích hay trận Hợp Phì và sẽ luôn là nỗi nhục nhã mãi mãi. Tuy vậy, sự oanh liệt và hùng dũng của quân dân Đại Việt ta sẽ được ghi nhớ mãi mãi.

Trong bài viết này, Trương Hán Siêu đã dùng các trận đánh chấn động lịch sử của Trung Quốc cổ đại để ví von với trận đánh của Đại Việt ta trên sông Bạch Đằng. Điều này rất khéo léo để thể hiện lòng tự hào và tinh thần tự tôn dân tộc sâu sắc. Cường quốc phương Bắc vẫn tự xưng là bậc đế vương và nhìn thường Đại Việt nhỏ bé là phường chư hầu. Họ bắt tiến cống sản vật và tùy thời xâm chiếm. Tuy nhiên, chúng ta không được quên lịch sử hào hùng của dân tộc, những “trùng hưng nhị thánh” và “Ngô chúa” nổi tiếng. Chúng ta phải khơi dậy lòng tự hào dân tộc, ngợi ca các bậc anh hùng kỳ tài và tập hợp tinh thần yêu nước của cả một dân tộc để tạo thành sức mạnh vĩ đại sẵn sàng đương đầu với mọi sự tiến công mạnh mẽ của giặc ngoại xâm.

Sở dĩ cả “khách” và “các bô lão” có tâm trạng ấy, bởi trong lòng họ đã có những dự báo không tốt về vận khí của nhà Trần. Sau khi chiến thắng quân Mông Nguyên lần thứ ba, nhà Trần bắt đầu có dấu hiệu suy thoái. Những vị tướng kiệt xuất đã mất đi và đất nước không có người chống đỡ. Điều này khiến những người dân lo lắng cho tương lai của đất nước.

Tuy nhiên, như Nguyễn Trãi đã viết rằng “Càn khôn bĩ rồi lại thái/Nhật nguyệt hối rồi lại minh”. Có thể vận khí của nhà Trần sẽ được cải thiện trong tương lai và đất nước sẽ trở lại những ngày huy hoàng của mình.

Những nỗi ưu tư, phiền muộn vì vận nước nay đã không bằng được như xưa, đã đem đến cho tác giả một niềm mong ước mãnh liệt. Tác giả mong muốn thể hiện tấm lòng trung quân ái quốc, một lòng vì mong cho nhân dân được ấm no và đất nước được vững bền. Tương lai có thể sẽ có “vị thánh nhân” nào đó nối bước người xưa, lần nữa vực dậy non sông Đại Việt, đưa nước ta trở về những ngày huy hàng rạng rỡ. Những chiến công oanh liệt của dân tộc trong công cuộc chống giặc ngoại xâm ngàn năm nay sẽ được kể lại và truyền cho thế hệ tương lai.

Phú sông Bạch Đằng không hổ danh là tác phẩm được đánh giá là đỉnh cao của thể loại phú trung cũng như là áng thiên cổ hùng văn trong lịch sử văn học dân tộc. Đây là một tác phẩm tuyệt vời được sáng tác để ca ngợi cảnh sắc non sông và gợi nhắc lại lịch sử vẻ vang của dân tộc. Tấm lòng yêu nước sâu sắc và lòng ngợi ca, tự hào trước những chiến công oanh liệt của dân tộc trong công cuộc chống giặc ngoại xâm ngàn năm nay được thể hiện rõ ràng trong tác phẩm này.

Phú sông Bạch Đằng là nơi diễn ra trận chiến lịch sử giữa quân Đại Việt và quân Minh Mông Nguyên vào năm 1288. Đây là trận chiến quyết định cho sự thống nhất đất nước và giúp đất nước trở nên mạnh mẽ hơn. Từ đó, tên gọi “Hào khí Đông Á” được gắn liền với lịch sử đất nước ta.

Trong tác phẩm Phú sông Bạch Đằng, tác giả đã sử dụng những hình ảnh đẹp và mạnh mẽ để miêu tả cảnh sắc non sông. Từ những dòng sông nhỏ, những rặng núi, cho đến những con chim và cây cối, tất cả đã được tác giả miêu tả rất chi tiết và đầy cảm xúc.

Bên cạnh đó, tác phẩm cũng miêu tả về những anh hùng, những người đã hy sinh và đánh đổi tính mạng để bảo vệ đất nước. Những người đó đã để lại những dấu ấn sâu đậm trong lịch sử đất nước và được người dân tôn kính, nhớ mãi.

Tóm lại, tác phẩm Phú sông Bạch Đằng không chỉ là một tác phẩm văn học tuyệt vời mà còn là một bức tranh về lịch sử đất nước và tấm lòng yêu nước sâu sắc của người Việt Nam. Tác phẩm này đã và đang được truyền bá và truyền lại qua các thế hệ, góp phần giúp cho những người trẻ hiểu rõ hơn về lịch sử đất nước và yêu quê hương hơn.

Cảm nhận đoạn 2 trong bài Phú sông Bạch Đằng - mẫu 2

Bài phú trên sông Bạch Đằng là một tác phẩm văn học vĩ đại, được xếp vào hàng “thiên cổ hùng văn” của nền văn học Việt Nam. Trong đó, Trương Hán Siêu đã sử dụng hiểu biết sâu rộng và tài hoa văn chương của mình để mô tả một cuộc chiến trên sông Bạch Đằng đầy hào hùng, sống động và chân thực. Tác phẩm gợi lên trong tâm trí độc giả những hình ảnh mạnh mẽ của những người chiến đấu trên sông, cùng với niềm kiêu hãnh của dân tộc ta trong cuộc chiến chống lại quân xâm lược Mông Cổ.

Nếu nhân vật khách trong tác phẩm là một người đã đi khắp nơi, trải nghiệm và chiêm ngưỡng được vẻ đẹp của thế giới, thì các bô lão lại là những người đã chứng kiến những trận chiến lịch sử của dân tộc ta trên sông Bạch Đằng. Họ đã trải qua những thời khắc đầy căng thẳng, những ngày đêm cực khổ để bảo vệ đất nước và giành lại tự do cho dân tộc. Những trận chiến trên sông Bạch Đằng đã trở thành biểu tượng cho sự kiên cường, mạnh mẽ của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh chống lại quân xâm lược.

“Bên sông bô lão hỏi,

Hỏi ý ta sở cầu.

“Đương khi ấy:

Thuyền tàu muôn đội,

Tinh kì phấp phới.

Hùng hổ sáu quân,

Giáo gươm sáng chói.Trận đánh được thua chửa phân,

Chiến luỹ bắc nam chống đối.

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi.”

Đội quân của chúng ta đã được huấn luyện rất kỹ, với sự tập trung và chuyên nghiệp trong mọi chi tiết. Với sự quyết tâm và ý chí kiên cường, họ đã những tấn công liên tiếp vào địch, lấy đi nhiều mạng sống của quân giặc, đồng thời khiến cho đội quân địch phải chịu nhiều tổn thất nặng nề.

Tuy nhiên, cuộc chiến đấu vẫn còn rất căng thẳng và đầy áp lực. Cả hai bên đều không muốn chịu thất bại, vì vậy họ đã liên tục tấn công và phòng ngự với sức mạnh to lớn. Các đòn tấn công được thực hiện với sự dũng cảm và sự tinh thông về phương thức chiến đấu, họ đã chứng tỏ sức mạnh của mình và khiến cho địch phải sợ hãi.

Trong thời gian chiến đấu, cả hai bên đều gặp phải nhiều khó khăn và thử thách. Đội quân của chúng ta đã phải đối mặt với những lần tấn công dồn dập của địch, đồng thời phải chịu đựng những tổn thất nặng nề. Tuy nhiên, họ vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu và không từ bỏ:

“Kìa: Tất Liệt thế cường,

Lưu Cung chước dối.

Những tưởng gieo roi một lần,

Quét sạch Nam bang bốn cõi.

“Thế nhưng:

Trời cũng chiều người,

Hung đồ hết lối

Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,

Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Đến nay sông nước tuy chảy hoài,

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi.

Tái tạo công lao,

Nghìn xưa ca ngợi.”

Các bậc lão khẳng định tính chính nghĩa của cuộc chiến dân tộc và ca ngợi chiến thắng của đội quân của ta. Họ cũng tỏ lòng biết ơn sâu sắc với lãnh đạo tài ba và những người tài năng và thông minh trong đội quân của ta.

Trên thực tế, chiến thắng của đội quân ta không đến từ sức mạnh vũ trang mà còn từ sự thông minh, mưu lược, tài năng và dũng cảm của những người lính và lãnh đạo. Các bậc lão nhắc lại rằng con người tài đức sức mạnh và trí tuệ là yếu tố tiên quyết của thắng lợi này.

Chúng ta cũng có thể suy nghĩ về những di tích lịch sử và chiến công vĩ đại của cha ông, như sông Bạch Đằng, nơi đã chứng kiến những trận chiến huyền thoại của quân ta. Trương Hán Siêu đã khéo léo xây dựng hình ảnh đầy ấn tượng của sông Bạch Đằng, một biểu tượng vĩ đại của sự hy sinh và chiến thắng của dân tộc ta.

Những kí ức lịch sử này sẽ được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác, để ngàn đời sau con cháu ta vẫn luôn tự hào và kính trọng những chiến công và di tích lịch sử vĩ đại của cha ông. Những trận chiến huyền thoại và những người lính và lãnh đạo đã đem lại chiến thắng cho đội quân ta sẽ luôn được kể lại trong lịch sử dân tộc ta, để trở thành nguồn cảm hứng và động lực cho những thế hệ sau này.

Cùng với việc kính trọng và tôn vinh những di tích lịch sử và những chiến công vĩ đại của cha ông, chúng ta cũng cần phải học hỏi và rút ra những bài học quý giá từ những trận chiến và những người lính và lãnh đạo đã tham gia vào cuộc chiến đó. Đó là bài học về tinh thần đoàn kết, sự hy sinh và tình yêu quê hương, những giá trị vĩnh cửu mà chúng ta cần phải gìn giữ và truyền lại cho thế hệ sau.

Cảm nhận đoạn 2 trong bài Phú sông Bạch Đằng - mẫu 3

Trương Hán Siêu, một tri thức uyên thâm, hiểu biết sâu rộng. Làm quan dưới thời bốn vua nhà Trần, ông được kính trọng như 'thầy'. Bài 'Phú sông Bạch Đằng' sáng tác khi nhà Trần suy thoái, là kiệt tác chữ Hán nổi bật thời Trung Đại. Bài thơ kết hợp tự hào dân tộc và niềm hoài cổ với triết lý sâu sắc. Đặc biệt, đoạn thứ hai nói về các bô lão khiến cho bức tranh lịch sử trở nên sống động. Đoạn thứ hai không chỉ mô tả hình ảnh của bô lão bên sông Bạch Đằng, mà còn là bức tranh về trận đánh lịch sử đầy hào hùng và thảm bại của đối phương trước quân và dân Đại Việt.

Đoạn văn bắt đầu với hình ảnh của các bô lão 'gậy lê chống đắm', 'thuyền nhẹ bơi sóng sau' đến 'vái lạy' trước 'khách':

“Bên bờ sông, các ông lão hỏi ý kiến của chúng ta là gì?

Có người đang cầm gậy lê chống đứng trước, có người lái thuyền nhẹ bơi sau

Và họ cúi đầu nói với chúng ta rằng”.

Hình ảnh những ông lão có thể là biểu tượng của cư dân địa phương sống bên sông Bạch Đằng, hoặc đơn giản chỉ là những hình ảnh huyền thoại, là hồn của tác giả. Cho dù thực tế hay tưởng tượng, hình ảnh của những người ông già kia đưa chúng ta về quá khứ, nhớ đến hình ảnh của điện Diên Hồng ngày xưa, nơi mà những vị tướng già đồng lòng hô to 'đánh', cùng với hai chữ 'Sát Thát' rộn ràng, đậm chất anh hùng, mang theo hào khí Đông Á. Các ông lão như là cầu nối, đưa chúng ta trở lại thời kỳ huy hoàng, những trang sử lịch sử hùng vĩ của dân tộc:

“Đây chính là nơi chiến trường buổi Trùng Hưng Nhị Thánh bắt Ô Mã

Cũng là mảnh đất huyền thoại, từng là nơi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán”.

Những kí ức của những ông lão kể cho người 'khách' như một bức tranh sống về cuộc chiến chống quân Mông Nguyên lần thứ ba, khi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và quân sĩ của ông bắt sống được tướng quân giặc Ô Mã, đánh tan đội quân mạnh mẽ nhất thời điểm đó. Cũng như nhắc nhở về năm 938, Ngô Quyền lịch sử đại phá quân Nam Hán trên dòng sông Bạch Đằng. Lời kể của những ông lão đong đầy tự hào, tràn ngập niềm vui khi nhớ lại những thời kì hào hùng của dân tộc. Trong sự tự hào ấy, họ muốn khẳng định rằng sông Bạch Đằng là một 'thánh địa', nơi lưu giữ những chiến công oanh liệt của dân tộc ta trước đối thủ Bắc, là một 'chiến trường' toàn diện với vẻ vang của quê hương chúng ta.

Trong hồi ức đong đầy tình cảm, các ông lão kể lại cho 'khách' về trận chiến trên dòng Bạch Đằng năm xưa:

“Khi đó:

Thuyền đông đúc như biển, diệu kỳ phấp phới,

Hùng vĩ sáu quân, kiếm gươm sáng chói”.

Trái với những câu trước, nhịp điệu ở đoạn này trở nên ngắn, nhanh, mạnh mẽ, vẻ hùng hồn và quả decisif như mô tả không khí đầy hào hùng của cuộc chiến ngày xưa. Không có con số cụ thể, chỉ là những con số ước lệ như 'thuyền đông đúc như biển' để tượng trưng cho sức mạnh vô song của đội quân nhà Trần. Đồng thời, sử dụng biện pháp phóng đại, so sánh để đặc biệt hóa sự mạnh mẽ và anh dũng của quân đội ta. Dòng Bạch Đằng như là đang sôi sục cùng với những con thuyền tráng lệ, được tô màu bởi 'tinh kỳ phấp phới'. Tuy nhiên, ở phe địch, chúng ta cũng không chênh lệch gì khi:

“Xem kìa: Tất Liệt vô cùng mạnh mẽ, Lưu Cung láu cá

Những tưởng họ đã gieo rằng một lần

Quét sạch đất Nam trong bốn phương!”.

Trương Hán Siêu đặt nặng tình thế hung bạo của quân Nguyên xâm lược nước ta. Chúng tự tin, ngạo mạn, hống hách cho rằng có thể 'một lần' mà 'quét sạch Nam bang bốn cõi'. Thế giặc hung bạo, đôi bên cân sức, tạo nên sự đối đầu đầy gay cấn, ác liệt. Trận chiến diễn ra kịch tính, làm cho trời đất rung chuyển, ánh nhật nguyệt cũng phải 'mờ':

“Trận đánh thắng bại khó lường,

Chiến luỹ bắc nam đối kịch.

Ánh nhật nguyệt chừ phải tắt,

Bầu trời đất chừ sắp đổi.”

Đó là một trận đánh cực kỳ 'kinh thiên động địa', có sức mạnh vô song, vươn lên cùng với vũ trụ, một trận chiến lớn lao và mạnh mẽ. Những tiếng hò re, tiếng vang kiếm gươm, cùng với khói lửa và tiếng trống như một bức tranh hiện lên trước mắt 'khách'. Không khí hào hùng khi quân ta chiến thắng, chiếc thuyền của quân địch chìm xuống dòng sông Bạch Đằng. Dòng sông nhuộm đỏ thắm. Bằng lời kể mạnh mẽ, bút pháp sáng tạo, Trương Hán Siêu đã tạo ra một bức tranh sống động với âm thanh và màu sắc, làm sống lại một trang sử hào hùng của dân tộc ta.

Đội quân Mông - Nguyên thời đó, được coi là đội quân mạnh mẽ nhất 'vó ngựa quân Mông Nguyên đi đến đâu, cỏ không mọc được tới đó', không chỉ đông đảo mà còn có sức mạnh lớn, lấn át tất cả. Nhưng ba lần họ xâm lược Đại Việt đều kết thúc trong thất bại, đặc biệt là trận chiến trên sông Bạch Đằng. Bức tranh miêu tả diễn biến trận đánh trên sông Bạch Đằng kết thúc bằng nét bút chấm phá đặc sắc của Trương Hán Siêu, khẳng định chiến thắng vẻ vang của dân tộc Đại Việt cũng là sự thất bại của đội quân Mông Nguyên mạnh nhất thời điểm đó:

“Tuy nhiên: Bản mệnh cao thượng,

Quyết tâm đánh đuổi địch!

Khác biệt như thời xưa:

Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,

Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Sông vẫn chảy mãi, nhục kẻ thù không rửa nổi!

Tái hiện công lao, vẹn nguyên hào khí ngàn xưa.”

Hành động của quân giặc phương Bắc xâm lược nước ta là điều nghịch lí, vi phạm lẽ trời, vì mỗi bờ cõi đã được 'chia sẻ' theo 'thiên thư'. Vì vậy, kết quả thảm bại của chúng theo đúng lẽ trời, đồng đạt với quan điểm con người. Tác giả tận dụng hai trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc là Xích Bích của Tào Tháo và Hợp Phì của Bồ Kiên để nhấn mạnh sự thất bại đầy nhục nhã của quân địch. Tào Tháo và Bồ Kiên, tài năng xuất chúng, với đội quân mạnh mẽ, đã bị đánh bại một cách đầy ô nhục và đau lòng. Trương Hán Siêu tinh tế khi so sánh quân giặc với những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử, cùng với những trận đánh lớn, thất bại lịch sử của họ, để làm nổi bật kết quả thắng lợi của dân tộc Việt Nam. Từ đó, ông làm nổi bật chiến thắng hùng vĩ chống lại quân xâm lược, đồng thời làm nổi bật sự thất bại đau thương của chúng.

Phần hai của bài thơ 'Phú sông Bạch Đằng' không chỉ mô tả hình ảnh của các bô lão bên sông Bạch Đằng - gợi nhớ đến hình ảnh của các bô lão trong cuộc hội nghị Diên Hồng, điểm nhấn hào khí Đông A, mà còn tái hiện lại trận đánh nổi tiếng tại sông Bạch Đằng trong quá khứ. Đoạn thơ không chỉ khẳng định kết quả thảm bại của quân địch mà còn làm tăng thêm niềm tự hào, lòng yêu nước sâu sắc trong lòng mỗi người con Việt. Về mặt nghệ thuật, đoạn thơ là sự kết hợp tinh tế giữa câu văn biền ngẫu và hình ảnh thơ sống động, chân thực. Các phép so sánh, phóng đại cùng với việc sử dụng các điển tích trong lịch sử nâng cao tầm vóc của cuộc chiến chống quân xâm lược vĩ đại của dân tộc. Giọng thơ hùng hồn trong lời kể làm cho đoạn thơ trở nên hết sức ấn tượng.

Khi nhắc đến sông Bạch Đằng, mỗi người Việt Nam đều tự hào, bởi nơi đó là chứng nhận của chiến công vẻ vang của dân tộc. Đoạn thơ thứ hai của 'Phú sông Bạch Đằng' đã thức tỉnh trong lòng mỗi người niềm tự hào về trang sử hào hùng.

Cảm nhận đoạn 2 trong bài Phú sông Bạch Đằng - mẫu 4

Dòng sông Bạch Đằng vẫn hiên ngang cuốn trôi, âm vang của lịch sử chiến thắng vẫn vang vọng qua từng đợt sóng. Đằng Giang không chỉ giữ lại máu và huyết của một thời hùng tráng mà còn lưu giữ những chiến công vĩ đại mà quân thù không thể nào tẩy sạch. Những lời nhận xét sâu sắc và đầy cảm xúc của Trương Hán Siêu về ý nghĩa lịch sử của những chiến công trên dòng sông Bạch Đằng đã khắc họa một bức tranh hào hùng về lịch sử dân tộc, một hình ảnh mà mãi mãi không thể phai nhòa. Bài thơ này không chỉ là sự kết hợp giữa thiên nhiên hùng vĩ của sông Bạch Đằng mà còn là tâm trạng hoài cổ, hồi tưởng của tác giả. Đặc biệt, bài thơ còn thể hiện một bút pháp nghệ thuật tài tình thông qua hình tượng các bô lão.

Trong bài thơ, các bô lão được xem như những đại diện của người dân, cũng là những chiến binh đã tham gia trực tiếp vào cuộc chiến. Sự xuất hiện của họ không chỉ làm cho miêu tả về trận chiến trở nên sinh động mà còn tạo nên không khí trang trọng, ấn tượng. Bằng cách sử dụng bô lão như một nhân vật kể chuyện, tác giả đã khéo léo đưa người đọc trở lại với không khí của những ngày tháng chiến tranh, khi mỗi người dân đều là một chiến binh kiên cường.

Nếu như ở đoạn đầu, "khách" là hình ảnh đại diện cho tác giả, một người đến để tìm hiểu về chiến công của dân tộc, thì sang đoạn thứ hai, các bô lão trở thành người dẫn dắt, kể lại những chiến công oai hùng của quân và dân ta. Việc chuyển đổi giữa hai đoạn này rất tự nhiên, tạo nên một dòng chảy liền mạch của câu chuyện, giúp người đọc cảm nhận rõ hơn về những chiến thắng đã đi vào lịch sử.

Thuyền bè muôn đội,

Tinh kỳ phấp phới.

Tì hổ ba quân,

Giáo gương sáng chói.…

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ

Bầu trời đất chừ sắp đổ.

Trận chiến trên sông Bạch Đằng được miêu tả qua những câu thơ ngắn gọn, mỗi câu chỉ từ 4 đến 6 âm tiết, như để gợi lên không khí hùng vĩ, ác liệt của cuộc chiến. Những câu thơ ấy không chỉ làm nổi bật tinh thần chiến đấu quyết liệt mà còn tạo ra hình ảnh của những đội thuyền muôn vàn, với tinh kỳ phấp phới, những binh lính hùng mạnh như tì hổ ba quân, những ngọn giáo sáng chói, tạo thành một không gian chiến đấu mạnh mẽ và sinh động.

Qua từng câu thơ, ánh sáng của chiến thắng được vẽ lên rõ nét. “Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ, bầu trời đất chừ sắp đổ” – những hình ảnh này không chỉ làm nổi bật không khí căng thẳng, mà còn thể hiện sự thất bại của kẻ thù, đồng thời cũng khẳng định chiến thắng vinh quang của quân ta. Chính sự giản dị nhưng sắc bén trong cách dùng từ của tác giả đã làm nổi bật không khí hào hùng của trận chiến, đồng thời cũng thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với những chiến công của cha ông.

Sau những trận chiến đầy kiên cường, các bô lão đã đưa ra những nhận xét sâu sắc về điểm mạnh và điểm yếu của cả hai bên. Đối phương có sức mạnh nhưng đầy gian trá (Tất Liệt thế cường – Lưu Cung chước đối), trong khi ta tuy không có lợi thế về quân lực nhưng lại có ý chí chiến đấu mãnh liệt, lòng dũng cảm vô biên. Tuy nhiên, để giành chiến thắng, điều quan trọng nhất vẫn là sự đồng lòng, chính trực và chiến thuật đúng đắn. Chính những yếu tố này, kết hợp với địa hình hiểm trở mà trời đất đã ban tặng, đã tạo ra một chiến thắng vĩ đại.

Bài thơ không chỉ là một sự kể lại những câu chuyện chiến tranh của những người địa phương, mà còn là những tâm sự, những trải nghiệm của những chiến binh đã trực tiếp tham gia vào cuộc chiến. Sự kết hợp linh hoạt giữa thời gian và không gian, cùng với việc bảo tồn những câu chuyện lịch sử, đã giúp bài thơ trở nên sống động, hấp dẫn. Điều này không chỉ giúp người đọc hiểu rõ hơn về lịch sử mà còn khiến họ cảm nhận được sức mạnh của lòng yêu nước, của ý chí kiên cường, không bao giờ chịu khuất phục trước kẻ thù.

Cảm nhận đoạn 2 trong bài Phú sông Bạch Đằng - mẫu 5

Trong tâm hồn mỗi người, luôn có một nơi đặc biệt để lưu giữ những ký ức sâu sắc. Đó có thể là một miền đất thân thuộc, một dòng sông hay những khung cảnh đã từng in đậm dấu ấn trong cuộc đời. Các nhà văn, nhà thơ cũng vậy, họ thường chọn cho mình một miền đất hay một con sông làm điểm dừng tâm hồn, để gửi gắm những cảm xúc, những ký ức và những suy tư về cuộc sống. Và trong thế kỷ XIV, văn học trung đại Việt Nam đã chứng kiến sự xuất hiện của một nhà thơ nổi tiếng, Trương Hán Siêu, người đã gắn bó mạnh mẽ với hình ảnh hùng vĩ của sông Bạch Đằng qua tác phẩm Phú sông Bạch Đằng. Đây không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là biểu tượng của lòng tự hào dân tộc và những chiến công vang dội của dân tộc ta trên dòng sông lịch sử ấy.

Phú sông Bạch Đằng, hay còn gọi là Bạch Đằng giang phú, ra đời khoảng 50 năm sau chiến thắng huyền thoại của nhà Trần trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên. Dòng sông Bạch Đằng đã từ lâu trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ, từ Trần Minh Tông, Nguyễn Sưởng, đến những thế hệ sau này như Nguyễn Trãi. Tuy nhiên, Trương Hán Siêu đã mang đến một sắc thái rất riêng trong bài phú của mình. Ông không chỉ thể hiện sự cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp hùng vĩ của dòng sông mà còn gửi gắm vào đó những cảm xúc chân thành, lòng trung thành và tình cảm bi tráng của một nhà thơ, một con người luôn gắn bó với quá khứ hào hùng của dân tộc. Phú sông Bạch Đằng là một tác phẩm vừa mang đậm dấu ấn nghệ thuật, vừa chứa đựng những giá trị văn hóa dân tộc sâu sắc. Nó không chỉ là sự tưởng nhớ quá khứ chiến công, mà còn là triết lý nhân văn cao đẹp, một bài học về lòng yêu nước và niềm tự hào về lịch sử.

Trương Hán Siêu là một trọng thần uyên thâm, từng trải qua bốn triều đại Trần và được tôn kính như một người thầy, một bậc cao nhân. Tuy nhiên, trước tình hình đất nước suy thoái, ông cảm thấy nỗi chán nản và bắt đầu cuộc hành trình ngao du khắp nơi. Một trong những điểm đến không thể thiếu trong hành trình ấy chính là sông Bạch Đằng. Đây là nơi ông tìm lại được ký ức về những thời kỳ oanh liệt, về những chiến thắng hiển hách của dân tộc, là nơi lưu giữ những hoài niệm về một thời hùng mạnh. Phú sông Bạch Đằng trở thành không gian mà Trương Hán Siêu gửi gắm những cảm xúc sâu lắng, vừa là tâm hồn nghệ sĩ lãng tử, vừa là niềm tự hào về quá khứ vàng son của dân tộc.

Trong tác phẩm này, Trương Hán Siêu đã khắc họa hình ảnh những bô lão trong đoạn hai của bài phú. Các bô lão này không chỉ là những nhân vật kể chuyện mà còn là biểu tượng của những người dân đã trải qua những ngày tháng gian khó và chiến đấu anh dũng. Họ kể lại những chiến công lẫy lừng trên sông Bạch Đằng, tạo nên một bức tranh sống động và đầy cảm hứng. Những câu chuyện của họ không chỉ phản ánh lòng yêu nước sâu sắc mà còn khắc họa được ý chí kiên cường của dân tộc Việt Nam trong việc đối mặt với quân xâm lược. Câu chuyện về chiến thắng, về sự gian khó trong cuộc chiến, qua lời kể của các bô lão, như làm sống lại những thời khắc hào hùng của dân tộc, mang lại niềm tự hào và sức mạnh cho thế hệ mai sau.

Phú sông Bạch Đằng không chỉ là một đỉnh cao nghệ thuật trong thể loại phú của văn học Việt Nam thời trung đại, mà còn là bài học về lòng yêu nước, sự kiên cường, và ý chí chiến đấu bất khuất của dân tộc. Trương Hán Siêu, với ngôn từ trang trọng và lối diễn đạt sâu sắc, đã tạo nên một kiệt tác văn hóa, không chỉ lưu truyền qua thời gian mà còn giúp thế hệ sau hiểu rõ hơn về lịch sử hào hùng của dân tộc mình. Phú sông Bạch Đằng không chỉ là niềm tự hào của người viết, mà còn là tài sản văn hóa quý báu của dân tộc Việt Nam, mãi mãi là chứng nhân của một thời kỳ oanh liệt trong lịch sử.

Cảm nhận đoạn 2 trong bài Phú sông Bạch Đằng - mẫu 6

Dòng sông Bạch Đằng vẫn thản nhiên chảy mãi, mà Đằng Giang tự cổ huyết do hồng, mà nhục quân thù khôn rửa nổi! Đó là những lời bình luận tâm huyết của Trương Hán Siêu về ý nghĩa của những chiến công trên sóng nước Bạch Đằng. Cảm hứng tác phẩm bắt nguồn từ hồn thiêng Bạch Đằng với thiên nhiên kì vĩ được lồng ghép với tâm sự hoài cổ, ưu thời mẫn thế. Điều đặc biệt là những chất liệu nội dung đó được thể hiện một cách khéo léo, với một bút pháp nghệ thuật hết sức điêu luyện được thể hiện qua hình tượng các bô lão.

Ở đoạn 1, nhân vật “khách” là cái tôi của nhà văn thì ở đoạn 2 nhân vật các bô lão là hình ảnh của tập thể, vừa đại diện cho người bản địa, vừa là những cá nhân đã trực tiếp chiến đấu đồng thời cũng có sự phân thân của tác giả. Sự xuất hiện của họ làm cho việc miêu tả chiến trận thêm sinh động, đồng thời việc chuyển ý được tự nhiên Nhân vật các bô lão là những chứng nhân lịch sử, từ đó dựng lên những trận thủy chiến Bạch Đằng (qua lời kể). Họ là đại diện cho những người nơi bản địa. Mở đầu, các bô lão giới thiệu cho khách biết: Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã và củng là bãi đất xưa Ngô chúa phá Hoằng Thao. Bằng hai câu dài (mỗi câu 12 âm tiết), tác giả xây dựng không gian nghệ thuật đầy ấn tượng với những tôn nghiêm và trang trọng như bước nền chắc chắn để bước vào chiến trận ở phần tiếp theo.

Trận thuỷ chiến được khắc họa với những câu ngắn từ 4 đến 6 âm tiết: .

Thuyền bè muôn đội,

Tinh kỳ phấp phới.

Tì hổ ba quân,

Giáo gương sáng chói.

… Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ

Bầu trời đất chừ sắp đổ.

Trong không khí hoài niệm về quá khứ với những vang dội trong chiến thắng “buổi trùng hưng”, các bô lão chậm rãi, ôn tồn thuật lại bằng tất cả trân trọng. Khi “Muôn đội thuyền bè tinh kì phấp phới”, khí thế “hùng hổ”, “sáng chói” đến “ánh nhật nguyệt chừ phải mờ/Bầu trời đất chừ sắp đổi”. Trận đánh “kinh thiên động địa” được tái hiện bằng những nét vẽ vừa chân thực, vừa cụ thể dưới con mắt đa chiều kết hợp tài tình cả âm thanh, màu sắc, trực cảm và tưởng tượng tạo nên không khí trận mạc quyết liệt trên sông. Người đọc có thể hình dung khá rõ sự đông đảo của lực lượng tham chiến, lẫn khí thế quyết chiến của hai bên và sự khốc liệt, dữ dội của một cuộc chiến mà cả hai đều ngang tài, ngang sức (Trận đánh thư hùng chưa phân – chiến lũy Bắc Nam chống đối), thậm chí làm biến đổi cả trời đất, xoay chuyển vũ trụ (khiến cho mặt trăng, mặt trời phải mờ đi, trời đất phải đổi).

Sau những trận chiến không khoan nhượng đầy kiên gan và quả cảm các bô lão nhận xét về đặc điểm của mỗi bên tham chiến. Bên địch bên ta đều có điểm mạnh điểm yếu, địch kia hùng hậu lại gian manh (Tất Liệt thế cường – Lưu Cung chước đối) đã từng: Quét sạch Nam Bang bốn cõi. Còn ta, ta mạnh ở ý chí chiến đấu, ở trái tim một lòng hướng về dân tộc. Nhưng trái tim ấy sẽ trở thành điểm yếu khi ta chiến đấu vì chính nghĩa, chính nghĩa dù không khoan nhượng nhưng phải đồng thuận trên dưới, thuận với lẽ trời (trời cũng chiều người). Bởi cha ông ta từng răn dạy dù cuộc chiến có cam go ác liệt thì chính nghĩa luôn chiến thắng, phải chính trực, đứng về phía chính nghĩa, trừng phạt kẻ bạo tàn. Thêm vào đó, ta lại có điều kiện tự nhiên hiểm yếu (Trời đất cho nơi hiểm trở), thêm vào đó là khối óc đại tài, có tầm nhìn thấu sáu cõi của người chỉ huy kết hợp đường lối chiến thuật, chiến lược đứng đắn. Những yếu tố đó đủ để dân tộc ta chiến thắng vinh quang, đập tan bè lũ cướp nước. Bởi vậy mà thời gian có qua đi, đất trời có đổi thay, nước sông ngày ngày cuồn cuộn gột rửa mà cái nhục của quân thù vẫn không rửa nổi. Các bô lão không nói nhiều đến phía quân ta chỉ nhấn mạnh lòng biết ơn sâu nặng. Nó ghi dấu mốc son chói lọi trong hành trình đấu tranh của dân tộc, nó trở thành chiến thắng lừng lẫy trong suốt chiều dài lịch sử. Yếu tố tinh thần luôn được nhấn mạnh dẫn đến những lời bình ở phần tiếp theo:

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.

Lời bình không chỉ là lời nói đơn thuần của những người địa phương mà còn như lời tâm sự của những bàn tay đã cầm súng, những đôi chân từng trải. Đến đây, không gian và thời gian không còn rành rọt mà như hòa làm một. Cách đặt thời gian với không gian để câu chuyện không chỉ ở bề nổi mà còn có chiều sâu, không chỉ là kể mà còn là bộc bạch, không đơn thuần là tái hiện mà còn là lưu giữ. Chính điều đó tạo sự lôi cuốn, tạo dấu ấn làm cho câu chuyện tránh được sự tẻ nhạt, đơn điệu.

Cảm nhận đoạn 2 trong bài Phú sông Bạch Đằng - mẫu 7

Mỗi chúng ta, ai cũng thường có cho mình một nơi nào đó để gửi gắm ký ức. Các nhà văn, nhà thơ cũng vậy, họ hay chọn cho mình một miền đất hoặc một con sông. Và ở đó bao nhiêu kí thác tâm hồn được vắt ngang qua. Trở lại thế kỉ XIV, văn học trung đại của dân tộc đã có một nhà thơ như thế. Đó chính là Trương Hán Siêu – nhà thơ nặng lòng với con sông Bạch Đằng oai hùng của lịch sử qua văn phẩm nổi tiếng Phú sông Bạch Đằng. Có lẽ biết bao tâm tư của cả một đời cống hiến được ông dồn nén hết thảy vào dòng chảy bất diệt ấy để làm nên một tác phẩm trở thành đỉnh cao của thơ văn dân tộc. tiêu biểu cho dòng chảy ấy qua lời kể của các bô lão ở đoạn 2 đã cho chúng ta thấy được lòng tự hào tự tôn dân tộc cùng những chiến tích trên sông bạch đằng.

Phú sông Bạch Đằng (tên chữ Hán Bạch Đằng giang phú) được dự đoán ra đời vào khoảng 50 năm sau cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên thắng lợi của nhà Trần. Lấy cảm hứng từ một đề tài cũng không hề xa lạ, bởi sông Bạch Đằng đã trở thành thi liệu sáng tác của nhiều nhà thơ như Trần Minh Tông, Nguyễn Sưởng, sau này là Nguyễn Trãi. Nhưng Trương Hán Siêu trong Phú sông Bạch Đằng đã mang tới biết bao cảm xúc vừa chân thực, thiết tha vừa hoài niệm, xúc động để khơi dậy nên niềm tự hào, lòng yêu nước và khẳng định những tư tưởng nhân văn cao đẹp về giá trị con người. Có nhiều ghi chép cho rằng, Trương Hán Siêu sáng tác bài phú này vào thời điểm đất nước dưới thời hậu Trần (hai vị vua Trần Hiến Tông và Trần Dụ Tông) có dấu hiệu suy thoái.

Vốn là một trọng thần, học vấn uyên thâm, tính tình đức độ, trải qua bốn đời vua Trần, từng được các vua tôn kính và gọi là "thầy", trước thực trạng đất nước như vậy, ông cảm thấy chán nản và tự mình ngao du đây đó. Và điểm đến của ông không đâu khác chính là con sông Bạch Đằng để hoài niệm về một thời vàng son của dân tộc. Có lẽ bởi vậy mà bài phú mới toát lên dư vị pha lẫn của một tâm hồn nghệ sĩ lãng tử, một sử nhân hoài cổ và một nỗi niềm nhân thế thầm kín. Với đặc trưng cơ bản của loại phú cổ thể, Phú sông Bạch Đằng có bố cục 4 đoạn (mở, giải thích, bình luận, kết) và có hình thức đối đáp quen thuộc giữa nhân vật "khách" và nhân vật "các vị bô lão" được tác giả hư cấu. Tuy nhiên, điểm tựa của toàn bộ bài phú là cảm xúc, tâm trạng của nhân vật "khách" được bộc lộ xuyên suốt từ lúc đặt chân tới sông Bạch Đằng cho đến khi lắng nghe được những lời kể đầy hào hùng về những chiến công trên dòng sông ấy của các vị bô lão. Ở đoạn 2, các bô lão là hình ảnh tập thể, xuất hiện nhằm tạo ra vẻ tự nhiên của một cuộc trò chuyện. Đây có thể là những người dân địa phương mà tác giả gặp trên đường vãn cảnh, cũng có thể là nhân vật tác giả hư cấu để bày tỏ tâm trạng của mình một cách khách quan hơn.

Bằng thái độ nhiệt tình và hiếu khách, các bô lão kể cho khách nghe về chiến công Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã, về trận Ngô chúa phá Hoằng Thao, là những chiến thắng oanh liệt của quân dân ta trên sông Bạch Đằng. Các trận đánh được tái hiện từ thời Ngô Quyền đến thời Trần Hưng Đạo. Điều đó cho thấy thời ấy dân tộc ta luôn phải đương đầu với quân xâm lược phương Bắc và vận nước nhiều lúc lâm nguy, ngàn cân treo sợi tóc. Các bô lão kể lại diễn biến của từng trận đánh. Ngay từ đầu, quân ta và quân địch đã tập trung binh lực hùng hậu cho một trận đánh quyết tử. Nghệ thuật đối đã nêu bật không khí chiến trận bừng bừng: Thuyền bè muôn đội, tinh kì phấp phới, Hùng hổ sáu quân, giáo gươm sáng chói, Trận đánh được thua chửa phân, Chiến lũy bắc nam chống đối. Đó là sự đối đầu không chỉ về lực lượng mà còn là đối đầu về ý chí: quân dân ta với lòng yêu nước và sức mạnh chính nghĩa; quân địch thì thế cường với bao mưu ma chước quỷ. Chính vì vậy mà trận chiến diễn ra ác liệt:

Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,

Bầu trời đất chừ sắp đổi.

Đây là những hình tượng kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ, được đặt trong thế đối lập: nhật nguyệt / mờ, trời đất / đổi, báo hiệu một cuộc thuỷ chiến kinh thiên động địa. Nguyên nhân của cuộc đối đầu quyết liệt ấy chính là mưu mô thâm hiểm của quân xâm lược phương Bắc, cho dù có khác nhau về thời gian nhưng thống nhất ở mục đích cướp nước Đại Việt bằng được: Kìa: Tất Liệt thế cường, Lưu Cung chước dối. Những tưởng gieo roi một lần, Quét sạch Nam bang bốn cõi! Tác giả chỉ rõ sức mạnh ghê gớm của quân Nguyên – một lực lượng vô cùng tinh nhuệ dưới sự chỉ huy của Hốt Tất Liệt, đồng thời cũng nhắc lại chuyện thời Ngô Quyền, Lưu Cung tức vua Nam Hán lập chước lừa dối để nhằm xâm lược nước Nam. Chuyện Bồ Kiên nước Tần khi dẫn quân vào đánh nước Tấn huênh hoang tuyên bố: “Cứ như số quân của ta thì chỉ ném roi ngựa xuống sông cũng ngăn dòng nước lại được”. Tác giả mượn ý này để nói những đạo quân xâm lược trước đây và hiện nay đều ỷ thế quân đông tướng mạnh, đều ngạo mạn tưởng rằng chỉ một trận đánh là dẹp được bốn cõi, thu phục nước Nam. Nhưng chúng đâu có ngờ sức mạnh “Sát Thát” của quân dân nhà Trần đã được đất trời ủng hộ: Thế nhưng: Trời cũng chiều người, Hung đồ hết lối! Bằng cách sử dụng điển cố và lối nói khoa trương, tác giả đã ngầm so sánh chiến thắng trên sông Bạch Đằng với những trận thuỷ chiến vang dội nhất trong lịch sử phương Bắc: Khác nào khi xưa: Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay, Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Hình ảnh đặc tả tan tác tro bay và hoàn toàn chết trụi nhấn mạnh tính chất khốc liệt của trận chiến và sự thất bại thảm hại của quân giặc. Theo quy luật của trời đất, cuối cùng thì người chính nghĩa chiến thắng, còn lũ hung đồ hết lối, chuốc nhục muôn đời: Đến nay nước sông tuy chảy hoài, Mà nhục quân thù khôn rửa nổi! Tái tạo công lao, nghìn xưa ca ngợi. Hình ảnh: Đến nay nước tuy sông chảy hoài đối lập với hình ảnh Mà nhục quân thù khôn rửa nổi. Câu thơ vừa tả thực, vừa tạo sự liên tưởng so sánh thú vị. Dòng nước cứ mải miết trôi đi, thời gian qua đi, người xưa cảnh cũ rồi cũng thay đổi nhưng mưu mô xâm lược cùng thất bại của quân thù thì mãi mãi không gì gột rửa nổi. Đó là bài học đắt giá cảnh tỉnh tham vọng xâm lược phi nghĩa. Bên cạnh đó thì những câu thơ trên cũng khẳng định sức mạnh to lớn và niềm tự hào dân tộc sâu sắc của những người chiến thắng. Thái độ, giọng điệu của các bô lão trong khi kể về chiến công Bạch Đằng đầy tự hào, tạo cảm hứng phấn khích cho tác giả. Lời kể không dài dòng mà súc tích, cô đọng, tuy khái quát nhưng vẫn gợi lại được diễn biến, không khí của trận đánh một cách sinh động. Các câu trong đoạn này tuy dài ngắn khác nhau nhưng đều mang âm hưởng hào hùng, đanh thép.

Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học Việt Nam thời trung đại: cấu tứ đơn giản mà hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động mang đậm tính chất triết lí. Ngôn từ vừa trang trọng, hào sảng, vừa lắng đọng, gợi cảm. Tính chất hoành tráng của bài phú thể hiện ở cảm hứng lịch sử dạt dào âm vang chiến thắng oanh liệt, ở những chứng tích gắn liền với dòng sông nổi tiếng. Có thể coi bài Phú sông Bạch Đằng là tác phẩm tiêu biểu của văn học thời Lí - Trần. Bài phú đã thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào về truyền thống anh hùng bất khuất và truyền thống đạo lí nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc Việt Nam.

Cảm nhận đoạn 2 trong bài Phú sông Bạch Đằng - mẫu 8

Bài phú sông Bạch Đằng là một áng văn tuyệt tác, được coi là một trong những "thiên cổ hùng văn" của văn học Việt Nam, và đã trở thành một bài ca bất hủ lưu truyền qua bao thế hệ. Trương Hán Siêu, với sự hiểu biết sâu rộng và ngòi bút tài hoa của mình, đã khắc họa một cách chân thực và sống động cảnh tượng chiến đấu hào hùng trên sông Bạch Đằng. Qua lời kể của các bô lão, trận chiến như hiện lên trước mắt người đọc với đầy đủ khí thế và oanh liệt.

Nhân vật "khách" trong bài phú là người đã đi nhiều nơi, chu du khắp đất nước và thế giới, tìm kiếm niềm vui và thú vị từ những cảnh sắc thiên nhiên kỳ vĩ. Trong khi đó, các bô lão lại là những người đã trực tiếp chứng kiến và trải qua những trận chiến lịch sử của dân tộc, đặc biệt là cuộc chiến của quân dân nhà Trần trên sông Bạch Đằng, trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên. Khi nhân vật khách tỏ ra trầm tư, hoài niệm về quá khứ, các bô lão, với lòng hiếu khách và nhiệt tình, đã nhận ra sự thắc mắc của khách và lên tiếng chào hỏi, như một câu hỏi thân tình:

"Bên sông bô lão hỏi,

Hỏi ý ta sở cầu."

Với sự nhiệt thành và lòng hiếu khách, các bô lão đã đóng vai trò như những "hướng dẫn viên du lịch," giới thiệu chi tiết về chiến địa trên sông Bạch Đằng, khắc họa lại những trận đánh oai hùng và sống động. Là người dân địa phương, họ vô cùng tự hào về chiến công hiển hách của dân tộc, kể lại một cách xúc động và phấn khởi.

Mở đầu, các bô lão kể lại về trận chiến giữa vua Trần và tên tướng Ô Mã, cũng như những chiến thắng vang dội của vua Ngô đại phá quân Hoằng Thao. Đây là nơi đã chứng kiến biết bao trận chiến lịch sử. Trận chiến của Trần Hưng Đạo được chuẩn bị kỹ lưỡng, cẩn thận, và quyết liệt:

"Đương khi ấy:

Thuyền tàu muôn đội,

Tinh kì phấp phới.

Hùng hổ sáu quân,

Giáo gươm sáng chói."

Cuộc chiến diễn ra quyết liệt, với quân ta và quân địch đều mạnh mẽ, khí thế ngút trời. Thuyền bè ngập tràn, cờ chiến phấp phới, vũ khí sáng chói, tất cả hòa quyện tạo thành một trận đánh đầy khí thế. Bầu trời như sắp đổ, ánh nhật nguyệt cũng phải mờ đi trước sự hung hãn của cuộc chiến.

Theo lời các bô lão, quân địch với lực lượng đông đảo và mưu lược gian manh, dối trá và kiêu ngạo, nghĩ rằng mình có thể dễ dàng quét sạch quân dân ta:

"Kìa:

Tất Liệt thế cường,

Lưu Cung chước dối.

Những tưởng gieo roi một lần,

Quét sạch Nam bang bốn cõi."

Tuy nhiên, quân ta chiến đấu với lòng chính nghĩa, đoàn kết một lòng, và có sự giúp đỡ của thiên nhiên. Chính vì vậy, dù quân địch có đông, nhưng với mưu lược và sự đoàn kết của quân ta, cuối cùng chiến thắng đã thuộc về chúng ta. Trận chiến kết thúc với chiến thắng huy hoàng, và các bô lão tự hào khẳng định:

"Thế nhưng:

Trời cũng chiều người,

Hung đồ hết lối.

Trận Xích Bích, quân Tào Tháo tan tác tro bay,

Trận Hợp Phì, giặc Bồ Kiên hoàn toàn chết trụi.

Đến nay sông nước tuy chảy hoài,

Mà nhục quân thù khôn rửa nổi."

Các bô lão nhắc đến những thất bại đau đớn của quân xâm lược qua các trận đánh Xích Bích và Hợp Phì, đồng thời khẳng định rằng dù dòng sông Bạch Đằng vẫn chảy mãi, nhưng nỗi nhục của quân thù sẽ không bao giờ bị xóa nhòa. Dù cho thời gian có trôi qua, chiến công của quân dân ta vẫn vĩnh viễn không bị quên lãng.

Trong niềm vui chiến thắng, các bô lão cũng không quên bày tỏ lòng biết ơn đối với người lãnh đạo tài ba – Trần Hưng Đạo, người đã dẫn dắt quân dân ta giành chiến thắng. Sự thành công của trận chiến không chỉ nhờ vào chiến thuật thông minh, mà còn là sự đoàn kết và tài năng mưu lược của nhà lãnh đạo, cùng với địa thế hiểm trở của sông Bạch Đằng.

Qua những hoài niệm và suy ngẫm của các nhân vật "chủ - khách," bài phú đã làm sống dậy hào khí Đông A oanh liệt trong thời kỳ nhà Trần. Trương Hán Siêu đã khéo léo xây dựng hình ảnh sông Bạch Đằng, vừa hùng vĩ trong quá khứ, vừa hiu quạnh trong hiện tại. Tuy nhiên, dòng sông ấy vẫn mãi là biểu tượng cho chiến công vĩ đại của cha ông, là niềm tự hào không bao giờ phai mờ trong lòng người Việt.

Xem thêm các bài văn mẫu hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học