10+ Cảm nhận Hồn Trương Ba, da hàng thịt (học sinh giỏi)



Đề bài: Cảm nhận tác phẩm "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" của Lưu Quang Vũ

10+ Cảm nhận Hồn Trương Ba, da hàng thịt (học sinh giỏi)

Bài giảng: Hồn Trương Ba, da hàng thịt - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Quảng cáo

Cảm nhận Hồn Trương Ba, da hàng thịt - mẫu 1

   Trong sự nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ, Hồn Trương Ba da hàng thịt là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông. Vở kịch được tác giả hiện đại hóa từ cốt truyện dân gian, qua hệ thống nhân vật Lưu Quang Vũ đã đặt ra nhiều vấn đề bức thiết của cuộc sống lúc bấy giờ.

   Qua cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn, Lưu Quang Vũ chuyển tải đến bạn đọc ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Qua các nghịch cảnh, ta thấy được vẻ đẹp của nhân dân lao động trong cuộc chiến thời bình chống lại cái ác, chống lại sự giả tạo và khát vọng hoàn thiện nhân cách, bảo vệ quyền sống đích thực.

   Trương Ba bị chết oan uổng do sự vô tâm, tắc trách của Nam Tào, vì thế được Bắc Đẩu sửa sai, nhưng lại sửa sai một cách vô lý là cho hồn Trương Ba nhập vào xác của anh hàng thịt. Vậy là một linh hồn thanh cao, nhân hậu, ngay thẳng lại phải sống nhờ và lệ thuộc vào xác của anh hàng thịt. Linh hồn Trương Ba không sai khiến được mà còn bị xác thịt điều khiển lại, dẫn tới linh hồn bị nhiễm độc tầm thường. Chính vì ý thức được điều này, khiến Trương Ba dằn vặt, đau khổ và đưa ra quyết định sống độc lập.

Quảng cáo

   Trước những lỹ lẽ của xác thịt, hồn Trương Ba nổi giận, khinh bỉ xác thịt nhưng phần nào cũng ngậm ngùi vì hắn có lý và Trương Ba trở lại xác thịt trong tuyệt vọng. Cuộc tranh cãi với xác thịt là bi kịch thứ nhất, vì xác thịt đã thắng. Còn bi kịch thứ hai là xung đột giữa Trương Ba và gia đình. Ông dằn vặt khi hiểu những gì mình đã, đang và sẽ gây ra những điều tệ hại cho dù ông không hề muốn. Tất cả những người thân đều xa rời ông vì hồn ông dần bị mờ khuất, chỉ còn lại thân xác anh hàng thịt thô lỗ hiện hữu trong nhà gây biết bao phiền toái, chướng tai gai mắt.

   Màn kết của vở kịch sau khi đẩy những xung đột lên tới đỉnh điểm, hóa giải những nghịch cảnh, Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn tồn tại vĩnh viễn bên những người thân yêu của mình.

Quảng cáo

   Một cuộc sống không đáng sống vì cái thanh cao phải dung hòa với cái thấp hèn thì chẳng phải sẽ thành bi kịch sao? Thể xác và linh hồn có mối quan hệ hữu cơ với nhau không tách rời. Xác thịt có nhu cầu mang tính bản năng, còn linh hồn mang tinh chất thanh cao, vươn tới sự hoàn thiện nhân cách. Qua đây, Lưu Quang Vũ muốn nhấn mạnh rằng khi con người ta phải sống trong cái tầm thường thì tất yếu sẽ bị nhiễm độc, cái tốt đẹp sẽ bị lấn át. Những xung đột từ bên trong con người thông qua cuộc đối thoại có tính giả tưởng giữa linh hồn và thể xác nhằm hướng tới vấn đề mang tính triết học.

Quảng cáo

   Tất cả bi kịch xảy ra từ những tồn tại đầy nghịch lý, trái với lẽ tự nhiên khiến cái dung tục có cơ hội ngự trị, lấn át và đồng lõa những gì vốn thanh cao, tốt đẹp. Qua đó, cổ vũ cho cuộc đấu tranh bảo vệ cho những phẩm tính cao quý của con người nhằm hướng tới khát vọng trong sạch, hài hòa giữa thể xác và tâm hồn để hoàn thiện nhân cách, để xứng đáng chức vị làm người.

Cảm nhận Hồn Trương Ba, da hàng thịt

Dàn ý Cảm nhận Hồn Trương Ba, da hàng thịt

1. Mở Bài

- Có thể nói khao khát được là chính mình đã được thể hiện trong rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, đó chính là cái “tôi” cá nhân đầy mạnh mẽ.

- Một trong những tác phẩm thể hiện rõ nhất khao khát này đó chính là vở kịch có tên Hồn Trương Ba, da hàng thịt do nhà soạn kịch tài ba Lưu Quang Vũ chắp bút.

2. Thân Bài

* Tác giả, tác phẩm:

- Lưu Quang Vũ (1948-1988), quê gốc ở Đà Nẵng, nhưng sinh sống, học tập và làm việc ở Hà Nội, từng tham gia quân đội trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1960-1970).

- Ông là nhà viết kịch có nhiều đóng góp đặc sắc, với hơn 50 tác phẩm kịch trong vòng 10 năm trời sáng tác và hầu như chúng đều được công chiếu, dàn dựng trên toàn quốc.

- Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch có cốt truyện xuất xứ từ dân gian, ra đời năm 1981, mãi đến năm 1984 mới được công bố, và ngay lập tức đã được độc giả đón nhận nồng hậu. Đoạn trích trong chương trình học nằm ở cảnh thứ 7 và trong phần kết của vở kịch.

* Bi kịch bị tha hóa của hồn Trương Ba:

- Trong cuộc độc thoại nội tâm:

+ Ông tự nhận ra mình bắt đầu ham uống rượu, ăn thịt, hững hờ với đánh cờ.

+ Ông hoang mang, bối rối và sợ hãi, khao khát được rời khỏi cái xác thô kệch dù chỉ một chốc lát.

- Trong cuộc đối thoại với xác:

+ Xác đã dùng những lý lẽ hết sức sắc bén, lươn lẹo, giọng điệu mỉa mai để vạch trần sự tha hóa của hồn Trương Ba.

Việc khao khát khi ở bên cạnh vợ anh hàng thịt, thích ăn thịt, rồi húp cả tiết canh,…

Sức mạnh của xác đã giúp Trương Ba đánh thằng con trai bật máu mồm, giúp ông cày xới khu vườn.

+ Cũng nhờ có xác mà Trương Ba được gần gũi người thân, nhìn ngắm bầu trời,…

→ Hồn và xác tuy hai mà một, đều thống nhất trong một cuộc chơi, hồn cứ việc tha hóa, rồi đổ tội cho xác để được thanh thản, ngược lại xác phải được “chiều chuộng” những ham muốn tầm thường.

+ Bản thân Trương Ba tuy tức giận, liên tục chỉ trích xác ti tiện, là “xác thịt âm u” không có cảm xúc, tri giác, lại còn lươn lẹo nhưng cuối cùng ông vẫn bị đuối lý bởi xác nói đúng, ông đang bị tha hóa. Điều đó khiến ông tuyệt vọng.

* Bi kịch bị chối bỏ:

- Bà vợ đòi bỏ đi

- Đứa cháu gái không thừa nhận ông nội, cho rằng ông là kẻ đồ tể, cục súc đang phá hoại khu vườn của ông nội nó.

- Cô con dâu tuy thấu hiểu, nhưng cuối cùng cũng bộc bạch những sự thay đổi, lệch lạc của hồn Trương Ba. Điều này làm ông hoàn toàn nhận ra sự tha hóa của mình.

* Giải quyết xung đột kịch

- Trương Ba quyết tâm trả lại xác cho anh hàng thị

- Xin cho cu Tị được sống lại, còn mình thì xin được chết hẳn.

- Đó là những quyết định rất khó khăn của Trương Ba, nhưng không còn cách giải quyết nào khác tốt đẹp hơn nữa. Ông không thể sống trong một đằng, ngoài một nẻo.

* Ý nghĩa đoạn kết:

- Đoạn kết là kết thúc có hậu cho một vở bi kịch lạc quan.

- Trương Ba đã trở lại làm chính mình, tuy không còn trên nhân thế nhưng ông đã trở thành bất tử trong lòng người thân, lấy lại được toàn vẹn những tình cảm trước đây ông đánh mất, trở nên thanh thản, cao khiết trở lại.

3. Kết Bài

- Toàn bộ vở kịch của Lưu Quang Vũ cuối cùng kết lại ở thông điệp: Dù cuộc đời nhiều cám dỗ nhưng con người vẫn luôn phấn đấu để giữ được tâm hồn nguyên vẹn , trong sạch, thẳng thắn, luôn cố gắng để được làm chính mình.

- Những con người đã khuất hãy là một bản tình ca để tuổi trẻ hôm nay mãi nhớ về, mãi ngân nga từ đó gieo niềm tin cho cuộc đời. Sống có nhiều cách sống, trong đó có cách dù thân xác đã trở về cát bụi nhưng tâm hồn vẫn mãi còn bất tử với những ấn tượng và kỷ niệm đẹp nhất trong lòng người ở lại.

Cảm nhận Hồn Trương Ba, da hàng thịt - mẫu 2

     Những năm tám mươi của thế kỉ XX, kịch của Lưu Quang Vũ đã làm chấn động sân khấu kịch Việt Nam thời đổi mới.

     "Hồn Trương Ba, da hàng thịt" là vở kịch đặc sắc nhất của ông, được sáng tác từ năm 1981, nhưng ba năm sau (1984) mới được ra mắt khán giả. Vở kịch được sáng tạo từ một truyện cổ tích cùng tên, qua đó, tác giả nêu lên một vấn đề xã hội mang tính triết lí sâu sắc: mối quan hệ giữa thể xác và con người ta không thể sống sống nhờ, sống gửi vào cuộc sống của người khác.

     Phần trích đoạn kịch là cuộc đối thoại giữa linh hồn và xác, giữa hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình, giữa hồn Trương Ba và Đế Thích; cuối cùng là cái "chết" của hồn Trương Ba.

     Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt là một cuộc đối thoại sinh động, đầy ý nghĩa triết lí. Lớp kịch này có 25 lượt . Xác hàng thịt thì một điều "ông", hai điều "ông", nhưng hồn Trương Ba thì chỉ có "mày", "ta". Thế nhưng xác hàng thịt đã lấn lướt hồn Trương Ba, sỉ nhục hồn Trương Ba đủ điều: Xác hàng thịt cho biết dù có "âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông đấy"; sao ông không nhớ "Khi ông đứng cạnh vợ tay chân run hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại..." hoặc "Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao?"

     Nghĩa là hồn Trương Ba đã bị sa sút, tha hóa. Khi hồn Trương Ba tự hào cho rằng mình có một đời sống riêng: "nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn" thì xác hàng thịt châm biếm: "Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!".

     Xác hàng thịt tỏ ra coi thường hồn Trương Ba, tự kiêu tự đại khẳng định vị thế, vai trò quan trọng của mình. Nào là "tôi đã cho ông sức mạnh" hoặc "Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn". Nào là "Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới... Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thế giới này qua những giác quan của tôi..."

     Xác hàng thịt thì thầm: "Tôi rất biết cách chiều chuộng linh hồn"; "Tôi biết cần phải để cho tính tự ái của ông được ve vuốt"..., "chúng ta tuy hai mà một!".

     Cuộc đối thoại giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba là cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn cùng tồn tại trong một con người. Thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với nhau, cả hai gắn bó với nhau để cùng sống, cùng tồn tại. Thể xác có tính độc lập tương đối của nó, có tiếng nói của nó, có khả năng tác động vào linh hồn, vì nó là nơi trú ngụ của linh hồn. Khi thể xác tiêu tan thì linh hồn cũng mất. Khi linh hồn "bay đi" thì thể xác cũng trở về cát bụi. Nhờ có linh hồn đấu tranh, chi phối với những ham muốn, những dục vọng tầm thường của thể xác mà nhân cách được hoàn thiện, tâm hồn được trong sáng.

     Câu nói của xác hàng thịt: "Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn" đã cho thấy mối quan hệ hữu cơ giữa thể xác và linh hồn, làm cho ý nghĩa ẩn dụ của đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt thêm cụ thể, sâu sắc.

     Từ khi sống nhờ xác hàng thịt, hồn Trương Ba bị tha hóa nhiều: tát con trai tóe máu mồm máu mũi (bằng bàn tay, bằng sức mạnh và sự tàn bạo của xác hằng thịt). Hồn Trương Ba khác hẳn ngày xưa, làm vườn thì thô vụng: đã làm "gãy tiệt cái chồi non" của cây cam, đã "giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm", đã "làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cá cái diều đẹp" của cu Tị.

     Từ ngày mang xác hàng thịt, hồn Trương Ba sống trong bi kịch, trải qua nhiều dằn vặt, đau khổ: vợ muốn bỏ đi để "ông được thảnh thơi ... với cô vợ người hàng thịt"; cái Gái, đứa cháu nội thì khinh bỉ, xua đuổi: "Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!". Chị con dâu, người thông cảm và thương hồn Trương Ba hơn cả, giờ đây trước cảnh "tan hoang" của gia đình thì vô cùng lo sợ, đau đớn "thấy... mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả như lệch lạc, nhòa mờ dần đến cũng không nhận ra thầy nữa...".

     Trước lời than khóc của người con dâu, hồn Trương Ba tê tái, "mặt lạnh ngắt như tảng đá Ngồi một mình, như sực tỉnh, như bàng hoàng: "Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta...".

     Không thể sống gửi nằm nhờ mãi được, không thể bị lệ thuộc vào thể xác hàng thịt và tự đánh mất mình, hồn Trương Ba an ủi, thức tỉnh, động viên mình: "Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày mà tự đánh mất mình"... "Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!".

     Sự do dự bị đẩy lùi, bị xua tan. Sự tỉnh ngộ của hồn Trương Ba tuy muộn mằn nhưng thật có nhiều ý nghĩa. Con đường tự giải thoát, linh hồn đã nhìn thấy ánh sáng.

     Cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa linh hồn Trương Ba và Đế Thích đã đẩy xung đột kịch lên cao trào, đỉnh điểm. Phải tìm gặp ngay Đế Thích, Hồn Trương Ba "đứng dậy, lập cập nhưng quả quyết, đến bên cột nhà, lấy một nén hương châm lửa, thắp lên". Gặp lại người bạn chơi cờ ở cõi trời, hồn Trương Ba thổ lộ bao nỗi niềm day dứt: "Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt được nữa, không thể được!... Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn".

     Mặc dù đã được Đế Thích cho biết cái lẽ trời, cái lẽ đời là từ Ngọc Hoàng đến người trần mắt thịt có ai được là "mình toàn vẹn", mà "phải khuôn ép mình"... Vả lại, ông đã bị Nam Tào "gạch tên khỏi sổ", thân thể của ông "đã tan rữa trong bùn rồi. Nhưng hồn Trương Ba phân trần, nài nỉ, nói lên thân phận hèn kém, sống gửi nằm nhờ của mình: "Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác, đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ hàng thịt. Ông chỉ nghĩa đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!". Hồn Trương Ba không muốn được sống trong thân xác anh hàng thịt nữa, cũng không muốn được "nhập vào cụ Tị" bởi lẽ bao điều phiền toái, trớ trêu sẽ diễn ra, sâu xa hơn nữa sẽ "bơ vơ lạc lõng", "đáng ghét như kẻ tham lam". Thật vô lí, cực kì vô lí, bởi lẽ "một kẻ lí ra phải chết từ lâu mà vẫn cứ sống, cứ trẻ khỏe, cứ ngang nhiên hưởng thụ mọi thứ lộc trời!". Xưa nay, như ta đã biết, những kẻ úy tử tham sinh, những kẻ tham quyền cố vị đều bị đồng loại coi khinh và chê cười!

Cảm nhận Hồn Trương Ba, da hàng thịt - mẫu 3

     Trong cuộc đời của mỗi con người chúng ta, khao khát được là chính mình là khao khát thiêng liêng và đáng trân trọng nhất. Có một ai đó đã nói rằng “Tại sao tôi phải sống cuộc đời của người khác và tại sao tôi lại để người khác sống cuộc đời của tôi, tôi muốn được là chính tôi, dù hạnh phúc hay khổ đau thì đó chính là điều mà tôi đã lựa chọn”. Có thể nói khao khát được là chính mình đã được thể hiện trong rất nhiều tác phẩm nghệ thuật, đó chính là cái “tôi” cá nhân đầy mạnh mẽ. Một trong những tác phẩm thể hiện rõ nhất khao khát này đó chính là một vở kịch rất nổi tiếng vào những năm 80 của thế kỷ trước có tên Hồn Trương Ba, da hàng thịt do nhà soạn kịch tài ba Lưu Quang Vũ chắp bút.

     Lưu Quang Vũ (1948-1988), quê gốc ở Đà Nẵng, nhưng sinh sống, học tập và làm việc ở Hà Nội, từng tham gia quân đội trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1960-1970), phục vụ trong quân chủng phòng không, không quân. Ông bắt đầu viết thơ vào năm 1960, sau đó mãi đến những năm 1978 mới bén duyên viết kịch, năm 1980 thì ông đã có vị trí đứng vững trong làng kịch. Ông là nhà viết kịch có nhiều đóng góp đặc sắc, với hơn 50 tác phẩm kịch trong vòng mười năm trời sáng tác và hầu như chúng đều được công chiếu, dàn dựng trên toàn quốc, thậm chí có những tác phẩm còn được công chiếu nhiều lần ở nước ngoài như Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Về sự nghiệp thơ, Lưu Quang Vũ có cách viết thơ giàu cảm xúc, giàu suy tư trăn trở và những khát khao, Hương cây bếp lửa là tập thơ tiêu biểu của ông in chung với Bằng Việt.

     Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch có cốt truyện xuất xứ từ dân gian, ra đời năm 1981, mãi đến năm 1984 mới được công bố, và ngay lập tức đã được độc giả đón nhận nồng hậu. Đoạn trích trong chương trình học nằm ở cảnh thứ 7 và trong phần kết của vở kịch.

     Có thể nói trong khuôn khổ đoạn trích, nội dung lớn hiện lên và bao trùm toàn bộ đó chính là bi kịch của hồn Trương Ba. Ông Trương Ba vốn là người hiền đức có tâm hồn cao khiết, sống mẫu mực, yêu vợ thương con, quý cháu, tốt với hàng xóm láng giềng. Ông là một người làm vườn rất chăm chỉ, khéo léo nâng niu từng cành cây ngọn cỏ, hơn thế nữa ông còn chơi cờ rất giỏi, với nước cờ “khoáng hoạt, thâm sâu, dũng mãnh”. Nhưng chỉ vì sự sai sót của thần tiên mà ông bị chết oan, rồi sống lại bằng cách nhập vào xác của anh hàng thịt. Cái sự khập khiễng, không ăn nhập giữa phần hồn và phần xác đặc biệt là khi hồn Trương Ba cảm thấy phần thể xác kia đang dần chiếm lĩnh làm thay đổi cả phần hồn của ông. Hai thực thể hồn và xác đã có cuộc đấu tranh không khoan nhượng, nhưng những lý lẽ tuy có phần bỉ ổi, lươn lẹo của xác đã làm hồn phải lùi bước, thậm chí là không thể cự cãi bởi vì nó là sự thật. Lúc này đây buộc Trương Ba phải quyết định, vì ông không thể sống đau khổ, giằng xé như vậy nữa, đó là một cuộc đời không hoàn chỉnh, sống không bằng chết.

     Bi kịch của hồn Trương Ba bắt đầu bằng cái bi kịch bị tha hóa bởi xác hàng thịt và do chính bản thân hồn Trương Ba nhận ra, ông bắt đầu ham uống rượu, thích bán thịt, cũng không còn mấy mặn mà với cái trò chơi thanh cao là đánh cờ. Trong những lời độc thoại nội tâm đầy bối rối, hoang mang và đau khổ, phần hồn muốn rời khỏi, thoát khỏi cái phần thân xác thô lỗ của anh hàng thịt ngay lập tức. Giọng điệu của hồn Trương Ba gấp gáp, sợ hãi và có cả sự ghê tởm, tay ôm đầu đầy bức bối, phải nói ông khao khát được thoát khỏi đến mức mong rằng “được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!”.

     Trong cuộc đối thoại với xác hàng thịt cái bi kịch tha hóa của hồn Trương Ba lại càng được bộc lộ rõ hơn. Hồn Trương Ba quyết tâm rời khỏi xác hàng thịt, trở thành một cái bóng lờ mờ và giữa hồn và xác bắt đầu có cuộc đối thoại tranh luận lẫn nhau, hồn Trương Ba thì cho rằng xác anh hàng thịt đã khiến mình đổ đốn, khiến mình thay đổi, ông chỉ trích những thói xấu của phần xác. Khi hồn muốn thoát khỏi xác, thì xác anh hàng thịt trả lời bằng một giọng rất nhạo báng, nhưng lý lẽ rất sắc bén “ông không tách ra khỏi tôi được đâu” rồi thì “ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi,…”. Trương Ba vốn cho rằng xác hàng thịt là thứ vô tri vô giác, là thứ “xác thịt âm u đui mù”, nhưng không quan điểm của nó cũng rất sắc bén và trần trụi đến đáng sợ, nó kể hết những gì mà phần hồn đã tham dự vào, đã bị tha hóa ra sao. Xác nhắc đến những khát vọng khi của hồn Trương Ba khi đứng cạnh vợ hàng thịt, nhắc đến những lần ăn thịt, húp tiết canh, nhờ có sức mạnh của xác mà Trương Ba có thể tát thằng con đến tóe máu mồm vì nó hỗn, có thể vung cuốc, xẻng cày xới khu vườn yêu quý. Cũng nhờ thể xác này mà hồn Trương Ba lại được ở bên vợ con, nhìn ngắm bầu trời, … Và chốt lại xác cho rằng cái linh hồn Trương Ba cứ ưa sĩ diện, dối lòng, bởi đã chiều theo những cái nguyện vọng phàm tục của xác mà lại còn tự nhận mình là tâm hồn cao khiết “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Đúng như lời Trương Ba phản bác, thứ lý lẽ của xác thật “ti tiện”, nhưng cũng theo lời xác thì chỉ có Trương Ba cứ nổi nóng lên, chứ nó thì vẫn rất “nhã nhặn” và cái nhã nhặn, đường hoàng, thẳng thắn ấy đã chọc thẳng vào phần hồn vào chỗ yếu mềm, làm hồn không thể cự cãi được.

     Hồn Trương Ba thì ngược lại không thể giữ nổi bình tĩnh, mỗi một lời mà xác thốt ra đều làm ông đuối lý, bởi đó là sự thật, ông bối rối, sợ hãi và có phần lép vế trước cái xác mà ông cho là “âm u đui mù” kia, ông chỉ muốn nó im lặng, đừng nói thêm bất kỳ lời nào, Bởi càng nói, ông càng cảm thấy xấu hổ và không còn tin vào bản thân mình thật sự là một linh hồn cao khiết, “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”, ông bám víu lấy cái lòng tin vào bản thân và dần trở nên tuyệt vọng. Bởi xác hàng thịt đã vạch trắng ra một cuộc chơi, hai bên thông cảm cho nhau “chiều chuộng”, hồn Trương Ba cứ mãi nghĩ rằng tâm hồn mình thanh cao và trong sạch, mấy cái việc xấu xa, bỉ ổi thì cứ đổ tại lỗi do xác chi phối, để được thanh thản. Nhưng suy cho cùng xác và hồn không phải vẫn nằm một chỗ đấy sao, có thực là hồn thanh cao và xác ti tiện hay là cả hai đã dần pha trộn lẫn nhau? Câu trả lời rằng, thực sự hồn Trương Ba đang bị tha hóa dần, không còn là ông của ngày xưa nữa.

     Bi kịch tiếp theo mà hồn Trương Ba gặp phải ấy là cảnh những người thân thuộc cuối cùng cũng không thể chấp nhận một Trương Ba thay đổi và dần tìm cách xa lánh ông. Người vợ ông hằng yêu thương, vốn cũng yêu thương chăm sóc ông bấy lâu nay, đã không chịu nổi cảnh nhìn thấy chồng mình trong thân xác cục mịch, thay đổi đòi bỏ đi biệt xứ. Hẳn bà cũng phải chịu quá nhiều đau khổ, một xuất phát từ gia đình, hai là xuất phát từ những dị nghị của hàng xóm, cuối cùng quan trọng nhất vẫn là sự thay đổi tha hóa của hồn Trương Ba khiến người vợ chán nản, tuyệt vọng và mất niềm tin.

     Cả đứa cháu gái mà ông thương nhất giờ đây cũng nhìn ông với đôi mắt “lặng lẽ, soi mói”, có lẽ cô bé đã âm thầm chịu đựng và quan sát ông lâu lắm rồi, cuối cùng ngày hôm nay nó bùng nổ và quyết không chịu nhận ông nữa. Bởi ông thay đổi quá nhiều, Gái tức tối kể về việc ông làm gãy mầm cây cam, đạp nát mầm cây sâm quý và đỉnh điểm là làm hỏng cả diều của cu Tị, đứa bé xấu số đang thoi thóp nhưng vẫn tiếc mãi con diều. Xét lại cũng chỉ vì cái Gái quá thương ông, nó không thể chấp nhận được một người ông lại thay đổi nhiều đến thế. Rõ ràng chuyện của cái Gái, của người vợ đã khiến Trương Ba đã đau khổ nay lại càng đau khổ hơn, ông ngày càng nhận thức được việc bản thân đã thay đổi, tha hóa đến mức nào. Và lời của người con dâu mới chính thức khơi mở tất cả những hoài nghi hoang mang và sợ sệt của hồn Trương Ba, có lẽ trong cả căn nhà này chỉ có chị là bình tĩnh nhất, chị thương bố chồng, nên khéo léo, nhẹ nhàng bộc bạch “Cái bên ngoài là không đáng kể… con cảm thấy, con đau đớn thấy... mỗi ngày thầy một khác dần mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi,…”.

     Chính bi kịch bị người thân yêu chối bỏ đã đẩy xung đột kịch lên cao nhất, buộc Trương Ba phải giải quyết và tháo gỡ vấn đề cho chính bản thân và cả những người liên quan. Ông không chấp nhận buông xuôi để phần xác thịt lấn át tha hóa tâm hồn thêm nữa, bèn gọi Đế Thích xuống và khẳng định cái như cầu mạnh mẽ được sống là mình “Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn là chính mình”. Trương Ba quyết định trả lại thân xác cho anh hàng thịt, sau đó xin cho cu Tị được sống lại và ông không còn muốn sống cảnh éo le, khổ sở này, “Còn tôi, hãy để cho tôi chết hẳn,…”. Và từ khi quyết định được dứt khoát như thế hông Trương Ba bỗng cảm thấy “mình lại là Trương Ba thật, tâm hồn tôi lại được thanh thản và trong sáng như xưa”. Có thể nói rằng để đi được đến những quyết định như thế là rất khó khăn đối với Trương Ba, bởi xưa tới nay khát vọng được sống luôn là khát vọng chính đáng và muôn thuở của con người, có ai muốn trở thành cát bụi, xa rời người thân, rời khỏi nơi trần thế tốt đẹp cơ chứ. Nhưng với Trương Ba sống phải cho ra sống, phải được là chính mình, không thể tạm bợ, cũng không thể cứ phụ thuộc và ngày càng trở nên tha hóa đáng sợ được.

     Vở bi kịch lạc quan đã kết thúc bằng một kết thúc có hậu, ấy là Trương Ba đã thoát ra khỏi thân xác anh hàng thịt. Hình ảnh vườn cây rung rinh lá chính là nơi lưu giữ những ký ức tốt đẹp về một ông Trương Ba với tâm hồn cao khiết, hình ảnh nên thơ của đoạn kết còn là khung cảnh hai mẹ con chị Lụa và cu Tị đang ôm ấp hạnh phúc, hạnh phúc ấy được đánh đổi bằng sự hy sinh của Trương Ba. Cuối cùng cảnh Trương Ba xuất hiện chập chờn, với lời thoại trìu mến và yêu thương dành cho vợ, cái cảnh cu Tị và cái Gái đã chứng minh Trương Ba đã hoàn toàn trở lại là chính mình, thanh thản, ông đã lấy lại được nguyên vẹn tình cảm của những người thân yêu nhất.

     Toàn bộ vở kịch của Lưu Quang Vũ cuối cùng kết lại ở thông điệp: Dù cuộc đời nhiều cám dỗ nhưng con người vẫn luôn phấn đấu để giữ được tâm hồn nguyên vẹn , trong sạch, thẳng thắn, luôn cố gắng để được làm chính mình. Những con người đã khuất hãy là một bản tình ca để tuổi trẻ hôm nay mãi nhớ về, mãi ngân nga từ đó gieo niềm tin cho cuộc đời. Sống có nhiều cách sống, trong đó có cách dù thân xác đã trở về cát bụi nhưng tâm hồn vẫn mãi còn bất tử với những ấn tượng và kỷ niệm đẹp nhất trong lòng người ở lại.

Cảm nhận Hồn Trương Ba, da hàng thịt - mẫu 4

     Như chúng ta đã biết, Lưu Quang Vũ là một người vô cùng tài năng, những sáng tác của ông đã để lại cho hậu thế những bài học về cuộc sống về con người về mối quan hệ giữa người với người. Trong đó, Hồn Trương Ba da hàng thịt là tác phẩm kịch nổi tiếng. Chính nhan đề của kịch cũng tạo ra những hấp dẫn không tưởng cho độc giả. Ngoài ra nó còn gợi mở những ý nghĩa ẩn ý trong đó. Một nhan đề không chỉ tạo sức hấp dẫn khi khơi lên được sự tò mò nơi độc giả. Hồn Trương Ba và da hàng thịt chính là những hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Hồn và thể xác vốn dĩ gắn liền với nhau, hòa hợp với nhau nhưng khi hồn một nơi xác một nơi thì chuyện gì sẽ xảy ra? Đấy là một trong những điểm thắt nút mà chính ngay tại kịch, Lưu Quang Vũ đã giải quyết một cách thỏa đáng.Có thể thấy rằng da hàng thịt là biểu tượng cho vẻ bề ngoài thể xác con người thì hồn Trương Ba là biểu tượng cho tâm hồn, cho thế giới nội tâm sâu kín bên trong. Sự mâu mâu thuẫn giữa hình thức và bản chất trong một con người. Thông qua kịch thì nó còn nhằm thể hiện một ý nghĩa sâu xa,hồn Trương Ba còn là biểu tượng cho vẻ đẹp trong sáng thanh cao, còn da hàng thịt lại là biểu tượng cho cái xấu xa, cái dung tục tầm thường, cái bản chất thấp kém trong một con người. Một con người không thể sống trong vỏ bọc của một người khác.hơn nữa một tâm hồn thanh cao không thể sống không thể ẩn náu trong một thể xác dung tục. Sống như thế thì còn khổ hơn chết, thế thì thà chết còn thỏa.

     Vở kịch không chỉ có ý nghĩa triết lý về nhân sinh, về hạnh phúc con người mà còn góp phần phê phán một số biểu hiện tích cực trong lối sống lúc bây giờ.

     Điều đầu tiên, con người đang có nguy cơ chạy theo ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ thích hưởng thụ đến nỗi trở nên phàm phu, dung tục. Nó được thể hiện ở phần trích đoạn giữa linh hồn và xác, giữa hồn Trương Ba và những người thân trong gia đình, giữa hồn Trương Ba và Đế Thích; cuối cùng là cái “chết” của hồn Trương Ba.

     Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác hàng thịt là một cuộc đối thoại sinh động, đầy ý nghĩa triết lí gồm có 25 lượt lời. Xác hàng thịt thì một điều “ông”, hai điều “ông”, nhưng hồn Trương Ba, sỉ nhục xác hàng thịt đủ điều: xác hàng thịt cho biết dù có “âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy”; sao ông không nhớ “Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại…”; hoặc “Chẳng lẽ ông không xao xuyến chút gì? Hà hà, cái món tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi, và đủ các thứ thú vị khác không làm hồn ông lâng lâng cảm xúc sao?”. Nghĩa là hồn Trương Ba đã bị sa sút, tha hóa khi hồn ông sống nhờ trong một thân xác của một kẻ khác chứ không phải chính mình. Khi hồn Trương Ba tự hào cho rằng mình có một đời sống riêng: “nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn" thì đúng lúc đó xác hàng thịt châm biếm: “Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!”.

     Như vậy qua những lười lẽ của xác hàng thịt tỏ ra coi thường hồn Trương Ba, tự kiêu tự đại khẳng định vị thế, vai trò quan trọng của mình.

     Giữa hồn Trương Ba và da Hàng thịt có một cuộc đối thoại và cũng là cuộc đấu tranh giữa thể xác và linh hồn cùng tồn tại trong một con người. Thề xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ, gắn bó với nhau đế cùng sống, cùng tồn tại. Khi linh hồn “bay đi” thì thể xác cũng trở về cát bụi. Linh hồn đấu tranh, chi phối với những ham muốn, những dục vọng tầm thường của thể xác mà nhân cách được hoàn thiện, tâm hồn được trong sáng.

     Mối quan hệ này cũng được thể hiện qua câu nói của xác hàng thịt: “Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn” làm cho ý nghĩa ẩn dụ của đoạn đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt thêm cụ thể, sâu sắc.

     Một điều chúng ta có thể thấy rằng khi sống nhờ xác hàng thịt, hồn Trương Ba bị tha hóa nhiều: tát con trai tóe máu mồm máu mũi. Hồn Trương Ba khác hẳn ngày xưa, làm vườn thì thô vụng: đã làm “gãy tiệt cái chồi non” của cây cam, đã “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm”, đã “làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng mất cả cái diều đẹp” của cu Tị. Chính cũng từ lúc ấy bi kịch hồn xác khác nhau đã khiến cho hồn Trương Ba sống trong bi kịch, trải qua nhiều dằn vặt, đau khổ: vợ muốn bỏ đi để “ông được thảnh thơi… với cô vợ người hàng thịt”; cái Gái, đứa cháu nội thì khinh bỉ, xua đuổi: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”. Chị con dâu, người thông cảm và thương hồn Trương Ba hơn cả, giờ đây trước cảnh “tan hoang” của gia đình thì vô cùng lo sợ, đau đớn “thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả như lệch lạc, nhòa mờ dần đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…".

     Hồn Trương Ba tê tái, “mặt lạnh ngắt như tảng đá”. Ngồi một mình, như sực tỉnh, như bàng hoàng: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta”. Không thế sống gửi nằm nhờ mãi được, không thể bị lệ thuộc vào thể xác hàng thịt và tự đánh mất mình, hồn Trương Ba an úi, thức tỉnh, động viên mình: “Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày mà tự đánh mất mình?... Có thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Sự tỉnh ngộ của hồn Trương Ba tuy muộn màng nhưng thật có nhiều ý nghĩa. Linh hồn của Trương Ba đã tìm ra hướng đi cho mình.

     Sau đó cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa linh hồn Trương Ba và Đế Thích đã đẩy xung đột kịch lên cao trào, đỉnh điểm. Phải tìm gặp ngay Đế Thích, Hồn Trương Ba "đứng dậy, lập cập nhưng quả quyết, đến bên cột nhà, lẩy một nén hương châm lửa, thắp lên”. Gặp lại người bạn chơi cờ ở cõi trời, hồn Trương Ba thổ lộ bao nỗi niềm day dứt: “Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt nữa, không thể được!… Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.

     Mặc dù đã được Đế Thích cho biết cái lẽ trời, cái lẽ đời là từ Ngọc Hoàng đến người trần mắt thịt có ai được là “mình toàn vẹn”, mà “phải khuôn ép mình"… Vả lại, ông đã bị Nam Tào “gạch tên khỏi sổ”, thân thể của ông “đã tan rữa trong bùn đất” rồi. Sau khi phân trần Hồn Trương Ba không muốn được sống trong thân xác anh hàng thịt nữa, cũng không muốn được '‘nhập vào cu Tị” bởi lẽ nhiều điều phiền toái, trớ trêu sẽ diễn ra, sâu xa hơn nữa sẽ “bơ vơ lạc lõng”, “đáng ghét như kẻ tham lam”. Thật vô lí, cực kì vô lí, bởi lẽ “một kẻ lí ra phải chết từ lâu mà vẫn cứ sống, cứ trẻ khỏe, cứ ngang nhiên hưởng thụ mọi thứ lộc trời!". Xưa nay. như ta đã biết, những kẻ úy tử tham sinh, những ké tham quyền cỏ vị đều bị đồng loại coi khinh và chê cười!.

     Một điều rõ ràng Hồn Trương Ba tuy có lúc tha hóa sa sút, nhưng giờ đây vẫn tỏ ra tỉnh táo, đáng trọng. Ông muốn Đế Thích hóa phép làm cho hồn hàng thịt được “sống lại" với thân xác anh ta; chỉ muốn vị tiên cờ hóa phép làm cho cu Tị được sống lại với mẹ nó, được chơi với bạn bè: “Ông Đế Thích, vì còn trẻ ông ạ, vì con trẻ. Ông hãy giúp tôi lần cuối cùng"… Ý muốn ấy rất nhân bản và cao thượng, Hồn Trương Ba càng cầu khẩn tha thiết: “Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn!… Việc đúng còn làm kịp bây giờ là làm cu Tị sống lại. Còn tôi, cứ để tôi chết hẳn”. Hồn Trương Ba đã bẻ gãy cả bó hương do Đế Thích tặng, nhất quyết muốn nhảy xuống sông tự tử hoặc đâm cổ tự sát để được chết, để tâm hồn mình được “trở lại thanh thản, trong sáng như xưa…”. Ý tưởng của hồn Trương Ba thật cao thượng.

     Như vậy vở kịch còn đề cập đến một số vấn đề không kém phần bức xúc, đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám, cũng không được sống với thực chất bản thân mình, đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.

     Đoạn kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt gợi cho độc giả, khán giá nhiều bâng khuâng. Hồn Trường Ba không theo Đế Thích về trời để chơi cờ, mà lại hóa thành màu xanh của cây vườn, vị thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với người thân, gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa, nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao., của vợ con thương yêu. Như vậy hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy chất thơ ấy đã làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng tác phẩm.

Cảm nhận Hồn Trương Ba, da hàng thịt - mẫu 5

     Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một vở kịch rất nổi tiếng, đã từng được nhiều lần biểu diễn trên sân khấu với ý nghĩa truyền tải rất sâu sắc. Đó là một cuộc đại mâu thuẫn giữa linh hồn và thể xác với những quan niệm sống trái ngược nhau. Linh hồn trong sáng nhưng thể xác đui mù, đắm chìm trong những đam mê tầm thường, đen tối. Cuộc đấu tranh ngang sức ngang tài là một bài học giáo dục mang nhiều triết lý sâu xa cho người xem những khoảng lặng ngẫm nghĩ lại cuộc đời mình.

     Tác giả của vở kịch là Lưu Quang Vũ – một nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Ông đã trở thành một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỷ XX. Trước đó, ông từng làm thơ, sáng tác truyện ngắn và vẽ tranh. Thơ Lưu Quang Vũ không sắc sảo và dữ dội như kịch nhưng giàu cảm xúc, trăn trở, khát khao. Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, đã công diễn nhiều lần trong và ngoài nước. Nhân vật chính trong đó là Trương Ba, ông đánh cờ giỏi nên bị Nam Tào bắt chết nhầm. Vì muốn sửa sai, Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác hàng thịt vừa mới chết. Trú nhờ linh hồn trong thể xác hàng thịt, Trương Ba gặp rất nhiều phiền toái: lý tưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, gia đình Trương Ba cũng cảm thấy xa lạ… mà bản thân Trương Ba thì đau khổ vì phải sống trái tự nhiên, giả tạo. Đặc biệt thân xác hàng thịt làm Trương Ba nhiễm một số thói xấu và những nhu cầu vốn không phải của chính bản thân ông. Trước nguy cơ tha hóa về nhân cách và sự phiền toái do mượn thân xác của kẻ khác, Trương Ba quyết định trả lại xác cho hàng thịt và chấp nhận cái chết.

     Có thể nói, đây là một cuộc đấu tranh tuy diễn ra trong âm thầm nhưng lại mang sức mạnh ghê gớm của thể xác và linh hồn. Mà ở đó, linh hồn của Trương Ba luôn hướng đến những điều tốt đẹp, trong sáng, còn thể xác của hàng thịt chỉ hướng đến những ham muốn tầm thường như ăn uống, chè chén, dục vọng… Khi Trương Ba lên tiếng than thở, oán trách cũng là lúc ông thấy linh hồn mình đã bị vấy bẩn bởi thể xác. Linh hồn buồn chán, thất vọng vì không thể nào tự điều khiển được xác thịt mặc dù sự tồn tại của cả hai bên hoàn toàn phụ thuộc vào nhau. Thật đáng buồn khi phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Linh hồn và thể xác không hòa hợp thì làm sao đạt được niềm mãn nguyện khi được sống, được tồn tại. Liệu rằng cuộc đời còn ý nghĩa gì chăng? Linh hồn bảo thể xác không được ham mê ăn uống, hãy ngừng những ý nghĩ thèm muốn dục vọng, nhưng thể xác không nghe, cứ lấn tới. Rồi dần dần, linh hồn chẳng còn nguyên vẹn nữa. Đã đến lúc Hồn Trương Ba phải lên tiếng: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!”. Sự khát khao được làm chính mình đang bùng cháy lên trong Hồn Trương Ba. Ông không ngần ngại cái thân xác kềnh càng của hàng thịt nhưng điều làm ông buồn chán là sự thô lỗ của hắn. Lúc này, nếu được làm chính mình dù chỉ là một lát thôi cũng sẽ là một ân huệ lớn lao cho Trương Ba. Nhưng cái hồn của ông đâu có hình thù. Không thoát ra được, ông tranh cãi trong tuyệt vọng với thân xác. Nhưng cái thân xác ấy lại càng đẩy ông vào sự đau khổ hơn. “Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy!”. Cuộc tranh luận ngày càng gay cấn. Đặc biệt là sẽ có nhiều rắc rối xảy ra khi thể xác không làm theo những gì linh hồn sai khiến. Ngược lại, những tất xấu mà xác hàng thịt làm đều có sự chứng kiến của Hồn Trương Ba dù ông không muốn chút nào. Cuộc hội thoại giữa hai người đã nói lên nhiều chân lý sâu xa: Ta không thể nào sống hạnh phúc khi thể xác và linh hồn không hòa nhập làm một, khi tâm trí không thể điều khiển được những hành động, việc làm của chân tay; ta cũng không thể làm được việc gì tốt đẹp khi bị những đam mê tầm thường của thể xác lấn át tâm hồn. Muốn giữ tâm hồn trong sạch thì trước hết phải chế ngự được thể xác, phải tự làm chủ được chính mình. Nếu chỉ có những suy nghĩ tốt nhưng lại hành động xấu thì tâm hồn dù cao quý đến mấy cũng chẳng có ý nghĩa gì. Vì giữa người với người họ nhìn nhận nhau bằng hành động, bằng cách đối xử với nhau. Và thường mọi người vẫn đánh giá một con người thông qua cách sống của họ. Thế nên, khi thể xác đã vấy bẩn thì tâm hồn cũng sẽ không thể nào còn nguyên vẹn được. Không thể tách rời giữa thể xác và tâm hồn. Tuy hàng thịt không được tốt đẹp như Hồn Trương Ba nhưng lý lẽ của hắn khiến người xem phải thức tỉnh: “Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục! … Đâu phải lỗi tại tôi… Sao ông có vẻ khinh thường tôi thế nhỉ? Tôi cũng đáng được quý trọng chứ! Tôi là cái bình để chứa đựng linh hồn. Nhờ tôi mà ông có thể làm lụng, cuốc xới. Ông nhìn ngắm trời đất, cây cối, những người thân… Nhờ có đôi mắt của tôi, ông cảm nhận thé giới này qua những giác quan của tôi…. Khi muốn hành hạ tâm hồn con người, người ta xúc phạm thể xác… Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác… Mỗi bữa tôi đòi ăn tám, chín bát cớm, tôi thèm ăn thịt, hỏi có gì là tội lỗi nào?”. Lý lẽ của hàng thịt cũng rất thực tế. Linh hồn muốn tồn tại phải có thể xác. Và thể xác cũng vậy. Nhưng thể xác là cái người ta nhìn thấy, còn linh hồn ẩn sâu bên trong. Những suy nghĩ của linh hồn được thể hiện ra hành động bên ngoài. Nhưng ở đây, vì là hai người hoàn toàn khác nhau, trái ngược nhau về tính cách nên linh hồn luôn thấy bất mãn với thể xác dù thể xác ấy cũng đã giúp ích rất nhiều cho hồn ông.

     Sự mâu thuẫn của bên trong và bên ngoài của một cơ thể đã khiến biết bao nhiêu rắc rối đã xảy ra trong gia đình của cả hai bên. Để thay đổi suy nghĩ và thuyết phục sự chấp thuận của mọi người thật khó. Hình ảnh về một con người hiền lành, tử tế của Trương Ba đã ẩn sâu trong tiềm thức, trong lối mòn suy nghĩ của mọi người. Giờ đây, cái thân xác kềnh càng, thô lỗ của hàng thịt sẽ thay thế hình hài của Trương Ba trước đây. Đã thế, những hành động, việc làm của hàng thịt lại trái ngược với những suy nghĩ, sai bảo của Hồn Trương Ba. Vợ hàng thịt đòi chồng, còn vợ Trương Ba thì vẫn chưa thể nào chấp nhận hoàn toàn được cái thân xác của hàng thịt đang tồn tại với tư cách cao quý của chồng mình. Mọi thứ dường như đảo lộn lên. Đến ngay cả cây cối, vườn tược, Hồn Trương Ba vẫn làm nhưng do thể xác hàng thịt kềnh càng nên ông không thể nào khéo léo như trước đây được nữa. Cái Gái đã nhìn thấy ông làm gãy những chiếc mầm non, cái diều của cu Tị ông cũng làm hỏng. Thật buồn vì mọi chuyện đã diễn ra không được như ông nghĩ mặc dù ông cũng đã đặt niềm tin vào những gì mình làm.

     Đến giây phút này, Hồn Trương Ba không còn khát khao được tồn tại, được sống nữa. Bởi sống mà không được làm chính mình cũng chẳng có ích chi. Thậm chí còn gây thêm rắc rối cho mọi người xung quanh. Ông lại tìm đến Đế Thích để mong được giải quyết. Ông cầu cứu “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Toàn vẹn nghĩa là thể xác và tâm hồn phải hòa nhập vào nhau, thống nhất với nhau. Tâm hồn nghĩ sao thì thể xác sống như vậy. Chứ không phải như bây giờ. Linh hồn trong sáng nhưng lại không thể nào chế ngự lại được những ham muốn của thể xác. Hồn Trương Ba thà là được chết nhưng chết để được làm chính mình còn hơn là sống như thế này. Cái Tí chết, nhưng suy cho cùng, Hồn Trương Ba cũng không thể nhập vào cái Tí được. Rồi mọi chuyện sẽ lại càng rắc rối hơn. Dù cái Tí cũng tốt, cũng được mọi người yêu quý. Nhưng vẫn là bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo. Trương Ba vẫn không được sống toàn vẹn.

     Chỉ khi con người ta được sống tự nhiên, sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có thì mới có ý nghĩa, mới thực sự là cuộc sống. Vì vậy, dù khi không còn tồn tại trong xác hàng thịt nữa, nhưng những đức tính tốt đẹp của Trương Ba vẫn còn được nguyên vẹn, được mọi người thương nhớ. Ông không hiện hữu như một con người bình thường nữa nhưng ông ở “ngay trên bậc cửa nhà ta, trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao bà giãy cỏ… Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu…”. Chỉ cần mọi người không quên thì Trương Ba vẫn luôn tồn tại, luôn hiện hữu. Và cũng chỉ có như vậy, ông mới giữ gìn được nguyên vẹn sự trong sáng của mình. Sau những rắc rối quanh co, Lưu Quang Vũ đã giàn xếp cho mọi chuyện trở lại bình thường. Con người ta có thể chấp nhận nỗi đau mất mát nhưng sẽ khó mà thay đổi được những điều đã ăn sâu trong tiềm thức mình. Thế nên, Trương Ba thà là chết hẳn còn hơn phải sống chập chờn như lúc còn trú ngụ trong xác hàng thịt.

     Cuộc đời tốt đẹp của Trương Ba giống như những mầm non mà cái Gái đang nâng niu. “Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi…”

     Như vậy, vở kịch đặc sắc của Lưu Quang Vũ đã mang đến một bài học đắt giá cho người xem. Được sống làm người thật quý giá, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.

Cảm nhận Hồn Trương Ba, da hàng thịt - mẫu 6

     Kịch là một loại hình nghệ thuật sân khấu phát triển mạnh mẽ ở nước ta từ thế kỉ XX. Đã có rất nhiều nhà soạn kịch và nhiều vở kịch thành công được ra đời vào thời kì này. Và cái tên Lưu Quang Vũ đã không còn xa lạ đối với ai yêu kịch, vở kịch "Hồn Trương Ba da hàng thịt" lại càng không thể là một cái tên mới.

     Là một nhà soạn kịch, nhà thơ hiện đại Việt Nam, các tác phẩm của ông đã để lại dấu ấn đáng kể trong lòng khán giả. Gần 50 vở kịch của ông luôn được khán giả ủng hộ bởi tính chân thực và nhân văn của nó. Tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt được lấy từ cốt truyện dân gian. Nhưng không vì thế mà nó trở nên nhàm chán. Cái tài của tác giả đó chính là ông đã sáng tạo ra tình huống trớ trêu, nỗi đau khổ dày vò Trương Ba khi phải sống trong xác anh hàng thịt. Và cuối cùng đi đến một cái kết đầy tính nhân văn: Trương Ba được trở về với con người thật của mình.

     Tác phẩm được ra đời vào những năm 80 của thế kỷ XX. Đây là thời kỳ đất nước ta đang trong công cuộc đổi mới, nhằm giải phóng sức lao động, phát huy sức sáng tạo của nhân dân trong đó có lực lượng cầm bút. Số phận con người, vấn đề cá nhân được khai thác mạnh. Những vấn đề nóng bỏng, chống tiêu cực đã trở thành cảm hứng cho nhiều nhà văn. Và Lưu Quang Vũ cũng không ngoại lệ. Với mục đích phê phán những tiêu cực lúc bấy giờ, ông đã viết vở kịch này. Những tiêu cực ấy được thể hiện rất rõ qua những xung đột trong đoạn trích. Theo ông, chạy theo những ham muốn tầm thường về vật chất, chỉ muốn hưởng thụ trở thành phàm phu thô thiển. Ai cũng biết tâm hồn là quí, đời sống tinh thần là trọng nhưng không quan tâm đến đời sống vật chất, không phấn đấu vì hạnh phúc toàn vẹn thì chỉ là biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm. Tình trạng con người phải sống giả, không dám được như bản thân đó là nguy cơ đẩy con người đến chỗ tha hóa do danh và lợi. Nếu sống vay mượn chắp vá, không hài hòa giữa tâm hồn, nhân cách và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch mà thôi. Cuộc sống của con người thực sự có hạnh phúc có giá trị khi được sống là chính mình. Đó là tất cả những gì mà tác giả muốn truyền đạt đến người đọc, người nghe, người xem.

     Ngay từ nhan đề, ta đã có thể thấy được sự khập khễnh, mâu thuẫn. "Hồn" là phần tinh thần, là nội dung bên trong, là phần lí trí, tình cảm con người. Ở đây hồn Trương Ba là một người có lối sống thanh cao, nhân hậu, luôn đấu tranh với hoàn cảnh để được trở về với cuộc sống nguyên vẹn trong sạch thẳng thắn. "Xác" là phần vật chất, là hình thức bên ngoài. Trong vở kịch, xác anh Đồ tể mà hồn Trương Ba buộc phải trú ngụ. Từ nhan đề, tác giả đã gợi ra được sự vênh lệch, khấp khễnh giữa bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo, một mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức, giữa vật chất - tinh thần, lí trí - bản năng, con người - hoàn cảnh, thanh cao - phàm tục.

     Qua cuộc đối thoại giữa hồn và xác, hồn Trương Ba đã bày tỏ sự chán ghét với cái xác mình nương nhờ, khinh bỉ hoàn cảnh mình đang sinh sống, khát khao sống nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn. Nhưng đối lập với hồn, xác bị ảnh hưởng bởi những dung tục tầm thường, đại diện cho kiểu người vừa chú trọng vật chất, bản năng, vừa là kiểu nhân vật đại diện cho nhiều người trong xã hội, quan tâm đến lợi ích của nhiều người đòi hỏi sự hài hòa giữa vật chất và tinh thần. Bi kịch của hồn là nhận ra một con người cần phải hài hòa cả về vật chất, tinh thần, nhận ra mình đã bị tha hóa. Tiếp theo trong các cuộc đối thoại với người thân, hồn bị người thân xa cách, nghi ngờ. Triết lý của vở kịch được thể hiện rõ qua cuộc đối thoại của Trương Ba với Đế Thích. Trương Ba bày tỏ khao khát được sống với chính mình, không nhờ vả, không giả dối, ông quyết định tìm đến cái chết chứ không chấp nhận nhập vào xác cu Tị. Kết của vở kịch có ý nghĩa triết lý sâu sắc, đó là sự gieo mầm cho những gì nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn, là sự sống trong tâm hồn mỗi người. Trương Ba chính là tấm gương về lòng nhân hậu, thanh cao.

     Vén màn kết thúc vở kịch, Lưu Quang Vũ đã để lại nhiều dư âm trong lòng khán giả, với triết lý sâu sắc, vở kịch đã trở thành một sáng tác nổi tiếng của ông và còn có giá trị mãi cho đến tận bây giờ.

Cảm nhận Hồn Trương Ba, da hàng thịt - mẫu 7

Trong cuộc đời của mỗi chúng ta, khát khao được là chính mình là khát khao thiêng liêng nhất, thân thương nhất. Ai đó đã từng nói: "Tại sao tôi phải sống cuộc sống của người khác và tại sao tôi phải để người khác sống cuộc sống của mình, tôi muốn là chính mình, vui hay buồn, đó là do tôi chọn". Có thể nói, khát vọng được là chính mình đã thể hiện trong nhiều tác phẩm nghệ thuật, đó là cái “tôi” cá nhân mạnh mẽ. Một trong những tác phẩm thể hiện rõ nhất mong muốn này là vở kịch rất nổi tiếng từ những năm 80 của thế kỷ trước Hồn Trương Ba, da hàng thịt của nhà viết kịch tài hoa Lưu Quang Vũ.

Lưu Quang Vũ (1948-1988) quê gốc Đà Nẵng nhưng sinh sống, học tập và làm việc tại Hà Nội, tham gia quân đội trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (1960-1970), phục vụ trong Bộ đội Phòng không, Không quân. lực lượng. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 1960, rồi đến năm 1978 mới bắt đầu viết kịch, đến năm 1980 thì ông đã có chỗ đứng vững chắc trong ngành sân khấu. Ông là nhà viết kịch có nhiều cống hiến xuất sắc, với hơn 50 tác phẩm kịch trong vòng 10 năm sáng tác và hầu hết đều được công chiếu, dàn dựng khắp cả nước, thậm chí có những tác phẩm còn được công chiếu nhiều lần tại nước ngoài như Hồn Trương Ba, da thịt. Về hành trình thơ của mình, Lưu Quang Vũ có lối viết giàu cảm xúc, suy tư, trăn trở và khát khao, Hương lửa cây là tập thơ tiêu biểu của ông đăng chung với Bằng Việt.

Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch mang đậm chất dân gian, ra đời từ năm 1981, xuất bản đến năm 1984, lập tức được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Đoạn trích của chương trình nằm ở Cảnh 7 và ở cuối vở kịch. Có thể nói, trong khuôn khổ của đoạn trích, nội dung lớn xuất hiện và bao trùm toàn bộ là bi kịch hồn Trương Ba. Ông Trương Ba vốn là người đức độ, có tâm hồn thanh cao, sống mẫu mực, yêu thương vợ con, quý cháu, đối xử tốt với bà con lối xóm. Ông là một người làm vườn rất chăm chỉ, khéo léo vuốt từng cành cây, ngọn cỏ, hơn nữa ông còn rất giỏi đánh cờ, với nước đi “mưu, thâm, dũng”. Nhưng cũng chỉ vì sai lầm của bà tiên mà anh bị chết oan, rồi sống lại nhờ nhập xác anh hàng thịt. Sự khập khiễng, sự không tương thích giữa hồn và xác, nhất là khi hồn Trương Ba cảm nhận được thân xác kia đang dần chiếm lấy, làm thay đổi cả tâm hồn mình. Hai thực thể linh hồn và thể xác đã có một cuộc đấu tranh không khoan nhượng, nhưng những lý lẽ có phần khét tiếng và vặn vẹo của thể xác đã khiến linh hồn phải lùi bước, thậm chí không thể chối cãi vì đó là sự thật. Lúc đó Trương Ba phải quyết định, vì không thể sống mãi trong đau đớn, vật vã như vậy, đó là một cuộc đời không trọn vẹn, sống không bằng chết.

Bi kịch của hồn Trương Ba bắt đầu bằng cái bi kịch bị tha hóa bởi xác hàng thịt và do chính bản thân hồn Trương Ba nhận ra, ông bắt đầu ham uống rượu, thích bán thịt, cũng không còn mấy mặn mà với cái trò chơi thanh cao là đánh cờ. Trong những lời độc thoại nội tâm đầy bối rối, hoang mang và đau khổ, phần hồn muốn rời khỏi, thoát khỏi cái phần thân xác thô lỗ của anh hàng thịt ngay lập tức. Giọng điệu của hồn Trương Ba gấp gáp, sợ hãi và có cả sự ghê tởm, tay ôm đầu đầy bức bối, phải nói ông khao khát được thoát khỏi đến mức mong rằng “được tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát!”.

Ngay cả đứa cháu gái mà ông yêu thương nhất bây giờ cũng nhìn ông bằng ánh mắt “bình tĩnh, dò hỏi”, có lẽ cô đã chịu đựng và im lặng nhìn ông rất lâu, cuối cùng hôm nay cô bùng nổ và quyết định không chấp nhận nữa. Vì anh thay đổi quá nhiều nên cô bé đã giận cách anh bẻ cam, bóp nát củ sâm quý và cuối cùng là làm hỏng con diều của Cu Tí, đứa con bất hạnh sắp chết nhưng vẫn nhớ con. . Suy cho cùng, cô gái yêu anh nhiều như vậy không có nghĩa là cô không thể chấp nhận một người đàn ông đã thay đổi quá nhiều. Rõ ràng, câu chuyện về người con gái và người đàn bà đã khiến Trương Ba đau đớn nay lại càng đau đớn hơn, anh càng nhận ra mình đã thay đổi, hư hỏng đến nhường nào. Và lời nói của cô con dâu mới chính thức mở ra mọi nghi ngờ, hoang mang sợ hãi của hồn Trương Ba, có lẽ trong cả nhà này cô là người điềm tĩnh nhất, cô thương bố chồng nên khéo léo, tâm sự ân cần. “Bên ngoài tầm thường... Con cảm thấy, con đau... Thầy mỗi ngày một khác, mất dần, mọi vật như lệch lạc, phai nhạt,…”.

Chính bi kịch bị người thân yêu chối bỏ đã đẩy xung đột kịch lên cao nhất, buộc Trương Ba phải giải quyết và tháo gỡ vấn đề cho chính bản thân và cả những người liên quan. Ông không chấp nhận buông xuôi để phần xác thịt lấn át tha hóa tâm hồn thêm nữa, bèn gọi Đế Thích xuống và khẳng định cái như cầu mạnh mẽ được sống là mình “Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn là chính mình”. Trương Ba quyết định trả lại thân xác cho anh hàng thịt, sau đó xin cho cu Tị được sống lại và ông không còn muốn sống cảnh éo le, khổ sở này, “Còn tôi, hãy để cho tôi chết hẳn,…”. Và kể từ khi có quyết định dứt khoát như vậy, hông Trương Ba chợt cảm thấy “Ta lại là Trương Ba thật rồi, tâm hồn ta lại thanh thản, trong sáng như xưa”. Có thể nói, Trương Ba rất khó đi đến quyết định đó, bởi khát vọng sống luôn là khát vọng chính đáng và vĩnh hằng của con người, ai muốn trở thành cát bụi? Trương Ba phải chấp nhận xa người thân, xa danh lợi. chốn trần gian. Nhưng để Trương Ba được sống, được sống, được là chính mình, không tạm bợ, không lệ thuộc, ngày một hư đốn.

Bi kịch lạc quan đã kết thúc có hậu, Trương Ba thoát khỏi xác anh hàng thịt. Hình ảnh khu vườn với những chiếc lá bồng bềnh là nơi chứa đựng những kỉ niệm êm đềm của một ông Trương Ba có tâm hồn cao thượng, hình ảnh nên thơ kết thúc còn là cảnh mẹ con Lúa và cu Tí ôm nhau, hạnh phúc được đánh đổi bằng sự hi sinh của Trương Ba. Cuối cùng, cảnh Trương Ba hiện lên bâng khuâng, với những câu thoại trìu mến, yêu thương dành cho vợ, cảnh Tí và cô gái chứng tỏ Trương Ba đã hoàn toàn tỉnh ngộ, thanh thản, ông đã tìm thấy chính mình, tình cảm người thân nguyên vẹn.

Một cuộc đời đáng sống vì phải dung hòa những thăng trầm chẳng phải là một bi kịch hay sao? Thể xác và tâm hồn có mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời với nhau. Xác thịt có nhu cầu bản năng, còn tâm hồn mang bản chất cao thượng, đạt đến sự hoàn thiện về nhân cách. Qua đây, Lưu Quang Vũ muốn chỉ ra rằng khi con người ta phải sống trong cái tầm thường thì tất yếu sẽ bị đầu độc, cái thiện sẽ bị lấn át. Những xung đột của nội tâm con người qua cuộc đối thoại hư cấu giữa hồn và mang hướng đến câu hỏi triết học.

Thông qua cuộc đấu tranh giữa thể xác và tâm hồn, Lưu Quang Vũ đã gửi gắm đến người đọc những ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Qua những nghịch cảnh ta thấy được vẻ đẹp của người lao động thời bình trước cuộc chiến với cái ác, với sự giả dối và khát khao hoàn thiện nhân cách, bảo vệ quyền sống đích thực.

Cả vở kịch của Lưu Quang Vũ cuối cùng kết thúc với thông điệp: Dù cuộc đời có nhiều cám dỗ, con người vẫn cố gắng giữ cho tâm hồn mình nguyên vẹn, trong sáng, bộc trực, luôn cố gắng cho công bằng. Những người đã khuất nên là một bản tình ca mà tuổi trẻ hôm nay sẽ nhớ mãi, mãi ngân nga để từ đó gieo niềm tin vào cuộc sống. Có nhiều cách để sống, trong đó có cách để dù thân xác đã về với cát bụi nhưng linh hồn vẫn bất tử với những ấn tượng, kỷ niệm đẹp nhất trong lòng người ở lại.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 Ôn thi THPT Quốc gia khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 12

Bộ giáo án, đề thi, bài giảng powerpoint, khóa học dành cho các thầy cô và học sinh lớp 12, đẩy đủ các bộ sách cánh diều, kết nối tri thức, chân trời sáng tạo tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official


hon-truong-ba-da-hang-thit.jsp


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên