10+ Nghị luận Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều (điểm cao)
Bài văn nghị luận Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Nghị luận Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều
- Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều (mẫu 1)
- Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều (mẫu 2)
- Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều (mẫu 3)
- Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều (mẫu 4)
- Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều (mẫu 5)
- Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều (mẫu 6)
- Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều (mẫu 7)
- Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều (mẫu 8)
- Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều (mẫu 9)
- Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều (các mẫu khác)
10+ Nghị luận Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều (điểm cao)
Dàn ý Nghị luận Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
+ “Truyện Kiều” là kiệt tác của thi hào dân tộc Nguyễn Du, cũng là kiệt tác của nền văn học Việt Nam. “Truyện Kiều” vừa có giá trị lớn về mặt nội dung vừa có giá trị về mặt nghệ thuật.
+ Phân tích các đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều báo ân báo oán” ta thấy được tác giả đã thương xót cho số phận bất hạnh của Thuý Kiều cũng là thương xót cho số phận bất hạnh của biết bao người phụ nữ trong xã hội cũ.
II. Thân bài
1. Giá trị nhân đạo trong văn học
- Khái niệm: Chủ nghĩa nhân đạo là tư tưởng yêu thương con người, tôn trọng các giá trị của con người.
- Biểu hiện:
+ Trân trọng vẻ đẹp của con người
+ Thương xót cho số phận đau thương của con người
+ Tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người
+ Thấu hiểu ước mơ của con người.
2. Biểu hiện của giá trị nhân đạo - trân trọng vẻ đẹp của con người
- Vẻ đẹp ngoại hình:
+ Nguyễn Du đã dành nhiều ưu ái khi xây dựng chân dung nhân vật.
+ Với Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả tỉ mỉ, chi tiết để dựng nên bức chân dung vừa đáng yêu, thiện cảm, vừa trang trọng, quý phái.
+ Với Thúy Kiều, Nguyễn Du sử dụng bút pháp “tả mây tô trăng”, “điểm nhãn” để dựng nên bức chân dung sắc sảo, hoàn mỹ, không ngôn từ nào diễn tả hết.
Cũng như những nhà thơ trung đại khác, Nguyễn Du sử dụng thủ pháp ước lệ để xây dựng chân dung nhân vật, nhưng đối với Nguyễn Du, vẻ đẹp của con người không chỉ sánh ngang với thiên nhiên, mà thậm chí vượt qua thiên nhiên, khiến thiên nhiên phải “thua, nhường”, “ghen, hờn” trước sắc đẹp con người.
- Vẻ đẹp đức hạnh:
+ Cả Thúy Kiều và Thúy Vân đều có đức hạnh đoan trang, đúng mực
+ Ở Thúy Kiều sáng lên vẻ đẹp của đạo hiếu, thủy chung, trọng ân nghĩa (khi trả ơn Thúc Sinh), và một tấm lòng bao dung, độ lượng (khi tha thứ cho Hoạn Thư).
- Vẻ đẹp tài năng: Tiến bộ hơn các nhà thơ thời trung đại, Nguyễn Du còn đề cao người phụ nữ ở phương diện tài năng, ông đã xây dựng một nhân vật Thúy Kiều đa tài, mà tài nào cũng xuất sắc, tuyệt đỉnh.
+ Trong quan niệm của Nguyễn Du, “chữ tài liền với chữ tai một vần”
+ Nói đến cái tài, bên cạnh sự trân trọng còn là một dự cảm bất an cho số phận truân chuyên của con người.
3. Biểu hiện của giá trị nhân đạo - thương xót cho số phận đau thương của con người
- Đau xót cho thân phận con người bị chà đạp, khinh rẻ, bị biến thành một món hàng để cân đo đong đếm.
- Đau xót cho cảnh ngộ côi cút, đơn độc nơi lầu Ngưng Bích “khóa xuân”.
- Nguyễn Du nhập thân vào nhân vật để cảm nhận hết nỗi đau của nhân vật, tác phẩm viết ra như có “máu chảy trên đầu ngọn bút”, thương cảm cho tương lai bất định, nhiều bất an của Kiều nơi lầu Ngưng Bích.
4. Biểu hiện của giá trị nhân đạo - tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người
- Nguyễn Du đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vạch trần bản chất xấu xa của những kẻ bất nhân trong xã hội xưa, những kẻ “buôn thịt bán người”, kiếm sống trên thân xác của những cô gái vô tội, tiêu biểu là Mã Giám Sinh.
- Nguyễn Du đã bóc trần cái mác “giám sinh” của họ Mã để cho thấy tính cách vô học, thô thiển của hắn. Đồng thời ông cũng phẫn nộ trước bản chất con buôn của họ Mã.
5. Biểu hiện của giá trị nhân đạo - thấu hiểu ước mơ của con người
- Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã thể hiện một ước mơ cao cả: Ước mơ một cuộc sống công bằng, cái thiện được khuyến khích, nâng niu, cái ác phải bị trừng phạt, phải trả giá. Nhân vật Từ Hải là đấng anh hùng trượng nghĩa, là người thực hiện ước mơ công lý của Nguyễn Du. Chính Từ Hải là người giải thoát Kiều khỏi chốn lầu xanh, cho Kiều cơ hội đổi đời, và cho Kiều cơ hội báo ân, báo oán
Ước mơ tốt đẹp, đáng trân trọng.
- Trong đoạn trích “Kiều báo ân báo oán” thái độ của Kiều rất rõ ràng.
+ Với người có ân, một mực trân trọng → Báo ân cho Thúc Sinh.
+ Với kẻ có tội, nghiêm khắc, công bằng, trừng phạt đúng người đúng tội, khoan hồng cho kẻ thực tâm hối cải.
→ Lời nói đanh thép vạch tội Hoạn Thư.
6. Đánh giá
- Về nội dung
+ Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm yêu thương
+ Nhân vật Thúy Kiều là nhân vật Nguyễn Du gửi gắm tâm sự.
+ Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo mới mẻ: Coi vẻ đẹp con người cao hơn thiên nhiên; tôn vinh cái tài của con người.
+ Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du hòa vào dòng chảy chủ nghĩa nhân đạo truyền thống của dân tộc, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống, góp một tiếng nói bảo vệ, nâng niu con người đầy giá trị.
- Về nghệ thuật
+ Giá trị nhân đạo được truyền tải qua những nghệ thuật đặc sắc:
+ Nghệ thuật xây dựng nhân vật (qua lời thoại, qua ngoại hình, qua tính cách) đặc sắc, điêu luyện.
+ Nghệ thuật miêu tả tài tình: bút pháp tả mây tô trăng, phục bút, điểm nhãn, thủ pháp ước lệ…
+ Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bậc thầy, làm thăng hoa ngôn ngữ dân tộc.
III. Kết bài
- Cảm nghĩ bản thân về giá trị nhân đạo thông qua “Truyện Kiều” nói chung và qua bốn đoạn trích “Chị em Thuý Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, “Kiều báo ân báo oán” nói riêng.
Nghị luận Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều - mẫu 1
“Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình
Nổi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi, lệ chảy quanh thân Kiều”
Thật vậy, mười lăm năm trời lưu lạc của nàng Kiều là một thiên bạc mệnh thấm đầy lệ làm xúc động lòng người qua bao thế hệ: “Cảo thơm lần giở trước đèn…”. Lật giở từng trang văn Nguyễn Du, ta thấy tinh thần nhân đạo được phổ vào văn chương nghệ thuật như suối nguồn dạt dào tuôn chảy, như dòng sông tưới tắm tâm hồn để cho từng dòng thơ câu chữ ấy chở nặng những hạt phù sa đổ vào dòng sông nhân bản mênh mông vô tận. Xây dựng hình tượng và số phận nàng Kiều, dường như Nguyễn Du đang nói thay lòng mình, thể hiện khát vọng công bằng cho nhân dân xã hội, cho những số phận tài hoa mà bạc mệnh trong xã hội phong kiến xưa.
Giá trị nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ “Truyện Kiều”. Cốt lõi của cảm hứng nhân đạo là lòng thương. Bản chất của nó là chữ tâm đối với con người. Đó là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người tài sắc, lòng hiếu nghĩa, vị tha, chung thủy trong tình yêu... Đó là tấm lòng của nhà thơ đồng tình với những ước mơ và khát vọng về tình yêu lứa đôi, về tự do và công lý; là sự đồng cảm, xót thương trước bao nỗi đau, bị vùi dập của con người, nhất là đối với người phụ nữ “bạc mệnh” trong xã hội phong kiến… Một tác phẩm mang cảm hứng nhân đạo khi nó ca ngợi phẩm chất cao đẹp của con người, không những thế phải đồng cảm xót thương những số phận bị chà đạp, lên án tố cáo những thế lực thù địch, đồng thời phải biết đồng tình với khát vọng và ước mơ chính đáng của con người. Nguyễn Du yêu thương con người đến tận cùng, vì vậy các tác phẩm của ông cũng nhân đạo đến tận cùng. Cảm thương cho những kiếp hồng nhan mà đa truân, tài tử mà đa cùng không phải là cảm hứng mới mẻ trong văn học, nhưng phải đến Nguyễn Du, người đọc mới thực sự đau lòng vì “những điều trông thấy” bởi Nguyễn Du viết về nỗi đau của người khác như nỗi đau của chính mình.
Sắc đẹp khuynh thành và tài năng hiếm có của Thúy Kiều đã được Nguyễn Du đặc tả trong hai câu thơ:
“Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai”
Vẻ đẹp của nàng thật có một không hai trên thế gian này. Thế nhưng ẩn giấu đằng sau những “làn thu thủy” trong trẻo và những “nét xuân sơn” tươi thắm của ngọn núi mùa xuân ấy là cả một tài năng toàn diện, lỗi lạc rất đáng tự hào:
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.”
Tài hoa của nàng không chỉ bộc lộ rực rỡ ở tài thi họa mà còn ở cung đàn có sức thuyết phục tuyệt đối. Cái thông minh và tài hoa ấy cũng chính là biểu hiện phong phú của một trái tim nồng nàn, sôi nổi, một tấm lòng giàu lòng vị tha. Cung đàn đầy cảm xúc của lần tình tự với Kim Trọng chính là nỗi sợ hãi của nàng Kiều thông minh linh cảm trước số phận của những người yếu thế mà cũng chính là tiếng lòng dám yêu đương sôi nổi của một cô gái sống cách đây hai trăm năm, khi mà quan hệ chân chính giữa nam nữ còn chịu nhiều ngăn cấm bởi muôn vàn luật lệ khắt khe của lễ giáo phong kiến.
Mối tình vượt lễ giáo phong kiến ấy cũng chính là một mối tình rất trong sáng, thủy chung. Kiều là một thiếu nữ rất một mực đoan trang, hiền thục, nàng yêu đương sôi nổi nhưng cũng biết kiềm chế cảm xúc để ngăn chặn những bước đi quá trớn không tốt cho tình yêu. Khi nghe Thuý Kiều đàn, Kim Trọng càng mê mẩn, say đắm nàng:
“Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.”
Còn gì đau xót hơn khi mối tình Kim - Kiều vừa chớm nở đã li tan. Lời thề với Kim Trọng vừa trao thì Kiều lại phải bán mình vì chữ hiếu. Trong Truyện Kiều tình tiết “trao duyên” cũng là một nét đẹp của tình cảm nhân đạo. Trước bi kịch cuộc đời “hiếu tình khôn lẽ hai đường vẹn hai” Kiều đã “cậy em” và trao duyên cho Thuý Vân thay mình trả nghĩa “nước non” với chàng Kim:
“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”
Thuý Vân nên mối tơ duyên với Kim Trọng, Kiều cũng phần nào bớt đi cảm giác có lỗi trong sự bội ước. Thế nhưng trước ngày đầu tan vỡ ấy Kiều tránh sao khỏi đau đớn xé ruột:
“Bây giờ trâm gãy bình tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.”
Làm sao Kiều có thể quên được mối tình đầu ngây thơ trong trắng ấy bởi lẽ:
“Ôi cái buổi ban đầu lưu luyến ấy
Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên.”
(Thế Lữ)
Và, khi Kiều ở lầu Ngưng Bích, bị Tú Bà "khóa xuân", trong cái nỗi buồn mênh mang vô tận, không thể gì làm vơi bớt, không có ai để sẻ chia – nỗi buồn của một con người hoàn toàn cô đơn giữa một khung cảnh cô đơn, vắng lặng; Kiều chỉ còn biết nhớ về người thân. Thật đúng như Chu Mạnh Trinh đã từng viết: “Tấm lòng này như tuyết như băng, mối sầu nọ qua ngày qua tháng… Ngọc kia không vết, giá liên thanh không vết so bì. Nước đã trôi xuôi, hồn cựu mộng vẫn còn vơ vẩn”. Nguyễn Du đã xây dựng một thiên diễm tình tuyệt mỹ Kim – Kiều. Trái tim nhân hậu của Nguyễn Du đã thương cảm sâu sắc cho mối tình đầu tan vỡ ấy chính vì thế nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật độc đáo, cực kỳ tinh tế trong bút pháp điêu luyện. Nhà thơ đã đảo tình lẫn hiếu, trái với trật tự cương thường của đạo lý phong kiến khi miêu tả Kiều nhớ Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau.
Nếu trước kia, Nguyễn Du đã không tiếc lời ngợi ca thiên diễm tình tuyệt đẹp vượt lễ giáo phong kiến thì giờ đây, khi mối tình đầu trong sáng ấy "trâm gãy bình tan"; chính ông lại đồng cảm hết sức với tâm sự của người con gái đang yêu buộc phải xa cách người yêu. Nguyễn Du thật thấu hiểu nhân tình!
Nỗi nhớ người thân cũng không làm Kiều khuây khỏa nỗi buồn rợn ngợp.
“Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng quanh quanh ghế ngồi”
Tám câu thơ dựng lên bốn bức tranh buồn được bắt đầu bằng hai chữ "Buồn trông". Dường như ở đây không có con người, chỉ có cái nhìn hay đúng hơn, chỉ có tâm trạng. Tâm trạng của Kiều mà cũng là tâm trạng của Nguyễn Du. Lòng nhà thơ tưởng như cũng hòa vào với lòng nhân vật, cùng đồng cảm, buồn thương, đau xót với nhân vật.
Lòng của Nguyễn Du trong Truyện Kiều trăm lần đứt đoạn, ngàn lần thấu cảm, thấy rõ trong từng câu thơ nghiến nát:
“Dở dang nào có hay gì
Đã tu - tu trót - qua thì - thì thôi”
Về Vấn đề Tố như đặt ra, Xuân Diệu nói: “Đặt ra một cách ghê gớm như lửa châm nhà đã cháy, như chuông treo sợi chỉ mành sắp đứt, như thòng lòng đã giết vào cổ người”. Truyện Kiều không phải là một bài ca hân hoan về giá trị con người mà trở thành “một câu chuyện thê thảm về vận mệnh con người trong xã hội cũ.”
Số phận con người – đó là điều day dứt khôn nguôi trong trái tim Nguyễn Du. Trái tim nhân ái bao la của nhà thơ đã dành cho kiếp người tài sắc bạc mệnh sự cảm thông và xót xa sâu sắc. Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm trời lưu lạc, nếm đủ mùi cay đắng, nhục nhã ê chề “thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”. Gặp được Từ Hải, hạnh phúc chợt đến rồi lại chợt đi khi Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến bị giết chết giữa loạn quân. Kiều phải hầu rượu trong bữa tiệc quan, bị ép gả cho viên thổ quan… Uất ức quá, Kiều phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn. Nguyễn Du đã phải xót thương kêu lên:
“Thương thay cũng một kiếp người,
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi.
Những là oan khổ lưu ly
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân! ...”
Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc đến não lòng. Từng từ, từng chữ tựa như những giọt lệ chứa chan tình nhân đạo của tác giả khóc thương cho số đoạn trường.
Tinh thần nhân đạo trong Truyện Kiều còn là tiếng nói đồng tình, đồng cảm của thi hào Nguyễn Du với những ước mơ về tự do công lý của con người bị áp bức dưới chế độ cũ. Từ Hải ân nhân của Thuý Kiều là một hình tượng sử thi, một anh hùng xuất chúng có tài năng đích thực và sức mạnh phi thường: “Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài”. Người anh hùng văn võ song toàn ấy có lý tưởng sống khác hẳn với bọn “cá chậu, chim lồng” quen “vào luồn ra cúi” để tranh nhau hai chữ công hầu. Ở Từ Hải, đó chính là một chí khí ngang tàng đội trời đạp đất ở đời “dọc ngang trời rộng, vẫy vùng bể khơi’.
Trong xã hội phong kiến ý vua là ý trời, mọi thần dân chỉ có thể cúi rạp mình xuống mà thôi, thế nhưng ở đây, thái độ Từ Hải về nhiều mặt đều mang ý nghĩa phản kháng mạnh mẽ chế độ phong kiến. Nó biểu hiện sự quật khởi của một thời đại khi hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nông dân bùng lên dữ dội thì cũng là lúc ý chí chống đối lại tôn ti trật tự khắc nghiệt kia nảy nở trong đầu óc những người bị áp bức. Cũng như Kim Trọng sau này, Từ Hải biết rõ giá trị phẩm chất cao đẹp của Kiều. Ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên Từ Hải đã bắt gặp những điều ấy, chính vì thế mà Từ Hải luôn luôn xem Kiều là người tri kỷ của mình, đối xử với Kiều bằng một mối tình trước sau như một, khi “vinh hoa” cũng như lúc “phong trần”. Ngoài ra, Từ Hải còn là một con người rất tự tin, thẳng thắn.
Đọc những trang viết của Nguyễn Du, chúng ta thấy tình yêu thương con người, trăn trở với số phận từng con người, nhất là những người đang đau khổ, để hướng ngòi bút của mình vào đó. Nhà thơ tự gọi mình bằng tên chữ "Tố Như" không phải mong "lưu danh thiên cổ" mà chỉ là tâm sự của 1 nỗi lòng tha thiết với cuộc đời. Mộng Liên Đường Chủ Nhân (1820) bình luận: "… Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn đứt ruột… Tố Như Tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh đã hệt, đàm tình đã thiết, nếu không phải có con mắt trong thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời, thì tài nào có cái bút lực ấy". Nếu là một tâm hồn không bị sóng gió vùi dập, một trái tim không thổn thức trước những nỗi đắng cay của bức tranh thế sự, một lương tâm không phẫn nộ trước những thói đời vô nhân bạc nghĩa, thì Nguyễn Du, dẫu có tài ba lỗi lạc đến đâu cũng không tìm ra được nhưng âm điệu, những vần thơ khiến cho người đọc trong cuộc nghe như khóc, như than, như uất ức, như oán hờn. Câu thơ còn giống như tâm trạng bi phẫn của nhà thơ trước thời cuộc. Khóc người xưa, nhà thơ tự khóc cho chính mình, giọt lệ chảy quanh kết lại 1 bóng hình Nguyễn Du, lặng lẽ cô đơn khiến người đọc phải se lòng khi ngẫm đến những nỗi đau thấm thía và dày vò tinh thần của những người tài hoa phải sống trong bóng đêm hắc ám của 1 xã hội rẻ rúng tài năng:
“Bỗng quý cô Kiều như đời dân tộc
Chữ kiên trinh vượt trăm sóng Tiền Đường
Chàng Kim đã đến tìm, lau giọt khóc
Và lò trầm đêm ấy tỏa bay hương”
Nghị luận Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều - mẫu 2
Không phải đến Nguyễn Du, tinh thần nhân đạo mới được phổ vào văn chương nghệ thuật nhưng có thể khẳng định từ khi phôi thai nền văn học tiếng Việt, tinh thần nhân đạo được kết tinh đậm nét nhất ở tác giả này. Và Truyện Kiều là một trong những sáng tác tiêu biểu mang nặng giá trị nhân đạo hơn cả.
Xét đến cùng, nhân đạo là tình cảm yêu thương giữa con người với con người. Lòng nhân đạo được biểu hiện trên nhiều khía cạnh mà trước hết đó là thái độ tố cáo, vạch trần tội ác của những thế lực chà đạp lên quyền sống của con người; biểu dương, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người; thông cảm, thấu hiểu những tâm tư, tình cảm cũng như những nguyện vọng của con người, giúp họ nói lên những ước nguyện đấu tranh để giành được ước nguyện ấy. Cả ba biểu hiện này đều có trong giá trị nhân đạo Truyện Kiều.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có hẳn một tuyến nhân vật lí tưởng mà ông yêu thích. Viết về những con người này, cảm hứng của thi nhân bao giờ cũng là cảm hứng ngợi ca. Nguyễn Du ca ngợi nhan sắc của Thúy Kiều, Thúy Vân, của Kim Trọng, Từ Hải… bằng những lời thơ đẹp vô cùng. Họ đẹp từ nhan sắc:
“Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Và tài năng thì khó ai sánh kịp:
“Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm”
Đó là cách Nguyễn Du ngợi ca phụ nữ. Đối với những trang nam tử như Kim Trọng, Từ Hải, nhà thơ cũng luôn lựa chọn những lời thơ đẹp nhất để miêu tả ngoại hình, tài năng của họ:
“Nền phú hậu, bậc tài danh,
Văn chương nết đất thông minh tính trời.
Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao
Đường đường một đống anh hào
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.”
Không chỉ khẳng định vẻ đẹp con người từ hình thức, Nguyễn Du còn rất đề cao phẩm chất, nhân cách của những nhân vật lí tưởng. Nhân vật trung tâm trong Truyện Kiều (Thúy Kiều) có một lòng hiếu nghĩa sâu nặng với cha mẹ và thủy chung son sắc với người yêu. Để đáp đền công ơn cha mẹ, khi gia đình gặp biến, cha bị bắt, Kiều đã quyết định bán mình chuộc cha với một suy nghĩ dứt khoát:
“Làm con trước phải đền ơn sinh thành”
Để rồi, khi phải dứt bỏ mối tình với chàng Kim, nàng vô cùng đau xót:
“Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”
Tấm lòng trinh bạch đó qua mười lăm năm lưu lạc tuy bị vùi dập đau đớn nhưng vẫn luôn được nàng gìn giữ.
Không dừng lại ở việc ngợi ca những vẻ đẹp thuộc về con người, Nguyễn Du còn luôn đứng về phía những con người nhỏ bé. Trên lập trường nhân bản, nhà thơ lên án, tố cáo tất cả những thế lực chà đạp lên quyền sống của con người. Từ kẻ “vô danh tiểu tốt” như thằng bán tơ đến lũ vô loài như Sở Khanh, Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạc Hạnh, đến những kẻ “ăn trên ngồi chốc”, thuộc hàng phương diện quốc gia như Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến,… tất cả đều bị Nguyễn Du vạch trần bộ mặt xấu xa, tàn ác, đê tiện, bỉ ổi. Chúng tồn tại trong câu chuyện của thi nhân như những thế lực hắc ám, phản động, lúc nào cũng gieo rắc những hành động thiếu nhân tính xuống số phận những con người nhỏ bé, bất hạnh. Vì chúng mà gia đình Thúy Kiều đang yên ấm phải thất tán. Vì chúng mà người con gái xinh đẹp, tài hoa như Thúy Kiều bị vùi dập một cách không thương tiếc. Mười lăm năm lưu lạc chính là mười lăm năm Kiều phải nếm trải, chịu đừng mọi nỗi oan khuất kinh khủng nhất. Phát hiện vĩ đại nhất và cũng đau đớn nhất của Nguyễn Du về thân phận con người là phát hiện về thân phận con người trong xã hội phong kiến. Con người bị coi như một món hàng, có lúc bị mang ra mặc cả, cân đo:
“Cò kè bớt một, thêm hai,
Giờ lâu ngã giá, vàng ngoài bốn trăm.”
Con người hai lần bị bán chác vào chốn nhơ bẩn nhất trần gian:
“Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần.”
Con người bị đòn roi vùi dập:
“Uốn lưng thịt đổ, dập đầu máu sa.”
Con người bị đòn ghen oan khuất; Con người bị lợi dụng, bị biến thành kẻ phản bội…
Chà đạp lên con người là cơ man nào những thế lực phi nhân tính. Chúng châu tuần, hợp sức để bóp nghẹt sự sống con người. Có lẽ trong lịch sử nỗi đau thương, chưa có người phụ nữ nào phải chịu nỗi đau dằng dặc, chồng chất, đáng sợ như Thúy Kiều của Nguyễn Du.
Tố cáo các thế lực hủy hoại con người cũng có nghĩa Nguyễn Du đã thấu hiểu nỗi đau khổ mà con ngưười phải chịu đựng. Hơn một lần trong các sáng tác của mình, nhà thơ khóc:
“Đau đớn thay thân phận đàn bà!”
Và khi viết về Thúy Kiều – người đàn bà oan nghiệt nhất trong xã hội phong kiến, ngòi bút thi nhân luôn lặn sâu vào tâm trạng nhân vật, phát hiện ra những nỗi đau đớn và miêu tả một cách cảm động về chúng. Có thể coi Trao duyên là một trong những đoạn trích hay nhất, thể hiện sâu sắc lòng thương cảm của nhà thơ. Trao kỉ vật cho Thúy Vân mà Thúy Kiều như con nuối tiếc khôn nguôi và dường như muốn níu kéo:
“Duyên này thì giữ vật này của chung”
Hai chữ của chung mà tác giả lựa chọn đủ để thể hiện nét tâm trạng đó. Dường như giữa Thúy Kiều và Nguyễn Du có một sự đồng cảm kì lạ. Đó là lí do mọi nỗi đoạn trường của Thúy Kiều đều được Nguyễn Du thấu hiểu và diễn tả bằng một xúc cảm yêu thương đến lạ. Đến Từ Hải bước vào đời Kiều, Nguyễn Du không nhằm mục đích xây dựng cho nàng một tình yêu mới. Quan trọng hơn, ông muốn người anh hùng này sẽ giải thoát nàng khỏi kiếp đoạn trường, sẽ trả lại cho nàng lẽ công bằng mà nàng đã bị lũ người tráo trở, bạc ác, tinh ma cướp mất. Và hơn hết, từ các nhân vật Thúy Kiều, Từ Hải, Nguyễn Du còn nói lên khát vọng của con người thời đại mình: khát vọng tình yêu và khát vọng công lí. Chưa khi nào trong văn học trung đại có người con gái dám xé rào đêm, xăm xăm băng lối đường khuya một mình sang nhà người yêu tự tình như Thúy Kiều. Chưa khi nào trong văn học trung đại có người anh hùng dám dang tay cứu mĩ nhân và giúp nàng lấy lại công bằng như Từ Hải. Ở thời đại Nguyễn Du, khát vọng của ông là khát vọng không tưởng. Nhưng rõ ràng, tư tưởng của nhà thơ cho thấy cái nhìn tiến bộ vượt tầm thời đại và thấm đượm tinh thần nhân bản. Nói Nguyễn Du có con mắt trông thấu sáu cõi và có tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời là bởi vậy.
Cùng với những giá trị nghệ thuật, giá trị nhân đạo là một trong những phương diện làm nên thành công của Truyện Kiều. Nhưng hơn hết, giá trị nhân đạo đó là bằng chứng về một tấm lòng, một nhân cách cao cả của thời đại, của dân tộc.
Nghị luận Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều - mẫu 3
Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Truyện Kiều là tập đại thành của ông kết tinh những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đọc các đoạn trích “Chị em Thúy Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”,“Mã Giám Sinh mua Kiều”, ta thấy tác giả đã xót thương cho số phận bất hạnh của Thúy Kiều nhưng đó cũng đồng thời là nỗi xót thương cho số phận người phụ nữ trong xã hội cũ.
Giá trị nhân đạo của tác phẩm trước hết biểu hiện ở tấm lòng thương xót đối với người phụ nữ bất hạnh. Trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều ngòi bút nhân đạo của Nguyễn Du giúp người đọc thấy được tấm lòng của ông cho nhân vật Thúy Kiều. Thúy Kiều là người con hiếu thảo. Trước cơn gia biến, nàng quyết định bán mình chuộc cha và em. Bằng bút pháp ước lệ, tác giả làm nổi bật tâm trạng tủi hổ, cảm giác nhục nhã, ê chề của Kiều khi nàng bị coi như một món hàng. Một người con gái tài sắc, đức hạnh như nàng Kiều lại trở thành một món hàng đem ra mua bán. Không những thế,bọn chúng còn “Cò kè bớt một thêm hai”, Nguyễn Du đã cảm thương cho nỗi đau khổ của nàng khi Mã Giám Sinh “cân sắc cân tài”. Nguyễn Du đã thấu hiểu tâm trạng Kiều. Đó chính là một biểu hiện của tư tưởng nhân đạo sáng ngời trong tác phẩm. Kiều ở lầu Ngưng Bích là một đoạn trích tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong Truyện Kiều, tác giả đã giúp cho người đọc hiểu được nỗi đau, nỗi nhớ thương, nỗi cô đơn, lo sợ của nàng Kiều. Phải bán mình chuộc cha, trao duyên cho em, Kiều rơi vaò tay Mã Giám Sinh và Tú Bà. Kiều không muốn tiếp khách làng chơi nên nàng đã tìm đến cái chết nhưng nàng lại được cứu sống. Tú Bà vì sợ Thúy Kiều chết đi thì “Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma” nên dỗ ngon ngọt và vờ đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích đợi tìm nơi tử tế để gả chồng. Thực chất lầu Ngưng Bích là nơi giam lỏng Thúy Kiều - nơi khóa kín tuổi xuân của nàng. Nơi đây cũng chính là điểm khởi đầu cho quãng đường lưu lạc đầy đau thương, tủi nhục của Kiều. Ngòi bút của Nguyễn Du như nhỏ lệ khi miêu tả canhỷ vật thông qua tâm trạng của Thúy Kiều. Giữa thiên nhiên vắng lặng và mênh mông, không một bóng người, Kiều chỉ còn thấy “bốn bề bát ngát xa trông”. Một cảm giác cô dơn, buồn tủi và bẽ bàng xâm chiếm tâm hồn nàng. Nàng xót xa cho thân phận, số kiếp mình:
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.”
Phải chăng đó cũng chính là nỗi xót đau của tác giả dành cho những người phụ nữ tài sắc nhưng bất hạnh như Thúy Kiều?
Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở chỗ tác giả ca ngợi vẻ đẹp ngoại hình cũng như vẻ đẹp phẩm chất của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp của Thúy Vân, Thúy Kiều bằng những lời tuyệt mĩ. Miêu tả Thúy Vân, ngòi bút của Nguyễn Du thể hiện sự trân trọng:
“Vân xem trang trọng khác vời”
Hai chữ “trang trọng” nói lên vẻ đẹp cao sang, quý phái của Thúy Vân. Vẻ đẹp trang trọng, đoan trang của người thiếu nữ được so sánh với những thứ cao đẹp trên đời: trăng, hoa, mây, tuyết, ngọc. Tác giả đã sử dung những hình ảnh thiên nhiên có vẻ đẹp đặc biệt, trong trắng, tinh khiết, rực rỡ để miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân. Khuôn mặt nàng đẹp như trăng rằm. Nụ cười tươi như hoa. Giọng nói trong trẻo thoát ra từ hàm răng ngọc ngà. Làn tóc mềm mại, thướt tha đẹp hơn mây trời. Màu trắng của tuyết vẫn không thể sánh bằng làn da trắng trắng ngần của Thúy Vân. Thiên nhiên cũng phải thua, phải nhường sắc đẹp của nàng.
Bằng biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp trung thực, phúc hậu mà quý phái của người thiếu nữ. Chân dung của Thúy Vân là chân dung mang tính cách số phận, vẻ đẹp của Vân tạo nên sự êm đềm, hòa hợp với xung quanh. Điều đó dự báo cuộc đời nàng sẽ suôn sẻ, hạnh phúc. Phải là người biết yêu quý cái đẹp, biết trân trọng cái đẹp Nguyễn Du mới có được sự miêu tả như thế.
Ca ngợi Thúy Kiều, Nguyễn Du không chỉ ca ngợi vẻ đẹp hình thức mà tác giả còn ca ngợi vẻ đẹp về mặt tâm hồn, tài năng. Cũng như lúc tả Thúy Vân, câu thơ đầu khái quát đặc điểm nhân vật: “Kiều càng sắc sảo, mặn mà”. Nàng sắc sảo về trí tuệ, mặn mà về tâm hồn, tình cảm. Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Kiều, tác giả vẫn dùng hình tượng nghệ thuật ước lệ: “thu thủy” (nước mùa thu), “xuân sơn” (núi mùa xuân), hoa, liễu. Nét vẽ của thi nhân thiên về gợi, tạo một ấn tượng chung về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Đáng lưu ý là khi họa bức chân dung Thúy Kiều, tác giả tập trung gợi tả vẻ đẹp đôi mắt, bởi đôi mắt là sự thể hiện phần tinh anh về tâm hồn và trí tuệ. Cái sắc sảo của trí tuệ, cái mặn mà của tâm hồn đều liên quan đến đôi mắt. Hình ảnh ước lệ “làn thu thủy” – làn nước mùa thu gợn sóng gợi lên thật sống động vẻ đẹp của đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt. Còn hình ảnh ước lệ “nét xuân sơn” – nét núi mùa xuân lại gợi lên đôi lông mày thanh tú trên gương mặt trẻ trung. Khi tả Thúy Vân, tác giả chủ yếu gợi tả nhan sắc mà không thể hiện cái tài, cái tình của nàng. Thế nhưng, khi tả Kiều, nhà thơ tả sắc một phần còn dành đến hai phần để tả tài năng.
Tài của Kiều đạt tới mức lí tưởng, theo quan niệm thẩm mĩ phong kiến gồm đủ cả: cầm, kì, thi, họa. Đặc biệt, tài đánh đàn của nàng đã là sở trường, năng khiếu, vượt lên trên mọi người: “Cung thương làu bậc ngũ âm. Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”. Nhấn mạnh cái tài của Thúy Kiều cũng là để ngợi ca cái tâm đặc biệt của nàng. Cung đàn bạc mệnh mà Thúy Kiều tự sáng tác chính là sự ghi lại tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm. Như vậy, vẻ đẹp của Thúy Kiều là sự hội tụ của cả sắc – tài – tình. Tác giả đã dùng câu thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” để đặc tả giai nhân. Sắc đẹp của Thúy Kiều có thể làm cho người ta say mê đễn nỗi mất thành mất nước. Chân dung Thúy Kiều cũng là chân dung mang tính cách số phận. Vẻ đẹp của Kiều làm cho tạo hóa phải ghen ghét, đố kỵ “hoa ghen”, “liễu hờn”, báo hiệu số phận của nàng gặp nhiều gian truân, đau khổ. Rõ ràng phải là người có tấm lòng yêu thương mới thấy hết được vẻ đẹp của những con người bất hạnh để mà ca ngợi. Tình cảm xót thương, sự chân trọng về sắc đẹp và tàinăng Thúy Kiều giúp ta hiểu được giá trị nhân đạo thể hiện qua các đoạn trích này nói riêng, trong tác phẩm Truyện Kiều nói chung.
Giá trị nhân đạo còn thể hiện ở thái độ khinh bỉ, sự căm ghét của tác giả với những kẻ “buôn thịt bán người” mà tay “sinh viên” họ Mã kia là một điển hình tiêu biểu. Tác giả đã vạch trần bộ mặt xấu xa, đểu cáng của tay buôn người đội lốt sinh viên trường Quốc Tử Giám bằng một loạt các chi tiết nói lên sự lỗ mãng, dị hợm của hắn. Mặc dù đã “ngoại tứ tuần” nhưng vẫn ăn mặc bảnh bao, mày râu thì nhẵn nhụi không phù hợp với lứa tuổi của hắn:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.”
Về hành động, cử chỉ lại càng bộc lộ bản chất của một tên thiếu học thức, vô phép tắc:
“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Chỉ với từ “tót”, Nguyễn Du như giáng một đòn chí mạng vào cái mặt giả danh tri thức của hắn. về bản chất của hắn lại càng xấu xa, để hắn lộ mặt con buôn bằng hình ảnh:
“Cò kè bớt một thêm hai”
Gặp gia đình đang cơn tai biến cần giúp đỡ, đáng lẽ một “sinh viên” như hắn phải biết đồng cảm, xót thương, ra tay giúp đỡ nhưng hắn đã không làm thế. Bộ mặt của kẻ buôn người đã được Nguyễn Du lột tả một cách đầy đủ nhất. Miêu tả nhân vật Mã Giám Sinh cũng là để nói lên thái độ căm ghét của tác giả đối với kẻ kẻ là đại diện cho xã hội đồng tiền, đồng tiền đã chà đạp lên mọi giá trị tốt đẹp ở đời - "Trong ta đã sẵn đồng tiền; Dễ dàng đổi trắng thay đen khó gì”.
Với “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã cất lên tiếng nói cảm thông, xót xa cho thân phận người phụ nữ, tiếng nói ngợi ca vẻ đẹp của con người và tiếng nói lên án tố cáo xã hội xấu xa tàn bạo, toàn lừa lọc xảo trá mà các đoạn trích Chị em Thúy Kiều, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Mã Giám Sinh mua Kiều là những điển hình cho tư tưởng nhân đạo của tác giả. Qua đó chúng ta cũng thấy được trái tim nhân đạo bao la của tác giả. Nguyễn Du và “Truyện Kiều” sẽ trường tồn mãi với thời gian.
Nghị luận Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều - mẫu 4
Nguyễn Du là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong thế kỷ XIX. "Truyện Kiều" của ông là đỉnh cao chói lọi và niềm tự hào lớn của nền văn học cổ Việt Nam.
"Trải qua một cuộc Bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng"
Áng thơ tự sự - trữ tình này không chỉ là tiếng nói lên án những thế lực đen tối, tàn bạo trong xã hội phong kiến thối nát mà còn "thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của thi hào Nguyễn Du".
Tinh thần nhân đạo là cảm hứng nhân văn bao trùm lên toàn bộ "Truyện Kiều". Đó là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người tài sắc, lòng hiếu nghĩa, vị tha, chung thủy trong tình yêu… Đó là tấm lòng của nhà thơ đồng tình với những ước mơ và khát vọng về tình yêu lứa đôi, về tự do và công lý; là sự đồng cảm, xót thương trước bao nỗi đau, bị vùi dập của con người, nhất là đối với người phụ nữ "bạc mệnh" trong xã hội phong kiến. Có thể nói, cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du là cảm hứng trân trọng thương yêu con người bị áp bức, chà đạp.
Tinh thần nhân đạo trong ‘Truyện Kiều’, trước hết là tiếng nói ngợi ca những giá trị, phẩm chất tốt đẹp của con người. Kiều là hiện thân cùa cái đẹp và tài năng tuyệt vời. Nàng kiều diễm, rực rỡ "Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh". Kiều không chỉ đẹp "nghiêng nước, nghiêng thành" mà còn có một tài năng toàn diện, lỗi lạc rất đáng tự hào:
"Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm".
Kim Trọng, một văn nhân, tài tử "vào trong phong nhã ra ngoài hào hoà". Là một "thiên tài" hội tụ của tinh hoa thời đại "văn chương nết đất, thông minh tính trời". Mỗi bước đi của chàng Kim đều đem đến cho đất trời cỏ cây hoa lá một sức sống đẹp tươi kỳ diệu:
"Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao".
Mối tình Kim Trọng – Thúy Kiều là một thiên diễm tình. Đó là một tình yêu tự nguyện vượt ra ngoài khuôn khổ lể giáo phong kiến, rất trong sáng và thủy chung của "người quốc sắc, kẻ thiên tài".
Kiều là một đứa con chí hiếu. Gia đình gập tai biến, tài sản bị bọn sai nha "sạch sành vét cho đầy túi tham", cha bị tù tội. Kiều đã quyết hi sinh mối tình riêng để cứu cha và gia đình. Hành động bán mình chuộc cha của Thuý Kiều thể hiện đức hi sinh và thấm đượm một tinh thần nhân đạo cao đẹp, làm cho người đọc vô cùng cảm phục và xúc động:
"Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân"
hay:
"Thà rằng liều một thân con,
Hoà dù rã cánh, lá còn xanh cây".
Đọc "Truyện Kiều", lần theo con đường khổ ải của Kiều, ta vô cùng cảm phục trước tấm lòng đôn hậu, hiếu thảo, tình nghĩa của nàng. Kiều như quên hết nỗi đau của riêng mình mà dành tất cả tình thương nhớ thắm thiết cho cha mẹ và hai em. Nàng lo lắng cho cha mẹ già yếu, buồn đau, không ai chăm sóc đỡ đần:
"Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ…"
Tình tiết "trao duyên" trong "Truyện Kiều" cũng là một nét rất đẹp cùa tình cảm nhân đạo. Trước bi kịch cuộc đời ‘Hiếu tình khôn nhẽ hai đường vẹn hai’, Kiều đã ‘cậy em’ và trao duyên cho Thúy Vân thay mình trả nghĩa ‘nước non’ với chàng Kim:
"Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Chiếc thoa với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung."
Tinh thần nhân dạo trong "Truyện Kiều" còn là tiếng nói đồng tình, đồng cảm của thi hào Nguyễn Du với những ước mơ về công lí, những khát vọng về tự do.
Từ Hải là một hình tượng mang màu sắc sử thi, một anh hùng xuất chúng có tài năng đích thực và sức mạnh phi thường. Một ngoại hình siêu phàm "Râu hùm hàm én mày ngài. Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao". Những chiến công hiển hách, lẫy lừng "Huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam". Từ Hải là một anh hùng đầy chí khí "Dọc ngang nào biết trên đầu có ai!". Người anh hùng ấy, khi lưỡi gươm vung lên là công lý được thực hiện:
"Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha".
Từ Hải đã đem uy lực của người anh hùng ra giúp Kiều "báo ân háo oán". Hình tượng Từ Hải là một thành công kiệt xuất của Nguyễn Du trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, là một biểu hiện sâu sắc về tinh thần nhân đạo. Vẻ đẹp nhân văn toát lên qua hình tượng này, tựa như ánh sao băng lướt qua màn đêm giông bão tăm tối của đời nàng Kiều vậy, tuy ngắn ngủi nhưng sáng ngời hi vọng và niềm tin:
"Rằng: Từ là đấng anh hùng.
Dọc ngang trời rộng vẫy vùng hiển khơi".
Số phận con người – đó là điều day dứt khôn nguôi của Nguyễn Du. Trái tim nhân ái bao la của nhà thơ đã dành cho kiếp người tài sắc bạc mệnh sự cảm thông và xót thương sâu sắc.
Sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, Kiều đã trải qua mười lăm năm trời lưu lạc, nếm đủ mùi cay đắng, nhục nhã "Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần". Từ Hải mắc lừa Hồ Tôn Hiến, bị giết chết. Kiều phải hầu rượu đánh đàn trong bữa tiệc quan,… uất ức quá, nàng phải nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử. Câu thơ của Nguyễn Du như một tiếng nấc cất lên não lòng. Những từ ngữ: ‘thương thay’, ‘hại thay’, ‘làm chi’, ‘còn gì là thân’ tựa như những giọt lệ chứa chan tính nhân đạo, khóc thương cho số đoạn trường:
"Thương thay cũng một kiếp người,
Hại thay mang lấy sắc tài làm chi
Những là oan khổ lưu li
Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!".
Nhân vật Đạm Tiên mãi mãi là một ám ảnh đối với mọi người. Người kĩ nữ "nổi danh tài sắc một thì" nhưng mệnh bạc đau đớn "Sống làm vợ khắp người ta. Hại thay thác xuống làm ma không chồng". Kiều đứng trước mộ Đạm Tiên, cất lên lời đồng cảm thê thiết! Kiều khóc Đạm Tiên hay Nguyễn Du khóc thương cho nỗi đau của bao người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội cũ!
"Đau đớn thay phận đàn hà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung".
Nguyễn Du, nhà thơ thiên tài của dân tộc thông qua số phận và tính cách nhân vật trung tâm - Thúy Kiều – đã biểu hiện trong áng thơ tuyệt tác "Đoạn trường tân thanh" cảm hứng nhân đạo sâu sắc, cảm động.
Tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng đặc sắc tạo nên vẻ đẹp nhân văn của áng thơ này, Chúng ta vô cùng tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn tinh tế cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư và số phận của con người, một tài năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học Việt Nam.
Nguyễn Du và "Truyện Kiều" sống mãi trong tâm hồn dân tộc, như tiếng hát lời ru của mẹ. Cảm hứng nhân đạo của nhà thơ là tiếng thương muôn đời:
"Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày…"
Nghị luận Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều - mẫu 5
Tinh thần nhân đạo cao cả là nội dung tư tưởng đặc sắc tạo nên vẻ đẹp nhân văn của áng thơ này. Chúng ta vô cùng tự hào về Nguyễn Du, một tâm hồn nhạy cảm trưóc vẻ đẹp của thiên nhiên, một trái tim giàu yêu thương, đồng cảm với tâm tư và số phận của con người, một tài năng lớn về thi ca đã làm rạng rỡ nền văn học cổ Việt. Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Du thấm nhuần trong trang thơ Truyện Kiều.
Chủ nghĩa nhân đạo là tư tưởng yêu thương con người, tôn trọng các giá trị của con người. Biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong Truyện Kiều được thể hiện qua sự trân trọng vẻ đẹp của con người, thương xót cho số phận đau thương của con người, tố cáo, phê phán những thế lực chà đạp lên con người và thấu hiểu ước mơ của con người.
Nguyễn Du rất trân trọng vẻ đẹp con người. Nguyễn Du đã dành nhiều ưu ái khi xây dựng chân dung nhân vật. Với Thúy Vân, Nguyễn Du miêu tả tỉ mỉ, chi tiết để dựng nên bức chân dung vừa đáng yêu, thiện cảm, vừa trang trọng, quý phái:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Với Thúy Kiều, Nguyễn Du sử dụng bút pháp “tả mây tô trăng”, “điểm nhãn” để dựng nên bức chân dung sắc sảo, hoàn mỹ, không ngôn từ nào diễn tả hết:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So về tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”
Nguyễn Du sử dụng thủ pháp ước lệ để xây dựng chân dung nhân vật, nhưng đối với Nguyễn Du, vẻ đẹp của con người không chỉ sánh ngang với thiên nhiên, mà thậm chí vượt qua thiên nhiên, khiến thiên nhiên phải “thua, nhường”, “ghen, hờn” trước sắc đẹp con người.
Cả Thúy Kiều và Thúy Vân đều có đức hạnh đoan trang, đúng mực:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ đến tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Ở Thúy Kiều sáng lên vẻ đẹp của đạo hiếu:
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh biết ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Và đức tính thủy chung:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Chân trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Thúy Kiều còn có tấm lòng trọng ân nghĩa:
“Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân”
Và một tấm lòng bao dung, độ lượng:
“Tha ra thì cũng may đời
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen
Đã lòng tri quá thì nên”
Tiến bộ hơn các nhà thơ thời Trung Đại, Nguyễn Du còn đề cao người phụ nữ ở phương diện tài năng, ông đã xây dựng một nhân vật Thúy Kiều đa tài, mà tài nào cũng xuất sắc, tuyệt đỉnh:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”
Thương xót cho số phận đau thương của con người. Đau xót cho thân phận con người bị chà đạp, khinh rẻ, bị biến thành một món hàng để cân đo đong đếm:
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.”
Nguyễn Du nhập thân vào nhân vật để cảm nhận hết nỗi đau của nhân vật, tác phẩm viết ra như có “máu chảy trên đầu ngọn bút”, thương cảm cho tương lai bất định, nhiều bất an của Kiều nơi lầu Ngưng Bích:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Nguyễn Du đã sử dụng ngòi bút hiện thực để vạch trần bản chất xấu xa của những kẻ bất nhân trong xã hội xưa, những kẻ “buôn thịt bán người”, kiếm sống trên thân xác của những cô gái vô tội, tiêu biểu là Mã Giám Sinh.
Nguyễn Du đã bóc trần cái mác “giám sinh” của họ Mã để cho thấy tính cách vô học, thô thiển của hắn - một kẻ không biết "thương hoa tiếc ngọc":
“Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa lối rước vào lầu trang
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Đồng thời ông cũng phẫn nộ trước bản chất con buôn của họ Mã:
“Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử tài quạt thơ
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
“Cò kè bớt một thêm hai”
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện một ước mơ cao cả, đó cũng chính là tinh thần nhân đạo của tác phẩm, ước mơ một cuộc sống công bằng, cái thiện được khuyến khích, nâng niu, cái ác phải bị trừng phạt, phải trả giá. Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du là một chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm yêu thương, tình người, lòng tự tôn.
Nghị luận Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều - mẫu 6
Nguyễn Du, nhà văn vĩ đại của dân tộc, để lại di sản văn học khổng lồ, nổi bật trong đó là Truyện Kiều. Tác phẩm này đưa người đọc trải nghiệm cuộc sống và số phận của phụ nữ trong xã hội phong kiến qua mắt nhân vật Thúy Kiều. Bên cạnh việc phản ánh sự đau thương trong thực tế xã hội, Truyện Kiều còn là bức tranh tôn vinh giá trị nhân đạo khi chú ý đến lòng xót thương và sự trân trọng đối với con người.
Giá trị nhân đạo là sự đồng cảm sâu sắc của các nhà văn, nhà thơ đối với những đau khổ con người và những số phận bất công trong cuộc sống. Truyện Kiều là tác phẩm phê phán những bất công xã hội, đồng cảm và xót thương trước những số phận khổ cực của con người.
Trong Truyện Kiều, chủ nghĩa nhân đạo rực rỡ. Nguyễn Du vẽ nên bức tranh xã hội xưa với số phận nổi trôi của Kiều và kết hợp giá trị nhân đạo lớn lao. Một biểu hiện đậm nét của giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều là sự phê phán của Nguyễn Du về xã hội phong kiến. Xã hội này chứa đựng những sự bất công, đàn áp con người, nơi tiền bạc có thể chi phối mọi thứ và cả những kẻ 'buôn thịt bán người', lợi dụng cảnh khốn của phụ nữ.
Trước biến cố gia đình, Thúy Kiều quyết định bán mình để cứu cha và em. Cô gái tài năng biến thành món hàng, chỉ để người ta mua bán với giá bốn trăm lượng vàng. Xã hội phong kiến thối nát, nơi quyền lực của đồng tiền trở thành trọng tâm, con người trở thành nô lệ của đồng tiền, không kể đến công lí, đạo đức hay lòng nhân ái. Hơn nữa, xã hội này còn để những kẻ 'buôn thịt bán người' tự do, lời lợi trên thân xác của những cô gái thuần khiết. Đó là thế giới của Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà, Bạc Bà, ...
Ví dụ như Mã Giám Sinh - một kẻ buôn người tự xưng là thư sinh, nhưng thiếu đạo đức và những giá trị cơ bản. Trong những câu thơ của Nguyễn Du, hình ảnh một người vô học, thô lỗ, mất văn hóa, hiện rõ:
“Hỏi tên rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.”
Những hành động như 'ngồi nghiêng', đáp trả thô lỗ, không khác gì những kẻ lang thang trên đường. Bản chất của hắn chỉ là kẻ buôn người vụng trộm. Trong việc ra giá với bà mai, hắn chỉ coi Thúy Kiều như một món hàng, thậm chí so sánh nó như 'Cò kè bớt một thêm hai'.
Nguyễn Du bằng bút hiện thực của mình đã phơi bày bức tranh xã hội phong kiến thối nát, nơi đồng tiền làm chủ đạo, làm mất đi mọi công bằng, đạo đức và lòng nhân ái. Một xã hội mà những người thấp cổ bé họng không có quyền phát biểu, bị khinh rẻ, bị coi thường, trở thành món hàng có giá, bị mặc cả 'cò kè' từng đồng tiền.
Biểu hiện thứ hai của giá trị nhân đạo trong tác phẩm là sự ngợi ca, trân trọng đối với những giá trị, vẻ đẹp của những con người lương thiện. Điều này rõ ràng qua cách mô tả chi tiết về ngoại hình, tâm hồn và tài năng của chị em Thuý Kiều.
Bắt đầu từ vẻ đẹp của Thuý Vân, Nguyễn Du mô tả cực kỳ tỉ mỉ, so sánh với mây và trăng - những sự vật tượng trưng cho vẻ đẹp tuyệt vời. Vân được miêu tả như:
'Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngọc thốt đaon trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”
Thuý Vân tỏa sáng với vẻ đẹp quý phái, duyên dáng và đáng yêu. Không chỉ là da màu tóc, mà còn là phong thái sang trọng. Trước vẻ đẹp của nàng, thiên nhiên phải 'nhường bộ', phải thua kém. Nghệ thuật ước lệ cổ điển được sử dụng một cách xuất sắc.
Miêu tả về Thuý Kiều, Nguyễn Du không chỉ sử dụng nghệ thuật ước lệ mà còn áp dụng biện pháp cổ điển 'vẽ mây nẩy trăng'. Ông tạo điểm nhấn cho vẻ đẹp hoàn mỹ của Kiều bằng câu:
'Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một tài đành họa ha.i”
Vẻ đẹp của Kiều không chỉ hoàn mỹ vượt trội, mà còn làm thiên nhiên phải 'ghen tị'. Bằng bút pháp ước lệ và nghệ thuật miêu tả tài năng, tình cảm, tác giả vẽ lên bức tranh hai cô gái đẹp như tranh, độ tuổi tràn đầy sức sống.
Ngoài việc tả vẻ đẹp ngoại hình, Nguyễn Du chú tâm miêu tả vẻ đẹp tâm hồn của Vân Kiều. Hai tiểu thư đoan trang, hiền thục như chưa từng xuất hiện:
“Phong lưu mực thước hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”
Nguyễn Du sâu sắc khắc họa vẻ đẹp nội tâm của Kiều - người con gái nết na. Đẹp đẽ và hiếu thảo nhưng còn có vẻ trầm lặng, sâu sắc:
Vẻ đẹp tâm hồn của Kiều lột tả qua hành động bán mình để cứu cha, là hình ảnh đẹp và nhân ái. Ở độ tuổi còn trẻ, với biết bao ước mơ, nàng đã hy sinh hạnh phúc, tự do để giữ gìn truyền thống và yêu thương gia đình. Hành động cao đẹp, đầy tình nhân ái! Có bao nhiêu người sẵn lòng làm điều này?
Khi lẻn lên chốn lầu son, giữa thế giới bán dâm, Kiều thương xót bản thân và đặc biệt, xót xa cho cha mẹ xa nhà:
"Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.”
Trái tim Kiều chứa đựng tình yêu trung thành, không phai mờ dù tình cảm với Kim Trọng bị tách rời. Trong trái tim nàng, hình bóng chàng vẫn đọng mãi:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm lòng son tạc đến giờ mới phai.”
Kiều là người trân trọng tình nghĩa, biết ơn lòng nhân ái của Thúc Sinh. Khi trả ơn, Kiều thể hiện lòng biết ơn của mình:
“Sâm Thương chẳng vẹn chữ tình,
Tại ai, ai có phụ mình hay chăng?”
Vẻ đẹp của Kiều tỏa sáng khi nàng tha thứ và báo ân với Hoạn Thư, người từng làm rung chuyển cuộc đời nàng:
“Rằng: “Tha ra thì cũng may”,
Làm ra thì cũng ra tay thôi rồi.
Hòa rằng: “Mĩ mãn cả đôi”,
Gieo ân rồi lại trả ân cho vừa.”
Nguyễn Du không chỉ trọng vẻ đẹp ngoại hình của Kiều mà còn đánh giá cao tài năng của nàng:
"Phong tư tài mạo tót vời,
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa.
Nhân tâm nào biết có ta,
Thiết chi cho đã, rồi ra cũng thừa."
Tài năng của Kiều được tôn trọng và ông đặt niềm tin lớn vào phẩm chất tinh thần của nàng. Điều này làm nổi bật tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Du so với thời đại.
Thấu hiểu đau đớn của Kiều khi trở thành một vật thế để người ta giao dịch, Nguyễn Du diễn đạt sự thương cảm và đồng cảm sâu sắc. Nguyễn Du chia sẻ đau thương của Kiều, thương xót trước số phận đen tối của cô, khiến cô trở thành một món hàng, bị nhục nhã, đánh mất phẩm giá:'
“Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá, vàng ngoài bốn trăm.”
Và càng thấu hiểu hơn, đau đớn hơn khi Kiều cô đơn giữa lầu Ngưng Bích, bị giam lỏng trong nỗi đau sầu 'Trước cửa lầu Ngưng Bích, chờ mong mùa xuân/ Vẻ trẻ tuổi trắng như trăng, xa rợp bóng cây...'. Nguyễn Du đưa tâm hồn mình vào nhân vật để chia sẻ nỗi đau, thấu hiểu sự tủi nhục, nỗi buồn của Kiều. Ông nắm vững một tương lai u tối, mơ hồ của người con gái tài sắc vẹn toàn ấy:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Khía cạnh cuối cùng trong giá trị nhân đạo mà Nguyễn Du muốn thể hiện là niềm tin vào ước mơ, vào tương lai tươi sáng hơn cho những con người nhỏ bé. Dù cuộc sống của họ luôn đầy bất công, đau khổ, Nhà thơ vẫn trân trọng những ước mơ nhỏ bé của họ, ước mơ về công bằng, công lý, một xã hội không còn bất công, áp bức.
Điều này được thể hiện qua hình ảnh của anh hùng Từ Hải - với vẻ đẹp khác thường, phi thường:
“Râu hùm, hàm én, mày ngài,
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.”
Từ Hải, anh hùng vĩ đại, là biểu tượng cho khát vọng công bằng của Nguyễn Du và những nhân vật trong Truyện Kiều. Anh đã giải thoát Kiều khỏi lầu xanh, mang đến cho nàng một tương lai rạng ngời, nơi cái ác phải trả giá. Kiều, trân trọng ân nghĩa, bày tỏ lòng biết ơn như Thúc Sinh:
“Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân,
Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là.”
Đối với những kẻ gây ra đau khổ như Hoạn Thư, Kiều không khoan nhượng, trừng phạt mạnh mẽ:
“Ví bằng thú thật cùng ta,
Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.
Lại đem nước mắt dây loan,
Ai làm chánh án xử oan cho mình?
Có điều kiện chẳng dám sinh,
Động lòng muốn lại làm tình nọ kia!
Trông mặt mà bắt hình dong,
Con lươn đầu trắng thì trông mới là!”
Ước mơ của những tâm hồn lương thiện trong xã hội và của Nguyễn Du chính là một tương lai hòa bình, công bằng, nơi mà mọi người sống hạnh phúc!
Chủ nghĩa nhân đạo trong Truyện Kiều thấm đẫm cả nội dung và nghệ thuật. Nội dung của Nguyễn Du đong đầy tình yêu thương, nhân ái và tôn trọng, đặc biệt là nhân vật Kiều - hình tượng mang tâm huyết của ông. Chủ nghĩa nhân đạo còn đồng hành với sự đổi mới, đề cao con người và vinh danh tài năng của phụ nữ. Nguyễn Du đã làm giàu di sản văn hóa bằng chủ nghĩa nhân đạo, kết hợp truyền thống và sáng tạo.
Về mặt nghệ thuật, chủ nghĩa nhân đạo hiện diện qua bút pháp tinh tế như ước lệ, điểm xuyết, và sử dụng ngôn ngữ uyên bác. Sự sáng tạo trong xây dựng nhân vật, kết hợp với ngôn ngữ tinh tế, đã tạo nên thành công về giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều.
Giá trị nhân đạo trong Truyện Kiều truyền tải tình yêu thương. Nó vừa giữ gìn truyền thống, vừa mang đến điểm mới, tôn vinh tài năng của phụ nữ. Đó là một kết tinh vĩ đại của Nguyễn Du, đánh dấu ông là nhà thơ sáng tạo và đậm chất nhân văn.
Nghị luận Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều - mẫu 7
Nguyễn Du, thi sĩ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, hình tượng văn hóa toàn cầu. Truyện Kiều, kiệt tác của ông, là sự kết tinh của những giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc. Qua các đoạn trích như “Chị em Thúy Kiều”, “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, “Mã Giám Sinh mua Kiều”, Nguyễn Du không chỉ chia sẻ đau thương cho số phận bi đạo của Thúy Kiều mà còn là ngón tay chỉ trích thế lực đè nén số phận con người, đồng thời hiểu biết về những ước mơ, khát vọng của họ. Mời bạn đọc tham khảo một số đoạn văn mà tôi đã tập hợp dưới đây để cảm nhận sâu sắc hơn về tác phẩm!
Giá trị nhân đạo của tác phẩm bắt đầu bởi lòng thương xót đối với những người phụ nữ gặp bất hạnh. Trong đoạn “Mã Giám Sinh mua Kiều”, bằng lối diễn đạt ước lệ, Nguyễn Du làm nổi bật sự đau xót, nhục nhã, và hối tiếc của Thúy Kiều khi bị coi như hàng hóa. Thúy Kiều, một người con hiếu thảo, bất đắc dĩ phải bán mình để chuộc đứa em và cha. Nguyễn Du mô tả tâm lý thất thường, đầy thẫn thờ, của Kiều khi phải đối mặt với sự hiểu lầm và xem nhẹ.
Điều này là một biểu hiện rõ ràng của tư tưởng nhân đạo trong tác phẩm. Đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là minh chứng cho nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật. Nguyễn Du giúp người đọc cảm nhận được nỗi đau, nỗi nhớ thương, nỗi cô đơn, và lo sợ trong trái tim của Thúy Kiều. Việc bán mình chuộc cha, trao duyên cho em làm Kiều bước vào cuộc sống đầy đau thương và nhục nhã.
Thúy Kiều, trong cố gắng tránh khỏi sự chà đạp của xã hội, đã tìm đến cái chết, nhưng cuộc sống lại dành cho nàng một cơ hội mới. Tuy nhiên, lầu Ngưng Bích, nơi nàng tưởng chừng là nơi trú ẩn, lại trở thành điểm khởi đầu cho cuộc hành trình đau thương của Kiều. Nguyễn Du biểu đạt tâm trạng cô đơn, buồn bã, và tủi thân của Kiều giữa thiên nhiên vắng lặng: “Bốn bề bát ngát xa trông”. Nàng cảm thấy cô đơn và tủi thân giữa vẻ đẹp mênh mông của thế giới xung quanh.
Nguyễn Du không chỉ tập trung vào vẻ ngoại hình của nhân vật mà còn chú trọng miêu tả vẻ đẹp tâm hồn và tài năng của họ. Đoạn “Chị em Thúy Kiều” ca ngợi vẻ đẹp của Thúy Vân và Thúy Kiều thông qua lời diễn đạt tuyệt vời. Thúy Vân được miêu tả với vẻ đẹp trang trọng, quý phái, được so sánh với những thứ tinh túy như trăng, hoa, mây, tuyết, và ngọc. Tác giả tạo nên hình ảnh của một người phụ nữ trắng trắng ngần, quý phái và thanh lịch.
Khi ca ngợi Thúy Kiều, Nguyễn Du không chỉ tập trung vào vẻ đẹp ngoại hình mà còn nhấn mạnh vẻ đẹp về mặt tâm hồn và tài năng. Thúy Kiều được miêu tả là người sắc sảo về trí tuệ và mặn mà về tâm hồn. Bằng cách sử dụng hình ảnh thiên nhiên ước lệ như “làn thu thủy” và “nét xuân sơn”, Nguyễn Du làm nổi bật đôi mắt sáng, long lanh, và linh hoạt của Kiều. Câu thơ khẳng định sự sắc sảo của trí tuệ và mặn mà của tâm hồn Thúy Kiều.
Nguyễn Du cũng sử dụng những đoạn trích như “Mã Giám Sinh mua Kiều” để chỉ trích xã hội đen tối và lòng tham của những kẻ “buôn thịt bán người”. Mô tả nhân vật Mã Giám Sinh giúp lột trần bộ mặt xấu xa và đê tiện của hắn. Tác giả chỉ trích sự đồi bại, lòng tham của hắn thông qua những chi tiết như ăn mặc bảnh bao nhưng mày râu nhẵn nhụi không phù hợp với tuổi, và hành động không tôn trọng.
Với “Truyện Kiều”, Nguyễn Du không chỉ là một nhà văn tài năng mà còn là người truyền đạt tư tưởng nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm này sẽ luôn tồn tại qua thời gian, làm cho chúng ta nhớ mãi về trái tim nhân đạo và sự sáng tạo của ông.
Nghị luận Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều - mẫu 8
Nguyễn Du – một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa vĩ đại – đã để lại cho đời một kiệt tác bất hủ mang tên Truyện Kiều. Tác phẩm không chỉ chinh phục độc giả bằng nghệ thuật thơ ca đặc sắc mà còn chứa đựng những giá trị tư tưởng sâu sắc, thể hiện lòng nhân ái bao la của tác giả, phản ánh trung thực hiện thực xã hội và gửi gắm những triết lý sâu sắc về con người, cuộc đời.
Trước hết, Truyện Kiều mang giá trị nhân đạo sâu sắc khi thể hiện lòng thương cảm đối với những số phận bất hạnh, đặc biệt là người phụ nữ. Nguyễn Du đã đặt trọn trái tim của mình vào từng câu thơ để khắc họa nỗi đau, sự oan ức của Thúy Kiều. Kiều là một cô gái tài sắc vẹn toàn, nhưng cuộc đời nàng lại bị vùi dập bởi những thế lực tàn ác. Bằng sự thấu hiểu sâu sắc, Nguyễn Du đã dựng lên hình ảnh một người con gái tài hoa nhưng phải chịu số phận nghiệt ngã. Qua bi kịch của Kiều, tác giả đã lên tiếng tố cáo xã hội phong kiến đầy rẫy bất công, nơi con người bị biến thành món hàng mua bán, nơi phụ nữ không có quyền lựa chọn cuộc đời mình.
Không chỉ dừng lại ở lòng thương cảm, Truyện Kiều còn phản ánh chân thực xã hội phong kiến với đầy rẫy bất công. Đó là một xã hội mà công lý không thuộc về những con người lương thiện, nơi kẻ có quyền lực và tiền bạc có thể thao túng tất cả. Kiều, dù tài sắc vẹn toàn, cũng không thể chống lại cạm bẫy của những kẻ xấu xa. Quan lại thì tham nhũng, bất công, những kẻ buôn người thì vô nhân tính. Chính những yếu tố ấy đã khiến Kiều phải trôi dạt, lưu lạc suốt mười lăm năm trời. Qua tác phẩm, Nguyễn Du đã gửi đến người đọc một thông điệp mạnh mẽ: xã hội phong kiến là một nhà tù lớn, nơi con người không thể thoát khỏi vòng xoáy nghiệt ngã của đồng tiền và quyền lực.
Bên cạnh những giá trị nhân đạo và hiện thực, Truyện Kiều còn gửi gắm triết lý sâu sắc về cuộc đời. Nguyễn Du tin rằng con người không thể chống lại số phận, bởi mọi sự trên đời đều do “mệnh trời” sắp đặt. Nhưng đồng thời, tác phẩm cũng nhấn mạnh rằng, dù có phải trải qua bao nhiêu sóng gió, con người vẫn cần giữ vững nhân cách, vẫn có quyền hy vọng và đấu tranh để tìm kiếm hạnh phúc.
Chính những giá trị tư tưởng sâu sắc ấy đã khiến Truyện Kiều trở thành một tác phẩm bất hủ, không chỉ trong văn học Việt Nam mà còn vang danh thế giới. Tác phẩm mãi mãi là một tấm gương phản chiếu xã hội, một tiếng nói nhân văn mạnh mẽ và là minh chứng cho tài năng và tấm lòng vĩ đại của Nguyễn Du.
Nghị luận Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều - mẫu 9
Trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du đã phản ánh hiện thực xã hội phong kiến đương thời với bộ mặt giai cấp tàn bạo của những kẻ thống trị mất tính người. Sức mạnh của đồng tiền của danh lợi khiến cho những người phụ nữ khốn khổ trở thành món hàng cho bọn buôn phấn bán hương trong xã hội.
Gia đình nhà họ Vương đang có cuộc sống vô cùng hạnh phúc bình yên nhưng lại bị một người bán tơ vu oan giá họa tai ương ập xuống đầu, khiến cho một gia đình đang hạnh phúc vướng vòng lao lý. Sau khi gia đình xảy ra biến cố bọn quan chức nha sai triều đình đã tranh thủ cướp của nhà Thúy Kiều, chúng đã được một lũ quan lại tham ô dung túng thừa nước đục thả câu vơ vét tiền của của người dân vào túi mình. Tên quan xử kiện cho cha Thúy Kiều cũng là người ăn tiền, lợi dụng chức quyền để kiếm chác.
Sức mạnh của đồng tiền nặng tựa ngàn cân nằm trong tay kẻ tàn bạo, đồng tiền thành một thế lực vô cùng mạnh nó có thể chi phối mọi giá trị đạo đức của con người, làm mất lương tri của một con người. Những người mang chức trách giúp người dân lấy lại đạo lý nhưng lại vì tiền mà bẻ cong công lý. Cuộc sống vốn nhiều nước mắt của con gái tài sắc, mười phân vẹn mười Thúy Kiều bắt đầu dùng sức mạnh, quyền lực để tạo nên thế lực kiếm những đồng tiền dơ bẩn.
Giá trị nhân đạo của của Truyện Kiều thể hiện việc tác giả Nguyễn Du đề cao con người từ phẩm chất, tài năng, ngoại hình cho tới những ước mơ chân thành. Người đọc có thể cảm nhận được là Thúy Vân có vẻ đẹp vô cùng nền nã, đoan trang, hiền thục, thể hiện một con người hiền lành, có cuộc sống vô cùng bình yên hạnh phúc. Còn Thúy Kiều mang vẻ đẹp sắc sảo thể hiện một vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn.
Thúy Kiều cũng là một người có tài năng xuất chúng. Xưa nay phụ nữ đẹp thường ít thông minh và tài năng. Nhưng Nguyễn Du đã cho Thúy Kiều rất nhiều ưu điểm xưa nay hiếm thấy ở một người phụ nữ. Vương Thúy Kiều có tài năng cầm kỳ thi họa, tài sắc đều mười phân vẹn mười. Với vẻ đẹp một hai nghiêng nước nghiêng thành.
Qua nhân vật Thúy Kiều tác giả Nguyễn Du đã lên án tố cáo chế độ phong kiến tàn bạo chà đạp lên con người, lên quyền hưởng thụ hạnh phúc của những người con gái tài sắc. Vương Thúy Kiều đã vướng phải mười lăm năm lưu lạc phải rơi vào chốn lầu xanh hết lần này tới lần khác khiến cho cuộc sống của cô sống không bằng chết. Qua mười lăm năm lưu lạc không có gì mà Thúy Kiều chưa trải qua nàng cũng đã tìm cách tự vẫn nhiều lần nhưng đều được cứu giúp.
Từ một cô gái con nhà tiểu thư khuê các Thúy Kiều trở thành hàng hóa để người ta mua bán, trao đổi bị lừa gạt hết lần này tới lần khác, đem thân đi làm vợ lẽ người ta, làm gia nô, rồi bị hành hạ tra tấn đánh đòn. Thúy Kiều bị lăng nhục trở thành tội phạm ở chốn quan trường bị sỉ nhục rơi vào cảnh giết chồng, nỗi oan chồng chất. Cuộc đời Thúy Kiều là một bản cáo trạng tố cáo tội ác của chế độ xã hội xưa. Chính xã hội bất lương đó đã xô đẩy người con gái tài sắc, có đức hạnh, hiếu nghĩa rơi vào hoàn cảnh khó khăn, mất đi hạnh phúc của đời mình chịu cảnh bể dâu phong trần.
Qua Truyện Kiều còn thể hiện niềm thương cảm của tác giả Nguyễn Du trước những đau khổ của con người nhất là số phận người phụ nữ như Thúy Kiều. Bên cạnh đó, Truyện Kiều của Nguyễn Du có thể người đọc khắc sâu trong lòng người đọc, bởi giá trị nghệ thuật và giá trị nhân đạo. Trong tác phẩm của ông thể hiện sự tài hoa vô cùng sắc sắc, tinh tế, nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật vô cùng sâu sắc.
Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác lừng lẫy, với bút pháp của một nhà thơ thiên tài, nghệ thuật tự sự, thể hiện sự thành công trong sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Thông qua thiên truyện tuyệt tác này tác giả Nguyễn Du thể hiện một giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Nó nhằm tố cáo tội ác của một chế độ phong kiến thối nát, mục ruỗng lợi dụng thân xác phụ nữ kiếm tiền.
Tác giả Nguyễn Du thể hiện sự đồng cảm xót xa của mình với người phụ nữ công dung ngôn hạnh, tài sắc vẹn toàn đáng lẽ ra phải được hưởng cuộc sống hạnh phúc. Nhưng lại chịu nhiều bất hạnh trong cuộc sống, chịu cảnh lưu vong, cơ cực.
Nghị luận Giá trị nhân đạo trong Truyện kiều - mẫu 10
Giá trị nhân đạo của Truyện Kiều trước hết thể hiện ở sự đồng cảm sâu sắc với những con người bị xã hội phong kiến vùi dập. Nguyễn Du đã dành tình yêu thương đặc biệt cho những số phận đau khổ, nhất là thân phận người phụ nữ – những người bị xem nhẹ trong một xã hội đầy bất công.
Thúy Kiều – nhân vật trung tâm của tác phẩm – là một cô gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại chịu một cuộc đời đầy sóng gió, bị xã hội đẩy vào chốn đau thương. Cuộc đời Kiều có thể chia thành ba giai đoạn: trước biến cố gia đình, quãng đời lưu lạc và khi đoàn tụ. Mở đầu tác phẩm, nàng sống trong hạnh phúc, nhưng tai họa ập đến khi gia đình bị vu oan. Để cứu cha và em trai, Kiều chấp nhận bán thân làm vợ lẽ Mã Giám Sinh, mở đầu cho chuỗi ngày đầy bất hạnh.
"Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung."
Câu thơ như một lời than vãn đầy chua xót của Nguyễn Du không chỉ dành riêng cho Kiều mà còn cho tất cả những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Dù sống lương thiện, có tài năng và phẩm hạnh, nhưng họ vẫn bị chà đạp, không thể tự quyết định số phận của mình. Sau khi bị lừa bán vào lầu xanh, Kiều đã phải chịu bao tủi nhục, bị Thúc Sinh phụ bạc, bị Hoạn Thư hành hạ, rồi bị Hồ Tôn Hiến phản bội khiến Từ Hải – người chồng nghĩa hiệp của nàng – chết đứng giữa trận tiền. Những bi kịch ấy không chỉ là nỗi đau riêng của Kiều mà còn là sự phản ánh thực trạng tàn khốc của xã hội phong kiến, nơi mà những kẻ lương thiện bị chà đạp, còn kẻ ác lại nhởn nhơ hưởng lợi.
Trong từng lời thơ, Nguyễn Du không chỉ kể lại mà còn hòa mình vào nỗi đau của nhân vật. Ông thấu hiểu sự bất lực, tủi nhục và tuyệt vọng của Kiều khi bị dồn ép đến bước đường cùng. Sự đồng cảm ấy xuất phát từ chính tấm lòng nhân ái của ông, từ trải nghiệm cá nhân khi chứng kiến cảnh đời ngang trái của những con người nhỏ bé trong xã hội.
Không chỉ xót thương, Nguyễn Du còn hết lòng trân trọng những phẩm chất cao đẹp của con người. Trong Truyện Kiều, nhân vật Thúy Kiều không chỉ là một người con gái đẹp mà còn có tài năng và nhân cách đáng quý.
Trước hết, Nguyễn Du đã dùng bút pháp ước lệ để khắc họa vẻ đẹp của Kiều:
"Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh."
Nhưng điều khiến Kiều tỏa sáng không chỉ là nhan sắc mà còn là tài năng vượt trội:
"Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm."
Tài năng ấy không chỉ là những kỹ năng đơn thuần mà còn là biểu tượng cho trí tuệ, sự sâu sắc và nhạy cảm của Kiều. Chính vì có tâm hồn nghệ sĩ, nàng càng cảm nhận sâu sắc hơn những đau khổ của cuộc đời.
Dù trải qua bao nhiêu biến cố, Kiều vẫn giữ được lòng hiếu thảo, sự thủy chung và lòng nhân hậu. Nàng chấp nhận bán thân để cứu cha, không oán hận Thúc Sinh dù bị phụ bạc, không tìm cách trả thù Hoạn Thư dù từng bị nàng ta hành hạ. Khi có cơ hội báo oán, Kiều vẫn để Hoạn Thư có đường lui, thể hiện tấm lòng khoan dung, nhân nghĩa. Nguyễn Du đã xây dựng Kiều như một biểu tượng của phẩm giá con người, cho thấy rằng dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, những giá trị tốt đẹp vẫn không bị lụi tàn.
Một trong những giá trị nhân đạo quan trọng nhất của Truyện Kiều chính là khát vọng về công lý và tự do. Xuyên suốt tác phẩm, Nguyễn Du không chỉ tái hiện những bất công trong xã hội mà còn thể hiện ước mơ về một thế giới mà cái thiện được đền đáp, cái ác phải trả giá.
Đỉnh cao của khát vọng công lý thể hiện ở đoạn Kiều báo ân báo oán. Sau bao năm bị đày đọa, Kiều cuối cùng cũng có cơ hội đứng lên đối mặt với những kẻ đã làm hại mình. Nguyễn Du để nàng trừng trị Bạc Bà, Bạc Hạnh, Tú Bà và Sở Khanh, đồng thời đền ơn những người đã giúp mình như Giác Duyên. Điều này thể hiện mong muốn rằng những bất công trong cuộc đời sẽ được hóa giải, rằng con người dù chịu nhiều đau khổ vẫn có thể tìm thấy sự công bằng.
Tuy nhiên, khát vọng công lý trong Truyện Kiều vẫn mang màu sắc bi kịch. Cuối cùng, Kiều không thể tìm được hạnh phúc trọn vẹn. Nàng từ chối nối duyên cùng Kim Trọng, lựa chọn cuộc sống bình lặng sau những năm tháng bão giông. Nguyễn Du đã để lại một cái kết nhiều dư vị, khiến người đọc không khỏi xót xa. Dù công lý được thực thi, nhưng những mất mát và đau thương vẫn còn mãi.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Giá trị tư tưởng của “Truyện Kiều”
- Giải nghĩa từ “Quê cha đất tổ”
- Giải thích 5 điều Bác Hồ dạy ngắn gọn
- Giải thích câu ca dao Bầu ơi thương lấy bí cùng
- Giải thích câu Giấy rách phải giữ lấy lề
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều