10+ Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương (điểm cao)

Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương

1. Mở bài

- Giới thiệu tóm tắt về xuất xứ của tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương

+ Là chuyện thứ 16 trong 20 truyện được Nguyễn Dữ ghi lại trong Truyền kì mạn lục.

+ Câu chuyện kể về nỗi oan khuất của nhân vật Vũ Nương - một người phụ nữ đoan chính, thủy chung.

- Dẫn dắt vào câu chuyện mà em đóng vai trò là người kể chuyện

2. Thân bài

- Nêu vai trò, vị trí của bản thân trong câu chuyện (người thân, hàng xóm, người chứng kiến, người được nghe kể lại câu chuyện,…)

- Cách thức kể lại câu chuyện: theo logic trình tự thời gian hay đảo kết cấu của truyện,….

- Kể lại câu chuyện theo trật tự thời gian nào.

- Hoàn cảnh của Vũ Nương khi chồng vắng nhà?

+ Đang lúc mang thai đứa con đầu lòng, người chồng bị bắt đi lính đánh giặc Chiêm. Nàng ở nhà một tay săn sóc đứa con thơ và mẹ già.

+ Vì thương nhớ con trai, người mẹ chồng bị ốm nặng rồi qua đời. Một mình Vũ Nương hết lòng chăm sóc rồi lo ma chay tươm tất.

Quảng cáo

+ Một mình nuôi con và ngóng đợi ngày chồng trở về.

- Tình huống mâu thuẫn giữa hai vợ chồng Vũ Nương?

+ Để vơi đi bớt nỗi nhớ thương chồng, và cũng để cho con có cái nhìn về người cha nên vào những lúc đêm, Vũ Nương thường chỉ lên cái bóng của mình trên vách và bảo với bé Đản rằng “cha con đó”.

+ Nỗi đau oan khuất cũng bắt đầu từ cái bóng, khi Trương Sinh trở về và nghe tin mẹ mất chàng đã rất đau khổ. Và sẵn có máu ghen cùng sự gia trưởng, Trương Sinh sau khi nghe câu nói ngây thơ của bé Đản về người cha tối nào cũng đến, chàng đã đánh đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà.

+ Vì không thể giải bày, minh oan cho nỗi nhục này, nàng đã nhảy xuống dòng Hoàng Giang tự vẫn. Trước sự oan khuất đó của Vũ Nương, Linh Phi - vợ của vua Nam Hải đã cảm động và cứu vớt đem về thủy cung.

+ Dưới động Rùa, Vũ Nương đã gặp được Phan Lang – người cùng làng với cô, hai người tâm sự và Vũ Nương đã đưa tín vật của hai vợ chồng và nhờ chuyển lời đến Trương Sinh là phải lập đàn giải oan cho nàng.

+ Về phần Trương Sinh sau khi hiểu được cái bóng chính là người cha mà bé Đản kể, chàng đã vô cùng ân hận. Khi nghe tin lập đàn giải oan, chàng liền làm ngay nhưng Vũ Nương chỉ xuất hiện nói đôi lời rồi biến mất.

3. Kết bài:

Quảng cáo

- Cảm nghĩ của em về Chuyện người con gái Nam Xương: là một câu chuyện cảm động và hấp dẫn.

- Gợi ra những bài học cho bản thân và mọi người. (Bài học rút ra từ câu chuyện bi thương này là vợ chồng phải tin tưởng, tôn trọng lẫn nhau thì hạnh phúc gia đình mới được trọn vẹn. Sự ghen tuông mù quáng chỉ đem lại đau khổ, mất mát mà thôi.)

Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 1

          Ngày xưa, trong dân gian đã lưu truyền một câu chuyện cảm động kể về một người phụ nữ nhan sắc, đức hạnh nhưng lại phải chịu một nỗi oan ức lớn đến mức phải gieo mình tự vẫn nơi bến sông chỉ vì người chồng mang tính đa nghi, nhỏ nhen của mình. Câu chuyện mà người ta vẫn thường kể nhau nghe ấy mang tên “Vợ chàng Trương”, nhưng kết cục của câu chuyện dân gian này lại vô cùng bi thảm.

Vì tiếc thương cho nàng người phụ nữ nết na nhưng lại bạc mệnh, Nguyễn Dữ đã mượn cốt truyện trên để viết nên “Chuyện người con gái Nam Xương”. Những chi tiết trong truyện hầu như vẫn được giữ nguyên về cơ bản, nhưng ông đã thể hiện tinh thần nhân đạo của mình bằng cách tạo nên một cái kết đẹp hơn cho người phụ nữ cao đẹp ấy.

Quảng cáo

Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ xoay quanh cuộc đời và số phận của một người con gái đức hạnh nhưng cảnh đời lại đẩy vào nơi tối tăm của bi kịch - Vũ Thị Thiết. Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, là con của một gia đình làm nông nghèo. Mẹ nàng mất từ sớm, trong nhà chỉ có hai cha con cùng nương tựa lẫn nhau và trải qua những tháng ngày bình lặng, hạnh phúc.

Khi nàng đến tuổi lập gia đình, đã được một chàng Trương vì thấy nàng đẹp người lại đẹp nết nên đã qua hỏi cưới. Nàng không yên tâm để cha già sống cảnh một mình, nhưng vẫn phải đồng ý lấy Trương Sinh trước những lời khuyên của cha. Trước khi nàng được gả đi, cha đã dặn dò nàng sang nhà chồng phải biết hiếu kính với nhà chồng, phải đảm đang việc nhà, làm tròn đạo dâu, đạo vợ. Nếu không, nàng sẽ chịu những điều tiếng không hay.

Một tuần sau, Vũ Thị Thiết đã chính thức trở thành vợ của Trương Sinh. Từ khi bước vào nhà họ Trương, nàng đã coi Trương Sinh là người chồng mà suốt đời mình sẽ yêu thương, gắn bó. Mẹ của chàng cũng chính là mẹ của nàng, nên nàng sẽ chăm sóc và phụng dưỡng như chính người thân máu mủ của mình.

Cuộc sống thời gian đầu hôn nhân cũng được coi là êm ấm. Nhưng rồi, biến cố đã xảy ra và chia cắt nàng với chồng. Cũng chính đây là nguồn cơn dẫn đến nỗi oan sâu nặng của nàng sau này.

Năm ấy, giặc Chiêm xâm lược nước ta, triều đình phải kêu gọi binh lính đi chiến đấu, mà Trương Sinh vì không học nên đã bị bắt đi lính. Buổi chia ly giữa Vũ Thị Thiết với Trương Sinh diễn ra một cách đầy nước mắt bởi sự lưu luyến, không muốn rời xa. Trương Sinh đã dặn dò nàng ở nhà phải chăm sóc, phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo, đảm đương việc nhà chu  toàn đợi chàng trở về.

Khi ấy, cả hai sẽ lại được đoàn tụ và cùng xây dựng một mái ấm hạnh phúc cho riêng mình. Dẫu rất buồn rầu, hơn ai hết nàng hiểu rõ sự nguy hiểm của chuyến đi này, và sự ác liệt của chiến tranh nào có buông tha ai bao giờ.

Nàng bày tỏ nguyện vọng của mình trong nước mắt, nàng chẳng cầu chồng mang áo gấm phong hầu trở về, chỉ mong rằng chồng nàng có thể bình an, mạnh khỏe mà quay về đoàn tụ với gia đình: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày trở về mang theo được hai chữ bình yên là đủ rồi…”

Thế rồi, Trương Sinh lên đường ra trận. Trong nhà, Vũ Thị Thiết vừa chăm lo cho mẹ già, lại nuôi nấng cho đứa con nhỏ vừa mới sinh sau khi chồng đi. Nhưng nàng chẳng hề than thở hay trách cứ, nàng chỉ yên lặng chăm lo ruộng vườn, chăm lo người thân. Chuyện gì nàng cũng hoàn thành một cách chu toàn, không cầu được công nhận, chỉ mong ngày chồng trở về.

Mẹ chồng nàng bị ốm nặng, nàng cũng không kêu than mà rời mẹ nửa bước. Nàng cố gắng chăm lo mẹ, động viên mẹ vượt qua bạo bệnh, đợi này chồng trở về. Biết mình không thể qua khỏi cơn bệnh này, mẹ chồng nàng đã nói nàng không cần lãng phí tiền bạc nữa, nhưng nàng vẫn một mực chăm sóc đủ đầy, đến mức mẹ chồng nàng phải hết lời khen ngợi nàng là một người tốt và sau này nàng sẽ được hạnh phúc vì những đức tính tốt đẹp của mình.

Một thời gian sau, mẹ chồng Vũ Thị Thiết mất. Nàng đã lo cho việc hậu sự một cách chu đáo thay cho chồng. Ngôi nhà nhỏ giờ chỉ còn có hai mẹ con. Vì thấm thía nỗi đau không có được sự che chở trọn vẹn của cha và mẹ, nên nàng luôn mong muốn con được hạnh phúc, lại càng không muốn con phải ghen tị với bạn vì có cả cha lẫn mẹ.

Vì thế, nàng đã nghĩ ra một cách, đó là chỉ vào bóng của mình trên tường và dối con rằng đó là ba của Đản. Nhưng nàng cũng chẳng thể ngờ được, lời nói dối để con vơi đi nỗi nhớ cha, cũng giúp mình nguôi ngoai nỗi nhớ chồng lại đẩy nàng vào bi kịch với oan khuất nhất đời.

Trương Sinh trở về, nhưng bé Đản lại không nhận ông là cha. Chàng ta liền nói với Đản rằng mình là cha của bé, nhưng Đản lại kể với Trương Sinh về một người cha tối nào cũng đến thăm mẹ con bé. Vốn tính đa nghi, cộng thêm lời trẻ thơ dại, Trương Sinh liền nổi giận đùng đùng nghi ngờ vợ hư hỏng. Trong cơn giận dữ, Trương Sinh đã lớn tiếng chửi mắng, kết tội và đánh đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà mặc cho nàng cố gắng giải thích và sự bao che của bà con làng xóm.

Vì quá đau khổ, nàng lại chẳng có cơ hội nào để giải thích, nên nàng đã đi ra sông Hoàng Giang trẫm mình tự vẫn để giải oan cho chính mình. Khi đó, nàng đã gặp được Linh Phi là vợ của đức Long Quân cứu giúp. Cuộc sống nàng lại bắt đầu với những ngày tháng sống cùng Linh Phi. Tưởng như nỗi đau năm nào đã nguôi ngoai, nào ngờ chỉ cần chạm nhẹ lại vào vết sẹo năm xưa, mọi ký ức lại hiện về.

Nàng tình cờ gặp được một người bà con của mình ở đây. Nhớ lại nỗi oan chưa được giải của mình, nàng liền nhờ người đó chuyển lời đến Trương Sinh. Về phần Trương Sinh, sau khi biết được nỗi oan của vợ, Trương Sinh liền lập đàn trên sông Hoàng Giang để giải oan cho sợ. Vũ Thị Thiết hiện về giữa sông. Cảm thấy nỗi oan đã được giải trừ, nàng cũng chẳng hề oán trách chồng mình, nhưng cũng chẳng thiết tha trở về với cuộc sống cũ nữa. Vì thế, nàng đã nói lời cuối với Trương Sinh rồi biến mất trong lòng sông.

Cái kết của câu chuyện này có lẽ không quá có hậu, nhưng nó lại là cách hợp lý nhất giúp cho câu chuyện thêm phần đáng tin và không mất đi kết quả hiện thực. Nhưng dẫu sao, Vũ Nương trong chuyện cũng đã được giải oan. Đó chính là niềm an ủi lớn nhất, mang tính nhân văn sâu sắc nhất. Đồng thời, câu chuyện cũng chính là lời cáo buộc tội ác của xã hội phong kiến bất công, trọng nam khinh nữ đã cướp đi quyền được hạnh phúc của những người phụ nữ đẹp người đẹp nết.

Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 2

          Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương xinh đẹp, nết na. Trương Sinh cùng làng, mến vì dung hạnh, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Biết tính chồng đa nghi, nàng giữ gìn khuôn phép không để xảy ra bất hòa.

Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải tòng quân đi đánh giặc Chiêm. Trong buổi tiễn đưa, Vũ Nương rót chén rượu đầy đưa cho chồng và nói chỉ mong ngày chồng trở về mang theo hai chữ bình yên.

Chồng ra lính được một tuần thì Vũ Nương sinh được đứa con trai đặt tên là Đản. Nửa năm đã trôi qua, bà mẹ chồng già yếu, buồn lo rồi đau ốm. Nàng hết lòng săn sóc cơm cháo thuốc thang, ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Bệnh mỗi ngày một nặng, mẹ chồng qua đời, nàng vô cùng thương xót, mọi việc ma chay tế lễ, nàng lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.

Qua năm sau giặc tan, Trương Sinh được trở lại nhà, con vừa học nói. Chàng bế con đi thăm mồ mẹ, đứa trẻ không chịu và quấy khóc. Nghe Sinh dỗ dành, con ngây thơ nói: "Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói. chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít". Nghe Sinh gạn hỏi, đứa bé lại nói: "Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả". Vốn có tính ghen, nghe con nói, Trương Sinh đinh ninh là vợ hư. Chàng la um lên cho hả giận. Vợ khóc lóc phân trần, chàng càng mắng nhiếc đánh đuổi đi. Trước cảnh bình rơi trâm gãy, Vũ Nương tắm gội chay  sạch, ra bến Hoàng Giang, ngửa mặt lên trời mà than, mong thần sông linh thiêng chứng giám. Nàng nguyền, nếu đoan trang, trinh bạch xin được làm ngọc Mị Nương, làm cỏ Ngu mĩ; nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con thì xin làm mồi cho tôm cá, làm cơm cho diều quạ...

Vũ Nương nhảy xuống sông tự tử. Chẳng bao lâu sau, một đêm vắng vẻ, ngồi dưới đèn khuya, bỗng đứa con chỉ chiếc bóng in lên vách mà nói rằng: "Cha Đản lại đến kia kìa'". Lúc bấy giờ Trương Sinh mới thấu nỗi oan của vợ.

Lại nói chuyện Phan Lang người cùng làng, làm đầu mục ở bến đò Hoàng Giang. Một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, có người phường chài đem biếu một con rùa mai xanh, Phan chợt nghĩ đến chuyện mộng bèn đem thả con rùa ấy. Chẳng bao lâu sau, dưới thời Khai Đại nhà Hồ, giặc Minh sang cướp nước ta. Nhiều người sợ hãi chạy trốn, thuyền bè bị đắm, chết đuối đầy sông, trong đó có Phan Lang, xác dạt vào động rùa ở hải đảo. Linh Phi là vợ vua Nam Hải chợt nhìn thấy, bèn nói: "Đây là vị ân nhân cứu sống ta thuở xưa". Linh Phi lấy khăn dấu mà lau, thuốc thần mà đổ, một chốc sau Phan Lang hồi sinh.

Linh Phi rước Phan Lang vào cung nước, mở tiệc lớn ở gác Triêu Dương để đãi ân nhân. Trong bữa tiệc có nhiều mĩ nhân, áo quần thướt tha, tóc búi xễ, trong đó có một người chỉ điểm qua son phấn rất giống Vũ Nương. Tiệc xong, người đàn bà ấy đến gặp Phan Lang. Vũ Nương nói lại tình cảnh mình được các nàng tiên trong cung nước thương tình mà cứu sống. Nghe Phan nhắc lại cố hương, mồ mả tiền nhân,... Vũ Nương khóc...

Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía, đựng 10 hạt minh châu, sai sứ Xích Hỗn đưa Phan ra khỏi nước. Vũ Nương cũng gửi Phan chiếc hoa vàng đưa về cho Trương Sinh và dặn lập đàn giải oan, đốt cây đèn thần trên bến Hoàng Giang thì nàng sẽ trở về.

Nhận được chiếc hoa vàng, Trương Sinh thốt lên: "Đây quả là vật dùng mà vợ tôi mang lúc ra đi...". Sinh làm đàn tràng, đốt cây đèn thần ba ngày đêm trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương đã hiện về, ngồi trên một chiếc kiệu hoa, theo sau có 50 chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông."Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa...", tiếng Vũ Nương vọng vào, bóng nàng loang loáng mờ dần rồi biến mất.

Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 3

          Ngày xửa, ngày xưa, ở vùng Nam Xương có Vũ Thị Thiết là người con gái tài sắc vẹn  toàn. Nàng kết duyên cùng Trương Sinh, con một gia đình khá giả.

Chiến tranh xảy ra, Trương Sinh phải sung vào lính. Chàng đành dứt áo chia tay với mẹ già, vợ trẻ để lên đường ra trận. Trong phút tiễn đưa, mẹ già gạt nước mắt dặn con hãy cẩn trọng giữ mình nơi hòn tên mũi đạn.

Trương Sinh đi được hơn một tuần thì Vũ Nương sinh ra đứa con bụ bẫm, khôi ngô. Có đứa bé, cảnh nhà đỡ hiu quạnh. Một mình Vũ Nương đảm đang gánh vác mọi chuyện lớn nhỏ trong nhà. Nàng siêng năng làm lụng, hết lòng chăm sóc mẹ già, dạy dỗ con nhỏ và đoan trang giữ gìn ý tứ, không để xảy ra điều tiếng gì. Mọi người trong vùng đều khen nàng là một người con dâu hiền thảo.

Ít lâu sau, vì quá thương nhớ con trai, mẹ chồng Vũ Nương lâm bệnh nặng qua đời. Vũ Nương lo cho bà mồ yên mả đẹp và thờ cúng bà chu đáo. Căn nhà vốn đã rộng nay như càng rộng thêm bởi chỉ còn có hai mẹ con Vũ Nương lủi thủi ra vào.

Đêm đêm, nàng thắp đèn cho sáng rồi ôm con vào lòng, chỉ bóng mình in trên vách mà nói đùa rằng: – Cha Đản về kìa! Đứa bé tin là thật. Năm sau, nạn giặc giã cũng được dẹp yên, Trương Sinh sống sót trở về quê. Biết tin mẹ đã mất, chàng bế con ra mộ mẹ thắp nhang. Đứa con quấy khóc, chàng dỗ dành: – Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi. Đứa con nhìn chàng đăm dăm rồi hỏi: – Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha trước đây chí nín thin thít.

Vốn sẵn tính đa nghi, Trương Sinh cho rằng vợ có tư tình với người đàn ông khác trong khi mình vắng nhà nên đùng đùng nổi giận, gọi Vũ Nương tra hỏi. Nàng thanh minh, giải thích thế nào Trương Sinh cùng không tin và trách mắng nàng thậm tệ. Vũ Nương vừa tủi thân vừa đau khổ tột cùng. Nàng thề trước đất trời, mong đất trời chứng giám cho tấm lòng trong  sạch của mình rồi nhảy xuống sông tự vẫn. Các tiên nữ thương xót, đưa nàng về Thủy cung chung sống với Linh Phi. Cuộc sống sung sướng, nhàn hạ ở đây không thể làm cho Vũ Nương nguôi nhớ chồng con.

Từ sau ngày vợ mất, Trương Sinh lâm vào cảnh gà trống nuôi con. Một đêm, chàng ôm con vào lòng, ngồi trước ngọn đèn hiu hắt. Bóng chàng in trên vách chập chờn lay động. Đứa con vui thích vỗ tay reo: – Cha Đản lại đến kia kìa! Trương Sinh chợt hiểu ra tất cả. Chàng vò đầu bứt tai than khóc tự trách mình sao quá nhẫn tâm, dẫn đến cái chết bi thương của người vợ hiền thục, đảm đang. Đêm ấy, hồn Vũ Nương hiện về báo mộng rằng chiều tối ngày mai, Trương Sinh hãy bế con ra bờ sông để vợ chồng, mẹ con gặp gỡ.

Trương Sinh làm theo đúng lời dặn của Vũ Nương. Chàng dõi mắt nhìn ra xa, chỉ thấy chiếc kiệu sơn son trên có Vũ Nương ngồi, xung quanh có rất nhiều tiên nữ cứ thấp thoáng ẩn hiện giữa dòng. Văng vẳng trong gió là tiếng nói quen thuộc, tha thiết của Vũ Nương: Thiếp xin chàng hãy cố gắng nuôi dạy cho con trai của chúng ta khôn lớn, trưởng thành. Thiếp luôn nhớ tới hai cha con nhưng không thể trở về cõi trần được nữa! Chuyện đã qua rồi, chàng đừng phiền muộn làm chi mà tổn hao sức khỏe! Chào chàng, thiếp đi đây!

Trương Sinh đau đớn như đứt từng khúc ruột. Chàng lấy tay áo lau nước mắt và bàng hoàng khi thấy tất cả đã biến mất, chỉ còn dòng sông lặng lẽ chảy về biển cả trong bóng chiều đang sẫm lại.

Nhân dân trong vùng lập đền thờ Vũ Thị Thiết ngay bên bờ sông để mọi người luôn nhớ đến nàng, lấy cái chết bi thảm của nàng làm bài học thiết thực, nhắc nhở rằng vợ chồng phải yêu thương, tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau thì mới có được cuộc sống hạnh phúc dài lâu.

Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 4

          Ngày xưa, trong dân gian đã lưu truyền một câu chuyện vô cùng cảm động về một người phụ nữ hiền hậu nết na nhưng lại phải chịu một nỗi oan “tai bay vạ gió” mà mình không hề gây ra, chỉ vì người chồng mang tính đa nghi, nhỏ nhen của mình. Đó là câu chuyện dân gian “Vợ chàng Trương”, nhưng trong câu chuyện dân gian này kết cục của Vũ Thị Thiết, vợ của chàng Trương vô cùng bi thảm, vì bị chồng hàm oan nên Vũ Thị Thiết đã gieo mình xuống dòng sông Hoàng Giang mà tự tử. Tiếc thương cho người phụ nữ nết na, bạc mệnh nhà văn Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ mười bốn đã mượn cốt truyện của câu chuyện cổ “Vợ chàng Trương”, chi tiết trong truyện về cơ bản là được nhà văn Nguyễn Dữ giữ nguyên nhưng nhà văn lại thể hiện được tinh thần nhân đạo của mình thông qua viết tiếp cái kết bi thảm của Vũ Thị Thiết.

Câu chuyện “Chuyện người con gái Nam Xương” của nhà văn Nguyễn Dữ kể về cuộc đời và số phận của một người con gái đức hạnh nhưng lại có cuộc đời đầy bi kịch Vũ Thị Thiết. Vũ Thị Thiết quê ở Nam Xương, sinh ra và lớn lên trong một gia đình làm nông nghèo, mẹ mất sớm, chỉ có hai cha con nương tựa vào nhau mà sống. Cuộc sống tuy có những khó khăn về vật chất nhưng hai cha con luôn sống vui vẻ, hạnh phúc bởi họ dành cho nhau tình cảm yêu thương chân thành. Vũ Thị Thiết là một người con có hiếu, luôn có ý thức phụng dưỡng cha. Cuộc sống có lẽ cứ bình lặng như vậy trôi qua nếu như Vũ Thị Thiết không đến tuổi lập gia đình.

Một ngày nọ có một chàng trai họ Trương, tên Sinh ở làng bên sang hỏi cưới Vũ Thị Thiết. Mặc dù nàng không muốn kết hôn vì không yên tâm để người cha già yếu sống một mình, nhưng trước lời khuyên răn của cha thì Vũ Thị Thiết đã đồng ý lấy Trương Sinh, theo lời cha nàng thì con gái lớn thì phải gả chồng, không thì sẽ phải chịu những điều tiếng khắt khe của xã hội. Hơn nữa, cha nàng có thể tự lo cho mình, nếu nàng lấy chồng thì cha nàng cũng sẽ cảm thấy hạnh phúc, nếu nàng vẫn cố chấp không chịu lấy thì chính là một đứa con bất hiếu, làm cho cha buồn phiền, bị bà con hàng xóm đàm tiếu, dị nghị.

Một tuần sau Vũ Thị Thiết đã trở thành vợ của Trương Sinh qua một lễ cưới nhỏ. Vì gia đình của nàng và Trương Sinh đều nghèo khó nên cũng chỉ làm mâm cơm đơn bạc mời bà con hàng xóm chung vui. Ngày về nhà chồng Vũ Thị Thiết đã khóc rất nhiều vì phải xa người cha thân yêu của mình, nhưng nàng cũng là một người sống có đạo lí, tình nghĩa, từ khi nàng chấp nhận lời cầu hôn của Trương Sinh thì nàng đã coi Trương Sinh là người chồng mà suốt đời mình sẽ yêu thương, gắn bó. Mẹ của chàng cũng chính thức trở thành mẹ của Vũ Thị Thiết, nàng sẽ chăm sóc, phụng dưỡng người mẹ chồng như chính người mẹ đẻ của mình.

Cuộc sống của vợ chồng Vũ Thị Thiết rất hạnh phúc, cuộc sống vẫn có những khó khăn nhưng vợ chồng đồng sức nên những khó khăn đều không đáng kể gì, đặc biệt là sự ra đời của bé Đản- con của hai người, cả Vũ Thị Thiết và Trương Sinh đều vô cùng hài lòng về cuộc sống của mình. Nhưng cuộc đời đâu phải cứ mãi phẳng lặng, bình yên như vậy, biến cố bỗng nhiên ập đến, làm cho gia đình nhỏ lâm vào tình cảnh chia li, cũng chính là nguồn cơn dẫn đến nỗi oan khiên sâu lặng của Vũ Thị Thiết sau này. Năm ấy, đất nước xảy ra nhiều cuộc chiến tranh vô nghĩa nhằm mục đích sát phạt, tranh giành đất đai, quyền lợi, Trương Sinh được lệnh phải lên đường đi lính, bổ sung lực lượng cho quân triều đình.

Là một người dân của đất nước Trương Sinh không thể không thực hiện trách nhiệm của mình. Nhưng chàng không đành lòng để vợ và người mẹ già của mình ở lại mà lên đường. Cuộc chia li của Vũ Thị Thiết và Trương Sinh bịn rịn, lưu luyến đầy nước mắt, Trương Sinh dặn dò Vũ Thị Thiết ở nhà chăm sóc, phụng dưỡng cho mẹ già, chăm lo cho gia đình đợi chàng chiến thắng trở về. Và khi ấy hai người sẽ cùng nhau xây dựng nên một mái nhà hạnh phúc của riêng mình. Vũ thị Thiết tuy rất buồn vì phải xa người chồng của mình thương yêu. Nàng biết được chuyến đi này sẽ vô cùng nguy hiểm, bởi sự ác liệt của chiến tranh nào có buông tha cho ai bao giờ.

Nàng không mong chồng có thể mang áo gấm phong hầu trở về, điều mà nàng mong ước giản đơn chỉ là người chồng có thể quay về bình an, mạnh khỏe. Trước lúc chia tay, Vũ Thị Thiết đã nói với Trương Sinh: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày trở về mang theo được hai chữ bình yên là đủ rồi…” Trương Sinh lên đường ra trận, Vũ Thị Thiết ở nhà chăm mẹ già, nuôi nấng con nhỏ. Một mình nàng vừa phải lo việc nhà cửa ruộng vườn vừa chăm lo cho hai người thân, một già một trẻ nhưng Vũ Thị Thiết đều hoàn thành một cách chu  toàn, chưa bao giờ kêu than dù chỉ một tiếng.

Nàng chăm sóc tận tình cho người mẹ chồng, lúc ốm đau bệnh tật nàng không rời mẹ nửa bước, dù trong nhà không còn tiền nhưng nàng vẫn cố gắng đi mượn của những người hàng xóm để lo tiền thuốc thang cho người mẹ bệnh tật. Biết được mình khó có thể qua khỏi cơn bạo bệnh, người mẹ chồng đã gọi Vũ Thị Thiết vào mà nói không cần lãng phí tiền bạc cho mình nữa, Vũ Thị Thiết đã hết lời động viên để người mẹ yên tâm, chính người mẹ chồng cũng đã từng hết lời khen ngợi Vũ Thị Thiết, nói nàng là một người tốt và sau này nàng sẽ được hưởng hạnh phúc vì những đức tính tốt đẹp của mình.

Không lâu sau, người mẹ chồng mất, Vũ thị Thiết lo việc hậu sự chu đáo, hoàn thành trách nhiệm của người con. Bây giờ ngôi nhà nhỏ của nàng chỉ còn lại hai mẹ con, nàng và con trai tên Đản. Vốn là người có học lại hiểu biết nên nàng cảm nhận thấm thía được nỗi bất hạnh của con, khi lớn lên không có được sự che chở trọn vẹn của cả cha và mẹ. Nàng luôn muốn con trai mình hạnh phúc, càng không muốn con trai ghen tị với bạn bè vì chúng có cả bố lẫn mẹ nên Vũ Thị Thiết đã nghĩ ra một cách, đó là chỉ vào chiếc bóng trên tường của mình, nói đó chính là ba của Đản. Vừa để con vơi đi nỗi nhớ cha nhưng cũng đồng thời làm cho mình vơi bớt nỗi nhớ nhung đối với người chồng. Nhưng, nàng cũng không biết được lời nói dối dường như vô hại này lại gây ra cho nàng đau đớn, oan khuất nhất đời.

Trương Sinh trở về, trong một lần dẫn con trai ra thăm mộ của mẹ, bé Đản ngây thơ hồn nhiên hỏi Trương Sinh “Chú là ai?”, Trương Sinh đã rất bất ngờ nhưng cũng kịp thời trả lời “Ta là cha của con”, nhưng bé Đản lại ngay lập tức phủ định “Chú không phải cha của con, cha của con ngày nào cũng đến vào buổi tối trò chuyện cùng với mẹ con Đản”. Nghe lời trẻ thơ, lại vốn tính đa nghi nên Trương Sinh đã nghi ngờ vợ hư hỏng, thất tiết. Trong cơn giận dữ Trương Sinh đã trở về nhà lớn tiếng chửi mắng, đánh đập, kết tội Vũ Thị Thiết mà không hề cho nàng một lần được trình bày, giải thích.

Vũ Thị Thiết vì quá đau khổ, oan ức lại không có cách nào có thể giải oan cho mình nên đã đi ra sông Hoàng Giang trầm mình xuống sông tự vẫn, nhưng nàng lại được Linh Phi, vợ của đức Long Quân cứu giúp. Ở đây nàng lại gặp được một người bà con của mình, nàng đã nhờ người đó chuyển lời đến Trương Sinh và có cuộc gặp gỡ cuối cùng với Trương Sinh. Còn về phần Trương Sinh, sau khi biết đã hiểu lầm và trách oan vợ thì đã quá muộn màng, nghe lời nhắn gửi của vợ, chàng lập đàn trên sông Hoàng Giang, Vũ Thị Thiết đã hiện về, nỗi oan được giải trừ, nàng cũng không oán trách gì chồng nhưng nàng cũng không thể trở về cuộc sống như trước đây nữa, nàng từ biệt Trương Sinh và biến mất trong lòng sông.

Cái kết của câu chuyện này không hẳn là có hậu nhưng đó lại là cách giải quyết hợp lí duy nhất, bởi nó vừa giúp cho Vũ Nương được giải oan, vừa mang tính nhân văn sâu sắc khi tố cáo xã hội phong kiến đã quá bất công đối với những người phụ nữ như Vũ Thị Thiết.

Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 5

          Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính tình thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp nên Trương Sinh, người cùng làng mới xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Cuộc hôn nhân không bình đẳng của hai người đã ít nhiều hé lộ cuộc sống của Vũ Nương sau này.

Về làm vợ Trương Sinh, biết chồng có tính đa nghi, hay ghen nên Vũ Nương luôn luôn giữ gìn khuôn phép, giữ đạo làm vợ nên cả hai vợ chồng chưa lúc nào bất hòa. Cuộc sum vầy của đôi vợ chồng son chưa được bao lâu thì chiến tranh nổ ra, triều đình bắt trai tráng trong làng đi đánh giặc Chiêm. Trương Sinh phải tham gia tòng quân đánh giặc. Ngày tiễn chồng ra trận, Vũ Nương tuy buồn khổ, đau đớn song cũng không ngăn cản chàng vì Trương Sinh phải thực hiện nghĩa vụ với đất nước và nàng cũng hiểu chí nam nhi mà Trương Sinh theo đuổi. Vũ Nương không mong Trương Sinh quay trở về trong vinh hoa, phú quý, chỉ mong khi chàng trở về sẽ mang theo được hai chữ bình yên. Những người tiễn Trương Sinh nghe lời Vũ Nương không ai cầm được nước mắt. Nàng còn đứng ở đó trông theo bóng của chồng mãi đến khi bóng Trương Sinh khuất hẳn mới quay trở về.

Lúc bấy giờ nàng đang có mang, Trương Sinh đi chưa được bao lâu thì Vũ Nương sinh ta một đứa con trai kháu khỉnh, đặt tên là Đản. Thoắt cái đã nửa năm Vũ Nương xa chồng nhưng nàng lúc nào cũng mong nhớ và chờ đợi tin của chàng. Người mẹ già cũng vì thương nhớ con trai mà sinh bệnh. Vũ Nương vừa phải chăm con, vừa phải lo cho mẹ già. Nàng chạy chữa thuốc thang, cũng bái thần phật và lấy lời khôn khéo khuyên lơn bà. Song bệnh tình mỗi ngày một nặng, bà không qua khỏi. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, bà đã trối lại với nàng rằng ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về mà không gắng ăn miếng cơm, miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống việc chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, như con đã chẳng phụ mẹ. Vũ Nương đã lo ma chay, tế lễ cho bà chu đáo như đối với cha mẹ đẻ.

Bà cụ mất, ở nhà chỉ còn hai mẹ con. Vũ Nương mỗi tối ôm con, thường hay đùa trỏ bóng của mình trên vách nhà và nói với bé Đản đó là cha của nó. Sở dĩ nàng nói thế phần vì để vơi đi nỗi nhớ chồng, phần vì đứa con khỏi tủi thân khi thiếu vắng bóng người cha trong nhà. Thế nhưng, cái bóng cũng chính là nguyên nhân tạo nên nỗi oan khiên của nàng. Một năm sau khi mẹ chồng mất, giặc buông giáo đầu hàng, Trương Sinh trở về mới hay tin mẹ đã mất. Chàng đau khổ, buồn bã. Ôm con trong lòng ra thăm mồ của mẹ nhưng đứa con quấy khóc không nghe. Trương Sinh dỗ dành con và nghe được câu nói của bé Đản khiến chàng nghi ngờ sự thủy chung của vợ "Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư?...Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả". Mối nghi ngờ trong lòng Trương Sinh ngày càng lớn và không có cách nào gỡ ra được. Chàng đã về nhà nặng lời nhiếc móc, trách mắng vợ. Mặc cho vợ hết lời giải thích, minh oan, họ hàng làng xóm bênh vực và biện minh cho nàng nhưng cũng chẳng ăn thua gì cả. Cuối cùng, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để chứng minh cho sự trong  sạch của mình. Nàng về nhà tắm gội sạch chay, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin thần chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng, dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ". Nói rồi nàng gieo mình xuống sông mà chết. Trương Sinh tuy giận nhưng thấy nàng tự vẫn cũng động lòng thương, thuê người tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy đâu cả. Trong một đêm không vắng vẻ, chàng ôm con dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con trỏ bóng chàng trên vách và bảo là cha mình. Bấy giờ Trương Sinh mới hiểu ra nỗi oan khuất của Vũ Nương nhưng tất cả đã quá muộn.

Lại nói về Vũ Nương, sau khi gieo mình xuống sông, được các nàng tiên trong cung nước thương mình vô tội nên đã rẽ một đường nước để nàng thoát chết và trở thành cung nữ của Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải. Ở dưới thủy cung, Vũ Nương gặp được Phan Lang, người cùng làng cũng là ân nhân cứu mạng của Linh Phi. Hai người đã trò chuyện với nhau, khi Linh Phi sai người rẽ nước đưa Phan Lang trở về, Vũ Nương đã gửi một cây hoa vàng và nhờ Phan Lang chuyển lời tới Trương Sinh lập đàn giải oan rồi nàng sẽ trở về. Phan Lang về nói lại với Trương Sinh, chàng không tin nhưng khi nhìn thấy chiếc hoa vàng của vợ mới tin đó là sự thật. Chàng bèn lập đàn giải oan ở bến sông Trường Giang. Quả nhiên, Vũ Nương có trở về. Nàng ngồi trên chiếc kiệu hoa đứng giữa dòng nước, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện. Trương Sinh có gọi nhưng nàng chỉ nói vọng vào ở giữa sông: "Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa". Rồi chốc lát, bóng nàng loang loáng, mờ nhạt dần rồi biến đi mất.

Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 6

          Tôi là Vũ Thị Thiết, tên thường gọi Vũ Nương quê ở Nam Xương. Tôi sinh ra trong một gia đình nghèo nhưng cha mẹ tôi luôn dạy bảo tôi chu đáo, ân cần nên mọi người thường khen ngợi tôi thuỳ mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp vì thế có rất nhiều người theo đuổi tôi. Trong đó có chàng Trương Sinh là con của một nhà hào phú xin đem trăm lạng vàng cưới tôi về làm vợ. Cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối này khiến tôi gặp rất nhiều khó khăn, bất hạnh.

Tôi biết chồng mình là người có bản tính hay ghen tuông nên tôi hết sức giữ gìn khuôn phép, vợ chồng trước nay chưa từng xảy ra bất hoà. Hai chúng tôi ăn ở êm ấm, lại chuẩn bị đón đứa con đầu lòng nên chúng tôi đều rất vui và hạnh phúc. Thế nhưng hạnh phúc chẳng được bao lâu, giặc Chiêm xâm lăng, chồng tôi học ít nên bị bắt đi lính, chúng tôi chia tay nhau từ đây. Buổi tiễn đưa chồng tôi lên đường, tôi rót chén rượu đầy bày tỏ nỗi lòng mong chàng bình yên trở về, thấu cảm cho những nỗi đau mà chồng phải chịu.

Thời gian thấm thoát trôi qua, ngày tôi chuyển dạ, sinh được một cậu con trai kháu khỉnh, đặt lên là Đản. Chính đứa trẻ này đã làm tôi vơi bớt nỗi nhớ chồng. Mẹ chồng tôi vì quá nhớ thương con trai nên đã sinh bệnh, chẳng ăn chẳng uống, tôi đã khuyên mẹ cố gắng mạnh khoẻ để chờ ngày Trương Sinh về. Nhưng rồi mẹ tôi cũng không qua khỏi, trước lúc lâm chung, bà căn dặn tôi:

"Sau này... phụ mẹ" (Trích câu văn trong SGK)

Tấm lòng của bà thật nhân hậu biết bao! Từ đó trong nhà chỉ còn tôi và bé Đản. Mỗi lúc nhớ chồng và muốn bù đắp cho con thiếu vắng hơi cha, mỗi tối tôi thường chỉ vào cái bóng của mình trên tường và bảo con "Cha Đản lại đến kìa". Thằng bé ngây thơ, tin là thật chơi đùa cùng chiếc bóng.

Ba năm trôi qua, chồng tôi bình an trở về. Vợ chồng chúng tôi gặp nhau vừa mừng vừa tủi, hạnh phúc vỡ oà. Biết tin mẹ mất, Trương Sinh bế bé Đản ra mộ thắp nhang cho bà. Nhưng khi chàng vừa trở về và nổi cơn thịnh nộ, chàng mắng tôi không tiếc lời, một mực nói tôi hư thân, mất nết không thuỷ chung. Tôi khóc lóc phân trần:

"Thiếp vốn con....như lời chàng nói".

Có lẽ tất cả những lời giải thích của tôi, chàng đều coi là gió thoảng, hàng xóm cũng sang bênh vực tôi nhưng chàng không nghe, tôi hỏi ai nói thì chàng giấu, tôi không thể thanh minh.

Lửa ghen tuông trong lòng chàng mỗi lúc một lớn, chàng mắng mỏ và chửi rủa tôi, đuổi tôi ra khỏi nhà. Giờ đây tôi không còn hạnh phúc, gia đình tan nát, danh dự bị bôi nhọ, tuyệt vọng, cùng đường tôi chỉ biết tìm tới cái chết. Tôi tắm rửa sạch, sau đó ra bến Trường Giang gieo mình tự vẫn.

Người ở hiền khắc sẽ gặp lành, đồng cảm với nỗi oan khuất của tôi, tôi được các nàng tiên cá đưa xuống thuỷ cung của Lương Phi, nơi đây thật là lộng lẫy. Trong một bữa tiệc, tôi gặp lại Phan Lang là người cùng làng. Nghe Phan Lang kể lại, Trương Sinh ngồi bế con bên ngọn đèn dầu, con chỉ bóng chàng nhận cha, chàng mới thấu hiểu nỗi oan bấy lâu tôi phải chịu. Cuộc đời sao lại trớ trêu với tôi như thế, chính đứa con tôi hết mực yêu thương đã gieo mầm hoạ, người chồng tôi hết lòng thuỷ chung lại đưa tôi tới bước đường cùng. Theo lời Phan Lang nói, từ lúc tôi ra đi, nhà tôi tan tác tiêu điều, tôi nghe mà không thể cầm được nước mắt. Mặc dù rất giận Trương Sinh nhưng tôi vẫn tìm về. Tôi nhờ Phan Lang mang chiếc hoa vàng cùng lời nhắn chàng lập đàn giải oan bên bến Trường Giang. Toi được Phan Lang đưa về trong cảnh võng lọng cờ hoa rực rỡ đầy sông nhưng tôi chỉ biết cảm tạ chàng đã giúp tôi minh oan mà không thể trở về trần gian.

Cuộc sống cõi trần thật bạc, mong rằng xã hội sẽ xóa bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ đã dung túng cho Trương Sinh có thói gia trưởng đẩy tôi vào oan khuất. Xã hội cần cải tiến xây dựng một cuộc sống bình đẳng, nam nữ bình quyền, tôi mong người đời lấy đó là bài học giữ gìn hạnh phúc bởi hạnh phúc chỉ được xây dựng trên cơ sở tin yêu, tôn trọng lẫn nhau.

Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 7

          Vũ Nương sống ở làng Nam Xương. Mặc dù không có học nhưng nàng được ba mẹ dạy dỗ rất tử tế vì vậy nàng rất hiểu chuyện và biết phép tắc

Đến tuổi thành gia lập thất có rất nhiều người đến hỏi cưới nàng vì nhan sắc xinh đẹp và dung hạnh tốt. Có một chàng trai cùng là tên là Trương Sinh đem tận 100 lạng vàng đến hỏi cưới nàng, và nàng đã đồng ý cùng chàng về cùng nâng khăn sửa túi cùng nhau. Nhưng hạnh phúc chưa được bao lâu thì đất nước xảy ra nạn giặc Chiêm vì không có học nên chàng cũng bị bắt đi lính. Từ lúc chàng đi một mình nàng chăm sóc cho người mẹ già yếu và cả đứa bé trong bụng mình thật tốt. Nhưng vì quá nhớ con nên bà đã ra đi, nàng rất đau buồn lo tan lễ cho bà thật long trọng. Được vài tháng thì nàng hạ sinh một bé trai kháu khỉnh đặt tên là Đản. Sau 3 năm chàng về hay tin mẹ mất chàng buồn lắm bế đứa con của mình ra thăm mộ mẹ. Tại đây đứa bé đã bảo chàng không phải cha nó và bảo cha nó không biết nói khiến chàng xin ghen; nổi trận lôi đình đuổi nàng ra khỏi nhà mặc dù nàng đã cố thanh minh. Được một lúc thì một người cùng làng vào báo tin nàng nhảy sông tự tử, chàng buồn lắm. Sai người vớt xác nàng nhưng không thấy. Một đêm trăng nọ chàng cùng con ngồi bên ngọn đèn dầu thì đứa con gọi tên cha Đản rồi chạy lại trỏ bóng chàng trên vách lúc này chàng mới nhận ra đã hiểu lầm vợ, nhưng chàng có hối hận cũng muộn rồi. Vài ngày sau có người tên Phan Lang đến bảo chàng lập đàn giải oan cho nàng thì nàng sẽ trở về nhưng chàng không tin cậu bèn đưa chiết hoa vàng ra thì chàng mới tin. Lập đàn giải oan cho nàng suốt 3 ngày thì cuối cùng nàng cũng trở về nói lời tạm biệt cuối cùng rồi biến mất khỏi trần gian

Trong cuộc sống chúng ta nên suy nghĩ trước khi hành động vì sự thiếu suy nghĩ của chúng ta sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến người khác thậm chí là gây ra cái chết cho họ.

Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 8

          Nhắc đến “Truyền kỳ mạn lục”, người ta không thể không nhắc đến “chuyện người con gái Nam Xương”, câu chuyện về một người vợ hiền, người con thảo, người mẹ tốt. Chồng đi xa, nàng không phong được ấn phong hầu, chỉ mong chàng bình an trở về, luôn một lòng chung thủy, “cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”. Vũ Nương còn là người con dâu thảo hiền, lo lắng thuốc thang đầy đủ khi bà ốm đau, khi bà mất cũng lo liệu thu xếp chu  toàn. Vậy mà, một hiểu lầm từ lời nói của con nhỏ đã khiến Trương Sinh- chồng nàng nổi tính hay ghen, cho rằng nàng không còn giữ được đức hạnh của mình, đánh đuổi nàng đi. Cái chết của Vũ Nương, dù cuối cùng được minh oan, cũng vẫn khiến người ta giữ trong lòng một phần day dứt. Có nên chăng nên để người con gái ấy cuối cùng được sống một cuộc sống hạnh phúc, xứng đáng với phẩm hạnh mà nàng đã dành cả cuộc đời mình để giữ gìn.

Sau hi nhận được chiếc hoa vàng của vợ mình từ tay Phan Lang, Trương Sinh đã lập một đàn giải oan ba ngày ba đêm cho nàng ở bến sông Hoàng Giang, rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa ở giữa dòng, theo sau có đến hơn năm mươi chiếc xe nữa, cờ tàn tán lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện. chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào:

- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể về lại nhân gian được nữa.

Nói rồi, mắt nàng ứa lệ nhìn con, nhìn chồng. Đứa trẻ nhìn thấy mẹ đằng xa, kêu khóc thảm thiết. Trương Sinh hận mình tính khí nóng nảy, đã khiến cơ sự đau đớn ngày hôm nay, ngẩng đầu lên trời mà khóc rằng:

- Hỡi trời cao có mắt, Vũ Nương nàng sống một đời toàn vẹn trọn nghĩa trọn tình, nay chỉ vì tính khí của Trương Sinh này mà phải hy sinh mạng sống của mình, mẹ con chia lìa đau thương, vợ chồng cách biệt phương trời, gia đình không biết còn có có ngày nào hạnh phúc? Trời xanh chiếu trọn tấm lòng người chồng này mà rủi lòng thương cho.

Linh Phi nghe tiếng chàng Trương Sinh cũng chảy dài hai dòng lệ, thấu được tâm can lòng dạ chàng nay đã thay đổi cũng mạo muội ngẩng đầu xin với trời cao cho mình một lần được giúp đỡ cho người con gái bất hạnh. Nói rồi, Linh Phi đưa tay lên trời mà vẫy mạnh ba cái, gió mạnh từ đâu bỗng thổi đến, không gian chung quanh bụi bay mù mịt. Rồi ngay sau đó cơn giông qua đi, người ta không còn thấy lọng hoa hay đức Linh Phi đâu nữa, chỉ thấy bên bến sông Hoàng Giang, có một gia đình nọ được đoàn tụ, gia đình của người con gái Nam Xương với tấm lòng cao đẹp, cuối cùng cũng có được một cuộc sống viên mãn.

Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 9

          Tôi tên là Vũ Nương, quê ở Nam Xương. Mọi người trong làng yêu mến, thường khen tôi nết na, thuỳ mị, xinh đẹp. Ai cũng cầu mong tôi sẽ lấy được một người chồng xứng đáng và được hạnh phúc. Tối đã gặp gỡ và trở thành vợ của Trương Sinh. Chàng hết mực yêu thương tôi nhưng cũng rất đa nghi, biết tính chồng như vậy nên tôi cố gắng cẩn thận từ lời ăn tiếng nói cho tới hành động đều giữ đúng khuôn phép, nên gia đình luôn được êm ấm.

Cuộc sống của chúng tôi cứ thế êm đềm trôi qua, cho tới một ngày chiến tranh xảy ra, chồng tôi phải lên đường ra trận. Buổi tiễn đưa chồng ra biên ải, lòng tôi nặng trĩu những lo âu, phiền muộn. Nghĩ tới cảnh chàng phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật,.. lòng tôi thương chàng vô cùng. Tôi chỉ mong chàng bình an trở về.

Ngày tháng cứ lặng lẽ trôi, trong lòng tôi chỉ có một nỗi nhớ về chàng đằng đẵng, thường trực trong lòng. Đến kì sinh nở, tôi sinh được một bé trai, đặt tên là Đản. Mẹ chồng tôi vì quá nhớ thương con và sinh bệnh. Dù tôi đã hết sức thuốc thang, động viên nhưng bệnh tình càng ngày càng trầm trọng, bà đã không kịp chờ con trai về phụng dưỡng. Tôi đã làm hết trách nhiệm của một người con dâu, lo ma chay chu tất cho mẹ.

Sau bao chờ đợi mòn mỏi, nhớ thương, cuối cùng Trương Sinh đã bình an trở về. Tôi vô cùng sung sướng và hạnh phúc, nhưng cuộc đời không ai đoán trước được điều gì, chàng về tới nhà, biết mẹ mình đã qua đời, bế con cùng ra mộ thăm mẹ, ngờ đâu lúc trở về chàng nổi giận đùng đùng, la mắng om sòm, cho rằng tôi đã phản bội chàng, không giữ tình yêu chung thuỷ với chàng. Tôi bàng hoàng và sửng sốt, tôi vừa khóc vừa giải thích: "Thiếp vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp chưa được bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mình giữ tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời, một mực nhớ thương và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin tưởng thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp". Nhưng dù tôi có nói bao nhiêu lời cũng không làm chàng thay đổi suy nghĩ. Hàng xóm thương tôi cũng bênh vực và nói đỡ giúp tôi nhưng cũng chẳng có kết quả gì. Chàng mắng nhiếc tôi thậm tệ và đánh đuổi tôi đi.

Tôi từng mong có một gia đình hạnh phúc với một người con ngoan, một người chồng thương yêu tôi. Nhưng giờ đây, tất cả đều tan biến, trâm gãy tình tan, tôi đâu còn mặt mũi sống trên đời. Nghĩ đoạn, tôi tắm rửa sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: "Con duyên phận hẩm hiu bị chồng ruồng bỏ. Nếu con giữ gìn trinh tiết mà bị oan thì khi thác xuống xin được làm Mị Nương hoặc cỏ Ngu Mĩ. nếu con phản bội chồng con thì chết đi xin làm mồi cho cá tôm, diều quạ và chịu để mọi người phỉ nhổ" sau đó gieo mình xuống dòng sông Trường Giang.

Thấu hiểu cho hoàn cảnh bị oan ức của tôi, thần linh đã cho các nàng tiên dưới thuỷ cung cứu vớt, cho tôi nương nhờ trong cung điện của Linh Phi. Sau đó tôi gặp Phan Lang-người cùng làng, nghe chàng kể gia cảnh chồng con tôi từ sau khi tôi ra đi nhà cửa, vườn tược hoang vu,..lòng tôi xót xa ai oán. Được biết chồng tôi đã tỏ rõ sự tình, và vẫn thương tôi, tôi bèn nhắn Phan Lang khi chàng trở về trần gian cầm theo một chiếc hoa vàng và báo rằng nếu còn nhớ tới chút tình xưa nghĩa cũ xin lập một đang giải oan ở bến sông, tôi sẽ về. Nghe lời dặn, Trương Sinh làm theo, tôi ngồi trên kiệu hoa về gặp chàng, tôi nghe tiếng chàng gọi mà lòng xót xa không tả. Nhưng giữa chúng tôi có một khoảng cách vô cùng lớn kẻ âm người dương không thể hàn gắn. Để bày tỏ lòng biết ơn, tôi đã nguyện ở lại với đức Linh phi, sau đó tôi tạ ơn chàng đã lập đàn giải oan cho tôi rồi quay về chốn thuỷ cung.

Kể lại Chuyện người con gái Nam Xương - mẫu 10

          Tôi tên là Vũ Thị Thiết, tên thường gọi là Vũ Nương. Theo lời mọi người nhận xét nhan sắc của tôi cũng thuộc hành mỹ nhân. Từ nhỏ tôi đã được cha mẹ dạy dỗ những lễ nghi, phép tắc, công dung ngôn hạnh. Đến tuổi lấy chồng, tối được gả vào nhà họ Trương. Chồng tôi tên là Trương Sinh, yêu chiều tôi hết mực, nhưng chàng lại hay ghen. Chính vì vậy tôi luôn giữ chừng mực. Lấy nhau chẳng bao lâu, đất nước lâm nguy, chồng tôi phải lên đường đi lính. Ngày tiễn chồng lên đường, tôi bịn rịn chẳng muốn chia xa, chẳng mong được chức quan hầu mà chỉ mong hai chữ bình yên.

Chồng đi xa, tôi ở nhà hoàn thành trách nhiệm của một người mẹ tốt, người con dâu hiếu thảo. Do tuổi già sức yếu và quá nhớ thương con trai, mẹ chồng tôi lâm bệnh nặng rồi qua đời. Từ đó trong nhà chỉ còn tôi và bé Đản. Thương con, muốn bù đắp cho con sự thiếu vắng hơi cha, mỗi tối tôi thường chỉ lên bóng mình trên tường và nói "Cha Đản lại đến rồi kìa". Tôi chẳng ngờ hành động đó của tôi vô tình trở thành nguyên nhân đẩy tôi tới cái chết sau này.

Thời gian thấm thoát trôi qua, chồng tôi bình an trở về, biết tin mẹ mất, chàng rất buồn. Một buổi nọ, chàng bế Đản ra mộ thắp hương cho mẹ. Đến khi về, chàng nổi cơn thịnh nộ, nói tôi thất tiết, không giữ gìn khuôn phép. Mặc dù tôi đã cố gắng giải thích nhưng với bản tính ghen tuông ăn sâu vào máu, chàng không tin và đuổi tôi ra khỏi nhà.

Danh dự bị bôi nhọ, hạnh phúc gia đình tan nát, tôi chỉ biết tìm tới cái chết ở bến Trường Giang. Thấu hiểu hoàn cảnh của tôi, Linh Phi đã ra tay cứu giúp, đưa tôi về thuỷ cung. Một ngày nọ, tôi gặp Phan Lang là người cùng làng và là ân nhân của Linh Phi. Sau khi nghe kể, tôi mới biết Trương Sinh bế con ngồi bên ngọn đèn dầu, thằng Đản chỉ vào cái bóng nhận cha, lúc đó chàng mới nhận ra đã nghi oan cho tôi. Chàng vô cùng hối hận. Phan Lang khuyên tôi trở về, nhưng vì để trả ân đức cho Linh Phi, tôi nhờ Phan Lang cầm theo chiếc hoa vàng cùng lời nhắn gửi tới chồng tôi, lập đàn giải oan cho tôi tại bến Trường Giang. Tôi trở về giữa dòng sông trên chiếc kiệu hoa, nói vọng vào bờ lời tạ từ chồng con rồi biến mất.

Câu chuyện của tôi là một câu chuyện buồn, dù quá khứ đã qua đi nhưng những người trong cuộc vẫn bị ám ảnh day dứt, nỗi nhớ chồng con vẫn không nguôi ngày nào.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học