10+ Kể lại truyện Làng (điểm cao)

Kể lại truyện Làng điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Kể lại truyện Làng (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Kể lại truyện Làng

1. Mở bài: Giới thiệu khái quát về câu chuyện

2. Thân bài

* Khái quát bối cảnh:

- Hai vợ chồng cùng ba đứa con đang trú tại nơi tản cư

- Buổi trưa trong giờ nghỉ ngơi lại nghĩ về làng

* Kể lại tâm trạng nhớ làng của ông Hai khi ở nơi tản cư:

- Nhớ lại bản thân hồi còn trẻ làm việc cùng anh em

- Đi đến phòng thông tin nghe đọc báo

- Cuộc nói chuyện với người dân tản cư mới đến

* Diễn biến tâm trạng của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc:

- Bất ngờ, đau đớn, tủi hổ

- Yêu làng bao nhiêu thì nay đau bấy nhiêu, xót xa cho những đứa con thơ

- Kiểm điểm từng người, không tin làng mình là Việt gian

* Tâm trạng sau khi nghe tin cải chính:

- Vui sướng, hân hoan, đường hoàng đi khoe Tây đốt nhà mình

- Niềm tự hào về ngôi làng, bảo vệ danh dự cho làng Chợ Dầu

3. Kết bài: Bày tỏ tình cảm với làng, với kháng chiến, với quê hương và đất nước

Quảng cáo

Kể lại truyện Làng - mẫu 1

          Trong những năm đói nghèo nàn ấy, xuất hiện bóng hình của một người nông dân ở làng Chợ Dầu ấy, đó là ông Hai. Ông Hai sống ở làng Chợ Dầu, là một người tự hào về làng, sống vui vẻ, yêu đời khi được làm việc với anh em trong làng.

Ông Hai ung dung, háo hức vui vẻ bước thong thả , thênh ngang giữa đường vắng. Cảm giác sung sướng, lan tỏa niềm vui ấy của ông đến mọi người trong làng, như khiến cho mọi người thêm phần nào đỡ mỏi mệt và phấn chấn hơn sau ngày làm việc mệt mỏi. Ông Hai tiếp tục dõi bước đến phòng tin để lấy tin tức cho mình. Sau đó, ông lại tiếp tục dạo bước trên đường vui vẻ ,...

Lúc ông Hai ở quán nước ngồi nghỉ chân, ông bỗng nghe được tin khủng bố tinh thần ông từ một người đàn bà đang ẵm con. Người đàn bà ẵm con nói " Cả làng Chợ Dầu chúng nó theo Tây phản cách mạng", cong môi đỏng đảnh và tức giận nói . Lúc mới nghe tin, ông bàng hoàng, sững sờ, cổ nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê tê rân rân, cảm giác lúc đó thật xấu hổ và thất vọng. Thật sự là ông ko thể tin được cái tin cực sốc này, vì ông là người yêu làng, tự hào về làng nhưng bây giờ thành ra thế này, thực sự rất buồn và quá xấu hổ. Trên đường về nỗi xấu hổ xâm chiếm ông, ông chỉ biết cắm mặt mà đi, ai hỏi cũng không trả lời.

Quảng cáo

Khi về đến nhà, tủi hổ, nhục nhã của ông dâng trào đến tột độ. Ông bâng khuâng suy nghĩ nội tâm đấu tranh nhau dai dẳng giữa tình yêu thương làng và sự thật đang được phơi bày. Ngôi làng mà ông đã gắn bó như người thân ruột thịt, và sự thật là làng đã theo giặc, khiến trái tim ông như vỡ tan làm đôi. Ông tâm sự đôi chút với thằng út, kể hết những điều trong lòng ra làm ông cảm thấy nhẹ nhõm hơn được phần nào.

Ba bốn hôm sau, ông Hai không dám bước chân ra khỏi nhà, chỉ quanh quẩn, nghe ngóng động tĩnh bên ngoài. Cảm thấy chột dạ khi thấy một đám đông, nghe tiếng Tây, Việt gian là ông ngồi ủ rũ ở một góc nhà, nín thít. Nỗi ám ảnh nặng nề đó đã biến thành sự sợ hãi thường trực trong lòng ông.

Khi nghe được tin làng cải chính. Ông Hai như một người khác, gương mặt ông tươi vui rạng rỡ, miệng bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung đỏ, nhấp nháy. Ông bật dậy, lật đật đi khoe với mọi người. Vui vẻ đi khoe với mọi người " Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn". Ông khẳng định với mọi người rằng " cái tin chợ Dầu đi theo Tây là hoàn toàn sai mục đích cả".

Quảng cáo

Chắc thật là thế, số phận ông Hai khắc nghiệt. Ông Hai là người có tình yêu nước rộng lớn, bao trùm lên tình cảm với làng quê. Là một số phận hẩm hiu giữa dòng đời chiến tranh vất vả. Cho ông nhiều thứ cảm xúc không thể nói nên lời, từ xấu hổ, sợ hãi, không cảm xúc đến vui mừng khôn xiết khi biết tin làng không đổi thay,....

Kể lại truyện Làng - mẫu 2

          Những năm kháng chiến chúng ta không ít lần chứng kiến cảnh những người dân phải đi tản cư. Trong đó cũng có một câu chuyện tản cư mà tôi muốn kể cho mọi người.

Ở nơi tản cư của tôi, tôi có gặp ông Hai một người dân của làng Chợ Dầu. Ông là người hiền lành, chất phác. Ông rất yêu làng của mình, đi đâu ông cũng kể về làng Chợ Dầu của mình, ngôi làng đã chiến đấu kiên cường như nào. Nếu không phải đi tản cư thì ông cũng không bao giờ bỏ làng của mình đi.

Mỗi ngày ông đều ngồi nói chuyện cùng những người đến nơi tản cư về những tin chiến thắng của ta, những thông tin mới nhất về cuộc kháng chiến của nhân dân ta.

Nhưng rồi một hôm ông nghe được tin dữ, một thông tin về làng chợ Dầu khiến ông chết lặng, người ta nói là làng chợ Dầu theo giặc. Ông không tin những thông tin đó là sự thật. Ông lặng người đi một lúc, ông không nói gì, khi thấy mọi người nói nhiều về nó ông không biết đối mặt như nào nên đi về nhà.

Và sau bao nhiêu ngày ông không bước chân ra khỏi nhà vì sợ mọi người chỉ trỏ nói về mình là người làng Chợ Dầu thì giặc. Thì hôm nay, thông tin cải chính đã được truyền đến, nói rằng không phải làng chợ Dầu theo giặc, người vui sướng lúc này không ai hết chắc chắn là ông Hai. Ông lại một lần nữa tin yêu, nhớ về ngôi làng thân thuộc của mình.

Kể lại truyện Làng - mẫu 3

          Tôi tên Hai, người ta gọi tôi là ông Hai. Cũng như bao người tản cư đang sống ở đây, tôi cũng rất nhớ làng, nhớ quê hương và chỉ mong cho kháng chiến nhanh đi tới thắng lợi.

Hôm nay tôi ra bở ruộng vạc đất để sắp tới trồng sắn. Sức thì có nhưng làm một mình rất mệt, về đến nhà nằm trên giường tôi lại nhớ về hồi còn ở làng Chợ Dầu, ở đó tôi có các anh em cùng nhau xẻ hào, khuân đá, đào đường, tôi nhớ anh em và nhớ làng quá. Tôi có vợ và ba đứa con, chờ cho đứa lớn về tôi dặn nó trông em rồi nhanh chân lên phòng thông tin nghe đọc báo. Tôi vờ đứng xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe, tôi biết chữ nhưng chữ in khó đọc quá. Báo hôm nay toàn tin hay, tôi nghe chẳng sót một câu nào. Trên đường về tôi đi qua phố huyện cũ, hôm nay lại có tốp người tản cư mới lên, họ ở Gia Lâm. Đang ngồi nói chuyện với họ rôm rả tự nhiên có người đàn bà nói giặc rút từ Bắc Ninh qua Chợ Dầu khủng bố. Nghe đến cái làng Chợ Dầu tôi quay phắt lại hỏi mụ ta tình hình giết giặc thế nào. Như sét đánh ngang tai, mụ ta nói cả làng Chợ Dầu là Việt gian theo giặc.

Lúc đó tôi nghẹn ắng cổ, da mặt tê rân rân, không thể tin vào chuyện đó, mụ còn kể thằng chánh Bệu đưa vợ con lên với giặc thì tôi không còn gì để nói nữa đành đứng dậy ra về. Tôi về nhà, rít lên trong đau đớn, tủi nhục, cái làng của mình giờ lại thành làng Việt gian, nhục nhã nào bằng, cả cái nước này người ta ghê tởm, thù hằn và căm ghét giống bán nước. Rồi đây sẽ sống ra sao, bị đuổi đi khỏi nơi này thì biết đi đâu mà sống. Kể từ hôm ấy tôi chỉ dám ở trong nhà, ra ngoài chỉ sợ nghe thấy lời người ta bàn tán, xỉa xói, chửi bới về làng. Tôi quyết dù cho không có chỗ mà đi cũng nhất định không về lại cái làng theo giặc ấy nữa, làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù. Rất may, cái tin làng tôi theo giặc chỉ là tin sai sự mục đích, chính ông chủ tịch làng đã lên trên nơi tản cư cải chính thông tin. Họ báo nhà tôi bị Tây đốt nhẵn mà tôi vui sướng khôn xiết, thà cho Tây đốt hết làng còn hơn làng mang tiếng Việt gian.

Suốt mấy ngày qua tôi khổ sở, đau đớn và dằn vặt cuối cùng đã qua, tôi càng thêm yêu làng, tự hào về người con Chợ Dầu.

Kể lại truyện Làng - mẫu 4

          Làng Chợ Dầu nơi tôi sinh ra và lớn lên nay đã không còn nữa, bị Tây đốt hết rồi. Thế nhưng tôi không buồn, ngược lại còn vui và đi khoe với tất cả mọi người ở nơi tản cư.

Suốt buổi sáng tôi hì hục vỡ đất ngoài bờ ruộng chuẩn bị trồng ít sắn cho những tháng đói năm tới. Làm một mình tôi phải cố đến mỏi nhừ đôi vai, lại nhớ hồi còn ở làng tôi làm việc có anh có em vừa vui lại sung sức chẳng biết mệt. Làm sao tôi hết nhớ làng được, ngày nào tôi cũng phải đi bộ lên huyện đến phòng thông tin nghe người ta đọc báo để biết tin về làng của mình. Hôm ấy khi ở phòng thông tin về, tôi ghé qua lối huyện cũ thấy có tốp người tản cư mới đến, tôi ra đó hỏi chuyện. Họ là người từ Gia Lâm lên đây, thế rồi có một người đàn bà báo tin giặc nó khủng bố vào làng Chợ Dầu của tôi.

Nghe tin dữ, tôi như chết lặng đi, chưa kịp trấn tĩnh thì chính từ miệng người đàn bà đó nói cả làng tôi là Việt gian đi theo Tây. Khi ấy cổ họng tôi nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, lặng đi tưởng như không thở nổi. Tôi hỏi mụ liệu chuyện đó có thật không, ai ngờ mụ còn chỉ đích danh chánh Bệu thì tôi chẳng còn biết nói gì đành đứng dậy đi về. Trên đường về tôi chỉ biết cúi gằm mặt mà đi, tôi cảm thấy nhục nhã, đau đớn, cái làng của tôi sao lại bán nước theo giặc như thế. Về đến nhà, nhìn đàn con thơ tôi càng thương, nghĩ chúng là trẻ con làng Việt gian mà xót xa. Tôi suy nghĩ đến nát óc vẫn không thể hiểu nổi tại sao dân làng lại theo Việt gian cho được, ai cũng là người có tinh thần. Cả ngày hôm đó cho đến mấy ngày hôm sau tôi vẫn không thể thoát ra khỏi cái tin ấy, chỉ biết ngồi im trong nhà nín thít, mặc cho mụ chủ nhà cứ xỉa xói tôi cũng mặc kệ, cùng lắm là nhà tôi bị đuổi đi khỏi nơi này. Có lúc tôi ôm thằng con út vào lòng thủ thỉ với nó cho đỡ buồn, làng thì yêu thật nhưng làng theo giặc thì phải thù, tôi ủng hộ và tin tưởng vào Cách mạng, vào Bác Hồ. Thế rồi có anh bạn cùng làng lên báo tin chủ tịch làng đã lên tận nơi báo tin cải chính. Ra láo hết, toàn là sai sự mục đích cả. Tây nó còn đốt cháy hết nhà tôi, đốt cả làng, làm gì có chuyện làng tôi theo Tây.

Tôi sung sướng vỡ òa, minh oan cho làng cũng là minh oan cho tôi, từ giây phút ấy tôi có thể tự hào về làng của mình, đem tin đó rao khắp nhà trên xóm dưới, cho mọi người biết làng tôi đã anh dũng chống trả bọn Tây ra sao.

Kể lại truyện Làng - mẫu 5

          Sáng ngày hôm nay vẫn như mọi ngày, tôi nhâm nhi tách trà mới pha, đọc vài trang báo của ngày mới, ngẫm nghĩ lại thời tuổi trẻ sôi nổi cùng xóm làng của mình, những hồi ức đẹp đẽ nhất ẩn sâu trong tâm trí…

Trưa hôm ấy tôi ở nhà một mình. Vợ con đi bán buôn cả, nên tôi đành ra bờ suối dốc sức mà vỡ một vạt đất, dự sẽ dành trồng vài trăm gốc sắn, sang năm mùa đói vẫn có cái mà ăn. Làm sáng giờ chân tay đã rã rời, nằm vật xuống tấm nệm êm ái, tôi lại suy nghĩ vẩn vơ. Nhung nhớ lắm cái ngày còn sống ở làng, cùng anh em đào đường, khuân đá… Tôi nhớ lắm cái làng Chợ Dầu này, là nhớ tha thiết.

Kiên nhẫn chờ đến khi cái lớn về, tôi vội nhắn nhủ nó vài câu chăm nom nhà cửa đã vội chạy đi, như mọi hôm, tôi đi nghe lỏm thông tin từ người khác. Dọc đường cũng có vài người níu tôi lại hỏi thăm, nói vài câu bông đùa khiêu khích, tôi vội chạy đi. Nghe lỏm hả? Nói ra thì cũng chẳng có gì hay ho lắm đâu, thực làm tôi khổ tâm hết sức ấy chứ. Tôi cũng từng học một khóa bình dân học vụ rồi, nhưng vẫn là không thể tự mình đọc nắm nội dung được, đành ngồi đó vờ đọc mà nghe lỏm người khác đọc. Ghét nhất là thứ người cậy ta đây biết lắm chữ, không đọc ra tiếng cho người khác nghe nhờ mấy. Hôm nay hà cớ chi lại may thế, vớ được anh dân quân đọc to phết, tôi nghe được bao nhiêu là thông tin bổ ích ấy chớ.

Tôi háo hức ra khỏi phòng thông tin, lại dặn vợ vài điều, ghé quán làm vài điếu thuốc lào mà thong thả uống chè thưởng gió. Rồi bỗng nhiên nhìn thấy vài người trông không giống dân nơi này, mở miệng, tôi thắc mắc, hỏi han.

Biết được họ ở Gia Lâm lên, còn biết giặc vừa nổ súng từ Bắc Ninh đến Chợ Dầu, như thường lệ, tâm trạng lân lân, tôi lại chép miệng ý khoe mẽ: “ Thế ở Chợ Dầu ta giết được bao nhiêu thằng hở bác ? “. Ngờ đâu câu trả lời lại như mũi giáo gắm thẳng vào nơi sâu tối nhất tâm trí tôi: “ Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa! “. Là tôi nghe lầm thôi mà phải không ? Không thể nào như vậy được. Khăng khăng ý niệm đó, tôi gặng hỏi lại. Câu trả lời lại như gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt yêu cầu tôi thức tỉnh, run run tôi đành vờ đứng dậy than to trời nắng nóng, chạy vội về nhà.

Về đến nhà vẫn không khỏi nghe được những lời cay nghiệt của làng xóm, tôi thương thầm lũ trẻ nhà mình. Chúng là trẻ con của làng Việt gian rồi…

Chiều hôm ấy bà Hai về cũng có vẻ khác thường ngày, làm cho căn nhà bỗng chốc trở nên yên ắng, lạnh lẽo. bọn trẻ cũng im thin thít, không dám đùa giỡn như mọi hôm. Nghĩ lại thì cũng không đúng lắm vì ai trong làng cũng là những người yêu nước thề chống giặc mà. Hơn nữa ai đi bịa chuyện làm gì. Rồi một hồi tôi lại nghĩ đến tương lai của làng Chợ Dầu này, liệu có ai chịu buôn bán với làng Việt gian chứ?

Mấy ngày sau đó tôi đều giam mình trong nhà, tự thân xấu hổ, tủi nhục. Tôi tâm sự cùng con giải bày nỗi lòng. Cuối cùng, tôi cũng quyết định không về làng nữa. “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Tôi quyết một lòng theo kháng chiến, theo cụ Hồ, một lòng với đất nước. Mình không làm được gì tốt đẹp cho đất nước thì cũng đừng làm chuyện gì tồn hại.

Tôi ôm nỗi lòng suy nghĩ thâu đêm, càng nghĩ càng thấy tủi nhục và căm phẫn. Dù quyết ủng hộ cụ Hồ, Ủng hộ kháng chiến nhưng giờ ai cũng ghét người làng chợ Dầu thì biết phải đi đâu. Trong lúc tột cùng bế tắc thì một buổi sáng sớm, ông chủ tịch xã gọi tôi lên báo tin. Thì ra tất cả đều láo cả, tất cả là lừa dối, là hành động phá hoại lòng tin của kẻ thù. Làng Chợ Dầu không chỉ không phải Việt gian mà còn tích cực tham gia kháng chiến chống giặc cứu nước, tôi như một lần nữa được sống lại. Tôi vô cùng mừng rỡ hăm hở đi đính chính lại, tiếp tục vinh quang mà nói về cái làng mà tôi yêu quý nhất. Cho đến nay tôi vẫn duy trì thói quen đó, như cách tôi kể cho bạn nghe về câu chuyện của mình trong ngày hôm nay.

Kể lại truyện Làng - mẫu 6

          Ôi cái làng Dầu của tôi! Vẫn cái phong vị ngọt ngào của lúa non đồng nội. Vẫn con đường gạch đá xanh rơn. Bầu trời cao thẳm, rộng bao la, vương chút nắng xuống mái đình cổ kính. Tôi đã yêu và yêu biết nhường nào cái mảnh đất này, nơi tôi sinh ra và lớn lên. Bọn giặc đáng khinh kia đã tàn nơi đây. Làng Dầu không còn như ngày tôi phải rời làng đi tản cư nữa. Nhưng giờ trở lại, lòng tôi vẫn thế, vẫn vẹn nguyên không hề thay đổi. Trong tôi có cái gì nao nao rất lạ. Một cảm giác nhớ nhớ, xen một chút thương, pha đôi sự tự hào. Tôi như vỡ òa trong niềm hạnh phúc. Hạnh phúc vì thực sự cái đau khổ của một ngày xa xôi kia chỉ còn là hồi ức, hồi ức không đẹp nhưng lại làm cho con người ta nhớ mãi chẳng thể quên.

Đó là một ngày nắng. Cũng cách đây mấy năm rồi. Và tôi thì cũng không còn nhớ rõ cho lắm.

Trưa ấy, trời nắng ghê lắm. Nắng rọi xuống mặt sân sáng lóa. Nắng như muốn thiêu rụi cả con người. Có mấy tiếng gà trưa cất lên eo éo. Tiếng lũ ve thì ngân mãi không thôi, não lòng. Xong việc, tôi có cả một khoảng thời gian mà nằm nghĩ vẩn vơ. Và thế là tôi nhớ về cái làng Dầu của tôi, nhớ ghê gớm.

Tôi ngóng đứa con gái lớn từng lúc một. Mong nó về nhanh nhanh để trông nhà trông cửa, để tôi còn được làm cái việc mà tôi vẫn làm. Một lúc sau, nó về. Tôi dặn dò con vài câu rồi bước vội ra ngoài. Đường vắng hẳn người qua lại. Trời lồng lộng gió nhưng vẫn không đủ để thổi đi cái nắng nóng của mùa hè. Nắng thế này thì bỏ mẹ chúng nó. Tôi nghĩ rồi nói lớn. Có người đi ngang qua, bỡ ngỡ hỏi lại:

- Chúng nó nào?

- Tây ấy chứ còn chúng nó nào nữa. Ngồi vị trí giờ bằng ngồi tù.

Nói rồi tôi bước thẳng. Cũng như thường lệ, tôi ghé vào trạm thông tin nghe ngóng tình hình chiến sự. Biết bao là tin hay. Ruột gan tôi cứ như múa cả lên. Vui quá! Nhưng dường như hạnh phúc của con người thật là bé nhỏ. Ngờ đâu cái vui vẻ ấy chỉ là một ngày lặng gió trước khi giông tố nổi lên. Bước ra khỏi phòng thông tin, tôi rẽ vào dặn vợ vài việc rồi theo lối huyện cũ mà đi. Tôi tạt qua quán nước ngồi. Ở đây, những tốp người tản cư dưới xuôi lên đứng ngồi lố nhố. Nghe một người đàn bà nói bọn Tây nó vào làng Chợ Dầu, nó khủng bố, tôi lo lắng, quay phắt lại lắp bắp hỏi:

- Nó... Nó vào làng Dầu hở bác? Thế ta giết được bao nhiêu thằng?

- Có giết được thằng nào đâu. Cả làng chúng nó Việt gian theo Tây còn giết gì nữa!

Giọng người đàn bà the thé, đầy mùi căm giận. Nó như gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt tôi. Tôi bàng hoàng. Cổ họng nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, tưởng như đến không thở được. Khóe mắt cứ giật giật, các dây thần kinh như tê liệt. Một lúc lâu sau, tôi mới rặn è è, nuốt cái gì vương vướng ở cổ, hỏi lại, giọng lạc hẳn đi:

- Liệu có thật không hở bác? Hay lại chỉ...

- Thì chúng tôi vừa ở dưới đấy lên đây mà lại...

Tôi chưa dứt lời thì người ta đã nói. Dứt khoát. Chắc như đinh đóng cột. Tôi đờ người. Hai tai ù ù. Chẳng còn nghe thấy gì cả. Giọng người kia như lẫn vào trong gió. Tôi trả tiền nước, lảo đảo đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng:

- Hà, nắng gớm, về nào...

Tôi nói với mình mà như chẳng nói với ai. Tôi tự trấn an mình. Lảng ra một chỗ rồi bước hẳn, không dám quay đầu lại nhìn. Tôi cúi gằm mặt xuống mà đi, như mình vừa làm điều gì đó tội lỗi lắm. Về đến nhà, tôi nằm vật ra giường. Tay chân như nhũn hẳn ra, không còn sức. Tôi thở dốc. Mấy đứa nhỏ len lét đưa nhau ra đầu nhà chơi sậm chơi sụi với nhau.

Nhìn lũ con, chẳng hiểu sao nước mắt tôi cứ dàn ra. Mắt mờ đi, nhạt nhòa. Mấy đứa nhở... Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu... Tôi nắm chặt hai tay, móng đâm vào da thịt, đau nhói. Tôi rít lên như một con thú bị thương, đau đớn đến tột cùng:

- Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này.

Tôi bỗng ngừng lại, ngờ ngợ. Tôi nhớ lại từng người. Họ toàn những người có tinh thần cả mà. Họ quyết không chịu đi để ở lại giữ làng, định bụng một phen sống mái với lũ chúng nó. Có đời nào họ chịu nhục nhã mà đi làm cái điều kinh khủng ấy!... Nhưng không! Không có lửa thì làm sao có khói? Ai người ta đi đặt điều vu oan cho mà làm gì? Chao ôi! Cực nhục chưa? Cả làng Việt gian! Rồi đây biết sống ra sao? Ai người ta chứa? Ai người ta buôn bán mấy?... Tôi cứ bần thần nghĩ ngợi. Mọi thứ rối tung lên, như tơ vò, một mớ bòng bong. Gỡ thế nào cũng không ra được. Thôi thì cắt đi cho nhẹ nợ. Bụng bảo dạ, tôi cố nhét cho sâu cái chuyện đó vào sâu trong bộ não. Nhưng dường như vợ tôi cũng biết chuyện đó rồi. Chiều về, bà ấy uể oải, cái mặt nặng như đeo chì. Mãi khuya, bà ấy mới dám lôi chuyện ấy ra. Vừa nói, hỏa khí trong tôi đã bùng lên. Thế là im bặt, nhẫn nhục.

Đêm xuống yên ắng đến lạ. Đêm đen như mực, như chỉ trực đợi tôi nhắm mắt là sẽ ôm trọn tâm hồn tôi. Tôi vẫn trằn trọc không sao ngủ được. Hết trở mình bên này lại trở mình bên kia, thở dài. Chợt lặng hẳn đi, tôi nghe có tiếng léo xéo ở gian trên. Tiếng mụ chủ... Mụ nói cái gì vậy? Mụ nói cái gì mà lào xào thế? Trống ngực tôi đập thình thịch. Nín thở, ruột gan như sôi lên, tôi lắng tai nghe ra bên ngoài...

Từ ngày hôm ấy, tôi chỉ ru rú một góc nhà, đến cả nhà bác Thứ cũng không dám sang. Tủi hổ lắm! Tôi còn mặt mũi nào mà nhìn người ta nữa?... Ruột gan tôi lúc nào cũng như lửa đốt. Cứ một đám đông túm lại tôi cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa cũng nơm nớp lo sợ, thoáng nghe thấy mấy tiếng Tây, Việt gian... là lại chột dạ. Lủi thủi trong nhà, nin thin thít. Thôi lại chuyện ấy rồi! Các cụ đã nói "Ghét của nào trời trao của ấy". Đúng như những gì tôi lo sợ, mụ chủ đã đến, ý tứ đuổi khéo chúng tôi. Phải rồi! Ai người ta dại mà đi chứa lũ bán nước cơ chứ? Tất cả đang quay lưng lại với tôi. Thật đáng sợ! Thật là tuyệt đường sống! Biết đem nhau đi đâu bây giờ? Biết đâu người ta chứa gia đình tôi? Cứ nghĩ, nghĩ và nghĩ mãi. Những ý nghĩ đen tối, ghê rợn cứ theo đó mà len lỏi vào tâm chí tôi. Từng bước, từng bước một, chúng thống lĩnh suy nghĩ của tôi... Hay là quay về làng?...

Nước mắt tôi cứ dàn ra. Mặn chát. Về làng ư? Không... Không... Về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ cụ Hồ. Về làng đồng nghĩa với việc chịu quay lại làm nô lệ cho thằng Tây. Không thể được! Làng thì yêu. Yêu thật! Nhưng làng theo Tây mất rồi. Làng đã phản bội lại ta thì phải thù.

Tôi bế thằng út, xoa đầu nó, hỏi khẽ:

- Húc kia! Thầy hỏi con nhé, con là con ai?

- Là con thầy mấy lị con u.

- Thế nhà con ở đâu ?

- Nhà ta ở làng Chợ Dầu.

- Thế con có thích về làng mình không?

Thằng bé cúi mặt, vân vê gấu áo như suy nghĩ cái gì đó. Nó nép đầu vào ngục tôi, khẽ trả lời:

- Có.

Tiếng nói khẽ khàng. Như tiếng lòng của chính bản thân tôi. Sao tôi vẫn cứ yêu cái làng ấy đến thế ? Tôi lại hỏi:

- Thế con ủng hộ ai?

- Con ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!

Mắt thằng bé mở to hết cỡ. Đôi mắt long lanh ấy ánh lên một niềm vui bất tận. Thằng bé trả lời dứt khoát. Nước mắt tôi lại trào ra, ấm áp.

- Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.

Tôi thủ thỉ với thằng bé. Tôi khắc sâu vào lòng thằng bé mà cũng như tự nhủ với lòng mình, tự minh oan cho chính mình. Cái lòng bố con tôi như thế đấy, có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.

Cứ như vậy cho đến ngày hôm ấy. Tôi nhận được tin cải chính. Như trút được gánh nặng trong lòng, tôi mua quà cho lũ trẻ. Rồi lật đật đi khoe với hàng xóm láng giềng. Phải! Phải! Phải cho mọi người cùng biết cái tin ấy chứ. Tay chân tôi cứ múa hết cả lên. Đi đến đâu tôi cũng hô thật to:

- Tây nó đốt làng tôi rồi. Nhà tôi bây giờ chỉ còn lại một đống tro đen sì. Ông chủ tịch làng tôi vừa lên cải chính, cải chính cái tin làng Chợ Dầu chúng tôi Việt gian theo giặc ấy mà. Ra láo! Láo hết, chẳng có gì sất. Toàn sai sự mục đích cả!

Cái nhà cháy ấy là minh chứng cho việc làng tôi không theo giặc. Tôi hô hào như để trút bỏ những phiền muộn vừa qua. Đã thật! Ai cũng mừng, cũng vui cho tôi...

Tiếng mấy đứa con léo réo. Thằng út kéo tay tôi gọi lớn, kéo tôi ra khỏi hồi tưởng. Tôi nhìn quanh. Mắt ngân ngấn lệ. Tôi nhấc bổng thằng nhỏ, hôn nó cái chụt. Nó cười khúc khích, tiếng cười như tan vào gió, như mang niềm hạnh phúc của tôi bao trùm lên cả làng Dầu. Tôi gói ghém những hồi ức đó, nhét vào một nơi thật sâu rồi vững bước, thẳng về phía trước, thẳng về cái làng của tôi. Còn hồi ức kia, nó chỉ làm cho tình yêu làng của tôi thêm nồng đượm mà thôi... Tôi tin rằng, tương lai vẫn còn ở phía trước. Và tôi sẽ gieo hạt ở nơi đây để hạnh phúc nở hoa nơi chốn này.

Kể lại truyện Làng - mẫu 7

          Quê hương của tôi cũng bao người khác, thời kì chiến tranh bị chia cắt đi di tản. Tôi là người nông dân chân lấm tay bùn yêu nước phải đi di tản theo cách mạng. Yêu quê hương yêu nước là thế, tuy nhiên trong một lần tình yêu làng, yêu nước của tôi rơi vào hoàn cảnh bị thử thách.

Tôi là Nguyễn Hai Thu, người ta thường gọi là ông Hai cho thân mật. Làng tôi tên là Chợ Dầu, trong một lần thực dân Pháp xâm lược chúng đốt phá và cướp bóc, tôi phải đi di tản theo lệnh của cụ Hồ.

Ở nơi tản cư, không lúc nào thôi nghĩ về làng, tưởng tượng công việc kháng chiến trong làng, từ người già cho đến đứa trẻ đều hăng hái kháng chiến. Chỉ nghĩ đến thôi là tôi cảm thấy hứng khỏi, mọi mệt mỏi tan biến. Tôi phải đi khoe với tất cả mọi người về ngôi làng đáng tự hào này.

Ở nơi khác nhưng tôi vẫn luôn nghe ngóng nhiều thông tin về chiến tích của người dân trong làng. Khi có một nhóm người từ dưới xuôi lên tôi vội nghe tin tức, họ nói cả làng Chợ Dầu của tôi theo Tây. Tôi như nghe tin sét đánh, người cứng lại như ngừng thở. Phải mất một khoảng thời gian tôi mới tỉnh táo trở lại và lập tức trở về nhà. Về đến nơi, cả người như bị rút cạn sức lực, nằm vật ra giường nhìn lũ trẻ đang chơi ngoài cổng. Tôi thấy tủi hổ, và cả nước mắt rơi.

Mấy ngày sau tôi cảm thấy bất an và không ra khỏi nhà. Dù chỉ cần nhìn thấy đám đông túm tụm lại tôi cũng trở nên hoang mang, tôi cho rằng người ta đang bàn về chuyện làng Chợ Dầu. Còn mụ chủ nhà, mụ nói bóng nói gió, chế giễu, dọa nạt đòi đuổi cả nhà tôi đi nơi khác vì cái mác Việt gian, theo Tây phản bội Tổ quốc.

Trong lòng tôi cũng đấu tranh dữ dội lắm, tôi đi đến quyết định: Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.

Một hôm ông chủ tịch loan tin làng tôi được cải chính. Tôi vui mừng khôn xiết là chạy sang ngay nhà bác Thứ và khoe rằng cái tin làng tôi theo giặc là sai, thậm chí tôi còn khoe nhà tôi bị Tây đốt sạch. Tôi thật sự sung sướng vì ngôi làng của mình vẫn còn theo cách mạng, theo cụ Hồ. Nhà cửa mất có thể xây dựng lại chứ nếu danh dự của làng bị mất thì vết nhơ ngàn năm không thể xóa nhòa.

Kể lại truyện Làng - mẫu 8

          Tôi là một người nông dân làng chợ Dầu. Mọi người thường gọi tôi là ông Hai Thu. Kháng chiến bùng nổ tôi muốn ở lại làng cùng anh em bộ đội và dân quân kháng chiến. Nhưng vì hoàn cảnh gia đình nên tôi phải cùng gia đình đi tản cư. Ở nơi tản cư tôi rất nhớ làng và thường có hay khoe về làng mình.

Đang trong tâm trạng náo nức thì tôi nghe được tin làng chợ Dầu của tôi theo Tây làm Việt gian. Lúc đó cổ họng tôi nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Tôi lặng đi tưởng như không thở được. Một lúc lâu tôi mới dặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ, tôi hỏi lại về cái tin ấy thì người ta đã khẳng định một cách chắc chắn. Tôi vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác rồi đi thẳng về nhà. Về đến nhà, tôi nằm vật ra giường nhìn lũ con tôi thấy tủi thân, nước mắt tôi cứ tràn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Tôi ngờ ngợ chả nhẽ bọn ở làng lại đốn đến thế ư rồi tôi tự kiểm điểm trong óc thấy họ đều là những người có tinh thần yêu nước, yêu kháng chiến chẳng nhẽ lại đi làm cái điều nhục nhã ấy nhưng không có lửa làm sao có khói. Tôi cảm thấy tủi nhục, chiều hôm ấy vợ tôi về cũng có vẻ khác. Trong nhà có cái sự im lặng thật là khó chịu. Mãi đến khuya vợ tôi mới hỏi tôi về cái tin ấy. Tôi im lặng rồi gắt lên vậy là bà ấy im bặt. 3 - 4 ngày hôm sau tôi không dám bước chân ra ngoài chỉ ở trong gian nhà chật chội để nghe ngóng tin tức. Lúc nào tôi cũng nơm nớp lo sợ, hễ nghe đến chuyện ấy là tôi lại giật mình.

Trong tôi giờ đây đang diễn ra một cuộc chiến tranh nội tâm gay gắt khi mụ chủ nhà có ý đuổi gia đình tôi đi. Tôi lâm vào tình trạng bế tắc: về làng hay ở lại. Cuối cùng tôi đến quyết định: làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây rồi thì phải thù. Trong tâm trạng đau đớn tủi hờn, tôi tâm sự với thằng con út. Sau khi tâm sự xong, nỗi khổ của tôi vơi đi phần nào. Rồi một hôm khoảng 3 giờ chiều, có người đàn ông đến nhà tôi chơi. Ông ấy rủ tôi đi theo ông ấy đến sẩm tối tôi mới về. Lúc ấy tôi rất vui. Đến bực cửa tôi đã bô bô khoe rằng Tây nó đốt nhà tôi rồi, ông chủ tịch làng tôi vừa mới lên cải chính, ông ấy cho biết cái tin làng tôi theo Tây làm Việt gian là sai sự mục đích. Cứ thế tôi lật đật đi khoe khắp nơi, tối hôm ấy tôi sang gian bác Thứ nói chuyện về làng của tôi.

Kể lại truyện Làng - mẫu 9

          Làng Chợ Dầu ngôi làng thân yêu nơi tôi sinh ra và lớn lên nhưng bọn Tây đã khiến chúng tôi phải đi tản cư nơi khác, nhưng giờ đã được trở về nhà, Làng Dầu trong lòng tôi vẫn vẹn nguyên như chưa sứt mẻ ít nhất là tình cảm tôi dành cho nó. Tôi hạnh phúc vì đã được quay về quê hương nơi “chôn rau cắt rốn” của tuổi thơ.

Trở về quê hương tôi được nghe rất nhiều thông tin nào là tiêu diệt bao nhiêu tên địch? bao nhiêu người hi sinh? đang chăm chú lắng nghe với sự phấn khởi tự hào thì bỗng được tin từ một người phụ nữ nói rằng “làng Chợ Dầu theo Tây phản cách mạng”, giọng điệu người phụ nữ cay nghiệt và căm giận phát lên. Nhận được tin dữ, cảm giác đầu tiên đó là sốc, mặt tôi biến sắc, cổ họng nghẹn ắng lại,da mặt tê rân rân, cảm giác lúc đó thật xấu hổ và thất vọng. Tôi là người yêu làng, hãnh diệu và kể cho mọi người nghe mọi việc tốt đẹp về làng mình như giờ thành ra thế này, thật sự rất buồn, xấu hổ và thất vọng về ngôi làng. Tôi lảng tránh đi nơi khác và trở về nhà.

Trở về tôi vẫn không tin đó là sự thật, những suy nghĩ nội tâm đấu tranh nhau dai dẳng giữa tình yêu thương làng và sự thật đang được phơi bày. Ngôi làng tôi gắn bó, thân thiết, yêu vì những điều tốt đẹp giờ trở thành làng theo giặc, tôi thật sự thất vọng. Trong tâm trạng rối bời tôi tâm sự với thằng út, những điều kể ra làm tôi thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều.

Tôi đi chơi cùng ông hàng xóm đến tận tối mới về, ông chủ tịch làng chợ Dầu mới lên cải chính, ông ấy cho biết cái tin làng theo Tây làm Việt gian là sai sự thật, sai mục đích. Tôi vui mừng đến nỗi hô hào bọn trẻ:

“Chúng mày đâu rồi, ra thầy chia cho”

Tôi chạy vội vã sang thì được khoe thông tin Tây nó đốt nhà, đốt sạch mọi thứ, mọi thông tin về làng chợ Dầu trước kia toàn sai sự thật. Dù tài sản bị mất đi nhưng không hiểu sao trong lòng tôi bỗng vui, vui vì tin làng quê mình vẫn theo kháng chiến, theo cách mạng.

Câu chuyện là như vậy đó, trải qua nhiều cung bậc cảm xúc từ thất vọng, chán nản và niềm vui bất ngờ đến nhảy cẫng lên như một đứa trẻ, qua việc này niềm tự hào về ngôi làng chợ Dầu trong tôi vẫn không thay đổi, làng tôi vẫn luôn trung thành với cách mạng.

Kể lại truyện Làng - mẫu 10

          Vậy là đã hơn tháng trời, kể từ ngày Hai Thu, tôi rời làng Chợ Dầu yêu quý của mình đi tản cư. Thật đúng là khi xa quê rồi, người ta mới càng thấm thía câu nói của ông cha ta.

Ở nơi tản cư, chẳng lúc nào tôi nguôi nỗi nhớ về làng của mình. Niềm vui duy nhất của tôi là đến phòng thông tin nghe, đọc báo để biết thêm tin tức kháng chiến. Những lúc ấy, ruột gan tôi cứ như múa cả lên, vui quá!

Hôm nay, chẳng hiểu sao, con lớn nhà tôi đi làm về muộn khiến tôi ở nhà cứ bứt rứt không yên. Vì thế khi vừa thấy bóng con bé thấp thoáng đằng xa, tôi đã lao ngay ra dặn con bé trông nhà và vội vàng đi xuống phòng thông tin nghe đọc báo như mọi lần.

Tôi vẫn thế nhưng bây giờ tôi đã có những đứa con rất đẹp và rất có hiếu. Hình ảnh lũy tre làm cùng những con bò con trâu làm tôi nhớ đến ngày xưa tôi và những đứa trẻ khác cùng độ tuổi lớn lên dưới ánh nắng sớm mai hình ảnh những người nông dân vẫn cần cù chịu thương, chịu khó ngày ngày làm lụng vất và để có những bữa bữa cơm ngon bên gia đình. Hình ảnh khói bếp cũng làm tôi liên tưởng tới ngày xưa tôi và gia đình tôi quây quần nướng những củ khoai lang đỏ và tiếng nói cười vang vọng làm xua tan đi ngày dài mệt mỏi. Thực sự lành rất quan trọng với mỗi chúng ta không có là quê chúng ta sẽ không lớn lên được như bây giờ giờ. Tôi rất yêu quê hương rất yếu xóm làng và yêu những người thân thương của tôi. Nó thực sự là những kỷ niệm đẹp mà tôi cất giữ lâu nay. Mỗi khi trở về làng quê thì bao nhiêu kí ức lại ùa về như những mảnh ghép tuyệt đẹp trong cuộc đời của người nông dân như tôi những người hàng xóm của tôi họ cũng có những gia đình mới những cuộc sống riêng nhưng họ luôn luôn nhớ về quê hương như tôi đã tưởng quê hương hai tiếng thật thân thuộc không bao giờ có thể phai mờ trong tâm trí tôi.

Tôi giờ chỉ còn đứa con út để giãi bày tâm sự. Mỗi lần ôm nó vào lòng, nhắc cho nó nhớ đến làng Chợ Dầu là quê hương nó, tôi lại chạnh lòng. Dù tôi đã quyết định từ bỏ ngôi làng ấy thì tôi cũng không thể dứt bỏ được tình yêu mãnh liệt với làng của mình. Quyết định ấy như vết dao sắc lẹm cứa đứt trong tim tôi. Xót xa! Đau đớn! Nhưng, tôi ủng hộ kháng chiến. Nhìn thằng bé con giơ tay, mạnh bạo, rành rọt nói to: “Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm!”, nước mắt tôi lại giàn ra, thủ thỉ, khẳng định lại lời của con. Tôi nói như đế ngỏ lòng mình, như đê minh oan cho mình nữa. Mặc cho người ta nói tôi dân Chợ Dầu Việt gian, tôi vẫn ủng hộ Cụ Hồ dù trước mắt, cuộc đời tôi không biết sẽ ra sao.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học