5+ Kể lại truyện Vợ nhặt (hay, ngắn gọn)



Tổng hợp các bài kể lại truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.

5+ Kể lại truyện Vợ nhặt (hay, ngắn gọn)

Quảng cáo

Bài giảng: Vợ nhặt - Cô Thúy Nhàn (Giáo viên VietJack)

Kể lại truyện Vợ nhặt - mẫu 1

    Anh cu Tràng ở xóm ngụ cư. Nhà nghèo, bố đã mất, mẹ đã già. Thân hình to lớn, vập vạp, bộ mặt thô kệch, hai con mắt nhỏ tí... Chưa có vợ, anh ta làm nghề kéo xe bò thuê.

    Cái đói đã tràn đến xóm ngụ cư này từ lúc nào. Người chết như ngả rạ. Những đoàn người bồng bế dắt díu nhau chạy đói xanh xám như những bóng ma. Thây người nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn mùi gây của xác người. Tiếng quạ trên mấy cây gạo ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết.

    Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm ngụ cư thấy Tràng dẫn vế một người đàn bà. Người trong xóm thấy lạ, nhìn theo, bàn tán. Có người thở dài, có người thì thầm hỏi nhau: "Ai đấy nhỉ? Hay là người dưới quê bà cụ Tứ mới lên? Hay là vợ anh cu Tràng?"... Có người lo xa, cất tiếng: "Ôi chao! Giời đất này còn rước cái của nợ đời về...". Tràng đi trước, phớn phở, tủm tỉm cười, cặp mắt sáng lên lấp lánh. Thị cắp cái thúng đi sau, có vẻ rón rén, e thẹn. Bọn trẻ con gào lên: "Anh Tràng ơi! Chông vợ hài". Tràng bật cười, còn thị thì có vẻ khó chịu lắm!

Quảng cáo

    Hai người đi về cuối xóm, lặng lẽ rẽ xuống một con đường nhỏ, sâu thăm thẳm, luồn giữa hai bờ tre cao vút. Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày... Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng. Thị bỗng hỏi: "Sắp đến chửa. Nhà có ai không?..". Tràng chợt giơ cái chai con vẫn cầm lăm lăm một bên tay lên khoe: "Dầu tối thắp đây này". Thị nói: "Sang nhỉ. Hoang nó vừa vừa chứ". Tràng nói đùa một câu "Vợ mới vợ miếc cũng phải cho nó sáng sủa một tí chứ; chẳng nhẽ chưa tối đã rúc vào ngay...", liền bị thị mắng yêu là "khỉ gió", và phát đánh đét vào lưng hắn, khoặm mặt lại. Tràng thích chí ngửa cổ cười khanh khách.

    Thị lẳng lặng theo Tràng bước vào cái nhà vắng teo, rúm ró trên mảnh vườn lổn nhổn những búi cỏ dại. Tràng xăm xăm thu dọn niêu bát, xống áo vứt bừa bãi trên giường, mặt đất. Thị cười nhạt nhẽo. Tràng đon đả mời ngồi. Cả hai cùng ngượng nghịu. Thị ngồi mớm ở mép giường, mặt bần thần, hai tay ôm khư khư cái thúng.

    Tràng tủm tỉm cười, nhìn thị, nghĩ bụng, chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bận ấy thế mà thành vợ thành chồng.

Quảng cáo

    Tràng nhớ lại, hôm ấy vừa kéo xe thóc vào dốc tỉnh, anh hò một câu cho đỡ mệt: "Muốn ăn cơm trắng mấy giò này – Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì", thì có mấy cô gái cười như nắc nẻ, đẩy vai một cô ả ra với hắn. Thị cong cớn: "Này, nhà tôi ơi, nói thật hay khoác đấy?". Thị ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Thị liếc mắt cười tít. Tràng thích lắm. Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong đang ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tỉnh, thì thị ở đâu sầm sầm chạy đến, sưng sỉa nói: "Điêu! Người điêu! Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt". Thị rách rưới quá, áo quần như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi... Một lúc sau, Tràng nhớ ra rồi. Toét miệng cười, Tràng đon đả mời: "Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã". Nghe thị nói có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu, Tràng vỗ vỗ vào túi khoe: "Ríc h bố cu". Cặp mắt sáng lên, thị đon đả: "Ăn thật nhá!". Thị ngồi sà xuống, cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền... Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở: "Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố". Nghe Tràng nói: "Làm đếch gì có vợ"... thế là thị theo Tràng ngay. Tràng hơi chợn, nhưng rồi hắn tặc lưỡi một cái "Chậc, kệ! ". Tràng dẫn thị vào chợ tỉnh, bỏ tiền ra mua cho thị một cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt; hai người ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về...

Quảng cáo

    Tràng đang bâng khuâng nhớ lại, thì bà cụ Tứ đã về. Bà húng hắng ho. Bà loạng choạng đi vào. Tràng lật đật chạy ra đón. Nghe Tràng nói đợi u nóng cả ruột, bà nhìn vào trong nhà, ngạc nhiên thấy một người đàn bà đang đứng ngay đầu giường thằng con mình. Thị cất tiếng chào. Bà lập cập bước vào nhà khi nghe được thị cất tiếng chào lần nữa: "U đã về ạ!".Bà băn khoăn ngồi xuống. Thị ngỡ bà đã già lão, điếc lác... Nghe Tràng nói, bà cúi đầu nín lặng. Người mẹ già nghèo khổ hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương... Bà nhìn thị và nghĩ: "Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được". Bà nhẹ nhàng nói với "nàng dâu mới": "ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...". Nghe mẹ nói, Tràng thở phào một cái, ngực nhẹ hẳn đi. Sau đó, bà cụ Tứ nói với con dâu về gia cảnh mình, khuyên hai con sống hòa thuận. Tràng đánh diêm đốt đèn lên. Giữa sự im lặng của đôi vợ chồng mới, có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ. Tràng giục thị đi ngủ, liền bị thị giơ tay củng vào trán hắn: "Chỉ được cái thế là nhanh.Dơ! " Tràng cười khi khì, vươn cổ thổi tắt phụt ngọn đèn.

    Sáng hôm sau, bà mẹ chồng và nàng dâu dậy sớm, quét dọn thu xếp nhà cửa, từ trong nhà ra ngoài sân, ngoài ngõ trông thật quang quẻ, sạch sẽ. Tràng dậy muộn, anh cảm thấy yêu hơn ngôi nhà mình, anh nghĩ về bổn phận phải lo lắng cho vợ con. Tràng thấy thị khác hẳn, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực. Bà cụ Tứ rạng rở hẳn lên.

    Bữa cơm đón nàng dâu mới chỉ có muối ăn với cháo. Cháo cám đắng chát nhưng người mẹ già bảo là chè khoán ngon đáo để. Bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, chuyện sau này.

    Bỗng tiếng trống đốc sưu dội lên dồn dập. Đàn quạ bay vù lên thành những đám mây đen. Bà cụ Tứ khóc. Thị nói về chuyện ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang, người ta phá kho thóc của Nhật chia cho người đói. Tràng hỏi vội: "Việt Minh phải không? rồi anh bần thần nhớ lại cảnh những người đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp, đằng trước có lá cờ đỏ to lắm.

Kể lại truyện Vợ nhặt - mẫu 2

    “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập “con chó xấu xí” (1962). Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết “xóm ngụ cư” được viết ngay sau cách mạng tháng tám nhưng dang dở. Sau khi hòa bình lập lại (1954), Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết truyện ngắn này.

    Năm 1945, khắp cả nước diễn ra nạn đói khủng khiếp, cướp đi mạng sống của biết bao nhiêu người. Người sống cũng dật dờ như những bóng ma. Trong ngôi làng ở xóm ngụ cư, có anh cu Tràng là một người xấu xí, thô kệch, sống cùng với mẹ già. Tràng làm nghề kéo xe bò thuê, cái nghèo bủa vây nên đến giờ anh vẫn chưa có vợ. Một lần, khi anh kéo xe lên tỉnh đã quen một cô gái. Sau vài lần tán tỉnh, mời cô gái kia một chặp bánh đúc, cô gái liền theo anh về làm vợ. Việc anh cu Tràng dắt một cô vợ về xóm ngụ cư khiến ai ai cũng đều ngạc nhiên. Trong cái thời buổi đói kém, nay sống mai chết vì miệng ăn, việc dắt thêm một người về càng khiến thêm gánh nặng.

    Khi mở đầu tác phẩm Vợ nhặt>, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…” Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mùng tơi. Là một gã trai nghèo, xấu xí, lại là dân ngụ cư. Anh âm thầm sống cùng mẹ già trong nếp nhà xiêu vẹo bên mảnh vườn rúm ró những đám cỏ dại.Giữa ngày đói câu hò của anh như xua tan mệt mỏi, mang cảm giác vui vui. Anh cũng thật hào phóng khi mời cô gái món quà quê. Anh cu Tràng chỉ với vài câu “tầm phơ tầm phào” mà có người phụ nữ theo về làm vợ.

    Vợ Tràng, một người không tên tuổi, quê quán. Cái đói còn biến Thị trở thành kẻ liều lĩnh cùng đường. Trước miếng ăn, hai con mắt của Thị sáng lên, ngồi cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc, thế rồi sẵn sàng theo không người ta chỉ bằng mấy câu nói tầm phào. Lúc đầu Thị hiện lên là một người cong cớn, sưng sỉa, vô duyên. Sau đó, khi về làm vợ Tràng Thị lại khép nép, hiền hậu, ngoan ngoãn, thu vén cho gia đình.

    Bà cụ Tứ là mẹ anh Tràng, ban đầu bà có vẻ rất ngạc nhiên nhưng rất nhanh sau đó là những cảm xúc buồn vui xen lẫn. Bà thương đứa con dâu này, ngay cả một miếng trầu hỏi cưới cũng không có, dắt không về làm vợ người ta.

    Sáng hôm sau, bà mẹ chồng và nàng dâu dậy sớm, quét dọn thu xếp nhà cửa từ trong nhà ra ngoài sân. Tràng dậy muộn, anh cảm thấy yêu ngôi nhà của mình, anh nghĩ về bổn phận phải lo lắng cho vợ con. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới là một nồi cháo cám mà bà cụ Tứ luôn miệng nói là chè khoán đấy. Cô con dâu cũng nhìn thấy hoàn cảnh ấy, cùng mẹ chồng xăm xăm dọn dẹp, thu dọn ngôi nhà lụp xụp để hi vọng nhìn thấy một tia sáng phía trước.

    Tiếng trống thúc thuế ngoài đình nổi lên, và qua lời kể của người vợ, anh Tràng dần dần hiểu được và có khát vọng được thay đổi cuộc sống. Hình ảnh đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phấp phới là biểu hiện cho sự thay đổi về suy nghĩ đang diễn ra trong đầu anh cu Tràng.

    Đi sâu vào tâm lí của từng nhân vật, tác giả đã cho người đọc thấy được một bức tranh hiện thực sống động. Ở đó con người ta chỉ toàn nghèo khổ nhưng lại có những phẩm chất tốt đẹp. Hành động của Tràng khi cưu mang người phụ nữ kia cho thấy Tràng là một người hào phóng và nhân hậu. Mẹ Tràng cũng vừ vui vừa tủi chấp nhận nàng dâu, trong bà luôn có niềm hy vọng về tương lai tốt đẹp hơn.

    Có thể nói, với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo cùng với việc phân tích tâm lí nhân vật sâu sắc, tác giả đã cho người đọc thấy được phần nào tình cảnh người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Cái đói đã đẩy con người ta đến bước đường cùng nhưng ở họ vẫn luôn hi vọng vào một ngày mai tốt đẹp hơn.

Kể lại truyện Vợ nhặt - mẫu 3

Nạn đói Ất Dậu năm 1945 xảy ra khiến hơn hai triệu người chết từ Trung Kì trở ra như ngả rạ ngoài đồng. Sự kiện lịch sử ấy đã đi vào trong văn chương qua tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân. Năm đói ấy người chết thây ma đầy đường, người sống thì cũng vật vờ, dặt dẹo. Ở xóm ngụ cư nọ, có anh cu Tràng thô kệch, xấu xí làm nghề đẩy xe bò kiếm miếng ăn qua ngày nuôi mẹ già trong túp lều nho nhỏ. Trong một lần đi lên tỉnh anh gặp thị-một cô gái đói rách, gầy hốc hác. Lần thứ hai gặp lại anh buông câu hò nửa thật nửa đùa “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lên đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Chỉ với lời bông đùa ấy cùng bốn bát bánh đúc Tràng mời thị ăn mà anh nhanh chóng có vợ. Thị theo Tràng về nhà với cái vẻ rụt rè, ngại ngùng khiến cho tất cả người dân xóm ngụ cư bất ngờ. Ngạc nhiên nhất vẫn là bà cụ Tứ khi có người con gái theo con trai về và còn chào mình là u, nghe Tràng nói thì đã hiểu ra cơ sự. Giữa nạn đói khi ấy mà con trai có vợ khiến bà vừa mừng vừa lo. Anh cu Tràng có vợ khiến cho mọi thứ và mọi người thay đổi. Trong họ đều cảm thấy có một cái gì đó tươi mới hẳn lên. Một đám cưới bình dị đã được diễn ra với bữa cơm đầu đón nàng dâu mới là nồi cháo lõng bõng và bát cháo cám nghẹn đắng ở cổ nhưng trong đó có cả tình yêu thương, sự bao dung và niềm tin mà người mẹ già dành cho đôi vợ chồng trẻ. Kết thúc tác phẩm với âm thanh của tiếng trống thúc thuế, hình ảnh quạ đen bay trên trời, thị nói về chuyện quân Việt Minh phá kho thóc Nhật và lúc ấy trong óc Tràng hiện lên hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới. “Bốn bát bánh đúc thành lễ cưới thật rồi/ Xin từ điển hãy thêm từ vợ nhặt/ Ngòi bút Kim lân tưởng như đùa như khóc/ Đói quắt quay nhưng tha thiết con người” tác phẩm đã để lại cho ta giá trị sâu sắc về tình người và niềm tin vào tương lai tươi sáng trong cuộc sống.

Kể lại truyện Vợ nhặt - mẫu 4

Chuyện kể về số phận của một chàng trai với cái tên là Tràng. Trong thời buổi loạn lạc, nạn đói hoành hành, đó là thời điểm của những năm 1945 đã làm hơn 2 triệu người chết, đâu đâu cũng là sự chết chóc. Trong hoàn cảnh như vậy mà chàng trai tên là Tràng lại cưới vợ (hay nói đúng hơn là nhặt được vợ). Nhân vật Tràng ở đây được tác giả miêu tả là một anh chàng rất xấu trai, ăn nói cộc lốc, thô kệch, ấy thế mà lại lấy được vợ. Khi nghe tin anh Tràng cưới vợ thì cả xóm nơi Tràng ở đều ngạc nhiên và lo lắng cho anh, đặc biệt là mẹ của anh mà mọi người gọi “bà là bà cụ Tứ” lúc này lúc vui lúc buồn không biết tại sao? Khi con trai của Bà cưới vợ mà Bà chẳng có gì hơn ngoài lời chúc đến vợ chồng anh là hãy sống tốt.

Bữa cơm ăn mừng cho sự xuất hiện của nàng dâu mới, Bà cụ kể toàn những chuyện vui, Bà hy vọng rằng tương lai của hai đứa con mình sẽ tươi sáng, với “nồi chè khoán” do chính tay Bà nấu, tuy chát đắng nhưng thể hiện được sự quan tâm của Bà tới hạnh phúc của con. Đang trong cuộc vui của gia đình mừng nàng dâu mới thì có tiếng trống thúc thuế dồn dập, trong đầu Tràng nghĩ tới lá cờ Việt Nam bay phất phơ và cùng nhiều người đi cướp kho thóc của giặc để chia cho dân nghèo. Đó là tinh thần đoàn kết của người dân cùng khổ trong chiến tranh và họ vẫn luôn hy vọng rằng sẽ có một tương lai tươi sáng hơn đang chờ đón họ phía trước

Bài giảng: Vợ nhặt - Cô Vũ Phương Thảo (Giáo viên VietJack)

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 Ôn thi THPT Quốc gia khác:

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, GÓI THI ONLINE DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 12

Bộ giáo án, đề thi, bài giảng powerpoint, khóa học dành cho các thầy cô và học sinh lớp 12, đẩy đủ các bộ sách cánh diều, kết nối tri thức, chân trời sáng tạo tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official


vo-nhat.jsp


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên