10+ Nghị luận về bài thơ Bếp lửa (điểm cao)
Nghị luận về bài thơ Bếp lửa điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Nghị luận về bài thơ Bếp lửa
- Nghị luận về bài thơ Bếp lửa (mẫu 1)
- Nghị luận về bài thơ Bếp lửa (mẫu 2)
- Nghị luận về bài thơ Bếp lửa (mẫu 3)
- Nghị luận về bài thơ Bếp lửa (mẫu 4)
- Nghị luận về bài thơ Bếp lửa (mẫu 5)
- Nghị luận về bài thơ Bếp lửa (mẫu 6)
- Nghị luận về bài thơ Bếp lửa (mẫu 7)
- Nghị luận về bài thơ Bếp lửa (mẫu 8)
- Nghị luận về bài thơ Bếp lửa (mẫu 9)
- Nghị luận về bài thơ Bếp lửa (các mẫu khác)
10+ Nghị luận về bài thơ Bếp lửa (điểm cao)
Dàn ý Nghị luận về bài thơ Bếp lửa
a) Mở bài:
- Giới thiệu tác giả: Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
- Giới thiệu tác phẩm:
+ Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên học ngành luật ở nước ngoài.
+ Bài thơ được đưa vào tập Hương cây – Bếp lửa (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.
b) Thân bài:
Những kỷ niệm tuổi thơ và tình bà cháu
* Dòng hồi tưởng được bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp: Bếp lửa
- Bếp lửa “chờn vờn sương sớm”: Gợi tả một hình ảnh bếp lửa có thật được cảm nhận bằng thị giác ẩn hiện trong sương sớm “chờn vờn”.
- Bếp lửa “ấp iu”: Gợi bàn tay dịu dàng, kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm lửa.
→ Điệp ngữ “một bếp lửa” + từ láy “chờn vờn, ấp iu” gợi lên hình ảnh sống động, lung linh của bếp lửa gần gũi, thân thuộc trong mỗi gia đình người Việt Nam.
- “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”:
+ Trong lòng đứa cháu đi xa trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt, thương người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh “biết mấy nắng mưa”
+ Chữ “thương” đi với “bà” là 2 thanh bằng đi liền nhau tạo ra âm vang như ngân dài xao xuyến, như nỗi nhớ trải dài của người cháu dành cho bà.
* Từ đó, bài thơ gợi lại những kỷ niệm tuổi ấu thơ bên người bà:
- Tuổi thơ nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn:
“Đói mòn đói mỏi”
“Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”
→ Thành ngữ “Đói mòn đói mỏi” - cái đói dài làm mỏi mệt, kiệt sức, con ngựa gầy rạc của hình ảnh người bố đánh xe chắc cũng gầy khô… gợi nỗi xót xa ám ảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 trước ngày cả nước ta vùng lên giành chính quyền.
- Tuổi thơ ấy còn có cái gian khổ chung của nhiều gia đình Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp:
“Mẹ cùng cha công tác bận không về…”
“Năm giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi
"Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi".
→ Bố mẹ đi công tác xa, cháu ở với bà. Tình cảnh hai bà cháu thật vắng vẻ…
- Khi nhớ về kỷ niệm, dòng hồi tưởng còn gắn với âm thanh của tiếng chim tu hú. → Âm thanh quen thuộc của chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, cuộn xoáy trong lòng người con xa xứ.
- Tuổi thơ cháu luôn được sống trong tình yêu thương, đùm bọc, cưu mang trọn vẹn của bà:
+ Bên bếp lửa, “Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế” chuyện đời nay, đời xưa…
+ Rồi “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe”, “Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”.
→ Các từ ngữ như: bà bảo, bà dạy, bà chăm đã diễn tả mọi cách sâu sắc, thấm thía tấm lòng đôn hậu, tình yêu thương bao la, sự chăm chút của bà đối với cháu.
+ “Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh”
→ Vẫn chỉ có hai bà cháu sớm hôm và bà vẫn vững lòng trước mọi tai hoạ, mọi thử thách khốc liệt của chiến tranh, làm tròn nhiệm vụ hậu phương để người đi xa công tác được yên lòng.
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên !"
→ Giúp ta hình dung rõ ràng giọng nói, tiếng nói, tình cảm và suy nghĩ của bà đồng thời làm sáng lên phẩm chất của người mẹ Việt Nam.
- Ở đây hình ảnh bếp lửa ân cần, ấm cúng và nhẫn nại của bà hoàn toàn tương phản với ngọn lửa thù địch đối với sự sống:
"Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi".
→ Bên cạnh ngọn lửa thiêu rụi sự sống của kẻ thù vẫn còn một ngọn lửa nhen lên một sự sống khác.
Những suy nghĩ về cuộc đời bà và hình ảnh bếp lửa:
* Suy ngẫm về cuộc đời bà
- Từ những kỷ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu suy nghĩ vè cuộc đời bà. Hình ảnh của bà luôn gắn với bếp lửa:
“Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng …”
+ Hình ảnh bếp lửa được thay thế bằng hình ảnh ngọn lửa cụ thể hơn mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng cho ánh sáng, hơi ấm và sự sống.
+ Điệp ngữ “một ngọn lửa” nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu.
- Sự tần tảo và đức hy sinh chăm lo cho người của bà được tác giả thể hiện trong một chi tiết rất tiêu biểu:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.
→ Điệp từ "nhóm” được nhắc đi nhắc lại tới bốn lần và mang những ý nghĩa khác nhau.
+ Từ "nhóm" đầu tiên : "Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm" nhóm là động từ thể hiện một hành động làm cho lửa bén, cháy lên ngọn lửa và một bếp lửa hoàn toàn có thật có thể cảm nhận bằng mắt thường để xua tan đi cái giá lạnh của mùa đông khắc nghiệt để nấu chín thức ăn và đó là một bếp lửa rất bình dị có ở mọi gian bếp của làng quê Việt Nam
+ Từ "nhóm" trong những câu thơ sau : "Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi – Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui – Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ" thì từ nhóm lại mang ý nghĩa ẩn dụ.
→ Bà đã nhóm lên, đã khơi dậy niềm yêu thương, những ký ức đẹp, có giá trị trong cuộc đời mỗi con người. Bà đã truyền hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn cháu tình yêu thương ruột thịt, tình cảm sẻ chia tình đoàn kết với hàng xóm láng giềng và rộng ra nữa là tình yêu quê hương đất nước. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà khơi dậy cả những ký ức, kỷ niệm tuổi ấu thơ trong cháu để cháu luôn nhớ về nó cũng có nghĩa là nhớ về cội nguồn, nhớ về đất nước quê hương, nhớ về dân tộc mình. Và như vậy hình ảnh bếp lửa đơn sơ giản dị đã mang ý nghĩa khái quát trở thành ngọn lửa trong trái tim – một ngọn lửa ẩn chứa niềm tin và sức sống của con người.
* Suy ngẫm về hình ảnh bếp lửa : Bếp lửa kỳ lạ và thiêng liêng:
"Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa!"
Câu thơ cảm thán + cấu trúc đảo → Thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như một khám phá ra một điều kỳ diệu giữa cuộc đời bình dị.
Nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa
- Khổ thơ cuối là lời tự bạch của người cháu đi xa khi đã trưởng thành: Khoảng cách về không gian, thời gian và khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả:
+ không thể làm cháu lãng quên ánh sáng và hơi ấm từ bếp lửa của bà, của quê hương
+ không quên được những lận đận đời bà, tấm lòng ấm áp của bà, những tận tuỵ hy sinh vì tình nghĩa của bà…
→ Đó là đạo lý thuỷ chung cao đẹp của con người Việt Nam được nuôi dưỡng trong mỗi tâm hồn con người từ thuở ấu thơ.
- Bài thơ được kết thúc bằng câu hỏi tu từ:
“Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
→ Câu hỏi tu từ ấy gợi cho người đọc cảm nhận như có một nỗi nhớ khắc khoải, thường trực, một nỗi nhớ đau đáu khôn nguôi, luôn nhớ về bà.
c) Kết bài:
- Nội dung:
+ Qua hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỷ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu
+ Đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà cũng là đối với gia đình quê hương đất nước.
- Nghệ thuật:
+ Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả tự sự và bình luận.
+ Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi một kỷ niệm, cảm xúc, suy nghĩ về bà và tình bà cháu.
Nghị luận về bài thơ Bếp lửa - mẫu 1
Nhà thơ Phạm Khải đã từng nói rằng: “Vào những năm đầu thập kỷ 60, Bằng Việt xuất hiện giữa làng thơ Việt Nam như một ánh đèn nê-ông kỳ ảo, tỏa sáng trí tuệ, sự mát mẻ của tuổi xuân và cái dịu dàng của hồn thơ anh”. Những nhận xét đó đã nói rất đúng về cây bút Bằng Việt. Và trong những đóng góp của ông trong làng thơ Việt Nam, có lẽ “Bếp lửa” chính là ánh đèn chói sáng nhất.
“Bếp lửa” là một sáng tác thơ được viết theo thể tám chữ quen thuộc. Xuyên suốt bài thơ là cảm hứng ngợi ca về hình ảnh bếp lửa thiêng liêng, ấm áp được nhóm lên từ đôi bàn tay, từ tấm lòng ấm áp, cao cả của người bà. Hình ảnh “bếp lửa” cùng hình ảnh “người bà” đã song hành và liên hệ chặt chẽ với nhau trong bài thơ. “Bếp lửa” là tín hiệu giúp đánh thức, khơi dậy, thắp lên những tình cảm, kí ức về người bà và những kỉ niệm tuổi thơ quý giá bên người bà ấy của nhân vật trữ tình. Ở hai khổ thơ đầu, bếp lửa tượng trưng cho sự chịu thương, chịu khó, tảo tần sớm hôm, hi sinh vất vả vì gia đình một cách thầm lặng của người bà. Bước sang khổ thơ thứ ba, bếp lửa lại tượng trưng cho những vất vả của cuộc sống, cho tình yêu thương, lắng lo, trăn trở của bà dành cho con cháu. Đến khổ thơ cuối, bếp lửa trở thành hình ảnh tượng trưng cho ước mơ, hi vọng về tương lai tươi sáng phía trước của người cháu - tức nhân vật trữ tình. Có thể nói, ngọn lửa của căn bếp ấy chính là hiện thân mang tính biểu tượng cho tình cảm, hình ảnh, sự hi sinh và tình cảm của người bà dành cho con cháu. Bà đem đến tình yêu thương, sự đùm bọc, sẻ chia, sự hi sinh và cả hi vọng về tương lai cho con cháu của mình. Chính bởi vì thế, mà dù đã trưởng thành, đi đến những chân trời xa lạ, trong trái tim của nhân vật trữ tình vẫn luôn thổn thức, hoài niệm, nhớ nhung về người bà, về bếp lửa của bà. Những tình cảm ấy được khắc họa chân thực, gần gũi và sâu sắc qua hình ảnh bếp lửa xuyên suốt trong toàn bài thơ.
Với những mạch cảm xúc tinh tế, hình ảnh thơ lóng lánh, chứa chan tình yêu thương da diết, sâu đậm. Bằng Việt đã đem đến cho người đọc một áng thơ “Bếp lửa” giàu sức gợi, sức chạm đến trái tim người đọc. Giúp nhen lên những yêu thương trong mỗi người về người bà của mình trong kí ức.
Nghị luận về bài thơ Bếp lửa - mẫu 2
Tình cảm bà cháu không còn là một đề tài xa lạ trong thơ ca hiện đại. Ta từng bắt gặp hình ảnh người bà chắt chiu trong thơ Xuân Quỳnh. Đến với “Bếp lửa” của Bằng Việt, ta lại một lần nữa cảm động bằng tình cảm bà cháu thiêng liêng được thể hiện qua hình ảnh chiếc bếp lửa thân thuộc.
Nhà thơ Bằng Việt thuộc thế hệ những nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ Bằng Việt luôn mang tinh tế, trong trẻo. “Bếp lửa” là tác phẩm tiêu biểu của ông. Bài thơ được sáng tác năm 1963 - khi tác giả đang là sinh viên du học tại Liên Xô.
Mở đầu bài thơ, dòng cảm xúc của người cháu hướng về bà được khơi nguồn từ hình ảnh bếp lửa:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Ba tiếng “một bếp lửa” lặp lại hai lần, được đặt ở đầu hai dòng thơ mang đến âm hưởng ngân vang, sâu lắng và nhấn mạnh rằng hình ảnh bếp lửa có ý nghĩa đặc biệt, luôn khắc sâu trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Những từ “chờn vờn”, “ấp iu” khơi gợi rất nhiều cảm xúc. “chờn vờn” diễn tả một ngọn lửa cháy lúc to, lúc nhỏ nhưng vẫn tỏa sáng mạnh mẽ. Từ láy “ấp iu” là một sáng tạo độc đáo của nhà thơ, dường như được biến thể từ hai từ “ấp ủ” và “nâng niu”. Cách dùng từ “ấp iu” thật thân thương biết mấy! Nó gợi ra hình ảnh người bà tần tảo, bàn tay gom góp chắt chiu biết bao yêu thương dành cho cháu. Câu thơ cuối là sự thể hiện tình cảm một cách trực tiếp, chân thành, tự nhiên của người cháu: “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Người cháu thương bà, nhớ về bà, tìm thấy bà trong ngọn lửa sớm mai kỉ niệm thân thuộc ấy.
Kỉ niệm tuổi thơ dần hiện về trong tâm trí nhân vật trữ tình. Đầu tiên là kí ức về năm bốn tuổi đầy gian khó, nhọc nhằn:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Người cháu đã “quen mùi khói” từ khi còn là một đứa trẻ. Cụm từ “đói mòn đói mỏi” gợi ra hiện thực lịch sử đau thương về nạn đói năm 1945. Biết bao người dân cũng bị bóc lột bởi ách đô hộ của phát xít, thực dân. Hình ảnh người bố phải bươn chải, làm nghề đánh xe đến “khô rạc ngựa gầy” đã cho thấy sống khốn khổ, tiều tụy, bị vắt kiệt sức lao động của nhân dân Việt Nam. Trong những năm tháng đó, bà cháu vẫn cùng nhau nhóm lửa. Làn khói “hun nhèm mắt cháu” mang theo sự ám ảnh về thời kì đen tối đã đi qua. Nỗi xúc động của người cháu cùng cảm giác cay mắt vì khói bếp của người cháu đồng hiện trong câu thơ “Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”.
Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Khoảng thời gian tám năm dẫu gian khổ nhưng rất hồn nhiên, hạnh phúc bởi cháu nhận được sự chở che, săn sóc của bà. Tiếng tu hú kêu văng vẳng trên những cánh đồng sao mà thân thương, tha thiết thế! Tiếng tu hú kêu khắc khoải trở thành điệp khúc cho cả đoạn thơ. Âm thanh quen thuộc của làng quê mỗi khi hè về đã gợi nhớ, gợi thương cho người chiến sĩ. Câu thơ “Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?” như một tiếng nói bộc phát, một lời tâm sự với bà từ tận đáy lòng của nhân vật trữ tình. Đây là câu hỏi nhưng lại bộc lộ cảm xúc nhớ nhung, trìu mến. Người cháu nhớ về những ngày tháng chiến gian lao mà kiên cường của dân tộc, mẹ và cha “công tác bận không về” nên bà vừa là cha, vừa là mẹ chăm sóc cháu. Các động từ “kể”, “bảo”, “dạy”, “chăm” cho thấy sự nâng niu, quan tâm hết mực mà bà dành cho cháu. Các từ “bà” - “cháu” được điệp lại bốn lần để diễn tả tình cảm gắn bó, đùm bọc, đầy thương mến của bà và cháu. Câu thơ “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc” đã bộc lộ trực tiếp sự kính trọng, niềm biết ơn, lòng yêu thương của cháu dành cho bà. Người cháu biết cảm thông, thấu hiểu cho nỗi vất vả của bà nên đã cất tiếng gọi tu hú:
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Hình ảnh tu hú lại xuất hiện ở cuối khổ thơ cùng câu hỏi tu từ là một sáng tạo nghệ thuật rất tài tình của Bằng Việt. Chim tu hú dường như cũng côi cút, cô đơn, khát khao được sưởi ấm như đứa trẻ. Tác giả chạnh lòng mà thương tu hú bé nhỏ và cũng thương cả bà khi đã lớn tuổi mà vẫn phải vất vả nên đã gọi chú chim sao “Chẳng đến ở cùng bà”.
Sau nỗi nhớ về tuổi thơ dù khó khăn nhưng trong sáng, vô tư bên bà thì trong tâm trí của người cháu lại hiện nên một kí ức cụ thể về sự đau thương, mất mát mà chiến tranh mang lại:
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Cụm từ “cháy tàn cháy rụi” cùng từ láy “lầm lụi” diễn tả tội ác khôn cùng của giặc và nỗi thống khổ của nhân dân ta trong những năm tháng chiến tranh. Giặc cướp phá, đốt làng, khiến bà con xóm làng không còn nơi nương tựa. Trong đó, cả bà và cháu cũng là nạn nhân của bom đạn chiến tranh, đến ngôi nhà nhỏ để che nắng che mưa cũng bị lửa đốt. Ngọn lửa của giặc là ngọn lửa của tội ác, không những không thắp lên hi vọng mà còn hủy diệt sự sống con người. Tuy nhiên, đối diện với hoàn cảnh gian nan ấy, người bà lại tỏa sáng hơn bao giờ hết với phẩm chất cao đẹp:
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Nhà thơ đã lựa chọn các từ ngữ đời thường làm chất liệu sáng tác, đem đến cho bài thơ chất hiện thực đậm đặc. Bà tần tảo, dịu dàng, giàu tình yêu thương nhưng cũng rất mạnh mẽ, kiên cường, bất khuất. Vì không muốn các con lo lắng mà mà âm thầm chịu đựng, gồng mình gánh vác việc gia đình. Sức mạnh tinh thần ấy của bà đã khiến người cháu vô cùng cảm phục nên bà cháu cùng nhau dựng lại túp lều tranh, lại nhen nhóm những bếp lửa mới với niềm hy vọng mới. Hình ảnh người bà là đại diện cho vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam với tám chữ vàng “Anh hùng - Bất khuất - Trung hậu - Đảm đang”.
Khổ thơ tiếp theo chỉ có ba câu thơ ngắn nhưng đã tô đậm nét đẹp tâm hồn của bà:
Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Cụm từ “Rồi sớm rồi chiều” cùng từ “lại” diễn tả vòng thời gian tuần hoàn, cho thấy sự chăm chỉ, không ngơi nghỉ của bà. Ở đây, tác giả đã sử dụng những liên tưởng độc đáo. Ngọn lửa bà nhen không chỉ là ngọn lửa cháy trong chiếc bếp lửa tả thực mà còn là ngọn lửa của niềm tin và sự sống, của tình yêu thương gia đình và đất nước vô bờ bến. Bà không chỉ nhóm lửa, giữ lửa mà còn truyền lửa sống của mình cho mình cho cả cháu. Điệp ngữ “Một ngọn lửa” được đặt ở đầu dòng và lặp lại hai lần trong hai câu thơ đã khẳng định sức sống bất diệt của ngọn lửa bà nhen cũng như sự cảm phục, tình yêu bao la mà cháu dành cho bà.
Khổ thơ thứ sau là những suy ngẫm rất sâu sắc của người cháu về bà và cuộc đời bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ...
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!
Từ láy “lận đận” kết hợp cùng các cụm từ chỉ thời gian “mấy chục năm”, “bây giờ” và hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” đã diễn tả chân thực mà xúc động về cuộc đời vất vả của bà. Suốt mấy chục năm ròng, không lúc nào bàn tay bà ngơi làm lụng bởi cái khó nhọc luôn theo bà. Chính vì vậy mà bà luôn “giữ thói quen dậy sớm” để nhóm lửa, thắp lên tương lai cho cháu. Điệp từ “nhóm” được lặp lại bốn lần, thể hiện tính chất liên tục của công việc nhóm lửa. Trong đó, “Nhóm bếp lửa”, “Nhóm nồi xôi gạo” là những hình ảnh tả thực còn “Nhóm niềm yêu thương”, “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” lại mang ý nghĩa ẩn dụ về những giá trị mà bà và bếp lửa mang lại. Tác giả tìm thấy trong bếp lửa bà nhen sự ngọt bùi ấm no của hương khoai sắn, tình làng nghĩa xóm mặn nồng của nồi xôi gạo “chung vui” và biết bao ước mơ, hi vọng tong trẻo của tuổi nhỏ. Chỉ một bếp lửa, giản dị đơn sơ nhưng cũng thật “kỳ lạ và thiêng liêng”!
Cuối cùng, tất cả những cảm xúc của tác giả được lắng đọng lại trong khổ thơ cuối:
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?...
Điệp từ “trăm”, “có” kết hợp cùng thủ pháp liệt kê nhằm diễn tả sự thay đổi, tìm thấy những niềm vui mới của người cháu. Thế nhưng, giữa thế giới bộn bề rộng lớn, cháu vẫn không bao giờ quên đi hình ảnh bà gắn với bếp lửa, những kỉ niệm thời sống bên bà, từng bài học mà bà dạy dỗ,.. Chính bàn tay gầy guộc của bà, bếp lửa nhỏ bé ngày nào đã chắp cánh cho cháu vươn đến ước mơ. Không chỉ vậy, bà còn chính là động lực để cháu phấn đấu học tập và cống hiến. Khổ thơ cho thấy niềm biết ơn vô hạn của cháu dành cho bà, nêu cao đạo lí ân nghĩa “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc.
Để khắc họa thành công những kỉ niệm thơ ấu cùng nỗi nhớ về bà, tác giả đã sử dụng thể thơ tự do kết hợp với các biện pháp nghệ thuật như điệp ngữ, ẩn dụ, nhân hóa, liệt kê và câu hỏi tu từ. Bài thơ còn kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm, tự sự, miêu tả cùng cách sáng tạo hình ảnh bếp lửa vô cùng độc đáo.
Những lời thơ ấm áp, đầy tin yêu của Bằng Việt đã thắp lên trong lòng người đọc những cảm xúc tinh tế, chân thật về gia đình và Tổ quốc. Tác phẩm xứng đáng là “tiếng lòng của một người con, một nhà thơ luôn hướng về đất nước với những con người Việt Nam thuần hậu, anh hùng, tình nghĩa”.
Nghị luận về bài thơ Bếp lửa - mẫu 3
Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta có thể quên đi nhiều điều, nhưng ký ức tuổi thơ thì khó có thể phai nhạt. Đối với Bằng Việt, kỷ niệm thơ gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa nồng đượm. Tất cả kỷ niệm thời thơ ấu thật ấy được tác giả làm sống dậy trong bài thơ "Bếp lửa". Bài thơ được viết năm 1963 khi tác giả đang sinh sống và học tập xa đất nước.
Bài thơ đã khắc họa chân thật hình ảnh người bà gắn liền với những kỷ niệm trong quá khứ để từ đó tác giả bộc lộ tâm trạng nhớ nhung cùng với những tình cảm yêu thương xen lẫn cảm phục của mình đối với người bà thân yêu.
Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả những hình ảnh, ngôn từ bị cuốn theo dòng hoài niệm. Một thờ quá khứ được tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất cụ thể. Tác giả nâng niu từng mảnh ký ức ký ức hiện về. Theo diễn biến tâm tư của nhân vật người cháu, chúng ta cảm nhận thắm thía từng cung bậc tâm trạng theo từng ngọn lửa trong bài thơ: Lửa của kỷ niệm tuổi thơ, lửa của cuộc sống lúc đã trưởng thành; bếp lửa của bà ngày xưa, bếp lửa ngày nay.
Sống xa quê hương, giã từ xứ lạnh đầy sương tuyết, tác giả chạnh lòng nhớ đến một bếp lửa thật ấm áp của quê hương. Bếp lửa gắn chặt với hình ảnh người bà, bếp lửa của một thời thơ ấu với nhiều kỷ niệm khó phai.
"Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa"
Trong mấy câu thơ mở đầu có một bếp lửa chờn vờn mang màu cổ tích. Hình ảnh "chờn vờn sương sớm" thật sống động, gợi lên ngọn lửa không định hình khi to khi nhỏ, khi lên khi xuống nhưng rất mạnh mẽ. Sử dụng hình ảnh ấy rất thích hợp với trạng thái tâm lý hồi tưởng những gì đã qua, đã rời ra nhưng lại có sức ám ảnh day dứt. Từ láy "ấp iu" bao gồm hàm ý bé nhỏ, thầm kín bên trong, đồng thời còn gợi lên cho ta bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và chăm chút của người nhóm lửa. Điệp ngữ "một bếp lửa" được lặp lại ở đầu những câu thơ có tác dụng nhấn mạnh dấu ấn kỷ niệm sâu lắng trong ký ức tác giả. Nó trở thành hình tượng xuyên suốt hết bài thơ. Hồi tưởng về bếp lửa của quê hương, cũng chính là hồi tưởng về người bà thân yêu của mình. "Cháu thương bà biết mấy nắng mưa". Đọng lại trong 3 dòng thơ đầu có lẽ là chữ "thương" và hình ảnh người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh lầm lũi "biết mấy nắng mưa". Hai chữ "nắng mưa" không chỉ để nói đến nắng mưa của thiên nhiên mà còn gợi cho ta nghĩ đến nắng mưa cuộc đời. Biết bao tình cảm xúc động mà nghẹn ngào trong câu thơ ấy!
Từ tình thương và nỗi nhớ da diết tràn đầy đã đánh thức tác giả sống lại với những năm tháng ấu thơ.
"Lên bốn tuổi.…
...còn cay!"
Lẽ thường, vui thì người ta cũng nhớ, nhưng những kỷ niệm buồn thường sâu đậm hơn nhiều. Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn, đau buồn của nạn đói năm 1945. Đó là năm "đói mòn đói mỏi", "bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy". Đứa trẻ đã sớm có ý thức tự lập và phải sống trong sự cưu mang của người bà. Cảm nhận về nỗi vất vả gián tiếp tác giả bộc lộ thời thơ ấu của mình. "Mùi khói" rồi lại "khói hun nhèm", có thể nói nhà thơ đã chọn được mỗi chi tiết thật chính xác, vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện những tình cảm da diết, bâng khuâng, xót xa, thương mến. Hình ảnh "khói hun nhèm mắt" cũng gợi cho ta nghĩ đến sự cay cực, vất vả tỏa ra từ 1 bếp lửa của gia đình nghèo khổ. Câu thơ "nghĩ lại .... cay" tô đậm nỗi niềm thổn thức của tác giả. Thơ Bằng Việt có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ những chi tiết, ngôn từ chân thật giản dị như thế. Cái bếp lửa kỷ niệm của nhà thơ chỉ mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói ... mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thực, thấm đậm biết bao nghĩa tình sâu nặng.
Từ sau sương khói mịt mờ của tuổi thơ, tác giả đã thổi phồng lên những kỷ niệm của tuổi thiếu niên khi quê hương đất nước có chiến tranh.
"Tám năm ròng.…
...trên những cánh đồng xa."
Ngôn ngữ, hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ như thể giọng kể trong 1 câu chuyện cổ tích, có thời gian, không gian, có sự việc và các nhân vật cụ thể. Nếu trong hồi ức, lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tượng đậm nét nhất của đứa cháu là "mùi khói", thì đến đây, xuất hiện 1 ấn tượng khác là "tiếng tu hú". Lúc mơ hồ, vắng lặng "trên những cánh đồng xa"., lúc gần gũi, nghẹn ngào "sao mà tha thiết thế", tiếng tu hú như than thở, sẻ chia những nỗi nhớ xa cách, trông ngóng mỏi mòn. Đưa tiếng tu hú, một âm thanh rất đồng nội ấy vào thơ, Bằng Việt quả là có 1 tâm hồn gắn bó sâu nặng với quê hương.
Trong những câu thơ ấy, ta thấy từ "bà" được lặp lại nhiều lần cùng với cấu trúc "bà-cháu" sóng đôi gợi sắc điệu tình cảm xoắn xuýt, gắn bó, ấm áp của tình bà cháu. Tác giả như trách móc loài chim tu hú vô tình chỉ gợi sự cô đơn đến vắng vẻ mà không đến san sẻ với bà. Cách nói này đã bộc lộ kín đáo, ý nhị tình cảm của tác giả đối với bà. Tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỷ niệm có chiều sâu. Nỗi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm và vời vợi. Ẩn chứa đằng sau những câu chữ ấy là tình cảm thương yêu, xót xa của nhà thơ trước nỗi cô đơn và sự vất vả của bà.
Nghị luận về bài thơ Bếp lửa - mẫu 4
Viết về người bà trong gia đình, với tình thương và đức hy sinh cao cả, bài thơ "Bếp lửa" của Bằng Việt là một trong những bài thơ lắng sâu trong tâm hồn tuổi thơ mỗi chúng ta. Bài thơ đã cho thấy tình yêu quê hương đất nước chan hòa với bao kỷ niệm tuổi thơ vô cùng thiết tha về người bà kính yêu, người bà đôn hậu và tần tảo sớm khuya sáng bừng lên như một ngọn lửa thần kỳ và thiêng liêng.
Bài thơ mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỷ niệm tuổi ấu thơ sống với bà, làm hiện lên hình ảnh bà chăm sóc, lo toan vất vả với tình thương yêu vô bờ dành cho cháu. Đứa cháu nay trưởng thành, từ nơi xa suy ngẫm, thấu hiểu về bà. Cuối cùng người cháu gởi niềm thương nỗi nhớ về với bà. Vậy mạch cảm xúc của bài thơ là đi từ quá khứ đến hiện tại, từ kỷ niệm đến suy ngẫm theo dòng hồi tưởng. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là tình cảm bà cháu, là nỗi nhớ, lòng kính yêu và biết ơn vô hạn của người cháu với bà mình cũng là với gia đình và quê hương đất nước.
Hình ảnh đầu tiên hiện lên trong trí nhớ của tác giả là hình ảnh bếp lửa ở một làng quê Việt Nam từ thời thơ ấu:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
"Chờn vờn" là từ láy tượng hình vừa giúp ta hình dung làn sương sớm đang bay nhè nhẹ quanh bếp lửa vừa gợi cái mờ nhòa của hình ảnh ký ức theo thời gian. Từ "ấp iu" là một sáng tạo mới mẻ của nhà thơ. Đó không phải là từ láy, từ ghép đơn thuần mà là sự kết hợp và biến thể của hai từ "ấp ủ" và "nâng niu". "Ấp iu" gợi đến bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chi chút của người nhóm bếp. Từ hình ảnh bếp lửa liên tưởng tự nhiên đến người nhóm lửa, nhóm bếp - đến nỗi nhớ, tình thương với bà của đứa cháu đang ở xa:
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
"Biết mấy nắng mưa" là một cách nói ẩn dụ gợi ra phần nào cuộc đời vất vả lo toan của bà. Cả cuộc đời bà đã lo toan cho con, cho cháu, chịu biết bao vất vả, nhọc nhằn.
Khổ thơ thứ hai nói về thời thơ ấu rất xa, đó là kỉ niệm buồn khó quên:
Lên bốn tuổi , cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn, đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến bây giờ sống mũi còn cay!
Hình ảnh những năm tháng chiến tranh chống Pháp gian khổ được hiện về qua thành ngữ "đói mòn, đói mỏi" - cái đói kéo dài làm mệt mỏi, kiệt sức (cuối năm 1944 đầu năm 1945, nạn đói kinh khủng đã xảy ra, hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói). Hình ảnh con ngựa gầy rạc thì chắc người bố đánh xe cũng gầy khô... Nhưng ấn tượng sâu đậm nhất vẫn là mùi khói bếp: khói hun nhèm mắt cháu, khói nhiều cay khét . Đó là kỷ niệm về "mùi khói", về "khói hun", một cảnh đời nghèo khổ gắn liền với bếp lửa gia đình trước cách mạng. Vần thơ là tiếng lòng thời thơ ấu gian khổ, rất chân thật cảm động. "Nghĩ lại đến giờ", 19 năm đã trôi qua, mà đứa cháu vẫn cảm thấy "sống mũi còn cay!" Kỷ niệm buồn, vết thương lòng, khó quên là vậy!
Đoạn thơ thứ ba gồm 11 câu, nhắc lại một vài kỷ niệm sâu sắc về bà trong suốt thời gian "Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa". Hình ảnh, chi tiết tiếp theo chợt đến trong hồi ức của nhân vật trữ tình là tiếng chim tu hú:
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà
Chim tu hú kêu những ngày hè, tiếng tu hú kêu trên những cánh đồng xa cứ khắc khoải kêu mãi, kêu hoài, trong hiện thực đã tha thiết, trong nỗi nhớ lại càng trở nên da diết hơn. Tiếng chim tu hú là âm thanh đồng quê thật tha thiết. Tiếng chim tu hú trở thành một mảnh tâm hồn tuổi thơ. Tiếng chim tu hú, những chuyện kể của bà về Huế thân yêu đã trở thành kỷ niệm :
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Tám năm ấy, đất nước có chiến tranh "Mẹ cùng cha bận công tác không về", cháu ở cùng bà, cháu lớn lên trong tình thương và sự chăm sóc nuôi dưỡng của bà:
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Hai câu thơ 16 chữ mà chữ bà, chữ cháu đã chiếm đúng một nửa. Ngôn từ đã hội tụ tất cả tình thương của bà dành cho cháu, gợi tả tình bà cháu quấn quýt yêu thương, một tình thương ấp ủ, chở che. Hay nhất, hàm súc nhất là từ ngữ "cháu ở cùng bà", "bà bảo", "bà dạy", "bà chăm" đã diễn tả một cách sâu sắc tấm lòng đôn hậu, tình thương bao la, sự chăm chút của bà đối với cháu nhỏ. Trong nhiều gia đình Việt Nam, do nhiều cảnh ngộ khác nhau, mà vai trò của người bà đã thay thế vai trò của người mẹ hiền.
Năm tháng đã trôi qua thế mà bà vẫn "khó nhọc", vất vả "nhóm bếp lửa". Nghĩ về ngọn lửa hồng của bếp lửa, nghĩ về tiếng chim tu hú gọi bầy, đứa cháu gọi nhắn thiết tha chim tu hú "kêu chi hoài". Câu thơ cảm thán và câu hỏi tu từ diễn tả nỗi thương nhớ bà bồi hồi tha thiết. Nhà thơ đắm chìm trong suy tưởng để trò chuyện với con chim quê hương, trách nó không đến ở với bà để bà đỡ nhớ cháu, đỡ cô đơn tuổi già. Câu thơ thật tự nhiên, cảm động, chân thành:
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Năm chữ "nghĩ thương bà khó nhọc" nói lên lòng biết ơn bà của đứa cháu đã và mang nặng trong trái tim mình tình thương của bà dành cho cháu.
Miên man theo dòng cảm xúc hồi tưởng, hình ảnh bà càng hiện lên rõ nét, cụ thể với những phẩm chất cao quý: Bình tĩnh, vững lòng, đinh ninh vượt qua mọi thử thách khốc liệt của chiến tranh,làm trọn nhiệm vụ hậu phương để người đi xa công tác được yên lòng. Bà là chỗ dựa tinh thần vững chắc. Sống trong những năm chiến tranh, khi "giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi" được sự "đỡ đần" của bà con hàng xóm,hai bà cháu mới dựng lại được túp lều tranh, thế nhưng bà vẫn "vững lòng" trước mọi tai họa thử thách:
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
"Bố ở chiến khu, bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!"
Lời dặn trực tiếp của bà khi cháu viết thư cho bố không chỉ giúp ta hình dung giọng nói, tiếng nói, tình cảm và suy nghĩ của bà mà còn làm sáng lên phẩm chất của người bà, người mẹ Việt Nam yêu nước, đầy lòng hy sinh, kiên trì nhóm lửa, giữ lửa
Từ "bếp lửa", đứa cháu nghĩ về "ngọn lửa". Một hình tượng rất tráng lệ. "Bếp lửa bà nhen" sớm sớm chiều chiều đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình thương "luôn ủ sẵn", ngọn lửa của niềm tin vô cùng "dai dẳng" bền bỉ và bất diệt. Cùng với hình tượng "ngọn lửa", các từ ngữ chỉ thời gian: "rồi sớm rồi chiều", các động từ: "nhen, ủ sẵn, chứa" (chứa niềm tin dai dẳng) đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời loạn lạc:
Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Điệp ngữ "một ngọn lửa" và kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào.
Tám câu thơ tiếp theo là những suy ngẫm sâu sắc của nhà thơ, của đứa cháu về người bà yêu kính, về bếp lửa trong mỗi gia đình Việt nam chúng ta. Cuộc đời bà nhiều "lận đận", trải qua nhiều "nắng mưa" vất vả. Bà cần mẫn lo toan, chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm vì bát cơm, manh áo của con cháu trong gia đình. Vần thơ chứa đựng bao nghĩa nặng tình sâu. Cháu vô cùng cảm phục và biết ơn bà:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Bà không chỉ là người giữ bếp giữ lửa mà còn là người nhóm bếp, nhóm lửa:
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Điệp từ "nhóm" trong 4 câu thơ có điểm chung là cùng gắn với hành động nhóm bếp. nhóm lửa của bà nhưng lại khác nhau ở những ý nghĩa cụ thể: khi thì nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm để sưởi ấm cho bà cháu qua cái lạnh của sương sớm; đến câu tiếp theo thì đã vừa nhóm bếp luộc khoai, luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng mà như còn đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình thương vô hạn của bà. Đến câu tiếp theo thì lòng bà còn mở rộng hơn cùng với nồi xôi gạo mới là tình cảm xóm làng đoàn kết, gắn bó, chia ngọt sẻ bùi và đến câu thứ tư thì hoàn toàn mang nghĩa trừu tượng: nhóm dậy tâm tình tuổi nhỏ. Tâm hồn và khát vọng tuổi thơ đã sáng bừng lên từ ngọn lửa do bà nhóm suốt mất chục năm trời.
Chính từ đó mà, theo mạch suy ngẫm, nhà thơ đi lên khái quát rất tự nhiên và hợp lý: "Ôi kỳ diệu và thiêng liêng - bếp lửa". Đúng vậy, vì bếp lửa thật giản dị, bình thường và phổ biến trong mọi gia đình Việt Nam, nhưng bếp lửa cũng thật cao quý, kỳ diệu và thiêng liêng vì nó luôn gắn liền với bà - người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa, người tạo nên tuổi thơ của cháu. Bếp lửa trở thành một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của cháu.
Bốn câu kết thể hiện một cách đằm thắm tình thương nhớ, lòng kính yêu và biết ơn của đứa cháu bé bỏng nay đã đi xa:
Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà , niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?
Cuộc đời mới thật vui, thật đẹp vì đã "có ngọn khói trăm tàu", đã "có ngọn lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả", nhưng cháu vẫn không nguôi nhớ bà, nhớ bếp lửa gia đình thương yêu. Không gian và thời gian xa cách, và dù cuộc đời có đổi thay, nhưng tình thương nhớ bà vẫn thiết tha mãnh liệt. Trở về thời hiện tại, nhà thơ lại muốn hỏi bà, nhắc bà việc nhóm bếp để nói cái ý không bao giờ quên quá khứ, không bao giờ quên được hình ảnh bà với bếp lửa của một thời thơ ấu nghèo khổ,gian nan mà ấm áp nghĩa tình. Như vậy, hình ảnh trung tâm (bếp lửa) mở đầu, khơi nguồn mạch cảm xúc của bài thơ, của dòng hồi tưởng đã được khép lại bằng chính hình ảnh ấy.
"Bếp lửa" là một bài thơ hay và độc đáo. Bài thơ không chỉ nói về bà, về tình bà cháu mà còn có ý nghĩa triết lý thầm kín. Những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có lúc tỏa sáng, nâng đỡ con người suốt cả cuộc đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là một biểu hiện của tình yêu thương, gắn bó với gia đình, quê hương và đó cũng là khởi đầu của tình người, tình yêu nước. Lời thơ đẹp, chất thơ trong trẻo, trẻ trung. Hình tượng thơ: "bếp lửa", "khói hun", "ngọn lửa", "tiếng chim tu hú" bổ sung kết hợp thật tự nhiên giữa kể và tả bằng dòng hồi tưởng và suy ngẫm rất thơ và đầy ấn tượng.
Nghị luận về bài thơ Bếp lửa - mẫu 5
Hẳn ai cũng có một quá khứ bên người thân, gia đình. Trong thời kỳ đất nước chống giặc ngoại xâm, biết bao người đã rời khỏi gia đình để nhập ngũ, dốc sức vì đất nước. Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ mà bố mẹ ông đều đi đánh giặc. Một mình sống với bà nhưng ông không hề cảm thấy cô đơn mà còn rất tự hào và vui sướng vì được sống bên bà. Ông đã sáng tác nên bài thơ “Bếp lửa” để nói lên tình cảm của ông giành cho bà cũng như khẳng định rằng bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người.
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm.
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Ngay ba câu thơ đầu, điệp ngữ “một bếp lửa” đã đi liền với các từ láy chờn vờn, ấp iu… gợi cho ta cái cảm giác ấm áp với tình cảm chứa chan. Và ngay lập tức, hình ảnh người bà đã hiện lên. Ở đây, bà không hiện lên như một bà tiên mà hiện lên trong trái tim của người cháu nhớ về người bà gian nan. Từ hồi ức dần dần trở về dưới những dòng thơ của tác giả:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
Trong tình cảnh nạn đói của đất nước, gia đình tác giả cũng không phải là ngoại lệ. Bố ông còn con ngựa để đi đánh xe là may mắn lắm. Nhưng cái không khí nghèo túng của toàn xã hội đã bao phủ tất cả. Gần hai mươi năm sau, khói vẫn làm cay mắt tác giả. Cái “cay” này không phải là cái “cay” do củi ướt, củi tươi mà cái cay đắng cuả những kỉ niệm đói khổ của nhiều người, trong đó có hai bà cháu tác giả.
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”
“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa của sự sống và của tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy.Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lấn làm cho âm điệu cấu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả.Tiếng “tu hú” lúc mơ hà, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơ, rộng hơn trong cái không gian xa thẳng của nỗi nhớ thương.
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!”
Qua đoạn thơ này ta thấy hiện lên một căn nhà quạnh quẽ giữa đồng, chỉ hẩm hút có một già một trẻ. Đứa trẻ thì “ăn chưa no, lo chưa tới”, còn bà thì ốm yếu hom hem. Bà phải xoay sở nuôi thân mình và nuôi cả cháu. Vậy mà bà còn “bảo cháu làm, chăm cháu học” bên cạnh cái bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa ở đây không ghi dấu đắng cay nữa mà đó là hình ảnh của một căn nhà ấm áp, nương náu để hai bà cháu sinh sống.
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ.? cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cách chim, là một cành hoa của riêng ông. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Nững bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thất sự một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,… Nhà thơ bổng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ ngươi. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lấn gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời.
Chiến tranh, một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi…
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở vế lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lếu tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bong của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lới dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ. “Cứ bảo nhà vẫn đươc bình yên!”. Lới dăn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữa Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con qúy cháu.
Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh ngọn, một ngọn lửa:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yên thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng si sáng cho con đường đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.
Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thớ muốn gửi tới bạn đọc, qua đó cũng là những bài học sâu sắc từ công việc nhỏ, lửa tưởng chừng đơn giản:
“Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm”
Một lấn nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.
“Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”
Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩ tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống vơi nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì.
“Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”
“Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răng dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ.
“Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.
Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đấy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu tứ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:
“Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.”
Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà.Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trờ thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu.
Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, nhà thơ Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Xa vòng tay chăm chút của bà để đến vớí chân trờì mới, chính tình cảm của hai bà cháu đã sưởi ấm lòng tác giả trong cái mùa đông lạnh giá của nước Nga. Đứa cháu nhỏ của bà ngày xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vần luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nới nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đứa cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của đứa cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.
Qua bài thơ, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lửa hồng và dáng người bà lặng lẽ ngồi bên. Bếp lửa là hình ảnh đẹp nhằm gợi tả sự ấm áp của gia đình đối với mỗi người. Bài thơ “Bếp lửa” sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc nhờ sức truyền cảm sâu sắc của nó. Bài thơ đã khơi dậy trong lòng chúng ta một tình cảm cao đẹp đối với gia đình, với những người đã tô màu lên tuổi thơ trong sáng của ta. Có lẽ khi nhắc về quá khứ, nhất là những thời điểm đẹp đẽ, người ta vẫn thường kể nhiều hơn. Với “Bếp lửa” nhà thơ Bằng Việt thực đã dắt dẫn người đọc vào sâu trong mạch kể, mạch hồi tưởng của ông. Hồi ức đẹp một đi không trở lại của tuổi thơ được tái hiện không phải bằng một trí nhớ lan man, chắp vá. Trái lại, ở sâu trong tiềm thức của tác giả, hình ảnh “Bếp lửa” và “người bà” lúc nào cũng tỏ sáng lạ kì – trở thành một điểm đi về trong cõi nhớ. Dòng suy tưởng và hoài niệm của người cháu xa quê nhà có lẽ đều được khởi nguồn từ những hình ảnh đầy giản dị mà thân thương, ấm áp vô cùng.
Việc đồng hiện lên hình ảnh “Bếp lửa” và “bà” trong bài thơ thật dễ khiến cho người ta có một sự liên tưởng về mối quan hệ lạ kì, thiêng liêng. Từ bếp lửa của củi rơm đến “Bếp lửa” của lòng người có lẽ hơn bao giờ hết con người cảm nhận thật rõ về tình bà cháu, tình quê nồng ấm.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hum nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
Cái “nỗi nhớ về bếp lửa” được nói trực tiếp song không vì thế mà giảm đi phần sâu lắng, tinh tế. Hình ảnh “Bếp lửa” gợi nhớ bằng nhiều giác quan bằng trí tưởng tượng. Thị giác (chờn vờn sương sớm), cảm giác (ấp iu nồng đượm) và khướu giác (sống mũi còn cay) rồi xúc giác (hun nhèm mắt cháu). Tác giả hướng mọi giác quan để quay về sống lại kỉ niệm trong trí tưởng tượng. Dường như không còn cảm giác khoảng cách của thời gian ở đây nữa, mọi hình ảnh gắn với bếp lửa đã tái hiện chân thật, rõ ràng từ một thời kí ức xa xôi ! Hình ảnh bếp lửa còn gắn với người bà đầy thân thương. Tuy không trực tiếp nói ra song người đọc hình dung được công việc của người bà : “nhóm bếp”. Tuổi thơ của cháu gắn với bếp lửa, với mùi khói cay nhèm và cũng gắn chặt với bà. Phải chăng hình ảnh: “Một bếp lửa ấp iu nồng đượm” chính là hoá thân của tình cảm bà dành cho cháu. Vì vậy có lẽ tìm về với bếp lửa quê nhà cũng chính là tìm về tuổi thơ sống bên bà dành cho cháu. Sự tương đồng đẹp đẽ ấy dễ thường mấy ai nhận ra. Chỉ có Bằng Việt với khoảng cách thời gian đầu đời trong sáng được gắn bó bên bà mới có thể “cảm” sâu sắc đến thế, cái tưởng chừng quá bình dị, mộc mạc. Đắm mình trong dòng hồi ức tươi mát của tác giả, chúng ta muốn tìm đến với những tình thương yêu nồng hậu như thế.
“Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế…
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
Cái ấm áp của “Bếp lửa” và “tình người” trong sự tương đồng, ta đã biết.
Đằng sau đó dường như còn có một sự tương đồng nữa. Bếp lửa và người bà đều là những gì gắn bó, thân thương nhất với kỉ niệm của cháu. Nếu “Bếp lửa củi rơm” gắn với cảm nhận “mùi khói”, với kỉ niệm “khói hun nhèm mắt cháu”, với dư vị “sống mũi còn cay” thì người bà gắn với tuổi thơ cháu vừa như một người biết chăm sóc, vừa như một người bạn lớn. Những kí ức như ùa vào trong tâm tưởng cháu. Đó là từ năm : “lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói”, lại cả những năm “đói mòn đói mỏi”, những lúc bà hay kể chuyện những ngày ở Huế những khi “giặc đốt nhà cháy tàn, cháy trụi”… Từ lúc nào tuổi thơ nhỏ bé của cháu đã được truyền hơi ấm từ bếp lửa, từ bà ! Một điều không thể ngẫu nhiên là : mỗi khi nhắc về bếp lửa thì lại thấy xuất hiện người bà và mỗi khi xuất hiện người bà lại thấy công việc của bà xoay quanh bếp lửa.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc.
Không nói mà tình cảm vẫn dạt dào, không hô hào, bồng bột mà người ta vẫn không thể làm ngơ trước sự chân thành. Đó có lẽ là những gì Bằng Việt đã làm khi dựng lên hình ảnh song song mà hoà hợp với nhau giữa “Bếp lửa” và “người bà”. Trong kỉ niệm, trong cảm xúc của mỗi nỗi nhớ, lí trí đã nhường chỗ cho tình cảm và cái rõ ràng, minh bạch đã nhoè đi để được thêm những cái mơ màng, chập chờn của hồi ức. Hình ảnh bà và bếp lửa qua tâm trạng ấy đã đồng nhất, hoà quyện với nhau. Tuy một mà hai tuy hai mà một để chỉ còn hiện lên trong tâm tưởng người cháu của một cái gì thật ấp iu, nồng đượm.
Hình ảnh bếp lửa trong bài thơ xét cho kĩ thì chính là điểm gợi hứng, là cầu nối để đứa cháu phương xa ngàn dặm gửi tình thương nỗi nhớ về bà, về quê hương. Nhưng qua dòng hồi tưởng nhẹ nhàng tươi mát của cháu, bếp lửa của củi rơm kia cũng không còn là bếp lửa bình thường như cái nhìn trước đó. Nó trở thành một hình ảnh cứ trở đi trở lại trong bài thơ, trong tâm trí người cháu và không lần nào cái bếp lửa bình dị ấy không gắn với hình ảnh người bà tảo tần, đầy thân thương. Và vì lẽ đó mà người ta có cảm giác bếp lửa kia chính là tình cảm của người bà đôn hậu.
Nếu có một bếp lửa quê nhà vẫn “chờn vờn sương sớm” thì cũng có một ngọn lửa tình bà “ấp iu nồng đượm”. Có lúc hai thứ lửa ấy cùng tách ra, lại có khi hợp cùng nhau. Khi tách ra nó gợi về những kỉ niệm : kỉ niệm về bếp lửa củi rơm (“khói hun nhèm mắt cháu”, “sống mũi còn cay”) kỉ niệm về bếp lửa tình bà (“Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”, “bà dạy cháu làm bà chăm cháu học”) Nhưng khi đã hoà hợp với nhau nó trở thành một thứ tình cảm thiêng liêng, kì lạ biết bao trong cái bình dị. Sống mũi còn cay là thực của ngày xưa ngồi cạnh bếp lửa, bên bà và là thực của hôm nay (và chắc là mãi mãi) của tình bà cháu.
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới xẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm hồn tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng – Bếp lửa”.
Trong cái hoà quyện tuyệt vời, người ta thấy cái nóng cái đượm của bếp lửa củi rơm cũng như cái nồng cái ấm áp của bếp lửa lòng người. “Bếp lửa” kì lạ, thiêng liêng ấy nhóm “khoai sắn ngọt bùi”, “nồi xôi gạo mới” cũng dành nhóm cả “niềm yêu thương”, “tâm tình tuổi thơ”. Thực là diệu kì. Tại sao nói đoạn thơ trên là một trong những đoạn hay nhất của bài thơ, câu trả lời có lẽ nằm ở cái tình ấm lửa trong đó mà lúc nào cũng được ấp ủ.
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Tình cảm của bà rõ ràng đã được tượng trưng hoá với “ngọn lửa”. Nếu nói “Bếp lửa” e chưa thật trúng, còn nói “ngọn lửa” thì người ta cảm thấy cái linh hồn, tình cảm đã nằm ngay ở đó. Ngọn lửa ấy phải chăng là tâm huyết, nhiệt huyết (chứa niềm tin dai dẳng) phải chăng là tình yêu (lòng bà luôn ủ sẵn). Từ “Bếp lửa” đến “ngọn lửa” có lẽ là hành trình từ cái đơn sơ giản dị đến những cái thiêng liêng cao cả, từ cái thực đến cái linh hồn. Một lần nữa hình ảnh “Bếp lửa” hay “ngọn lửa” đã tiếp tục tôn cao lên tấm lòng chân chất, tình thương giản dị sâu sắc mà đôn hậu của bà. Có thể chấp nhận được chăng khi ta hình dung “Bếp lửa” trong kí ức tuổi thơ của tác giả chính là hiện hữu của một tình yêu nồng nàn, đượm đà bà dành cho cháu ? Cái chính là bà lúc nào cũng ấp ủ một ngọn lửa vô hình song “dai dẳng”, “thiêng liêng” để lúc nào cũng vậy hễ nhắc tới “Bếp lửa” thì tác giả và người đọc luôn cảm thấy có bà trong đó.
Chẳng phải vô tình mà trong suốt bài thơ, hình ảnh “Bếp lửa” cứ ám ảnh tâm trí Bằng Việt như vậy. Không dưới mười lần tác giả nhắc tới hình ảnh đó và lần nào cũng kèm theo sự xuất hiện của bà. Tác giả đang làm cái công việc của người đi so sánh, thí dụ giá trị hai vẻ đẹp “Bếp lửa” và “người bà” chăng ?
Không hẳn như vậy ! Đọc kĩ lại ta thấy Bằng Việt đã làm một mĩ từ pháp có hiệu quả cao nhất: ẩn dụ. Hình ảnh bếp lửa là ẩn dụ của ngọn lửa nồng hậu nơi người bà, và tình cảm người bà chính là ẩn dụ ngọn lửa – một thứ tình yêu cao cả nhất. Ta đã biết “người bà” và “Bếp lửa” là hai giá trị chẳng thể nào tách rời trong hồi ức của tác giả thì lẽ nào tác giả lại đi làm công việc trái ngược nhau : phân tích hai hình ảnh để so sánh ? “Bếp lửa” tượng trưng cho cái đơn sơ, khiêm nhường. Đã bao giờ chúng ta nghĩ về bếp lửa nhà mình như thế này chưa : nó giản dị, đơn sơ (chỉ vài que củi, một ôm rơm, một cái kiềng là thành một bếp lửa). Nó cũng thật khép nép khi thu mình vào trong góc bếp chật chội. Nhưng bếp lửa cũng là một cái gì đó rất ấm áp nồng đượm (những ngày đông lạnh thấu da thấu thịt). Người bà cũng vậy : thật chân chất, mộc mạc, dân dã, quê kiểng song ẩn chứa tình yêu vô bờ, tha thiết, chan chứa. Qua con mắt nhà thơ, bếp lửa và bà bình dị, cao quí, thiêng liêng. Lấy hình ảnh của bếp lửa để nói về tình cảm của bà dành cho mình, thiết tưởng Bằng Việt phải nặng lòng với bà, với quê hương lắm.
Một đứa con xa quê hương, một đứa cháu xa bà luôn luôn thường trực trong nỗi nhớ về “Bếp lửa” – về tình yêu ấm nồng tưởng như cái lạnh cái cô đơn ở quê người cũng đôi chút vợi đi vậy. Nhưng nhớ về cái “Bếp lửa” phải chăng cũng đồng nghĩa với việc nhớ quê nhà, nhớ về bà đồng nghĩa với việc nhớ về tổ ấm gia đình với niềm vui sum họp.
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà. Niềm vui trăm ngã
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”
Trong tình cảm của bà có tình cảm của đất nước, tác giả nhớ đến tình bà cũng là nhớ đến đất nước quê hương. Có người từng nói: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc” Nói như vậy có nghĩa là tình cảm của bà trở nên lòng yêu Tổ quốc là một ẩn dụ của tình cảm của đất nước dành cho những người xa quê. Hành trình từ “Bếp lửa” đến “Bếp lửa” là hành trình của giọt nước hoà vào suối và đổ ra sông… Càng ngày càng thiêng liêng, cao cả. “Bếp lửa” là một dòng hồi tưởng “chờn vờn”, “nồng đượm”, rực sáng mãi không thôi trong lòng những người dù chỉ đến với nó một lần. Làm sao chúng ta sống lại tuổi ấu thơ cảm động bên người bà yêu dấu với tình thương bao la, sâu đậm ở một miền quê còn nhiều đau khổ. Một ngọn lửa mãnh liệt như vậy liệu có bao giờ vụt tắt được chăng?
Nghị luận về bài thơ Bếp lửa - mẫu 6
Những kỉ niệm tuổi ấu thơ ai mà chẳng có. Tế Hanh có “con sông xanh biếc” với những người bạn bè bơi lội, vui đùa. Giang Nam có “thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường”. Nguyễn Duy có một sân “chơi đáo, chơi vòng” của bạn bè cùng lứa, có tuổi thơ thả hồn với đồng ruộng. Bằng Việt cũng có một tuổi thơ da diết vọng về với hình ảnh người bà thân yêu. Chính tình cảm bà cháu thân thương, ấm áp đã đan dệt thành một bài thơ đầy xúc động và khơi gợi nhiều ý nghĩa. Đó là bài thơ “Bếp lửa”.
Khi nhớ về quê hương, người ta thường nhớ về những kỉ niệm gắn bó với làng quê có con sông xanh biếc, cây đa, bến nước, sân đình… Những dòng hồi tưởng của Bằng Việt lại bắt đầu từ hình ảnh thân thương về bếp lửa:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
Từ láy tượng hình “chờn vờn” giúp ta hình dung ánh lửa hồng khi mờ khi tỏ trong sớm mai, gợi về cái mờ nhòa của kí ức theo thời gian. Người cháu xa nhà không thể nào quên được bếp lửa bình dị, thân quen. Không chỉ thấy cái “chờn vờn” của ngọn lửa mà cháu còn cảm nhận được cái hơi ấm của màu than đỏ đang “ấp iu nồng đượm”. Từ láy “ấp iu” vừa diễn tả chính xác công việc nhóm lửa vừa gợi bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và tấm lòng chăm chút của người nhóm bếp. Tình cảm trào dậy một cách tự nhiên:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”
“Nắng mưa” là hình ảnh ẩn dụ quen thuộc gợi ra bao vất vả, nhọc nhằn, thăng trầm trong cuộc đời bà để nuôi cháu khôn lớn. Chữ “thương” được dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán đã gói trọn bao cảm xúc của cháu dành cho bà. Từ đây bà và bếp lửa là hai hình ảnh sóng đôi, đi suốt dọc bài thơ và theo cả nỗi nhớ của người cháu. Từ bếp lửa nhớ về người nhóm lửa, ký ức đưa người cháu trở về những năm lên bốn tuổi:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Tuổi thơ của cháu không phải là vòm trời cổ tích cao rộng với những phép màu diệu kì của ông Bụt, bà Tiên. Tuổi thơ của cháu thật nhọc nhằn, quen mùi khói bếp nhà nghèo và có bóng đêm ghê rợ của nạn đói năm 45. Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” diễn tả cái đói triền miên, dai dẳng, cái đói vắt kiệt sinh lực của biết bao nhiêu con người.
Người bố đi đánh xe với con ngựa gầy, tất cả trong mùi khói hun đến nghẹt thở, nao lòng cả tuổi thơ. Nghĩ mà thương tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương bà. Cái cay nồng mà người cháu cảm nhận được không phải là mùi khói bếp mà đó chính là dư vị tuổi thơ ám ảnh trong tâm thức bỗng trỗi dậy mạnh mẽ. Năm tháng qua đi nhưng nó đã trở thành vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai.
Qua những năm tháng đói mòn đói mỏi lại nhớ về kỉ niệm những năm chiến tranh “Mẹ cùng xa công tác bận không về”. Tám năm cháu ở cùng bà. Bên ánh lửa bập bùng, bà vừa là cha, là mẹ, bà dạy dỗ cháu nên người:
“Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”
Sự xuất hiện của hàng loạt những động từ “dạy”, “bảo”, “chăm”, “học”, “ở”, “nghe”, “làm” diễn tả những công việc lặng thầm của bà. Mỗi cử chỉ của bà đều thấm đẫm tình yêu thương, sự cưu mang, đùm bọc cháu. Bếp lửa còn đánh thức thêm kỉ niệm nữa của tuổi thơ, kỉ niệm với tiếng chim tu hú. Tiếng chim tu hú là âm thanh quen thuộc của làng quê mỗi độ vào hè.
Tiếng chim râm ran trong vòm lá, trên cánh đồng, cứ khắc khoải kêu hoài, kêu mãi, giục giã cả một khoảng trời, khiến cho lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong. Nhà thơ đang kể chuyện mà như tách hẳn ra để trò chuyện cùng bà:
“Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.”
Những câu chuyện đó là sự từng trải của cuộc đời bà và bà muốn nhắc nhở cháu hãy sống thật tốt, thật có ích cho cuộc đời. Tự nhiên cháu thấy thương bà quá. Cháu thương bà vất vả, lo toan, không biết ngỏ cùng ai chỉ biết tâm tình với chim tu hú mà thôi:
“Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Câu hỏi tu từ đã thể hiện được những cung bậc cảm xúc trong tâm trạng của người cháu. Như vậy hình ảnh “bếp lửa” đã đánh thức kỉ niệm tuổi thơ, ở đó lung linh hình ảnh người và có cả hình ảnh đất nước. Hình ảnh người bà bỗng trở nên cao lớn vĩ đại khi người cháu nhớ về những năm tháng đau thương, vất vả khi giặc tàn phá xóm làng.
Lời dặn “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ. Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” không chỉ gợi ra giọng nói hiền từ của bà, suy nghĩ của bà mà còn làm sáng lên phẩm chất của bà. Bà đã nhận về mình tất cả mất mát, khổ đau để con cháu yên tâm đánh giặc. Bà là người mẹ, người bà, người phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến. Với Bằng Việt, họ gánh cả kháng chiến lên đôi vai bé nhỏ của mình.
Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ, về bà, người cháu trở về với hiện tại để suy ngẫm về cuộc đời và những lẽ sống về bà, cũng là để thương bà nhiều hơn, nhớ bà nhiều hơn:
“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng…”
Từ bếp lửa bình dị thân quen ấy đã nâng lên thành ngọn lửa. Ngọn lửa không chỉ được nhen lên bằng những nguyên liệu đời thường mà còn được nhen lên từ tấm lòng bao la của bà, được bà ấp ủ, chở che nên không bao giờ vụt tắt. Điệp từ “rồi” kết hợp với hai danh từ chỉ thời gian “sớm”, “chiều” khiến câu thơ vang lên như bước gõ nhịp của thời gian. “Bếp lửa” là hình ảnh tả thực còn “ngọn lửa” được chuyển hóa thành hình ảnh biểu tượng.
Ngọn lửa là những kỉ niệm lòng nâng bước cháu trên chặng đường dài. Ngọn lửa là niềm tin dai dẳng, bền bỉ, bất diệt bà nhen lên trong lòng cháu. Nhờ ngọn lửa ấy mà cháu tin vào chiến thắng của dân tộc. Điệp ngữ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành vừa tạo nhạc tính cho câu thơ khiến lời thơ dồn dập, tha thiết mà mạnh mẽ, xúc động, vừa khẳng định sức sống mãnh liệt, bất tận của ngọn lửa bà nhen. Theo dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu, hình ảnh người bà hiện lên lung linh, sáng đẹp, ấm áp:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…”
Từ láy “lận đận” giàu giá trị gợi cảm được đảo lên đầu dòng thơ gợi ra bao vất vả, nhọc nhằn, gian truân của cuộc đời người bà. Điệp từ “nhóm” đứng ở đầu mỗi dòng thơ, nhắc đi nhắc lại bốn lần khắc ghi những ý nghĩa trong công việc nhóm lửa của bà. Mỗi sớm mai bà nhóm lên bếp lửa là nhóm lên niềm yêu thương; nhóm sự chở che, cưu mang đùm bọc giữa ngọt bùi, khoai sắn; nhóm sự sẻ chia, đoàn kết của tình làng, nghĩa xóm; nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ của cháu.
Bà không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa và giữ lửa. Bà không chỉ làm công việc khởi đầu của một ngày mà còn làm công việc khởi đầu của một đời người. Từ đây cảm xúc về bà và bếp lửa dâng trào lên mãnh liệt:
“Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!” Người cháu giờ đây đã khôn lớn trưởng thành, nhưng trong sâu thẳm lòng cháu vẫn da diết một nỗi nhớ thương về bà và bếp lửa:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”
Nơi cháu đang sống với đầy đủ tiện nghi vật chất, khác hẳn với không gian của bà cháu nơi quê nhà, nhưng cháu luôn nhớ về bà, nhớ về ngọn lửa bà nhen. Câu hỏi tu từ ở cuối bài thơ nhắc nhở cháu không nguôi nhớ về những kỉ niệm về bà và bếp lửa.
Bài thơ đã sáng tạo hình ảnh bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Bài thơ có sự kết hợp giữa miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận, giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu. Bài thơ chứa đựng một ý nghĩa thầm kín: Những gì là thân thiết nhất với tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời.
“Tác phẩm là kết tinh tâm hồn người sáng tác”. Bài thơ “Bếp lửa” đã thể hiện được tất cả tình yêu thương của Bằng Việt đối với người bà kính yêu của mình. Chính tình cảm bà cháu thiêng liêng ấm áp đã đan dệt thành một bài thơ xúc động và mang nhiều ý nghĩa.
Nghị luận về bài thơ Bếp lửa - mẫu 7
Trong mỗi chúng ta chắc hẳn ai cũng có những kỉ niệm về thời thơ ấu mà ta sẽ mãi mang theo trong suốt cuộc đời. Những kỉ niệm đó có thể là những ngày hè theo chúng bạn đi chơi hay chỉ đơn thuần là mùi hương cánh đồng ngai ngái cũng có thể khiến ta xao xuyến. và đối với nhà thơ Bằng Việt, những kỉ niệm vô giá của ông lại chính là hình ảnh bếp lửa thân thương, ấm áp như tình yêu thương của bà dành cho cháu.
Bài thơ “Bếp lửa” như tiếng lòng của người cháu dành cho bà suốt những năm tháng ấu thơ vất vả, bộn bề lo âu. Hình ảnh “bếp lửa” gần gũi, bình dị trong mỗi gia đình Việt Nam thời xưa nhưng dường như có sức ám ảnh và lay động tác giả. Vì bếp lửa gắn với bà, gắn với kỉ niệm ấu thơ không thể phai nhòa.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng bếp lửa
Điệp từ “một bếp lửa” có sức chứa đựng tình cảm và cảm xúc rất lớn và chân thành, thôi thúc tác giả luôn có một nỗi nhớ thường trực ở trong đó. Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn” và “ấp iu” diễn tả sự gắn bó, không thể tách rời. Một loạt những ký ức về bà, về kí ức ngày xưa cứ thế dội về mạnh mẽ, khiến tác giả phải thốt lên “ôi”. Một từ “ôi” mang nặng ân tình, thiêng liêng, nồng đượm biết bao nhiêu. Hẳn rằng Bằng Việt đã có những năm tháng đáng nhớ, đáng trân trọng bên cạnh bà. Kí ức cứ thế ừa về:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay
Một tuổi thơ nhọc nhằn, vất vả bên cạnh bà. Một cậu bé bốn tuổi đã quá thân thuộc với mùi khói ở bếp lửa. Đất nước rơi vào ách thống trị thực dân, tình cảnh nạn đói thê thảm là điều không tránh khỏi. Khói bếp tuổi thơ đã “hun” đầy trong khóe mắt, hun cả một vùng trời tuổi thơ nhọc nhằn. Chữ “cay” ở cuối câu thơ như lắng lại, gieo vào lòng người nỗi buồn man mác. Là sống mũi "cay” hay là tuổi thơ cay cực, là thương bà, thương bố mẹ hay thương bếp lửa tần tảo sớm hôm.
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
“Tám năm ròng” là thời gian dài đằng đẵng, thời gian tuổi thơ của cháu nhọc nhằn bên cạnh bà. Bà và cháu cùng nhóm lửa, nhóm lên sự sống và nhóm lên tình yêu thương vô bờ bến. Tiếng “tu hú” trở đi trở lại trong đoạn thơ rất nhiều khiến cho nhịp thơ da diết, bồn chồn. Tu hú gọi hè, tu hú gọi lúa chín, gọi cả những giấc mơ của cháu về tương lai đất nước hòa bình độc lập.
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Một khổ thơ cảm động. Một khổ thơ cảm xúc được bật ra sau bao nhiêu năm kìm nén ở trong. Năm tháng sống bên cạnh bà tuy khó nhọc nhưng tràn đầy ân tình. Cậu bé nhỏ thương bà khó nhọc bên bếp lửa, thương cho bà một mình nuôi cháu. Và tiếng kêu của tu hú lại khiến cho tâm sự của người cháu trở nên nặng nề hơn.
Tình bà cháu trong đoạn thơ này thực sự khiến người đọc chùng lại, rưng rưng nước mắt. Đất nước chìm trong bom đạn nhưng bà vẫn luôn chở che, chăm lo cho cháu từ bữa ăn đến giấc ngủ. Còn tình cảm nào thiêng liêng và cao cả hơn nữa. Nhưng chiến tranh đã cướp đi bao nhiêu thứ, máu và nước mắt, cả tình yêu:
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên
Đức hi sinh cao cả của người mẹ dành cho con, của người bà dành cho cháu. Dù gian khổ, dù mất mát nhưng hậu phương luôn phải là chỗ dựa vững chắc và bình yên nhất cho tiền tuyến. Hình ảnh người bà trong đoạn thơ này đầy đức hi sinh cho gia đình, cho tổ quốc. Lời dặn dò của bà đối với cháu nặng tựa nghìn non, chất chứa nghĩa tình sâu đậm. Bà yêu thương cháu, thương con, thương cho đất nước lầm than.
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Nhóm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo sẻ chung đôi
Từ “bếp lửa” tác giả đã chuyển thành “ngọn” lửa như nâng tầm cao hơn của tình yêu và sự hi sinh của người bà. Bà vẫn luôn nhen nhóm yêu thương, một tình yêu chung và riêng bao la, bất diệt. Khổ thơ cuối cùng là thời điểm trở về thực tại của tác giả, giống như là một chuyến đi trở về tuổi thơ. Giọng thơ chùng xuống, cảm xúc nghẹn ngào:
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa
Đứa cháu nhỏ của bà giờ đã trưởng thành, đến một đất nước xa xôi cách bà nửa vòng trái đất nhưng những ký ức tuổi thơ đó luôn là điều thiêng liêng mà cháu luôn trân quý. Nhắc nhở bản thân không được phép quên đi. Nhắc nhở kí ức luôn sống mãi, không quên.
Bài thơ “Bếp lửa” với câu từ giản dị, cách viết nhẹ nhàng nhưng dường như khiến người đọc thấy cay cay ở khóe mắt. Một bài thơ tràn đầy tình yêu, tràn đầy hạnh phúc giữa đắng cay cuộc đời.
Nghị luận về bài thơ Bếp lửa - mẫu 8
Bài thơ "Bếp lửa" được viết vào năm 1963. Trong thời gian này, cả nước đã kết thúc thành công cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp. Miền Bắc đang tích cực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam tiếp tục chiến đấu chống lại cuộc xâm lược của đế quốc Mỹ.
Hình ảnh ngọn lửa trong bài thơ gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ của nhân dân ta. Đối với cá nhân tác giả, bài thơ "Bếp lửa" gợi nhớ lại những kỷ niệm của tôi và những năm xa cha mẹ. Trong khoảng thời gian đó, bà đã là người chăm sóc tôi và dạy dỗ tôi nên người.
Hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh bà ngoại, khơi dậy tình yêu, sự tôn trọng và biết ơn của các cháu đối với bà.
Trong nhiều năm dài và khó khăn, tôi có thể ở lại với bà ngoại: Tôi nuôi dưỡng thời thơ ấu của mình bên bếp lửa của bà. Bà không chỉ sưởi ấm cuộc sống của tôi, đã thay thế cha mẹ tôi để dạy tôi trở thành một con người tốt.
Làm sao tôi có thể quên những năm tháng đó. Bà luôn quan tâm và chăm sóc từng bữa ăn và giấc ngủ. Trong bà, một tình yêu vô hạn dành cho cháu trai nhỏ của bà đã xuất hiện.
Bài thơ không chỉ giới hạn trong tình yêu gia đình mà còn thể hiện tình yêu quê hương, đất nước. Tình yêu thương và lòng biết ơn đối với bà ngoại gắn liền với tình yêu thương và niềm tự hào về quê hương, đất nước. Do đó, tinh thần chiến đấu của cháu trai xuất phát từ tình yêu và tình yêu của bà dành cho ngôi làng.
Hình ảnh bếp lửa là một sáng tạo độc đáo của nhà thơ. Qua đó, nhà thơ bày tỏ tình yêu và lòng biết ơn đối với người bà đã hy sinh vì con cháu.
Nghị luận về bài thơ Bếp lửa - mẫu 9
Bếp Lửa là một trong những sáng tác đầu tay của ông nhưng ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến nay “Bếp lửa” vẫn luôn có một vị trí riêng trong nền thi ca Việt Nam. Bài thơ được in trong tập “Hương cây – Bếp lửa” vào năm 1968. Đây cũng được xem như là một trong những thi phẩm hay nhất về tình bà cháu trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa quen thuộc của làng quê Việt Nam để từ đó gợi nhắc người cháu nhớ về bà:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Ba tiếng “một bếp lửa” được lặp đi lặp lại ngay ở đầu bài thơ bởi lẽ hình ảnh này đã quá quen thuộc với làng quê Việt Nam, hơn nữa những kỷ niệm về bà cũng gắn liền với nó.
Nhắc đến bếp lửa là nhắc đến bà, nhắc đến bếp lửa sẽ gợi cho tác giả những kỷ niệm về một người bà tần tảo sớm hôm bên căn bếp nhỏ. Chữ “thương” ấy đã lan tỏa ra từng câu từng chữ để rồi thấm vào tận sâu thẳm trái tim người đọc.
Bốn khổ thơ tiếp theo lần lượt là những ký ức về năm tháng cháu được sống bên bà. Đầu tiên là kỷ niệm của người cháu khi lên bốn tuổi:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói, hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Đoạn thơ vừa là ký ức về một tuổi thơ gian khổ của cháu vừa gợi nhắc về nạn đói khủng khiếp năm bốn lăm.Vẫn là hình ảnh bếp lửa, bếp lửa mờ mờ khói nhưng đã khơi lên biết bao cảm xúc chân thật, bao tình cảm, bao nhớ thương và cả những giọt nước mắt nơi người đọc.
Kỷ niệm về bà cứ thế theo cháu từng ngày, gắn liền với quá trình trưởng thành của cháu:
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Cái đói khổ chưa qua thì giặc ngoại xâm đã tới. Chiến tranh ác liệt, mẹ và cha đều bận công tác xa nha “Mẹ cùng cha công tác bận không về”, ngần ấy thời gian cháu lớn lên cùng bà. Không còn hình ảnh bếp lửa, không còn mùi khói cay xè mắt cháu, ký ức của cháu lúc này là tiếng kêu của những con chim tu hú trên trời cao.
Họ – một già, một trẻ đã phải nương tựa vào nhau mà sống hết những tháng ngày gian khổ của chiến tranh như thế. Nhưng dù có nghèo, có khổ thì người bà vẫn luôn hết lòng chăm lo cho đứa cháu của mình: “Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe/ Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”.
Những ký ức về bà lớn dần, lớn dần lan tỏa sang cả nỗi nhớ làng quê, nhớ đất nước:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lũi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Lời dặn dò “Mày viết thư chớ kể này kể nọ/ Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!” cho thấy hình ảnh của một người phụ nữ tần tảo, giàu tình thương. Dẫu trong hoàn cảnh nào bà vẫn kiên cường để làm điểm tựa tinh thần cho người cháu, làm hậu phương vững chắc cho người con chiến đấu ngoài chiến trường.
Từ những hình ảnh bếp lửa cụ thể, gắn liền với cuộc sống, lời thơ chuyển sang cái trừu tượng của “ngọn lửa” với những tầng nghĩa mới:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Ngọn lửa ở đây là ngọn lửa của tình yêu thương, của sức sống mãnh liệt, của tình yêu thương thầm lặng, của niềm tin vào tương lai đất nước. Điệp từ “một ngọn lửa” nối tiếp nhau đã tạo nên một nhịp thơ mạnh mẽ, chắc khỏe nhưng cũng rất lung linh và đủ sức làm ấm lòng người đọc.
Khổ thơ cuối là lời tâm sự, bộc bạch của đứa cháu đã lớn khôn. Dù khoảng cách có xa xôi bao nhiêu, dù cho “khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả” “Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở/ – Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…”. Cháu luôn nhớ về bà bằng tất cả tình yêu thương, sự biết ơn và nỗi nhớ của mình.
Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ khi vừa mới ra đời cho đến tận hôm nay “Bếp lửa” vẫn luôn có chỗ đứng riêng của nó. Bằng những hình ảnh chân thực cùng tất cả tình cảm chân thành Bằng Việt đã thật sự chạm đến trái tim người đọc qua từng câu, từng chữ của mình.
Nghị luận về bài thơ Bếp lửa - mẫu 10
Hẳn ai cũng có những quá khứ đẹp đẽ bên người thân, gia đình. Trong thời kỳ đất nước chống giặc ngoại xâm, biết bao người đã rời khỏi gia đình để nhập ngũ, dốc sức vì đất nước - điều đó đã đi sâu vào kí ức của những đứa trẻ thời chiến để hình thành nên mảng kí ức không thể nào quên. Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ mà cha mẹ ông đều đi đánh giặc.
Một mình sống với bà nhưng ông không hề cảm thấy cô đơn mà còn rất tự hào và vui sướng vì được sống bên bà. Ông đã sáng tác nên bài thơ “Bếp lửa” để nói lên tình cảm của ông dành cho bà cũng như khẳng định rằng bếp lửa không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm một đời người. “Một bếp lửa chờn vờn sương sớm. Một bếp lửa ấp iu nồng đượm. Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Ngay ba câu thơ đầu, điệp ngữ “một bếp lửa” đã đi liền với các từ láy chờn vờn, ấp iu… gợi cho ta cái cảm giác ấm áp với tình cảm chứa chan. Và ngay lập tức, hình ảnh người bà đã hiện lên. Ở đây, bà không hiện lên như một bà tiên mà hiện lên trong trái tim của người cháu nhớ về người bà gian nan. Từ hồi ức dần dần trở về dưới những dòng thơ của tác giả:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
Trong tình cảnh nạn đói của đất nước, gia đình tác giả cũng không phải là ngoại lệ. Bố ông còn con ngựa để đi đánh xe là may mắn lắm. Nhưng cái không khí nghèo túng của toàn xã hội đã bao phủ tất cả. Gần hai mươi năm sau, khói vẫn làm cay mắt tác giả. Cái “cay” này không phải là cái “cay” do củi ướt, củi tươi mà cái cay đắng của những kỉ niệm đói khổ của nhiều người, trong đó có hai bà cháu tác giả.
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”
“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa sự sống và tình yêu bà cháy bỏng của một cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy. Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nông dân mau thoát khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng: “Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lần làm cho âm điệu câu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa vọng về trong tiềm thức của tác giả. Tiếng “tu hú” lúc mơ hồ, lúc văng vẳng từ những cánh đồng xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa cháu trải dài hơn, rộng hơn trong cái không gian xa thẳm của nỗi nhớ thương.
“Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!”
Qua đoạn thơ này ta thấy hiện lên một căn nhà quạnh quẽ giữa đồng, chỉ hẩm hút có một già một trẻ. Đứa trẻ thì “ăn chưa no, lo chưa tới”, còn bà thì ốm yếu hom hem. Bà phải xoay sở nuôi thân mình và nuôi cả cháu. Vậy mà bà còn “bảo cháu làm, chăm cháu học” bên cạnh cái bếp lửa. Hình ảnh bếp lửa ở đây không ghi dấu đắng cay nữa mà đó là hình ảnh của một căn nhà ấm áp, nương náu để hai bà cháu sinh sống.
Trong tám năm ấy, đất nước có chiến tranh, hai bà cháu phải rời làng đi tản cư, bố mẹ phải đi công tác, cháu vì thế phải ở cùng bà trong quãng thời gian ấy, nhưng dường như đối với đứa cháu như thế lại là một niềm hạnh phúc vô bờ. Cùng bà, ngày nào cháu cũng cùng bà nhóm bếp. Và trong cái khói bếp chập chờn, mờ mờ, ảo ảo ấy, người bà như một bà tiên hiện ra trong câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là nhành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực áo thì đối với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừa là mẹ, vừa là cánh chim, là một nhành hoa của riêng nhà thơ. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông.
Trong những tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Không chỉ thế, bà còn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Những bài học đó sẽ là hành trang mang theo suốt quãng đời còn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành cho cháu đã thật sự là một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu bé bỏng. Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế. Nhà thơ bỗng tự hỏi lòng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ ngươi. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đôi, gắn bó, quấn quýt không rời.
"Chiến tranh", một danh từ bình thường nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vô cùng, nó đã gây ra đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi.
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt nghèo, nghị lực của bà càng bền vững, tấm lòng của bà càng mênh mông. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà cháu nay đã không còn, bà dù có đau khổ thế nào cũng không dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé bỏng của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà không muốn đứa con đang bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lời dặn của bà: “Mày có viết thư chớ kể này kể nọ. “Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”. Lời dặn của bà nôm na giản dị nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà không chỉ còn là người bà của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho những người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh, thương con quý cháu.
Kết thúc khổ thơ, Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa trở thành hình ảnh một ngọn lửa:
“Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.
Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình yên thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng soi sáng cho con đường của cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ luôn ở cạnh cháu.
Những dòng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thơ muốn gửi tới bạn đọc, qua đó cũng là những bài học sâu sắc từ công việc nhóm lửa tưởng chừng đơn giản:
“Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm”
Một lần nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.
“Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”
Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩa tình, những năm tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống với nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng chia nhau từng củ sắn, củ mì.
“Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”
“Nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răn dạy cháu luôn phải mở lòng ra với mọi người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ.
“Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.
Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đầy đủ về vật chất mà còn là người làm cho tuổi thơ của cháu thêm đẹp, thêm huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu từ trái tim, ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:
“Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.”
Suốt dọc bài thơ, mười lần xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà. Âm điệu những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vào bãi biển xanh thẳm lòng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì phương trời nào. Bà đã trở thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu.
Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, nhà thơ Bằng Việt vẫn luôn hướng lòng mình về bà:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”
Xa vòng tay chăm chút của bà để đến với chân trời mới, chính tình cảm của hai bà cháu đã sưởi ấm lòng tác giả trong cái mùa đông lạnh giá của nước Nga. Đứa cháu nhỏ của bà ngày xưa giờ đã trưởng thành nhưng trong lòng vẫn luôn đinh ninh nhớ về góc bếp, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau. Đứa cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của cháu đã được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó.
Với “Bếp lửa” nhà thơ Bằng Việt thực đã dắt dẫn người đọc vào sâu trong mạch kể, mạch hồi tưởng của ông. Hồi ức đẹp một đi không trở lại của tuổi thơ được tái hiện không phải bằng một trí nhớ lan man, chắp vá. Trái lại, ở sâu trong tiềm thức của tác giả, hình ảnh “Bếp lửa” và “người bà” lúc nào cũng tỏa sáng lạ kì trở thành một điểm đi về trong cõi nhớ. Dòng suy tưởng và hoài niệm của người cháu xa quê nhà có lẽ đều được khởi nguồn từ những hình ảnh đầy giản dị mà thân thương, ấm áp vô cùng.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Nghị luận về bài thơ Ngắm trăng
- Nghị luận về bài thơ Nhàn
- Nghị luận về bệnh lề mề
- Nghị luận về bệnh thành tích
- Nghị luận về bình đẳng giới
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

