Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội (điểm cao)
Đề bài: Nghị luận về việc giữ gìn bản sắc văn hoá qua truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải.
- Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 1
- Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 2
- Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 3
- Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 4
- Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 5
- Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 6
- Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 7
- Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 8
- Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 9
- Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - các mẫu khác
Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội (điểm cao)
Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 1
Vốn là một người sinh ra ở Hà Nội, với tình yêu và sự nhạy cảm trong tâm hồn, nhà văn Nguyễn Khải đã thể hiện vẻ đẹp của văn hóa Hà Nội trong các sáng tác của ông, mà không thể không nhắc tới “Một người Hà Nội”. Tên tác phẩm cũng đã toát lên hình ảnh văn hóa Hà Nội thấp thoáng hiện lên. Và khi đi sâu vào tác phẩm, qua việc khắc họa nhân vật cô Hiền – một con người mang cốt cách đặc trưng của văn hóa Hà Nội, chúng ta mới thực sự thấu hiểu và thấm thía. Người Hà Nội vẫn có câu: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”. Câu ca dao ấy thực sự đã khái quát được nét đẹp thanh lịch của con người của mảnh đất ngàn năm văn hiến, trong đó có cô Hiền. Nhân vật này được nhà văn Nguyễn Khải xây dựng trong mối quan hệ với sự biến đổi của thời cuộc. Nhưng ông khéo léo đưa vào đó những nét đẹp truyền thống, tinh túy của văn hóa Hà Nội vào đó. Cái giản dị, mộc mạc và vẫn thanh cao của văn hóa Hà Nội được nhân vật cô Hiền thể hiện qua những điều hết sức nhỏ bé. Từ lời ăn, tiếng nói, cung cách sinh hoạt, suy nghĩ, lối sống, cả cách đối diện với nhứng mất mát, đau thương… đều được tái hiện đầy chân thực, nhẹ nhàng. Từ quan niệm lấy chồng, sinh con đến cách dạy con đi đứng, nói năng, cầm đũa, cầm bát… Từ cách ăn mặc, bài trí nhà cửa đén cách lau một món đồ tỉ mỉ… đều thể hiện những nét rất riêng, rất Hà Nội đầy sang trọng, quý phái. Trong đó hình ảnh cô Hiền dường như hội tụ những vẻ đẹp kiêu sa nhất của người con gái mảnh đất kinh kì, nhưng vẫn luôn đặt vai trò rất quan trọng của người phụ nữ trong gia đình. Cô quan niệm “người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy sẽ ra sao?”. Và ngay cả niềm tin đầy mãnh liệt về sự trường tồn, vĩnh cửu của vẻ đẹp Hà Nội cũng được cô khẳng định: “Mỗi thế hệ đều có một thời vàng son của họ, Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, vẻ đẹp riêng cho mỗi lứa tuổi”. Nhà văn Nguyễn Khải đã thực sự đem đến một Hà Nội trong nhân vật này. Ở cô toát lên là một Hà Nội vừa hiện đại, trí tuệ, thức thời vừa cổ kính, kiêu sa, có chiều sâu văn hóa. Cô Hiền xứng danh “Một người Hà Nội”, “hạt bụi vàng của Hà Nội”. Qua nhân vật này, chúng ta mới nhận thức sâu sắc hơn về việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Không cần phải đao to, búa lớn, hô hào, khẩu hiệu mà cách giữ gìn chỉ cần xuất phát từ những việc làm bé nhỏ, từ chính những sinh hoạt đời sống hằng ngày… Tất cả đều không khó. Tuy nhiên, Hà Nội hay bất kỳ vùng đất nào ở Việt Nam theo quỹ đạo của sự phát triển, đang càng ngày càng thay đổi khiến diện mạo văn hóa có phần khác đi. Nên cần lắm những kiểu người như cô Hiền trong tác phẩm của Nguyễn Khải để nét đẹp văn hóa truyền thống được gìn giữ, lưu truyền và trường tồn mãi mãi.
Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 2
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dầu không thanh lịch cũng người Tràng An
(Ca dao)
Vâng, câu ca dao ấy đã khái quát những nét thanh lịch của con người mảnh đất ngàn năm văn hiến. Có lẽ, chính những nét đẹp đó đã để lại trong lòng mỗi người con của mảnh đất này thật nhiều hoài niệm. Là nhà văn sinh ra ở đất kinh kì, Nguyễn Khải đã thể hiện sự tinh tế nhạy cảm của mình trước những nét văn hoá rất riêng của Hà Nội qua truyện ngắn "Một người Hà Nội được rút từ tập “Hà Nội trong mắt tôi". Tác phẩm không chỉ thể hiện sự nâng niu, trân trọng những vẻ đẹp vãn hoá của miền đất này, không chỉ là sự xót xa cho sự mai một của những giá trị văn hoá, mà quan trọng hơn là cả tác phẩm đã để lại cho mỗi chúng ta thật nhiều suy ngẫm về việc giữ gìn bản sắc văn hoá trong cuộc sống hôm nay.
Có thể nói, “Một người Hà Nội" là một truyện ngắn thành công của Nguyễn Khải. Tác phẩm xoay quanh nhân vật chính là bà Hiền trong mối quan hệ với sự biến đối của thời cuộc. Những nét đẹp tính tuý nhất của người Tràng An dường như đã được hội tụ ở nhân vật này. Một trong những nét đặc sắc của tác phẩm là ở chỗ tác giả không đi sâu vào những sự kiện lớn, ngược lại ông dùng ngòi bút của mình vào những điều hết sức bình thường, giản dị hằng ngày của cuộc sống nhưng qua đó vẫn làm nổi bật được những nét tính cách độc đáo của nhân vật. Những nét đẹp trong suy nghĩ của bà Hiền được thể hiện trước tiên qua cái cách mà bà chọn chồng là một ông giáo tiểu học hết sức bình thường "khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc", cái quyết định dừng sinh con ở tuổi bốn mươi, trái hoàn toàn với quan niệm "Trời sinh voi, trời sinh cỏ" của xã hội ta lúc bây giờ,… Là một người phụ nữ nhưng bà luôn chủ động, tự tin việc quản lí gia đình bởi bà ý thức rất rõ vai trò quan trọng của một người vợ, người mẹ: "người đàn bà mà không là nội tướng thì cái gia đình ấy chả ra sao". Không những thế, là một người mẹ, bà uốn nắn con từ cái nhỏ nhất như ngồi ăn, chuyện cầm bát, cầm đũa, múc canh,… Rồi khi hai đứa con trai lần lượt xin ra chiến trường, người mẹ ấy "cũng đau đớn mà bằng lòng" vì không muốn con sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Ở bà người ta vẫn thấy sáng lên một niềm tin mãnh liệt vào vẻ đẹp trường tồn vĩnh cửu của Hà Nội: "Mỗi thế hệ đều có một thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mỗi lứa tuổi". Có thể nói cái cốt cách của Hà Nội còn được thể hiện rất rõ trong cách ứng xử nhân vật này. Đó là sự linh hoạt đầy bản lĩnh trước những đổi thay của cuộc sống, trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn luôn dám sống là mình, thẳng thắn, chân thành, giàu lòng tự trọng nhưng cũng hết sức khéo léo, thông minh. Con người ấy vẫn luôn giữ gìn những nét đặc trưng trong lối sông của người Hà Nội lộ cái quý phái, sang trọng, lịch lãm của ngưòi Hà Thành từ cách ăn mặc bài trí nhà cửa, từ cái cảm nhận hết sức tinh tế "trời rét, mưa rây lả lướt dù đủ làm ẩm áo chứ không làm ướt" đến cái cách lau chùi bát hoa thuỳ rong ngày giáp Tết một cách hết sức tỉ mi,… đã cho thấy nét đẹp văn hoá trường tồn vĩnh cửu ở một người Hà Nội hết sức bình dị nơi mảnh đất văn hiến này. Trong nhân vật bà Hiền vừa có một Hà Nội trí tuệ, hiện đại, thức thời lại vừa tồn tại một Hà Nội đài các kiêu sa, cổ kính, với chiều sâu văn hoá. Dù đã có tuổi, bà Hiền vẫn là "hạt bụi vàng của Hà Nội".
Thế nhưng câu chuyện của Nguyễn Khải đâu chỉ dành cho con người của Hà Nội mà còn hướng đến tất cả những người Việt Nam nói chung để gửi đến thông điệp về ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá của dân tộc. Văn hoá có thể một cách đơn giản là tất cả những giá trị, những nét đẹp về vật chất và tinh thần của xã hội, chừng nào con người còn tồn tại thì văn hoá cũng sẽ vẫn còn. Dù ở bất kì thời đại nào thì văn hoá cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Bản sắc văn hoá là những đặc điểm riêng của mỗi dân tộc, góp phần không nhỏ vào việc hình thành nên một quốc gia độc lập. Và có lẽ cũng không phải vô cớ mà Nguyễn Trãi khi xưa đã nhắc đến truyền thống văn hoá của dân tộc ngay sau khi tư tưởng nhân nghĩa ở phần mở đầu của "áng thiên cổ hùng văn" Đại cáo bình Ngô:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Mỗi dân tộc cần phải có một nền văn hoá riêng cũng giống như mỗi cá nhân trong cuộc đời phải có cá tính riêng để làm nên cái "tôi" của chính mình phân biệt mình với người khác. Một đất nước làm sao có thể tồn tại bền vững khi mà nhắc đến nó, người ta chẳng có cớ gì để nhớ, chẳng có gì để nói Văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng nhất làm nên truyền thống của một dân tộc. Những giá trị văn hoá phi vật thể cũng phần nào phản ánh tâm tư, tình cảm, suy nghĩ, tâm hồn con người. Văn hoá Việt giản dị nhung có chiều sâu và có bản sắc riêng, con người Việt Nam bình dị, hết sức tinh tế nhưng cũng vô cùng anh dũng, kiên cường. Chính truyền thống văn hoá tạo nên cội nguồn, gốc rễ cho dân tộc, từ đó hình thành nên ở con người Việt Nam lòng tự hào, tự tôn dân tộc, một niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Tôi chợt nghĩ đến hình ảnh cây si ở đền Ngọc Sơn mà Nguyễn Khải đã từng nhắc đến trong "Một người Hà Nội". Gió bão có thể thế làm nghiêng cả tán, bật cả rễ nhưng qua bao phong ba bão táp, bao biến cố thăng trầm của lịch sử, nó lại hồi sinh, trổ lộc non. Văn hoá góp phần làm nên cái "vàng son" cho quá khứ, còn quá khứ góp phần hun đúc nên những phẩm chất tốt đẹp của con người bởi văn hoá thường hướng con người ta đến những giá trị đẹp đẽ của cuộc sống, hướng con người ta đến cái chân, thiện, mĩ, làm cho con người sống tốt hơn. Bên cạnh đó, những công trình kiến trúc, những danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử,… không chỉ cho thấy những nét văn hoá rất riêng của đất nước Việt Nam mà còn đóng góp không nhỏ vào việc quảng bá hình ảnh của Việt Nam đến bạn bè thế giới. Chưa kể đến doanh thu không nhỏ cho ngành dịch vụ từ du lịch nội địa và quốc tế từ việc quảng bá hình ảnh đó, vị thế của Việt Nam chắc chắn sẽ được cải thiện, được nâng cao trên trường quốc tế, rất nhiều cơ hội mở ra cho việc giao lưu cả về mặt kinh tế, chính trị phục vụ cho sự phát triển của đất nước, vì thế nếu chúng ta không có ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá của chính dân tộc mình thì tự chúng ta sẽ làm mất đi vị thế riêng của mình, sẽ bị hoà tan trong những nền văn hoá khác trên thế giới. Có những thứ khi đã mất đi ta vẫn có thể lầy lại được nhưng có những điều nêu không níu giữ thì nó sẽ tuột khỏi tay ta mãi mãi.
Trong bối cảnh xã hội hiện nay, có rất nhiều thuận lợi khi chúng ta mở cửa, giao lưu với các nước trên thế giới, mở ra nhiều cơ hội để quáng bá cho văn hóa Việt Nam với bạn bè quốc tế nhưng nếu như chúng ta không có ý thức giữ bản sắc văn hoá dân tộc thì sẽ làm mất dần đi những giá trị văn hoá độc đáo. Làm sao để hoà nhập mà không hoà tan là một vấn để không đơn giản không phải là không thể làm được nếu như mỗi người chúng ta đều có ý thức giữ gìn những nét đẹp văn hoá của dân tộc mình, đặc biệt là thế hệ trẻ nay. Mỗi người hãy tự trau dồi cho mình vốn hiểu biết về văn hoá dân tộc làm sao để bạn bè quốc tế hiểu và yêu thích văn hóa của đất nước chúng ta cũng là một cách để giữ gìn bản sắc văn hoá bởi ai đó đã từng nói rằng: cho đi cũng là cái còn lại mãi mãi". Việc giữ gìn truyền thông văn hoá phải bắt đầu từ việc giữ gìn truyền thống của mỗi gia đình, mỗi địa phương, vùng miền cụ thể. Và mỗi nét đặc sắc trong văn hoá của hơn năm mươi dân tộc sẽ làm nên một nền văn hoá Việt Nam đa dạng, đậm đà bản sắc. Mỗi người dân phải tự có ý thức bảo vệ những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của vùng miền mình, của đất nước mình. Nhà nước cần có những biện pháp thích đáng đối với những hành vi gây tác động xấu đến văn hoá, song song với những chính sách hợp lí để trùng tu, bảo tổn những di tích, danh lam và giữ gìn những giá trị văn hoá phi vật thể. Có thể nói, việc giữ gìn những giá trị văn hoá không phải là trách nhiệm của riêng ai mà cần có sự tham gia của tất cả mọi người, không phải bằng khẩu hiệu, bằng lời nói mà những việc làm hết sức cụ thể.
Không phải lúc nào chúng ta cũng có thể giữ gìn được những giá trị văn hóa của mình bởi lẽ cuộc sống cũng có những biến cố (chiến tranh, thiên tai,…) có thể làm cho những công trình văn hoá bị xuống cấp nghiêm trọng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang hằng ngày cố gắng tìm mọi cách để có thể giữ gìn được phố cổ Hà Nội, chùa Một Cột,… Việt Nam vinh dự được UNESCO công nhận một số công trình văn hoá vật thể và phi vật thể là di sản văn hoá thế giới chứng tỏ sự cố gắng, nỗ lực không ngừng của chúng ta trong việc phát huy những giá trị văn hoá dân tộc. Cuộc sống hiện đại hối hả hơn, con người ta bận rộn hơn, điều kiện giao lưu quốc tế mở rộng hơn bao giờ hết nhưng sâu thẳm trong mỗi chúng ta là một tâm hồn Việt, một cốt cách Việt. Tuy nhiên, giữ gìn bản sắc văn hoá không có nghĩa là không có sự giao lưu, học hỏi. Mỗi nên văn hoá đều có những thế mạnh riêng của nó. Tiếp thu một cách hợp lí có chọn lọc sẽ là điều kiện để làm giàu có thêm vốn văn hoá của dân tộc. Ngoài ra, cũng chính từ sự giao lưu ấy mà ta có thế biết được điểm mạnh điểm yêu trong nền văn hoá của mình, từ đó có thể phát huy những điểm mạnh đồng thời học hỏi những kinh nghiệm để có thể khắc phục những chỗ còn khiếm khuyết.
Có thể nói giữ gìn bản sắc văn hoá không chỉ có ý nghĩa với cộng đồng dân nhân loại mà còn rất ý nghĩa đối với mỗi con người vì những giá trị văn hóa được thể hiện trong nếp sống, nếp nghĩ hằng ngày của mỗi con người.
Cảm ơn Nguyễn Khải với "Một người Hà Nội" bởi lẽ, với truyện ngắn ta nhận ra rằng văn hoá là một nét đẹp của cuộc sống và dù có những đổi thay thì "nếp sống tốt đẹp của cha ông vẫn lặng lẽ chảy trong cuộc sống ồ ạt hôm nay".
Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 3
“Cái cao quý của một đất nước, của một dân tộc là ở giá trị văn hóa…”(Phạm Văn Đồng)
Nếu nghệ thuật là một loại văn hóa đặc biệt, thì văn học chính là gương mặt tiêu biểu cho văn hóa tinh thần của mỗi một dân tộc. Văn học là nơi kết tinh cho những giá trị văn hóa bền vững của dân tộc, do đó nó có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình quốc tế hóa hiện nay.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, sự tấn công ồ ạt của các luồng văn hóa từ bên ngoài là điều không thể tránh khỏi. Có thể nhận thấy nhịp điệu sống gấp gáp, vội vàng của một nền văn minh công nghiệp đang có nguy cơ làm thay đổi nhịp điệu sống chậm rãi, khoan thai của một nền văn minh nông nghiệp lâu đời, gần như đã trở thành cốt cách con người Việt. Sự trang trọng linh thiêng ở những chốn thờ tự trong tín ngưỡng người Việt (như chùa chiền, đền miếu) đang bị cái xô bồ, hỗn tạp, cái tâm lý trục lợi thực dụng tấn công. Những trào lưu văn hóa lai căng đang cuốn hút giới trẻ chạy theo những giá trị nhất thời, giả tạo, làm mai một, rơi rớt những giá trị truyền thống của dân tộc. Bên cạnh khả năng giao lưu, tiếp xúc để mở rộng và trưởng thành hơn, nền văn hóa dân tộc đang phải đối mặt với “sức ép” của văn hóa thế giới, và nguy cơ bị mờ nhòa đi là nguy cơ có thật. Một bộ phận giới trẻ đang say mê tiểu thuyết diễm tình Trung Quốc, thích nghe nhạc Hàn hơn nhạc Việt, lại càng không phải là những làn điệu dân ca hay nhạc trữ tình quê hương, hâm mộ những tài tử điện ảnh của Hàn Quốc. Một thời ra đường, đâu đâu cũng gặp những cô gái “mắt nâu môi trầm” theo đúng kiểu của diễn viên Hàn Quốc. Những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam với mái tóc dài thướt tha, “tóc đen như gỗ mun, môi đỏ như son” đã trở nên hiếm hoi.
Văn học là gương mặt tiêu biểu cho văn hóa tinh thần của mỗi dân tộc. Trong tình hình ấy, văn học phải gánh vác một trọng trách: lưu giữ, tôn vinh những giá trị văn hóa bền vững của dân tộc. Văn học là sự phản ánh hiện thực, nhưng là sự phản ánh đặc thù: phản ánh gắn với nhận thức, phản ánh gắn với biểu hiện, phản ánh gắn với sáng tạo. Do đó, thế giới hiện thực trong văn học phải là thế giới đã được nhà văn chọn lọc và sáng tạo lại, có ý nghĩa tác động đến nhận thức, tình cảm của người đọc, hướng con người đến với chân – thiện – mỹ. Do đó, thế giới nghệ thuật trong văn học càng đậm đà bản sắc dân tộc thì càng có vai trò giữ gìn và bảo vệ nó. Nếu văn học tôn vinh những vẻ đẹp truyền thống, thể hiện được sức sống mãnh liệt của nó giữa bao điều còn xô bồ, hỗn tạp, thì lúc đó văn học có ý nghĩa định hướng cho con người nhận chân ra những giá trị đích thực. Bởi vì, ai lại không rung cảm trước cái đẹp, nhất là cái đẹp đã được sàng lọc qua cảm quan thẩm mỹ và trái tim nhạy cảm của nhà văn?
Những chàng trai và cô gái trẻ đang mải miết chạy theo những mốt thời trang của Hàn Quốc, có bao giờ nhận ra dáng điệu rất duyên dáng, rất đằm thắm, cũng rất tình tứ gợi cảm của hình ảnh người con gái quan họ trong câu thơ của Hoàng Cầm:
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại gặp em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
Đó là vẻ đẹp mang cốt cách truyền thống. Những “yếm thắm, lụa hồng” có thể đã trở thành một kiểu trang phục xa lạ, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là cái chất dân tộc ngấm vào trong dáng vóc uyển chuyển mềm mại, ngấm vào trong nụ cười tỏa sáng của cô. Nó gợi lên một vẻ đẹp thuần túy Việt Nam.
Có thể hàm răng đen (vẻ đẹp một thời của các mẹ, các cô ngày xưa) không còn phù hợp với ngày nay nữa, nhưng khi đi vào văn học, nó lưu giữ một vẻ đẹp đặc biệt:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
( Bên kia sông Đuống – Hoàng Cầm)
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Dưới ánh trưa hè trước dậu thưa
( Nắng mới – Lưu Trọng Lư)
Sự đằm thắm, tươi tắn của nụ cười ấy chính là thần thái của người phụ nữ truyền thống, những người “giữ lửa” cho gia đình và cho xã hội, những người có thể rất lam lũ, vất vả, có thể cuộc đời còn nhiều cơ cực đắng cay, nhưng sức sống mãnh liệt và tâm hồn giàu tình nặng nghĩa đã dệt nên những nụ cười đằm thắm đến như vậy.
Cuộc sống đang diễn ra ngày càng xô bồ hơn, thực dụng hơn. Không khí công nghiệp từ văn hóa phương Tây đang làm xáo động cái không khí yên bình của một đất nước vốn thuần nông. Sự giao lưu rộng mở, một bộ phận, một lớp thanh niên chịu ảnh hưởng của lối sống phương Tây, thực dụng hơn, sòng phẳng rõ ràng hơn. Tỷ lệ ly hôn ngày càng tăng. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc nhận xét rằng : “Gia đình Việt nam đang đứng trước những thử thách nghiêm trọng. Một thứ văn hóa kỳ quặc chỉ thâu tóm trong hai nguyên lý là xác thịt và đồng tiền đang đầu độc tâm hồn. Đâu đâu cũng nghe “ Anh yêu em, em yêu anh” như cháy nhà. Nhưng tỷ lệ ly hôn lại gia tăng đến chóng mặt”. Nhưng ta vẫn còn một niềm tin mãnh liệt vào sự trường tồn của gia đình Việt, khi văn học vẫn lưu giữ cho chúng ta những vẻ đẹp của một đời sống gia đình giàu tình nặng nghĩa, gắn kết và biết hy sinh. Đó là tình nghĩa vợ chồng xuyên thấm từ trong ca dao:
Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau
Rồi kết tinh thành một đạo lý sống:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.
Và khi tư tưởng “bình đẳng giới” đã xuất hiện, người phụ nữ trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu vẫn chấp nhận hy sinh để giữ gìn sự trọn vẹn của gia đình. Nghèo khó, lam lũ, người phụ nữ hàng chài ấy còn chịu đựng những trận đòn dữ dằn của chồng. Nhưng chị vẫn oằn lưng lên chịu đựng không một tiếng rên la, bởi với chị, đó cũng là một cách chia sẻ nỗi nhọc nhằn mưu sinh (dồn tụ quá bộc phát thành những trận đòn) của người chồng. Sự sẻ chia đặc biệt đó chỉ có thể bắt nguồn từ tình nghĩa nặng sâu giữ vợ và chồng, tuyệt nhiên không thể bắt nguồn từ cái lý thuyết tình yêu của một bộ phận giới trẻ hiện nay. Và, cảm động thay câu nói của chị “Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được”. Đức hy sinh ấy chính là một nét đẹp văn hóa của người Việt, như một mạch ngầm xuyên suốt hàng ngàn năm, đi qua mọi biến động của thời đại, để hiển hiện trong một người phụ nữ bình thường nhất của thời hiện đại. Bởi thế, trong truyện ngắn Không có vua của Nguyễn Huy Thiệp, sau khi nhân vật Sinh chịu đựng bao nhiêu nỗi tủi nhục của những ngày làm dâu trong một gia đình toàn đàn ông láo nháo ô hợp, tác giả đã để cho nhân vật nói một câu rưng rưng nước mắt khi trả lời câu hỏi của Khảm (“Chị Sinh ơi, về làm dâu họ Sĩ nhà này chị có khổ không?”): “Khổ chứ. Nhục lắm. Vừa đau đớn, vừa chua xót. Nhưng thương lắm”. Có những tác phẩm văn chương như thế và có những nhân vật như thế trong văn học, ta tin tưởng rằng, gia đình Việt sẽ chống chọi lại được với những tác động dữ dội của thời đại để giữ nguyên vẻ đẹp, bề dày văn hóa của nó. Tỷ lệ ly hôn có thể gia tăng, nhưng trong tâm thức người Việt, vẫn là ước nguyện về những gia đình bền vững, nghĩa tình. Và còn ước nguyện chân thành như thế, còn những con người mà đạo lý sống đã hòa tan trong máu thịt như thế, gia đình Việt sẽ vượt qua được những chông chênh của buổi đầu hội nhập.
Còn vô vàn những giá trị văn hóa đẹp đẽ của dân tộc được bảo tồn trong văn chương nghệ thuật. Một làn khói lam chiều ấm áp gợi nhắc tình quê hương nguồn cội, một đạo lý sống “ Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ” ( Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm), một không gian làng quê với “Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên/ Những hội hè đình đám/ Trên núi Thiên Thai/ Trong chùa Bút Tháp/ Giữa huyện Lang Tài”… Có thể nói, văn chương chính là tấm gương cho con người và cả dân tộc soi vào, nhận chân ra những giá trị văn hóa bền vững. Tiếp nhận văn học, người đọc gặp gỡ những vẻ đẹp của bản sắc văn hóa Việt Nam. Nghĩa là bằng văn học, bản sắc văn hóa dân tộc được tồn tại, được bảo lưu, được tôn vinh. Nó không mai một đi, đó là một điều chắc chắn nhờ sức mạnh và khả năng to lớn của văn học.
Văn học là một hình thái ý thức xã hội, nhưng ý thức trong văn học đã được chuyển hóa thành những tình cảm mãnh liệt. Bởi vậy, văn học không chỉ tác động đến con người ở phương diện nhận thức mà còn ở phương diện tâm hồn. Điều đó có nghĩa, khi lưu giữ những giá trị văn hóa truyền thống để nó không bị mai một đi trước những ảnh hưởng của văn hóa toàn cầu, giúp người đọc nhận chân ra những giá trị văn hóa bền vững, văn học còn đồng thời đánh thức tình yêu, niềm tự hào về những giá trị văn hóa đó, từ đó nảy sinh ra một mong ước thiết tha được giữ gìn và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Sự thức tỉnh đó thể hiện ở nhiều cấp độ.
Thứ nhất, bằng lương tâm của một người cầm bút, nhà văn khiến chúng ta giật mình trước những biến đổi của đời sống xã hội đang từng ngày từng giờ bào mòn đi những giá trị văn hóa truyền thống. Đó là cái giật mình thức tỉnh.
Trong tác phẩm “Một người Hà Nội”, Nguyễn Khải báo động về một hiện thực xô bồ ngay trên mảnh đất ngàn năm văn vật, nơi đang lưu giữ nhiều giá trị văn hóa quý giá của dân tộc: “Tôi đạp xe ở đường Phan Đình Phùng, tôi đạp chậm, vừa đạp vừa nghĩ ngợi. Một anh bạn trẻ đạp xe như gió thúc mạnh bánh xe vào đít xe tôi, may mà gượng kịp. Tôi quay lại nói cũng nhẹ nhàng: “Cậu đi đâu mà vội thế?”. Hắn không trả lời, đạp vượt qua xe tôi, rồi quay lại chửi một câu đến sững sờ: “Tiên sư cái anh già!”. Lại một buổi sáng tôi tới thăm một người bạn ở quận Đống Đa, đã lâu không đến nên quên đường, lát lát phải hỏi thăm. Có người trả lời, là nói sõng hoặc hất hàm, có người cứ giương mắt nhìn mình như nhìn con thú lạ. Tôi có than phiền với vợ chồng bạn về sự thiếu lễ độ của người Hà Nội, cô con gái đang cho con bú góp lời liền: “Ông ăn mặc tẩm như thế lại đi xe đạp họ khinh là phải, thử đội mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, cưỡi cái Cúp xem, thưa gửi tử tế ngay”. Tôi cười nhăn nhó: "Lại ra thế”. Sự xót xa trăn trở của tác giả đánh thức nỗi trăn trở trong chúng ta về nguy cơ mai một của những giá trị văn hóa tinh thần. Một Hà Nội thanh lịch “Chẳng thanh lịch cũng là người Tràng An” trong tâm thức của tất thảy mọi người đang chông chênh trong cơn bão của kinh tế thị trường. Nếu như truyền thống dân tộc ta nhìn nhận đánh giá con người ở nhân cách, ở đạo đức chứ không phải ở của cải, địa vị thì bây giờ, trong mắt giới trẻ, một ông già “ăn mặc tẩm như thế, lại đi xe đạp” bị coi thường khinh khi. Vẻ đẹp ý nhị kín đáo và rất mực tinh tế của người Hà Thành bây giờ lại thay thế bằng hình ảnh một cô con gái “đang cho con bú” lại tham gia góp lời vào trong cuộc chuyện của những bậc cao niên! Những giá trị vật chất tầm thường như của cải, tiền bạc đang lên ngôi và chi phối lối sống, hành vi ứng xử. Rõ ràng, nhà văn đang đánh thức chúng ta, yêu cầu chúng ta hãy nhìn thẳng vào chân dung cuộc sống, để giật mình và trăn trở, để nghĩ suy và ứng xử.
Cấp độ thứ hai, văn học đánh thức tình yêu và niềm tin ở mỗi người về bản sắc văn hóa dân tộc. Đặt trong sự đối sánh với cái xô bồ nhộn nhạo của thời kỳ quốc tế hóa, nhà văn đã chạm khắc lên vẻ đẹp tinh túy, thiêng liêng của những giá trị văn hóa truyền thống, hiện thân cho linh hồn của dân tộc. Đó là hình ảnh một cô Hiền ngoài bảy mươi tuổi rồi, nhưng vẫn là một “người Hà Nội của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn” trong dáng điệu tỷ mẩn lau đánh cái bát thủy tiên men đỏ giữa cái thời mà “dân Hà Nội nhảy tàu lên Lạng Sơn buôn bán đủ thứ mà không buôn được vài ngàn củ thủy tiên” (Một người Hà Nội – Nguyễn Khải). Đó là những tình cảm thiêng liêng mà cái nhộn nhạo xô bồ không thể phá vỡ được, như tình quê hương, tình mẫu tử, tình phụ tử – những sợi dây gắn kết con người với cội nguồn:
Bóng xoài ba tôi mắc võng
Sáng chiều hai hướng chờ trông
Con ở thị thành nắng bỏng
Bóng xoài mát đến con không?
( Quê buồn – Thu Nguyệt )
Cũng có khi, giữa cái lấp lánh náo động của đô thị thời mở cửa, văn học đưa ta về với một góc văn hóa xưa, bình yên, trong trẻo, thanh khiết:
Có thể xuân sau, xuân sau nữa
Lá chuối lá dong bánh đúc bánh đa
Rượu mận rượu đào trà lài trà quế
Hạt bí hạt bầu quả chuối quả na…
Chị xuống chợ mù sương mua cá chép
Thả xuôi dòng trắc ẩn lẫn lo toan
Mẹ vẫn đợi áo hoa con vừa mặc
Chở xa về hao hút chuyến đò ngang!
( Có thể xuân sau – Phan Trung Thành)
Sự đối sánh ấy trong văn học, qua cảm quan của người nghệ sĩ, giúp ta trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống giữa không khí thời hiện đại. Nó vì vậy khơi gợi tình yêu và ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc không có nghĩa là đóng cửa lại, cự tuyệt hoàn toàn những ảnh hưởng của văn hóa thế giới. Trong quá trình phát triển của nền văn hóa dân tộc, nhất là trong thời kỳ quốc tế hóa hiện nay, chúng ta phải chấp nhận sự tiếp xúc, giao lưu, sự ảnh hưởng của văn hóa thế giới và biến nó thành điều kiện thuận lợi để phát triển, làm giàu có thêm văn hóa của dân tộc mình.
Ở phương diện đó, văn học đã thể hiện vai trò quan trọng của nó. Bằng tính chất không giới hạn về không gian và thời gian, văn học đã có một sự giao lưu rộng mở với các nền văn học nghệ thuật, các tư tưởng văn hóa trên toàn thế giới. Qua tác phẩm văn học (đặc biệt là mảng văn học dịch), chúng ta tiếp cận và học hỏi dược tinh hoa của nhiều nền văn hóa để tự làm giàu có cho nền văn hóa của chính mình. Ví dụ, tinh thần dân chủ và nhân văn của phương Tây đã ảnh hưởng đến văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX thông qua hai trào lưu văn học lớn: Chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực. Chính tinh thần dân chủ và nhân văn này đã làm mới hơn, phong phú hơn các truyền thống yêu nước và nhân đạo của dân tộc ta. Nếu như tinh thần yêu nước và dân tộc trước đây chỉ dừng lại ở lý tưởng “trung quân ái quốc” (do ảnh hưởng của đạo Nho) thì nay đã hướng đến ở tình cảm đối với nhân dân, với lý tưởng cứu nước. Và chủ nghĩa nhân đạo cũng vượt lên giới hạn của tình thương người để vươn đến một tư tưởng cao hơn, rộng hơn: nhân đạo đồng nghĩa với sự trân trọng mọi giá trị người.
Đồng thời với việc tiếp nhận những tinh hoa văn hóa thế giới, văn học cũng có công lớn trong việc giới thiệu bản sắc văn hóa Việt nam đến với các dân tộc khác trên thế giới, khẳng định vị thế của một quốc gia có một bề dày văn hóa. Không phải ngẫu nhiên mà Truyện Kiều có một vị trí nhất định trên văn đàn thế giới, mà một phần là bởi Truyện Kiều đã đem đến cho nhân dân thế giới một cái nhìn về văn hóa và tư tưởng người Việt. Cái triết lý:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
thể hiện một tinh thần lạc quan, ung dung tự tại của người Việt mà người phương Tây phải kinh ngạc. Cũng như vậy, sự bao dung độ lượng đến cao thượng mà cội nguồn của nó là tình nghĩa con người đã đưa người Việt vượt ra khỏi cái tầm suy nghĩ hạn hẹp của một nước nông nghiệp để vươn đến giá trị nhân văn sâu sắc được thể hiện trong một câu nói của Kim Trọng về Kiều:
Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa
Và:
Như nàng lấy hiếu làm trinh
Bụi nào vẩn được lòng mình ấy vay
Chính việc đưa bản sắc văn hóa Việt Nam ra với thế giới cũng là một cách tôn vinh văn hóa dân tộc và là một cách để cho bản sắc văn hóa dân tộc không bị mờ nhòa đi khi hội nhập quốc tế.
Có thể nói rằng, nếu muốn tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam, không có lĩnh vực nào biểu hiện phong phú và đầy đủ như trong văn học. Từ phong tục tập quán đến vẻ đẹp tâm hồn con người, từ những giá trị văn hóa tinh thần đến những giá trị văn hóa vật chất, bóng dáng của nó in khá đậm trong văn học. Nói cách khác, từ văn học, ta nhìn thấy bản sắc của dân tộc mình.
Điều đó đặt ra một vấn đề quan trọng: sứ mệnh của nhà văn, tâm thế của nhà văn trong nhiệm vụ lớn của xã hội: giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Nhà văn phải đứng ở đâu, phải có thế giới quan như thế nào, phải có cái tâm như thế nào để có thể làm tròn sứ mệnh ấy.
Mặt khác, khi văn học có vai trò quan trọng đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, thì đồng thời, văn học cũng chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn hóa. Xác định điều này có ý nghĩa quan trọng, bởi trong xã hội hiện nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển, văn hóa nghe – nhìn đang chiếm ưu thế, các phương tiện thông tin đang phát triển phong phú và ngày càng trở nên tiện lợi đối với con người, thì văn hóa đọc đang bị xem nhẹ. Điều đó đòi hỏi một chiến lược thích hợp để phát triển văn hóa đọc, phát triển văn học trong giai đoạn mới hiện nay.
Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 4
Dẫu không thơm cũng có thể hoa nhài
Hoa nhài cũng thể không thanh lịch
(Câu ca dao)
Câu ca dao ấy thực sự đã tóm tắt những phẩm chất thanh lịch của người dân Tràng An từ lâu. Những nét đẹp ấy đã in sâu vào lòng mỗi người con của vùng đất này. Nhà văn Nguyễn Khải, sinh ra và lớn lên tại đất kinh kỳ, đã khéo léo thể hiện sự nhạy cảm và tinh tế của mình trước những nét văn hóa đặc trưng của Hà Nội trong truyện ngắn “Một người Hà Nội” thuộc tập “Hà Nội trong tôi”. Tác phẩm không chỉ là việc bảo tồn và tôn trọng những giá trị văn hóa đặc biệt của đất nước, không chỉ là sự tiếc nuối về sự mai một của văn hóa, mà còn là nguồn cảm hứng để mỗi người chúng ta suy ngẫm về việc giữ gìn bản sắc văn hóa trong cuộc sống ngày nay.
Có thể nói, “Một người Hà Nội' là một tác phẩm truyện ngắn thành công của Nguyễn Khải. Tác phẩm xoay quanh nhân vật chính là bà Hiền và mối quan hệ của bà với sự thay đổi của thời cuộc. Tất cả những phẩm chất tinh túy nhất của người dân Tràng An dường như đều hiện diện trong nhân vật này. Điểm đặc biệt của tác phẩm là việc tác giả không tập trung vào những sự kiện lớn, mà thay vào đó là những chi tiết hàng ngày, giản dị, nhưng vẫn làm nổi bật những đặc điểm tính cách độc đáo của nhân vật. Những suy nghĩ thanh cao của bà Hiền được thể hiện qua mọi hành động, từ cách bà chọn chồng cho đến cách bà dạy con, quản lý gia đình. Bằng lòng với sự hi sinh của con trai trong chiến trường, bà vẫn giữ vững niềm tin vào sự trường tồn vĩnh cửu của văn hóa Hà Nội.
Tuy nhiên, câu chuyện của Nguyễn Khải không chỉ dành cho người dân Hà Nội mà còn gửi thông điệp về việc giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc đến mọi người Việt Nam. Văn hóa là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội, và nó luôn tồn tại và phát triển theo thời gian. Bảo tồn bản sắc văn hóa là bảo tồn những đặc trưng riêng của mỗi dân tộc, góp phần quan trọng vào sự hình thành của một quốc gia độc lập. Đó là lý do tại sao việc tôn trọng và bảo tồn văn hóa luôn được coi trọng.
Bảo vệ tinh thần dân tộc ở ở người dân
Trước tiên là đánh giặc, sau đó là xây nhà
Như dòng nước Việt từ xa xưa
Nổi tiếng với nền văn hóa từ lâu
Mỗi dân tộc cần có văn hóa riêng, giống như mỗi người phải có cá tính để tạo nên bản sắc cá nhân. Sự tồn tại của một quốc gia phụ thuộc vào việc nhớ đến nó, và văn hóa là yếu tố quan trọng tạo nên bản sắc dân tộc. Văn hóa Việt Nam đơn giản nhưng sâu sắc, thể hiện sự kiên cường và tinh tế của con người Việt Nam. Truyền thống văn hóa là nguồn gốc của lòng tự hào và niềm tin vào tương lai của dân tộc. Văn hóa là 'vàng son' của quá khứ, đồng thời cũng hình thành phẩm chất tốt đẹp của con người. Những công trình kiến trúc và di tích lịch sử không chỉ thể hiện văn hóa độc đáo của Việt Nam mà còn quảng bá hình ảnh đất nước ra thế giới. Giữ gìn văn hóa là bảo vệ bản sắc riêng biệt của dân tộc, và cần sự tham gia của mọi người.
Trong thế giới hiện đại, việc giao lưu văn hóa với các quốc gia khác mang lại nhiều cơ hội, nhưng nếu không giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, chúng ta sẽ mất đi những giá trị độc đáo. Hòa nhập không phải là hoà tan, và mỗi người cần có ý thức bảo vệ văn hóa của dân tộc mình. Cần có biện pháp phù hợp để bảo tồn những di tích lịch sử và giữ gìn giá trị văn hóa. Việc này không chỉ là trách nhiệm của cá nhân mà còn của toàn xã hội.
Trong cuộc sống, không phải lúc nào chúng ta cũng có thể bảo tồn văn hóa do có những biến cố như chiến tranh, thiên tai có thể làm cho các công trình văn hoá suy yếu. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn nỗ lực hàng ngày để bảo tồn phố cổ Hà Nội, chùa Một Cột,... Việt Nam đã được UNESCO công nhận một số di sản văn hoá là di sản văn hoá thế giới, chứng tỏ nỗ lực không ngừng của chúng ta trong việc bảo tồn giá trị văn hoá dân tộc. Dù cuộc sống hiện đại hối hả, nhưng sâu thẳm trong mỗi người là tâm hồn Việt, cốt cách Việt. Bảo tồn văn hóa không có nghĩa là không giao lưu, học hỏi. Mỗi nền văn hoá có những điểm mạnh riêng. Tiếp nhận một cách hợp lý và lựa chọn sẽ làm phong phú thêm vốn văn hoá của dân tộc.
Giữ gìn bản sắc văn hoá không chỉ quan trọng với cộng đồng mà còn đối với từng người vì những giá trị văn hoá hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày của họ.
Tạ ơn Nguyễn Khải với tác phẩm 'Một người Hà Nội', qua đó ta nhận ra rằng văn hoá là một phần quan trọng của cuộc sống, và dù có những thay đổi, 'nếp sống tốt đẹp của cha ông vẫn lặng lẽ chảy trong cuộc sống ồ ạt ngày nay'.
Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 5
'Đất nước, dân tộc có giá trị cao quý nhất ở giá trị văn hóa...' (Phạm Văn Đồng)
Nếu nghệ thuật là một phần đặc trưng của văn hóa, thì văn học là gương mặt tiêu biểu cho văn hóa tinh thần của mỗi dân tộc. Văn học là nơi tập trung những giá trị văn hoá bền vững của dân tộc, và có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay.
Trong thời đại toàn cầu hóa, văn hóa dân tộc đang đối mặt với sự tấn công của các luồng văn hóa từ bên ngoài. Cuộc sống hiện đại đang thay đổi cách sống chậm rãi, thiền thức của dân tộc Việt. Nhưng bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống là thách thức mà chúng ta phải đối mặt trong thời đại này.
Văn học là biểu tượng của tinh thần văn hóa của mỗi dân tộc. Trong bối cảnh đó, văn học phải đảm nhận một nhiệm vụ quan trọng: bảo tồn, tôn vinh những giá trị văn hóa bền vững của dân tộc. Văn học là sự phản ánh của hiện thực, nhưng là sự phản ánh đặc biệt: phản ánh kèm theo nhận thức, phản ánh kèm theo biểu hiện, phản ánh kèm theo sáng tạo. Do đó, thế giới hiện thực trong văn học phải là thế giới đã qua sàng lọc và được tái tạo sáng tạo, có tác động đến nhận thức, tình cảm của người đọc, đưa con người đến với cái chân thực, thiện lành, và đẹp đẽ. Thế giới nghệ thuật trong văn học càng thêm sâu sắc bản sắc dân tộc thì càng có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và bảo vệ nó. Nếu văn học tôn vinh những vẻ đẹp truyền thống, thể hiện sức sống mạnh mẽ giữa xô bồ, hỗn tạp, thì văn học đó có ý nghĩa làm hướng dẫn con người tìm kiếm những giá trị thực sự. Vì ai có thể không cảm động trước cái đẹp, đặc biệt là cái đẹp đã được lọc qua trí tưởng tượng và trái tim nhạy cảm của nhà văn?
Những chàng trai và cô gái trẻ đang mải mê theo đuổi xu hướng thời trang Hàn Quốc, liệu họ đã nhận ra sự duyên dáng, đằm thắm và tình tứ gợi cảm của hình ảnh cô gái trong thơ quan họ của Hoàng Cầm:
Khi bước về phía bên kia dòng sông Đuống
Anh lại gặp em
Em mặc yếm màu thắm
Em thắt đai lụa hồng
Em đi trẩy hội dưới núi sông
Mỉm cười dưới ánh sáng của mùa xuân rạng ngời.
Đó là vẻ đẹp mang dấu ấn của truyền thống. Những 'yếm thắm, lụa hồng' có thể đã trở thành lạ thường, nhưng quan trọng hơn hết vẫn là nét đặc trưng của dân tộc hiện hữu trong vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại, và ánh mắt rạng ngời của cô gái. Nó khơi gợi vẻ đẹp thuần túy của Việt Nam.
Dù hàm răng đen (một xu hướng thời trang của phụ nữ xưa) có thể không phù hợp với thời đại hiện nay, nhưng trong văn học, nó vẫn giữ lại một vẻ đẹp đặc biệt:
Những cô gái với hàm răng đen
Mỉm cười như ánh nắng mùa thu
(Bên kia dòng sông Đuống - Hoàng Cầm)
Nụ cười ẩn sau những dải áo đen
Dưới ánh nắng gay gắt của buổi trưa hè rộn ràng
(Nắng mới - Lưu Trọng Lư)
Vẻ đẹp tươi tắn, sảng khoái của nụ cười ấy chính là bản sắc của phụ nữ truyền thống, những người 'giữ lửa' cho gia đình và xã hội, dù gặp nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng vẫn toát lên sức sống mạnh mẽ và tâm hồn giàu tình thương.
Cuộc sống ngày càng trở nên hối hả, thực dụng hơn. Sự lan tỏa của văn hóa phương Tây đang làm đảo lộn không khí bình yên của đất nước. Một phần thanh niên, lớp trẻ bị ảnh hưởng bởi lối sống phương Tây, thực tế hơn và công bằng hơn. Tỷ lệ ly hôn tăng cao. Tuy nhiên, chúng ta vẫn tin tưởng vào sự bền vững của gia đình Việt, khi văn học vẫn gìn giữ những giá trị của cuộc sống gia đình:
Cùng nhau xuống bờ biển săn cua
Đem về để nấu mứt mơ chua từ quả mơ trên cây
Em ơi, chua ngọt đã trải qua
Đừng quên nhau dưới ánh nắng non xanh nước bạc
Rồi trở thành một phương châm sống:
Tóc mẹ bèn bài sau lưng
Cha mẹ thể hiện tình thương bằng gừng cay và muối mặn.
Mặc cho ý thức về 'bình đẳng giới' hiện đại, người phụ nữ trong 'Chiếc thuyền ngoài xa' vẫn hi sinh để bảo vệ gia đình. Sự sẻ chia này là dấu ấn văn hóa của người Việt, vượt qua thời gian, thể hiện qua những nhân vật trong văn học.
Ngoài ra, văn chương còn gìn giữ và tôn vinh những giá trị văn hóa. Văn học là gương cho dân tộc nhìn vào, giúp bảo toàn và tồn tại bản sắc văn hóa dân tộc.
Văn học không chỉ là ý thức xã hội, mà còn là tình cảm sâu lắng. Nó kích thích niềm tự hào về văn hóa và mong muốn bảo tồn văn hóa dân tộc.
Thứ nhất, với lương tâm của một nhà văn, họ khiến ta tỉnh giấc trước những thay đổi của xã hội đang dần phai nhạt đi những giá trị văn hóa truyền thống. Đó là sự tỉnh giấc đầy ý nghĩa.
Trong tác phẩm “Một người Hà Nội”, Nguyễn Khải khám phá về một hiện thực phức tạp trên vùng đất đầy bản sắc văn hóa của dân tộc: “Tôi đạp xe trên đường Phan Đình Phùng, suy tư về điều gì đó. Một người bạn trẻ đạp xe vụt qua, suýt va vào tôi. Tôi hỏi: “Cậu đi vội quá điều gì vậy?”. Hắn không trả lời, đạp qua tôi và gắt gao: “Lão già ơi!”. Một buổi sáng khác, tôi ghé thăm một người bạn ở quận Đống Đa, bị lạc đường nên phải hỏi. Một số người trả lời thân thiện, có người lạnh lùng nhìn tôi như thể nhìn vào một thứ kỳ quái. Tôi kể về sự thiếu lễ phép của người Hà Nội với cô bạn, cô bé đang cho con bú phản đối: “Ông mặc như thế và đi xe đạp họ khinh thường, hãy đội mũ dạ, áo vest, đi ô tô, thưa ông”. Tôi cười: “Đúng là vậy”. Tác giả bày tỏ nỗi lo lắng về sự mai một của giá trị văn hóa tinh thần. Một Hà Nội thanh lịch “Tràng An nhưng không trang nhã” đang phản ánh qua hành động của mọi người trong thế giới kinh tế hiện đại. Nếu xưa kia, dân tộc ta đánh giá con người qua đạo đức và nhân cách chứ không phải qua của cải, thì hiện nay, người trẻ coi thường người lớn tuổi “mặc đồ như vậy, đi xe đạp”. Sự thanh lịch và tinh tế của người Hà Thành bây giờ được thay thế bởi hình ảnh một cô gái đang cho con bú tham gia vào cuộc trò chuyện của người cao niên! Những giá trị vật chất trở nên quan trọng hơn, chi phối hành vi và lối sống. Rõ ràng, nhà văn đang thức tỉnh chúng ta, yêu cầu ta nhìn nhận cuộc sống, để tỉnh giấc và lo lắng, để suy ngẫm và hành động.
Ở cấp độ thứ hai, văn học thúc đẩy tình yêu và niềm tin vào bản sắc văn hóa dân tộc. So sánh với sự hỗn loạn của quá trình toàn cầu hóa, nhà văn đã khắc sâu vào vẻ đẹp thiêng liêng của những giá trị văn hóa truyền thống, đại diện cho tinh thần của dân tộc. Đó là hình ảnh của một cụ bà Hà Nội, đã bước qua tuổi bảy mươi, vẫn là “người Hà Nội nguyên sơ, không pha trộn” trong việc lau rửa bát đĩa men đỏ giữa những ngày mà “người Hà Nội cứ bán bèo đi Lạng Sơn không buôn được vài ngàn đồng men đỏ” (Một người Hà Nội – Nguyễn Khải). Đó là tình cảm thiêng liêng không thể bị làm mờ, như tình yêu quê hương, tình cha mẹ, tình con cái – những sợi dây kết nối con người với nguồn gốc:
Cây xoài nhà tôi treo võng
Chờ trông hai phía sáng chiều
Con ở thành phố nắng cháy da
Cây xoài mát có con biết không?
(Trong Bản tình ca quê hương - Thu Nguyệt)
Đôi khi, giữa sự nhộn nhịp của đô thị hiện đại, văn học đưa ta trở về với một phần của văn hóa cổ xưa, yên bình, trong trẻo, thanh khiết:
Có thể là vào mùa xuân sau này, thậm chí còn mùa xuân sau nữa
Lá chuối, lá dong, bánh đúc, bánh đa
Rượu mận, rượu đào, trà lài, trà quế
Hạt bí, hạt bầu, quả chuối, quả na…
Em đi chợ mù sương mua cá chép
Để dòng nước trôi tự do, giấu mất lo âu và muộn phiền
Mẹ vẫn chờ mong áo hoa con mới mặc
Mang theo xa xôi, vẫn lưu luyến chuyến đò ngang!
(Có thể mùa xuân tới sau - Phan Trung Thành)
Sự so sánh đó trong văn học, qua cảm nhận của người nghệ sĩ, khích lệ ta trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống giữa bối cảnh thời hiện đại. Điều này khơi dậy tình yêu và ý thức bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.
Bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc không có nghĩa là đóng cửa, từ chối tất cả những ảnh hưởng của văn hóa thế giới. Trong quá trình phát triển của văn hóa dân tộc, đặc biệt là trong thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay, chúng ta phải chấp nhận sự tiếp xúc, giao lưu, và ảnh hưởng của văn hóa thế giới, biến nó thành điều kiện thuận lợi để phát triển, làm giàu thêm văn hóa của dân tộc mình.
Ở phương diện đó, văn học đã thể hiện vai trò quan trọng của mình. Bằng tính chất không giới hạn về không gian và thời gian, văn học đã tạo ra một môi trường giao lưu rộng lớn với các nền văn hóa nghệ thuật và các ý thức văn hóa trên toàn thế giới. Qua tác phẩm văn học (đặc biệt là văn học dịch), chúng ta tiếp cận và học hỏi được tinh hoa của nhiều nền văn hóa, từ đó làm phong phú thêm văn hóa của dân tộc mình. Ví dụ, tinh thần dân chủ và nhân văn của phương Tây đã ảnh hưởng đến văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX thông qua hai trào lưu văn học lớn: Lãng mạn và Hiện thực. Chính tinh thần dân chủ và nhân văn này đã làm mới, phong phú hơn các truyền thống yêu nước và nhân đạo của dân tộc ta. Nếu trước kia, tinh thần yêu nước và dân tộc chỉ dừng lại ở lý tưởng “trung quân ái quốc” (do ảnh hưởng của đạo Nho), thì nay đã mở rộng đến tình cảm với nhân dân, với lý tưởng cứu nước. Chủ nghĩa nhân đạo cũng đã vượt lên giới hạn của tình thương con người để đạt đến một tư tưởng cao hơn, rộng lớn hơn: nhân đạo đồng nghĩa với sự tôn trọng mọi giá trị con người.
Cùng với việc tiếp nhận những tinh hoa văn hóa toàn cầu, văn học cũng có vai trò quan trọng trong việc giới thiệu văn hóa Việt Nam đến với các quốc gia khác trên thế giới, khẳng định vị thế của một quốc gia sở hữu một di sản văn hóa phong phú. Truyện Kiều không phải là ngẫu nhiên khi nổi tiếng trên trường quốc tế, một phần là do nó đã mang lại cái nhìn về văn hóa và tư tưởng của người Việt Nam cho cộng đồng quốc tế. Triết lý của nó:
Sen héo lại nở cúc
Buồn vui thăng trầm, tháng ngày dần trôi từ mùa đông tới mùa xuân.
thể hiện một tinh thần lạc quan, tự do của người Việt mà người phương Tây phải ngưỡng mộ. Tương tự, sự bao dung và lòng từ bi cao quý, có nguồn gốc từ tình thân thiết con người đã giúp người Việt vượt qua giới hạn của một quốc gia nông nghiệp, để đạt được những giá trị nhân văn sâu sắc, như được thể hiện trong một câu nói của Kim Trọng về Kiều:
Trăng tan mà vẫn sáng hơn cả rằm ngày xưa
Và:
Nhưng nàng đặt lòng hiếu khách trên hết
Có bụi nào vẫn chiếm lòng ta như vậy
Việc đưa văn hóa Việt Nam ra thế giới là một cách tôn vinh và bảo tồn bản sắc dân tộc, cũng như giữ cho nó không bị mất đi trong quá trình hội nhập quốc tế.
Có thể nói rằng, trong văn học, không có lĩnh vực nào thể hiện bản sắc văn hóa Việt Nam phong phú và đầy đủ như vậy. Từ phong tục tập quán đến nội tâm con người, từ giá trị tinh thần đến vật chất, văn học là nơi phản ánh rõ nét nhất bản sắc dân tộc.
Nhà văn có nhiệm vụ quan trọng là giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và để thực hiện điều đó, họ cần có tâm thế và quan điểm đúng đắn.
Văn học không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc mà còn chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn hóa. Trong bối cảnh văn hóa đọc đang bị xem nhẹ, cần có chiến lược phát triển văn hóa đọc và văn học trong thời đại mới.
Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 6
Trong thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa, Bác Hồ đã căn dặn: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Quả thực, đấu tranh cho bản sắc dân tộc cũng là một khía cạnh của bảo vệ độc lập của đất nước. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc chính là nhiệm vụ hàng đầu của thế hệ trẻ ngày nay.
Văn hóa là một phạm trù rất rộng, bao gồm cả những giá trị vật chất và tinh thần của con người. Ngôn ngữ, trang phục, hội họa, âm nhạc, phong cách sống,…đều là văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc chính là những nét riêng trong đời sống văn hóa, giúp phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc đồng nghĩa với trân trọng, gìn giữ và phát huy những nét đẹp văn hóa truyền thống.
Việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc là trách nhiệm của mỗi con người trong bất cứ thời đại nào. Tuy nhiên, hiện nay điều này đang trở thành nhiệm vụ cấp bách hơn bao giờ hết. Toàn cầu hóa đang nối liền các nền văn hóa trên thế giới, cho con người cơ hội giao lưu, cởi mở. Để có thể tiếp thu tinh hoa tri thức nhân loại mà không trở thành những kẻ “mất gốc”, sính ngoại, cực đoan thì ta cần biết phát huy lòng tự tôn dân tộc, đề cao bản sắc. Giữ gìn bản sắc cho thấy tình yêu quê hương đất nước, tinh thần trách nhiệm, lòng biết ơn của mỗi con người. Đó là cách ta khẳng định vị thế quốc gia và của chính bản thân mình khi đứng trước thế giới rộng lớn. Văn hóa dễ đi vào lòng người, hấp dẫn công chúng nên đấu tranh trên mặt trận văn hóa cũng vô cùng cam go.
Ngày nay, đa phần các bạn trẻ đều ý thức được nghĩa vụ của mình trong việc giữ gìn bản sắc dân tộc. Người trẻ biết đề cao tinh thần đoàn kết dân tộc, tận dụng mọi lợi thế để quảng bá vẻ đẹp của quê hương, xây dựng hình ảnh con người Việt Nam thân thiện – tài giỏi trong mắt bạn bè quốc tế. Thế hệ trẻ có quan điểm rõ ràng trong việc tiếp thu văn hóa nước ngoài, dựa trên gốc rễ dân tộc mà học tập. Văn hóa dân gian ngày càng được đề cao, làm mới mà không mất đi giá trị cốt lõi. Trong chương trình Rap Việt, các rapper như Melodic, Double2T đã đưa hình ảnh làng quê, vùng núi của Việt Nam vào những tiết mục của mình và nhận được sự ủng hộ của khán giả. Ngược lại, vẫn có một bộ phận người trẻ có tư duy bảo thủ, không chịu đổi mới hoặc coi thường truyền thống, đi ngược lại với thuần phong mỹ tục.
Hành trình phát triển của đất nước là câu chuyện hàng ngàn năm. Đất nước độc lập, tự do thì con người mới hạnh phúc. Chính vì vậy, mỗi cá nhân cần nhận thức rõ ràng về trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ, nâng tầm bản sắc văn hóa dân tộc.
Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 7
Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là một tư tưởng luôn được đề cao trong lịch sử xây dựng và phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam, được thể hiện qua nhiều hình thức, một trong số đó là việc tổ chức các lễ hội. Lễ hội là một trong những nét văn hóa của dân tộc ta, nó không chỉ là nơi để vui chơi giải trí mà nó còn là để cho nhân dân ta thể hiện mong ước hay nhớ ơn tổ tiên ông bà ta. Mỗi một quê hương có những lễ hội riêng, tiêu biểu có thể kể đến lễ hội cầu ngư – lễ hội cá ông.
Có thể nói nhắc đến cái tên lễ hội ấy thì chúng ta hẳn cũng biết là lễ hội của những ai. Nói đến cá thì chỉ có nói đến nhân dân vùng ven biển sinh sống bằng nghề đánh bắt cá. Chính đặc trưng ngành nghề ấy đã quyết định đến tín ngưỡng của họ. Những người sống ven biển miền trung thường có tục thờ ngư ông. Chính vì thế cho nên hàng năm họ thường tổ chức vào các năm giống như những hội ở miền Bắc. Họ quan niệm rằng là sinh vật thiêng ở biển, là cứu tinh đối với những người đánh cá và làm nghề trên biển nói chung. Điều này đã trở thành một tín ngưỡng dân gian phổ biến trong các thế hệ ngư dân ở các địa phương nói trên.
Ở mỗi địa phương thì thời gian diễn ra lễ hội truyền thống lại diễn ra khác nhau. Ở Vũng Tàu thì được tổ chức vào 16, 17, 18 tháng 8 âm lịch hàng năm. Ở thành phố Hồ Chí Minh thì lại được tổ chức vào 14 – 17/18 âm lịch hàng năm. Nói chung dù diễn vào thời gian nào thì tất cả những lễ hội ấy đều nói lên được nét đặc trưng văn hóa của nhân dân ven biển. Đồng thời nó thể hiện khát vọng bình yên, cầu mong cuộc sống ấm no hạnh phúc thịnh vượng của họ. Lễ hội Ngư Ông còn là nơi cho mọi người tưởng nhớ đến việc báo nghĩa, đền ơn, uống nước nhớ nguồn.
Tiếp đến chúng ta đi vào phân tích phần lễ hội ngư ông. Trước hết là phần lễ thì bao gồm có hai phần:
Thứ nhất là lễ rước kiệu, lễ rước đó là của Nam hải Tướng quân xuống thuyền rồng ra biển. Khi ấy những ngư dân sống trên biển và bà con sẽ bày lễ vật ra nghênh đón với những khói nhang nghi ngút. Cùng với thuyền rồng rước thủy tướng, có hàng trăm ghe lớn nhỏ, trang hoàng lộng lẫy, cờ hoa rực rỡ tháp tùng ra biển nghênh ông. Không khí đầy những mùi hương của hương án và bày trước mắt mọi người là những loại lễ. Trên các ghe lớn nhỏ này có chở hàng ngàn khách và bà con tham dự đoàn rước. Đoàn rước quay về bến nơi xuất phát, rước ông về lăng ông Thủy tướng. Tại bến một đoàn múa lân, sư tử, rồng đã đợi sẵn để đón ông về lăng. Có thể thấy lễ rước ông không những có sự trang nghiêm của khói hương nghi ngút mà còn có sự đầy đủ của lễ vật và âm nhạc rộn rã của múa lân.
Thứ hai là phần lễ tế. Nó diễn ra sau nghi thức cúng tế cổ truyền. Đó là các lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát bội diễn ra tại lăng ông Thủy tướng.
Tiếp đến là phần hội thì trước thời điểm lễ hội, hàng trăm những chiếc thuyền của ngư dân được trang trí cờ hoa đẹp mắt neo đậu ở bến. Phần hội gồm các nghi thức rước Ông ra biển với hàng trăm ghe tàu lớn nhỏ cùng các lễ cúng trang trọng. Đó là không khí chung cho tất cả mọi nhà trên thành phố đó thế nhưng niềm vui ấy không chỉ có ở thành phố mà nó còn được thể hiện ở mọi nhà. Ở tại nhà suốt ngày lễ hội, các ngư dân mời nhau ăn uống, kể cả khách từ nơi xa đến cũng cùng nhau ăn uống, vui chơi, trò chuyện thân tình.
Như vậy qua đây ta thấy hiểu thêm về những lễ hội của đất nước, ngoài những lễ hội nổi tiếng ở miền Bắc thì giờ đây ta cũng bắt gặp một lễ hội cũng vui và ý nghĩa không kém là ngư ông. Có thể nói qua lễ hội ta thêm hiểu hơn những mong muốn tốt lành của những người ngư dân nơi vùng biển đầy sóng gió. Đặc biệt nó cũng trở thành một lễ hội truyền thống của những người dân nơi biển xa.
Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 8
Mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ lại có một bản sắc, một nét đẹp văn hóa khác nhau. Chúng ta cần phải biết giữ gìn bản sắc văn hóa của mình cũng như quảng bá những nét đắc sắc đó đến với bạn bè năm châu.
Bản sắc văn hóa dân tộc là những nét văn hóa từ lâu đời của dân tộc được truyền từ đời này sang đời khác đã trở thành những phong tục tập quán, những đặc trưng vùng miền của cả đất nước ta. Bên cạnh đó, bản sắc văn hóa dân tộc còn là những giá trị tạo nên sự khác biệt của mỗi quốc gia, sự phong phú trong lối sống, sinh hoạt tập thể của con người và tạo nên sự đa dạng màu sắc cho cuộc sống. Bản sắc văn hóa dân tộc có tầm quan trọng lớn lao đối với cuộc sống của mỗi người nói riêng và sự phát triển của đất nước nói chung.
Bản sắc văn hóa dân tộc hay cụ thể hơn là văn hóa vùng miền là nơi con người giao lưu văn hóa, cùng nhau tôn vinh vẻ đẹp của quê hương mình, cũng là nơi con người gắn kết với nhau, vui đùa. Bản sắc văn hóa dân tộc còn là những đặc trưng về văn hóa của quốc gia đó, là nét làm cho đất nước mình không bị nhầm lẫn với bất kì đất nước nào khác. Tuy nhiên, hiện nay, nhiều nét đẹp trong bản sắc văn hóa dân tộc của Việt Nam ta đang bị mai một, mất dần đi hoặc suy thoái, biến tướng thành nhiều thể loại khác. Chính vì thế, mỗi cá nhân đặc biệt là học sinh chúng ta phải có ý thức tìm hiểu những bản sắc văn hóa vốn có của dân tộc, giữ gìn và phát huy những giá trị đó với bạn bè năm châu. Nhà trường cần tổ chức nhiều hơn những hoạt động để tuyên truyền, mang đến cho học sinh nguồn tri thức về bản sắc văn hóa dân tộc.
Mỗi người học sinh cần phải đặt trách nhiệm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc lên hàng đầu, tích cực trau dồi hiểu biết của mình về những giá trị văn hóa tốt đẹp của nước nhà.
Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 9
Để đứng vững và phát triển xuyên suốt quá trình dựng nước và giữ nước, bên cạnh việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, mỗi một quốc gia đều phải coi trọng việc gìn giữ bản sắc văn hóa. Vai trò, ý nghĩa to lớn của bản sắc văn hóa đối với sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của mỗi một dân tộc đã đặt ra vấn đề về vai trò của giới trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước đối với việc gìn giữ bản sắc văn hóa.
Như chúng ta đã biết, bản sắc văn hóa là điều cốt lõi mang tính đặc trưng, màu sắc riêng của mỗi một quốc gia, dân tộc; được hình thành và được vun đắp song song với quá trình dựng nước và giữ nước theo cả chiều đồng đại và lịch đại. Đó có thể là những giá trị về vật chất, cũng có thể là những giá trị văn hóa về tinh thần như phong tục tập quán, truyền thống văn hóa,.... Đối với dân tộc Việt Nam, những giá trị đó luôn bền vững, trường tồn theo thời gian như nền văn minh lúa nước, trống đồng Đông Sơn, tinh thần yêu nước mạnh mẽ, bền bỉ như sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử dân tộc, tinh thần "tương thân tương ái" giàu giá trị nhân văn, hay truyền thống đạo lí "uống nước nhớ nguồn", "ân nghĩa thủy chung",....
Bản sắc văn hóa có ý nghĩa vô cùng sâu sắc đối với mỗi một quốc gia, dân tộc. Trước hết, bản sắc chính là cái gốc, cái hồn cốt lõi khẳng định sự tồn tại của mỗi một quốc gia, dân tộc. Điều này đã được Nguyễn Trãi - tác giả của áng thiên cổ hùng văn "Bình Ngô đại cáo" sớm khẳng định trong giai đoạn lịch sử trung đại. Trong tác phẩm của mình, để nêu ra một khái niệm hoàn chỉnh về quốc gia, dân tộc, Nguyễn Trãi đã nêu ra năm yếu tố, trong đó có hai yếu tố về nền văn hiến và phong tục tập quán, thể hiện rõ sự ý thức sâu sắc về vai trò của bản sắc văn hóa. Không chỉ dừng lại ở đó, bản sắc còn là cái nôi nuôi dưỡng ý thức về quyền độc lập và ý thức gìn giữ non sông, đất nước đối với mỗi một con người. Trong vô vàn những quốc gia tồn tại bình đẳng với bức tranh đa dạng và muôn màu sắc, bản sắc chính là một trong những yếu tố làm nên đặc trưng riêng, không thể hòa lẫn, hợp nhất giữa các đất nước.
Trong bối cảnh hòa nhập vào nền kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò vị trí của bản sắc văn hóa dân tộc càng được khẳng định hơn nữa và gắn bó mật thiết với trách nhiệm của thế hệ trẻ. Là những chủ nhân tương lai của đất nước, thế hệ thanh thiếu niên học sinh Việt Nam đã và đang phát huy bản sắc dân tộc bằng những việc làm tích cực. Mặc dù có sự du nhập và tác động từ văn hóa nước ngoài nhưng không ít bạn trẻ vẫn tìm về với những giá trị truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc như những trò chơi dân gian, những loại hình văn hóa dân gian như ca trù, nhã nhạc cung đình,..., đặc biệt là không ngần ngại quảng bá hình ảnh của Việt Nam ra thế giới. Trong phần thi về Trang phục dân tộc, Hoa hậu H'Hen Niê đã tỏa sáng với bộ quốc phục được lấy cảm hứng từ những chiếc bánh mì, mang theo niềm tự hào về thành tựu nông nghiệp của nước ta trên đấu trường nhan sắc quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, trong xã hội hiện nay, chúng ta vẫn dễ dàng bắt gặp những thanh niên với lối sống xa rời bản sắc dân tộc. Họ thờ ơ với những giá trị truyền thống ở cả vật chất cũng như tinh thần; và đề cao những giá trị văn hóa du nhập ở nước ngoài qua sự thần tượng, sính ngoại vượt ngưỡng cho phép. Chẳng hạn như việc các bạn trẻ vô tư sử dụng những ngôn từ nước ngoài xen kẽ vào tiếng Việt, tạo nên những cách diễn đạt khó hiểu và ảnh hưởng đến sự trong sáng của tiếng Việt. Những hành động đó đã vô tình tác động xấu đến việc duy trì, phát huy nền văn hóa dân tộc.
Thế hệ trẻ cần ý thức được vai trò, ý nghĩa của bản sắc dân tộc để nâng cao tinh thần gìn giữ những giá trị tốt đẹp này. Đồng thời, cần rèn luyện lối sống, những hành động tích cực phù hợp với những truyền thống đạo lí tốt đẹp của dân tộc, bảo lưu, phát huy những giá trị riêng đậm đà bản sắc dân tộc. Chúng ta còn cần lên án, phê phán những hành vi làm mai một bản sắc dân tộc, và có thái độ đấu tranh mạnh mẽ để bài trừ và tẩy chay những hoạt động văn hóa không lành mạnh đang lan truyền với tốc độ chóng mặt trong xã hội hiện nay.
Như vậy, thế hệ trẻ là tầng lớp có vai trò, ý nghĩa to lớn trong việc gìn giữ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Là những học sinh được sinh ra và lớn lên trong cái nôi của bản sắc dân tộc, chúng ta cần nỗ lực, cố gắng trong học tập, lao động để trở thành những công dân tốt, góp phần xây dựng, bảo vệ quê hương, đất nước.
Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 10
Để có thể đưa đất nước Việt Nam giống như lời chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu” thì bên cạnh việc phát triển kinh tế, chúng ta cần phải biết giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
“Bản sắc văn hóa dân tộc” - một cụm từ nghe có vẻ trừu tượng nhưng thực ra nếu hiểu đơn giản thì đó chính là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần cốt lõi của một dân tộc. Văn hóa có thể hiện hữu bằng sản phẩm thuộc về vật chất như những món ăn của dân tộc, trang phục truyền thống, danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử… Và cũng có thể vô hình qua những giá trị tinh thần: tiếng nói, truyền thống của dân tộc (yêu nước, hiếu học, thủy chung…), tác phẩm văn học, những nét đẹp trong phong tục tập quán… Quả thật, với hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam là một dân tộc đậm đà bản sắc văn hóa.
Bản sắc văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia, dân tộc. Trước hết, bản sắc văn hóa chính là hồn cốt của dân tộc. Một dân tộc có giữ gìn được bản sắc văn hóa mới có thể giữ được đất nước. Vì thế mà suốt bốn nghìn năm Bắc thuộc, người phương Bắc luôn tìm cách đồng hóa nhân dân Đại Việt để biến nước ta thuộc quyền sở hữu của chúng. Cũng vì thế mà người Pháp đã gọi dân tộc ta là “An Nam mít” và chúng là “nước mẹ vĩ đại” sang khai thông văn hóa cho người dân của ta. Sau đó, văn hóa còn đem lại những lợi ích to lớn, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của đất nước. Những danh lam thắng cảnh, những di tích lịch sử chẳng phải là những địa điểm du lịch thu hút khách nước ngoài. Những món ăn đậm đà hương vị dân tộc nổi tiếng ở nước ngoài đã đem đến lòng tự hào, cùng lợi ích kinh tế to lớn… Cuối cùng, trong hàng trăm quốc gia trên thế giới, thì bản sắc văn hóa chính là cái riêng biệt, không thể trộn lẫn với bất kỳ nơi nào khác.
Với tầm quan trọng to lớn như vậy, cần phải có những biện pháp nào để giữ gìn bản sắc văn hóa. Có lẽ đầu tiên cần phải nói đến ý thức của mỗi cá nhân. Mỗi người dân, từ người già đến trẻ nhỏ, đều cần ý thức được vai trò to lớn của bản sắc văn hóa dân tộc. Từ đó, biết bảo vệ giữ gìn chúng không bị mai một đi theo thời gian. Ví dụ như, hiện nay có rất nhiều bạn trẻ theo đuổi những loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian như: ca trù, cải lương, chèo… Sau đó, cần phải có sự vào cuộc của chính quyền từ trung ương đến địa phương. Nhà nước cần đầu tư trùng tu lại những sản phẩm văn hóa thuộc về vật chất cũng như bảo vệ những sản phẩm văn hóa thuộc về tinh thần… Đôi khi, việc giữ gìn bản sắc văn hóa cũng đến từ những hành động vô cùng nhỏ bé: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, mặc áo dài trong những ngày lễ lớn của đất nước… Tuy hành động đó là nhỏ bé, nhưng lại vô cùng ý nghĩa.
Tóm lại, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là một việc làm quan trọng đối với mỗi quốc gia. Thế hệ trẻ hôm nay - những con người luôn dễ dàng tiếp thu với cái mới, hãy sống có ý thức bảo vệ những nét đẹp chân quý của đất nước.
Nghị luận về giữ gìn bản sắc văn hóa qua truyện Một người Hà Nội - mẫu 11
Việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc là một trong những trách nhiệm của mỗi công dân. Và thế hệ trẻ - “mùa xuân của đất nước”, là những người tiên phong trong công cuộc ấy hiện nay.
Giữ gìn bản sắc văn hóa chính là bảo tồn và phát huy những nét đẹp văn hóa truyền thống của quốc gia, dân tộc. Điều đó thể hiện tình yêu quê hương, tinh thần tự tôn dân tộc, ý thức rõ ràng về độc lập chủ quyền của đất nước.
Trong thời đại công nghệ phát triển, xu thế toàn cầu hóa ngày một mạnh mẽ thì việc bảo vệ truyền thống của dân tộc trên nhiều bình diện càng cần được quan tâm. Là những con người giàu sức trẻ, nhiệt huyết và tinh thần sáng tạo, các bạn trẻ có rất nhiều cách để bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Những sản phẩm nghệ thuật của âm nhạc, hội họa, điện ảnh,…được những nghệ sĩ trẻ kết hợp hài hòa giữa hiện đại và truyền thống. Thị hiếu công chúng cũng ngày càng mặn mà với những sản phẩm lấy cảm hứng từ chất liệu văn hóa dân gian. Không chỉ vậy, các bạn trẻ còn biết tận dụng thế mạnh về ngoại ngữ của mình để giới thiệu cho bạn bè quốc tế những nét đẹp về con người, cảnh quan, ẩm thực Việt. Ta có thể kể đến Vàng Thị Dế - cô gái người Mông đã lan tỏa vẻ đẹp của vải lanh đến với đồng bào cả nước và bạn bè thế giới. Vải lanh vốn được dệt thủ công từ cây lanh, là sản vật của đồng bào người Mông ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Khi xuống Thủ đô học Đại học, Dế đã chăm chỉ tìm tòi, tự lập website và fanpage về vải lanh của riêng mình. Tấm vải quý giá này không chỉ xuất hiện trên trang phục của người phông mà còn được thiết kế thành túi, khăn, áo,… rất dễ ứng dụng trong đời sống hằng ngày. Sự sáng tạo hài hòa giữa truyền thống và hiện đại này đã thu hút người mua. Từ đó, Dế đã giúp nhiều gia đình Mông tăng thêm thu nhập. Nét đẹp núi rừng Việt Nam cũng được đi xa hơn, được nhiều du khách yêu thích.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một bộ phận những người trẻ có tư tưởng sính ngoại, coi thường văn hóa truyền thống. Hoặc, có những người lại có quan điểm sai lệch về bảo tồn văn hóa, cố thủ sự lạc hậu. Đây đều là những hiện tượng cần loại trừ. Hai tiếng “Bản sắc” chính là chìa khóa để phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, là dấu “vân tay” nhận diện mỗi chúng ta. Chính vì vậy, hãy sử dụng tài năng, sức trẻ và mọi cơ hội để bảo tồn và phát huy truyền thống văn hiến ngàn đời.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 Ôn thi THPT Quốc gia khác:
- Nghị luận Kẻ cơ hội thì nôn nóng tạo ra thành tích, người chân chính hay nhất
- Nghị luận Khó khăn hôm qua nhào nặn nên con người bạn hôm nay hay nhất
- Bị đánh bại chỉ là tình trạng nhất thời, bỏ cuộc mới là sự thất bại vĩnh viễn hay nhất
- Dàn ý: Hồi tôi hai mươi tuổi, tôi chỉ thừa nhận riêng tôi có tài hay nhất
- Suy nghĩ về bài học: Dẫu phải khi cay đắng dập vùi, Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu hay nhất
Sách VietJack thi THPT quốc gia 2025 cho học sinh 2k7:
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều