10+ Phân tích 2 câu thực bài Thương vợ (điểm cao)

Phân tích 2 câu thực bài Thương vợ điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Phân tích 2 câu thực bài Thương vợ (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Phân tích 2 câu thực bài Thương vợ

1. Mở bài

- Đôi nét về tác giả Trần Tế Xương: một tác giả mang tư tưởng li tâm Nho giáo, tuy cuộc đời nhiều ngắn ngủi

Thương vợ là một trong số những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú

2. Thân bài

- Lặn lội thân cò khi quãng vắng: có ý từ ca dao “Con cò lặn lội bờ sông” nhưng sáng tạo hơn nhiều (cách đảo từ lặn lội lên đầu hay thay thế con cò bằng thân cò):

+ “Lặn lội”: Sự lam lũ, cực nhọc, nỗi gian truân, lo lắng

+ Hình ảnh “thân cò”: gợi nỗi vất vả, đơn chiếc khi làm ăn gợi tả nỗi đau thân phận và mang tình khái quát

+ “khi quãng vắng”: thời gian, không gian heo hút rợn ngợp, chứa đầy những nguy hiểm lo âu

Sự vất vả gian truân của bà Tú càng được nhấn mạnh thông qua nghệ thuật ẩn dụ

- “Eo sèo… buổi đò đông”: gợi cảnh chen lấn, xô đẩy, giành giật ẩn chứa sự bất trắc

+ Buổi đò đông: Sự chen lấn, xô đẩy trong hoàn cranh đông đúc cũng chứa đầy những sự nguy hiểm, lo âu

Quảng cáo

- Nghệ thuật đảo ngữ, phép đối, hoán dụ, ẩn dụ, sáng tạo từ hình ảnh dân gian nhấn mạnh sự lao động khổ cực của bà Tú.

Thực cảnh mưu sinh của bà Tú: Không gian, thời gian rợn ngợp, nguy hiểm đồng thời thể hiện lòng xót thương da diết của ông Tú.

3. Kết bài

- Khẳng định lại những nét đặc sắc tiêu biểu về nghệ thuật làm nên thành công nội dung 2 câu thực trong bài thương vợ

- Liên hệ, bày tỏ quan điểm, suy nghĩ của bản thân về người phụ nữ trong xã hội hôm nay.

Phân tích 2 câu thực bài Thương vợ - mẫu 1

          Thơ văn Trần Tế Xương gồm hai mảng lớn: trào phúng và trữ tình. Có bài hoàn toàn là đả kích, châm biếm, có bài thuần là trữ tình. Tuy vậy, hai mảng không tuyệt đối ngăn cách. Thường là châm biếm sâu sắc nhưng vẫn có chất trữ tình. Ngược lại, trữ tình thấm thía cũng pha chút cười cợt theo thói quen trào phúng.

Quảng cáo

Thương vợ là một bài thơ như vậy. Thương vợ là bài thơ phản ánh hình ảnh bà Tú vất vả, đảm đang, lặng lẽ hi sinh vì chồng vì con, đồng thời thể hiện tình thương yêu, quý trọng và biết ơn của Tú Xương đối với người vợ của mình.

Trong hai câu thực, hình ảnh bà Tú một mình thui thủi làm ăn càng hiện lên cụ thể và rõ nét hơn:

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Quảng cáo

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Tú Xương dùng một hình tượng quen thuộc trong văn chương dân gian nói về người phụ nữ lao động ngày xưa: Con cò lặn lội bờ sông... nhưng ông không so sánh mà đồng nhất thân phận bà Tú với thân cò. Tấm thân mảnh dẻ, yếu đuối của bà Tú mà phải chịu dãi nắng dầm sương thì đã là gian nan, tội nghiệp, vậy mà bà còn phải lặn lội sớm trưa. Nghĩa đen của từ này cũng gợi ra đầy đủ cái vất vả, khó nhọc trong nghĩa bóng. Tấm thân cò ấy lại lặn lội trên quãng vắng đường xa. Nói quãng vắng là tự nhiên nổi lên cái lẻ loi, hiu quạnh, lúc cần không biết nương tựa vào đâu, chưa nói đến những hiểm nguy bất trắc đối với thân gái dặm trường.

Eo sèo chỉ sự nói đi nói lại, có ý bất bình. Đò đông có thể hiểu hai cách: một là đò ngang đã chở đầy người, hai là đò từ các nơi tập hợp lại rất đông. Hiểu cách nào cũng đúng với ý định đặc tả nỗi khó nhọc, gian nan trong cảnh kiếm ăn của bà Tú.

Bên cạnh nỗi khổ vật chất còn có nỗi khổ tinh thần. Vì chồng con mà phải lặn lội đường xa quãng vắng, nhưng liệu chồng con có biết cho chăng? Và bà Tú cứ âm thầm lo toan như vậy cho đến hết đời, hết kiếp... số phận bà là vậy.

Câu thơ miêu tả mà đầy chất trữ tình, nghe thật xót xa, tội nghiệp! Ông Tú tỏ ra thông cảm với nỗi khó nhọc của vợ và thương vợ đến vậy là sâu sắc.

Ông Tú hiểu thấu công việc làm ăn của bà Tú. Khi quãng vắng, buổi đò đông, bà đều vất vả khó nhọc, không kể gian nan, không quản thân mình, một lòng vì chồng, vì con. Bà Tú mà nghe được những lời như thế của ông chắc cũng thấy gánh nặng trên vai mình nhẹ bớt và trong thâm tâm bà cũng được an ủi ít nhiều.

Phân tích 2 câu thực bài Thương vợ - mẫu 2

          Tác giả Trần Tế Xương (1870 - 1907) được nhiều người biết đến bằng cái tên vô cùng quen thuộc: Tú Xương. Ông nhiều lần đi thi đều đỗ tú tài. Ba mươi bảy mùa xuân - một quãng thời gian vô cùng ngắn ngủi, một tuổi đời còn quá trẻ nhưng ông đã mãi mãi ra đi. Ông ra đi, nhưng khoảng trên 100 bài thơ ông viết – một con số vô cùng ấn tượng đã trở thành những bài thơ bất hủ. Thơ ca của ông chủ yếu là thơ trào phúng mang giọng điệu phê phán, đả kích sắc sảo, cay độc mạnh mẽ và hiếm có. Nhưng ông không chỉ là một nhà thơ hiện thực mà đúng như Nguyễn Tuân đã nói: “Chất hiện thực ấy chỉ là “chân trái” còn “chân phải” là chất trữ tình”. Đúng vậy, sống trong thời kì thực dân nửa phong kiến đầy rẫy những cám dỗ, bất công, ông hiểu được tình cảnh loạn lạc của hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Một xã hội tối đen như mực, nhơ nhớp, thối nát đã đẩy biết bao con người vào thế “ngàn cân treo sợi tóc”, họ bị hà hiếp và bị ép vào bước đường cùng. Tội nghiệp hơn cả là thân phận của người phụ nữ, đặc biệt là những người mẹ, người vợ. Họ đều là những người dân vô tội, “thấp cổ bé họng”, nhỏ bé, bị vùi dập trước xã hội hôi tanh thối rữa ấy. Ông đồng cảm, xót xa cho thân phận của những người phụ nữ, đặc biệt hơn cả là người vợ của mình – người đã đồng hành cùng ông trong suốt quãng đời: bà Phạm Thị Mẫn. Và từ đó một tuyệt tác văn học của ông ra đời, bài thơ có nhan đề “Thương vợ”. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho thơ trữ tình của ông, ông viết để dành tặng cho chính người vợ của mình.

Toàn cảnh bài thơ là cái nhìn chân thực về người vợ tần tảo, giàu đức hi sinh của tác giả. Ông đã nhấn mạnh được sự gian lao, vất vả của bà một cách hết sức nổi bật, rõ nét qua hai câu thơ:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Trong cuộc sống này, chắc hẳn trong chúng ta ai ai cũng đã một lần được nghe qua câu ca dao xưa: “Con cò lặn lội bờ sông” rồi phải không? Trong hình ảnh “Lặn lội thân cò” tác giả đã sử dụng phép đảo ngữ, qua đó ông còn trau chuốt thêm bằng bàn tay nghệ sĩ tài hoa của mình để tô đậm thêm sự lam lũ, vất vả của vợ mình. “Lặn lội” là một hoạt động của con người, con người ta phải tự mình vượt một quãng đường xa, gian nan, vất vả thì mới đạt được đích đến thành công. “Xây dựng thành công từ thất bại. Sự chán nản và thất bại là hai bước đệm chắc chắn nhất dẫn tới thành công.” Đích đến của sự thành công không phải lúc nào cũng trải đầy hoa hồng, nó là một quá trình ta phải thử thách rèn luyện bản thân qua những biến động của cuộc sống. Bà Tú là một con người như thế, đường đi của bà luôn gập ghềnh, trắc trở nhưng không vì thế mà bà từ bỏ. “Gập ghềnh” ở đây không có nghĩa là con đường đất đầy đá, đầy ổ gà, ổ voi mà chính là con đường bà phải tự mình “lặn lội khi quãng vắng”. “Quãng vắng” là khung cảnh không gian mênh mông, heo hút, vắng tanh vắng ngắt người. Chỉ một mình ta chơi vơi, lẻ loi giữa dòng đời cô lập, hiu quạnh. Ai cũng vậy, dù chỉ mới tưởng tượng ra thôi mà đã thấy sợ hãi. Nhưng cũng nhờ vì cái khoảng không gian im ắng, tĩnh lặng đến rợn ngợp đó mà bao sự hi sinh thăng trầm, cơ cực, cay đắng của người phụ nữ ấy đã được tôn lên một cách rõ nét. Với bà Tú, không điều gì có thể ngăn cản được bước chân của bà, vì chồng vì con,  bà có thể làm được tất cả, sẵn sàng hi sinh tất cả. Điều này gợi lên sự can đảm, chịu thương chịu khó của bà. Đó là đức tính cao đẹp trong tâm hồn người phụ nữ nhỏ bé này. “Lặn lội thân cò khi quãng vắng”, trong câu này tác giả thật sáng suốt khi ông đã sử dụng biện pháp nghệ thuật tu từ ẩn dụ “Thân cò” để chỉ người vợ vất vả, cực nhọc, tần tảo sớm hôm của mình nhằm khắc họa đậm chất hình ảnh người vợ đảm đang, “một nắng hai sương”, không ngại khó, không ngại khổ, không quản khó khăn cực nhọc trong đời sống hằng ngày, không kêu ca than vãn một lời cho dù cuộc sống có vô vàn biến động, phong ba bão táp như thế nào đi chăng nữa. Ý thơ của tác giả đã đúc kết sâu sắc hơn cái dáng vẻ gầy guộc, mong manh của người vợ và cả nỗi đau về thân phận của người phụ nữ đảm đang, dịu hiền này – số phận thân cò nặng nề, vất vả và gian nan giữa cuộc sống khốn khó, cơ cực, thiếu thốn trăm bề đầy bế tắc. Hơn thế nữa, cái dáng vẻ gầy guộc, liêu xiêu ấy được ví như “thân cò” trông bà thật đáng thương, cơ hàn và nhỏ bé biết bao!

Nhưng chỉ thế thôi vẫn chưa đủ, ngoài ra, tác giả còn nhấn mạnh công đức lớn lao của bà Tú cho tổ ấm của mình trong câu thơ kế tiếp:

“Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Từ láy “eo sèo” đã được ông sử dụng trong câu thơ này. Đó là tiếng kì kèo, phàn nàn, cãi vã một cách khó chịu, bức xúc, bực dọc giữa người này với người kia đã tạo nên một khung cảnh hỗn độn, cụ thể là trong công việc buôn bán của bà Tú. Giữa khách hàng và chủ hàng lúc nào cũng phải đôi co to tiếng, lời qua tiếng lại và cảm thấy như là một ngày yên bình, êm xuôi trong công việc làm ăn của bà là điều chưa bao giờ xảy ra. “Buổi đò đông” là hình ảnh miêu tả không gian đông đúc, nhộn nhịp, trái hẳn với không gian “quãng vắng” tăm tối, chứa đựng nhiều mối lo âu, hiểm nguy đáng sợ kia. Đó là nơi mọi người thường hay tụ tập, chen chúc và tranh giành nhau những món đồ trên chuyến đò một cách vô ý thức, bất lịch sự. Đây là câu thơ khắc họa đậm chất sự vật lộn với kế sinh nhai của bà Tú. Gặp phải chốn đò đông, bà luôn là người phải chịu cảnh bị xô đẩy, gò bó. Con người vốn đã nhỏ bé mà nay đứng trước hoàn cảnh ấy thì lại càng nhỏ bé, đáng thương, tội nghiệp hơn. Đặt bản thân mình vào hoàn cảnh này ai cũng cảm thấy uất ức chứ không riêng gì bà. Nhưng bà vẫn làm, vẫn cam chịu, vẫn gánh vác, vẫn đảm nhiệm công việc của mình. Ca dao xưa đã từng nói rằng: “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”. Có lẽ, bà cũng đã ghi nhớ lấy điều này nhưng vì mục tiêu là kiếm được miếng cơm manh áo cho gia đình, vì nền kinh tế gia đình còn khó khăn, nghèo khổ, vì bà là trụ cột chính trong gia đình, tất cả mọi việc đều trông cậy, phụ thuộc vào đồng lương ít ỏi của bà đi buôn bán hằng ngày trên chuyến đò đông cùng với dòng người xô bồ tấp nập xen lẫn với tiếng kì kèo, cãi vã ấy nên bà cũng phải bất chấp tất cả, phải kiên quyết, phải lấm láp phong trần, hi sinh thầm lặng cuộc đời mình cho tổ ấm mà mình đã vun vén, xây dựng bấy lâu nay. Bà phải chịu cơ chịu cực, những buổi chen lấn trên sông nước đò giang lênh đênh đầy bất trắc như thế mà bà vẫn không sợ bất kì mối hiểm nguy nào. Bà vẫn thế, vẫn là người phụ nữ mạnh mẽ, quả cảm vì động lực lớn nhất tiếp thêm ngọn lửa sức mạnh cho bà để bà tiếp tục với công việc của mình chính là chồng, con. Gia đình là điều quý giá đã thắp lên ngọn lửa hi vọng trong tâm hồn người phụ nữ tần tảo, chừng mực này. Tú Xương đã thầm cảm thương cho cảnh ngộ và đức hi sinh cao cả của vợ mình. Không ai khác, ông là người hiểu hơn hết “tính hạnh khoan hòa” của bà, vì vậy ông đã dùng lời lẽ văn chương của mình để bộc lộ lên những điều này với tất cả sự thương cảm, xót xa đối với người phụ nữ đã gắn bó cùng ông suốt cuộc đời này. Mọi người trân trọng, cảm phục và nhớ tới ông nhiều hơn có lẽ là do họ nghe được nhịp đập của một trái tim chân thành, giàu cảm xúc, biết trọng nhân cách, mang nỗi đau vời vợi khôn nguôi đối với người vợ vĩ đại của mình. Quỹ đạo của thời gian có thể thay đổi nhưng niềm tin yêu mãnh liệt của ông đối với người phụ nữ này chưa bao giờ dập tắt. Ông đã xâu chuỗi vô vàn tình cảm của mình vào những ý thơ giản dị mà chân thực, làm thức tỉnh tâm hồn người đọc: Công lao của người vợ to lớn như trời bể, sự thông cảm, sẻ chia, biết ơn, trân trọng của người chồng đối với người vợ là điều quý giá nhất trong cuộc sống này.

Chỉ qua hai câu thơ cùng với một số biện pháp tu từ nghệ thuật như: ẩn dụ, từ láy, đảo ngữ cũng với những từ ngữ có sức gợi hình, gợi cảm cao, tác giả đã sử dụng ngòi bút tinh xảo của mình để làm hiện lên rõ nét người vợ tần tảo, biết lo toan bộn bề cuộc sống, có lòng thương chồng, yêu con vô bờ bến cùng với bản tính cần cù, nhẫn nại chăm lo, gánh vác cho gia đình để kiếm đủ cơm áo gạo tiền nuôi đủ “Năm con với một chồng”. Bà là một người phụ nữ kiên cường, luôn sẵn sàng đối đầu với gian nan, thách thức, con đường tuy nhiều chông gai nhưng dường như điều này đã tôi luyện cho trái tim của bà ngày một sắt đá hơn. Đánh đổi cả thanh xuân của mình vì gia đình yêu dấu, bao nhiêu sự khổ cực có, nỗi vất vả có, cay đắng cũng có… nhưng tất cả đều không thể làm bà khuất phục, buông xuôi trước nghịch cảnh đầy éo le, ngang trái này. Ở đâu đó ta vẫn cảm thấy thấp thoáng một nụ cười hóm hỉnh của nhà thơ bày tỏ sự yêu thương, quý trọng đối với bậc hiền phụ tần tảo, giàu đức hi sinh. Không chỉ có thế, hai câu thơ này đã tái hiện được hình ảnh của bà Tú gian nan, đáng thương, cơ cực, bần hàn và tội nghiệp đến tột cùng. Ôi chao! Thật xót xa làm sao cho những thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa nói chung và số phận hẩm hiu, bi đát của bà Tú nói riêng.

Phân tích 2 câu thực bài Thương vợ - mẫu 3

          Trong thơ ca trung đại, hình ảnh người phụ nữ thường được khắc họa với số phận nhỏ bé, bất hạnh, chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội phong kiến. Đến với thơ Trần Tế Xương – một nhà thơ trào phúng nổi tiếng, người ta không chỉ bắt gặp tiếng cười châm biếm sâu cay mà còn thấy được những tình cảm chan chứa yêu thương, đặc biệt là dành cho người vợ tảo tần. Trong bài “Thương vợ”, hai câu thơ:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Là hai câu thơ đặc sắc nhất, thể hiện rõ nét hình ảnh bà Tú – người phụ nữ vất vả, lam lũ vì chồng vì con, đồng thời bộc lộ tấm lòng yêu thương và cảm thông sâu sắc của nhà thơ đối với vợ mình.

Câu thơ đầu “Lặn lội thân cò khi quãng vắng” gợi lên hình ảnh một người phụ nữ tảo tần, vất vả, gắn liền với hình tượng “con cò” quen thuộc trong ca dao xưa: “Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”. Hình ảnh “thân cò” ở đây không chỉ đơn thuần là một biểu tượng dân gian, mà còn mang dáng dấp, số phận của người vợ cụ thể – bà Tú – hiện lên thật mỏng manh, nhỏ bé giữa cuộc đời đầy sóng gió. Đặc biệt, cách sử dụng nghệ thuật đảo ngữ “lặn lội thân cò” khiến cho hành động vất vả ấy như được nhấn mạnh, tạo cảm giác trĩu nặng và gợi nên nỗi thương cảm sâu xa. Cái “lặn lội” không chỉ là lao động cực nhọc mà còn là sự hy sinh, dấn thân bất chấp hiểm nguy, khó khăn.

Sang đến câu thơ tiếp theo: “Eo sèo mặt nước buổi đò đông”, bức tranh đời sống của bà Tú lại càng trở nên chân thực, sinh động. “Eo sèo” là từ tượng thanh, gợi sự xô bồ, chen lấn, tranh giành nơi bến đò – một không gian chật chội, ồn ã. “Buổi đò đông” là hình ảnh ẩn dụ cho cảnh mưu sinh tấp nập, nhiều hiểm nguy. Người phụ nữ ấy không chỉ vất vả về thể xác mà còn phải đối mặt với bao điều phức tạp, xô bồ của cuộc sống. Dù có lẽ bà Tú cũng thấm thía lời dặn của cổ nhân “sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”, nhưng vì chồng, vì con, bà vẫn chấp nhận mọi gian khó. Hai câu thơ với hai cụm từ “lặn lội” và “eo sèo” đối nhau về ngữ nghĩa và hình ảnh, vừa gợi hình lại vừa gợi cảm, tạo nên một ấn tượng sâu sắc về sự hy sinh thầm lặng mà cao cả của người vợ.

Qua hai câu thơ này, ta không chỉ thấy được nỗi nhọc nhằn, cực khổ của bà Tú, mà còn cảm nhận rõ sự cảm thông, trân trọng và thương yêu mà Trần Tế Xương dành cho vợ. Nhà thơ dường như đang “nhỏ lệ” trước hình ảnh người vợ tảo tần của mình. Dù nổi tiếng là người hay châm biếm, đả kích, nhưng ở bài thơ này, Tú Xương đã trở nên vô cùng dịu dàng, chân thành. Có thể nói, hai câu thơ không chỉ là điểm sáng của bài thơ mà còn là điểm sáng trong văn học viết về người phụ nữ – bởi lẽ, đằng sau hình ảnh “thân cò” nhỏ bé ấy là cả một tấm lòng bao la, hy sinh và nhân hậu.

Tóm lại, với hai câu thơ “Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ Eo sèo mặt nước buổi đò đông”, Trần Tế Xương đã khắc họa thành công hình ảnh người vợ tảo tần, lam lũ mà cũng đầy nghị lực. Đồng thời, ông cũng thể hiện tình yêu thương sâu sắc, lòng biết ơn chân thành với người phụ nữ đã hết lòng vì chồng vì con. Bằng hình ảnh dân gian quen thuộc, ngôn ngữ mộc mạc mà giàu sức gợi, bài thơ “Thương vợ” đã trở thành một tiếng nói đầy nhân văn và là minh chứng rõ nét cho vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam xưa.

Phân tích 2 câu thực bài Thương vợ - mẫu 4

          Trong nền văn học trung đại Việt Nam, Trần Tế Xương – hay còn gọi là Tú Xương – là một cây bút trào phúng nổi bật, thường dùng thơ ca để châm biếm thói đời. Tuy nhiên, phía sau cái nhìn sắc sảo, chua cay ấy lại là một trái tim đầy yêu thương và trân trọng đối với người vợ tảo tần, giàu đức hy sinh. Bài thơ “Thương vợ” là minh chứng rõ ràng nhất cho điều đó. Đặc biệt, hai câu thơ:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Đã khắc họa rõ nét hình ảnh bà Tú – người phụ nữ đảm đang, chịu thương chịu khó, qua đó thể hiện tình yêu thương, sự thấu hiểu và biết ơn sâu sắc của nhà thơ.

Hai câu thơ này có cấu trúc đặc biệt với việc đảo ngữ – đưa vị ngữ lên đầu câu để nhấn mạnh hai từ láy “lặn lội” và “eo sèo”. Đây là những từ gợi hình rất mạnh, làm nổi bật sự vất vả, lam lũ trong cuộc sống mưu sinh của bà Tú. Bà phải “lặn lội” – một hành động diễn tả sự nhọc nhằn, cực khổ – vào những “quãng vắng”, thời điểm mà người ta vẫn còn say giấc, đường sá còn vắng vẻ, thưa người, thậm chí tiềm ẩn nhiều hiểm nguy, đặc biệt với một người phụ nữ đơn thân ra ngoài buôn bán. Hình ảnh “lặn lội thân cò” gợi liên tưởng đến hình ảnh “con cò” trong ca dao xưa: “Con cò lặn lội bờ sông/ Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”. Trong văn học dân gian, con cò là biểu tượng cho những người phụ nữ nghèo khổ, tảo tần, giàu lòng hy sinh. Tuy nhiên, ở đây, Tú Xương đã sáng tạo hình ảnh quen thuộc ấy thành “thân cò”, nhấn mạnh hơn đến số phận, thân phận mong manh, bé nhỏ của người vợ giữa dòng đời nghiệt ngã.

Không chỉ phải bươn chải lúc “quãng vắng”, bà Tú còn phải chịu những điều tiếng, va chạm trong cảnh “đò đông”. Câu thơ thứ hai “Eo sèo mặt nước buổi đò đông” tái hiện khung cảnh buôn bán xô bồ, chen lấn, nơi bà Tú vừa phải buôn bán, vừa phải chịu đựng những lời qua tiếng lại, những phàn nàn, kêu ca của khách hàng. Từ láy “eo sèo” không chỉ là âm thanh mà còn là tâm trạng – sự mỏi mệt, áp lực trong một công việc vốn đã đầy gian truân. Hình ảnh “mặt nước buổi đò đông” là không gian rộng mở nhưng cũng đầy hỗn tạp, gợi lên cuộc mưu sinh nơi chợ búa vừa xô bồ vừa bất trắc.

Cả hai câu thơ kết hợp các biện pháp nghệ thuật như phép đối, phép đảo ngữ, sử dụng từ láy gợi hình, cùng hình ảnh ẩn dụ dân gian, đã làm nổi bật hình ảnh một người phụ nữ chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con. Ẩn sau những hình ảnh khắc khổ ấy là tình cảm yêu thương, trân trọng của nhà thơ dành cho vợ. Dưới góc nhìn của Tú Xương, bà Tú không chỉ là một người phụ nữ trong gia đình, mà là trụ cột, là người gánh vác kinh tế, là tấm gương hy sinh thầm lặng. Điều đó càng đáng trân quý khi đặt vào bối cảnh xã hội phong kiến xưa, nơi vai trò người phụ nữ thường bị coi nhẹ.

Tóm lại, với hai câu thơ “Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ Eo sèo mặt nước buổi đò đông”, Tú Xương đã vẽ nên một bức chân dung đầy xúc động về người vợ tảo tần. Qua ngôn ngữ giàu hình ảnh và cảm xúc, ông không chỉ khắc họa hiện thực cuộc sống vất vả của bà Tú, mà còn gửi gắm tình cảm yêu thương, sự trân trọng và biết ơn sâu sắc. Đây chính là điểm đặc biệt trong thơ Tú Xương: sau tiếng cười châm biếm là một trái tim nhân hậu và một tình cảm gia đình vô cùng chân thành, đáng quý.

Phân tích 2 câu thực bài Thương vợ - mẫu 5

          Trong bài thơ “Thương vợ”, Trần Tế Xương không chỉ khiến người đọc cảm động bởi tấm lòng biết ơn dành cho người vợ tảo tần, mà còn thể hiện được tài năng nghệ thuật độc đáo trong việc miêu tả hiện thực đời sống bằng những hình ảnh giản dị, đời thường mà giàu sức gợi. Hai câu thơ thực:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Là những câu thơ đặc sắc thể hiện sâu sắc nỗi khổ cực của bà Tú – người phụ nữ gánh vác kinh tế gia đình, đồng thời cũng là hình ảnh tiêu biểu cho biết bao người vợ tảo tần trong xã hội xưa.

Ngay từ câu thơ đầu tiên, Tú Xương đã sử dụng hình ảnh ẩn dụ “thân cò” – một sáng tạo nghệ thuật giàu tính cá nhân, vừa mang tính truyền thống vừa mang màu sắc hiện đại. Nếu trong ca dao xưa, con cò là biểu tượng cho người phụ nữ lao động nghèo khổ, thì ở đây, tác giả đã chuyển từ “con cò” thành “thân cò”, không chỉ để gọi tên một hình ảnh cụ thể – bà Tú, mà còn gợi cảm giác xót xa, mong manh, nhỏ bé đến tội nghiệp. Từ “thân” nghe đơn giản nhưng lại thấm đượm nỗi cay đắng, gợi sự bé nhỏ, gầy guộc của người phụ nữ giữa dòng đời đầy bất trắc.

Từ láy “lặn lội” kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ càng nhấn mạnh hơn sự vất vả, nhọc nhằn của người phụ nữ. Không chỉ là lao động chân tay cực khổ, mà đó còn là sự dấn thân, bươn chải không ngừng nghỉ vì gia đình. Đặc biệt, cụm từ “khi quãng vắng” không chỉ gợi thời điểm vắng người, lạnh lẽo, mà còn hàm chứa cảm giác nguy hiểm, rợn ngợp nơi “mom sông” heo hút. Ở thời điểm ấy, khi người khác còn đang say ngủ, bà Tú đã phải rời nhà, một mình bước vào cuộc mưu sinh đầy thử thách. Câu thơ mang đến cảm giác xót xa, đơn chiếc cho người phụ nữ vì chồng con mà chấp nhận tất cả.

Nếu câu ba gợi nỗi cực nhọc trong sự cô đơn thì câu bốn lại là hình ảnh của sự vật lộn, chen chúc giữa chợ đời đông đúc. Một lần nữa, Tú Xương dùng đảo ngữ để nhấn mạnh từ láy “eo sèo” – tiếng kêu ca, phàn nàn, cãi vã thường thấy nơi bến chợ. Hình ảnh “mặt nước buổi đò đông” tạo nên không khí tấp nập, xô bồ và đầy áp lực. Trong không gian ấy, bà Tú – người phụ nữ có “năm con với một chồng” – hiện lên tất bật, gồng gánh, vật lộn mưu sinh không chỉ với nỗi nhọc nhằn mà còn với cả áp lực từ xã hội, từ miệng lưỡi đời thường.

Hai câu thơ sử dụng cặp hình ảnh đối lập “khi quãng vắng” – “buổi đò đông” để tạo hiệu ứng đối lập về không gian, đồng thời lại liên kết hài hòa về mặt nội dung, bổ sung cho nhau để nhấn mạnh tính chất gian lao, vất vả của bà Tú. Nếu “khi quãng vắng” là nỗi đơn côi, hiểm nguy trong lặng lẽ thì “buổi đò đông” lại là sự bon chen, ngột ngạt giữa đám đông. Cả hai đều là những hoàn cảnh khắc nghiệt mà người phụ nữ ấy phải đối mặt mỗi ngày. Người xưa từng răn: “Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”, nhưng bà Tú – vì miếng cơm manh áo, vì chồng con – vẫn chấp nhận dấn thân, vẫn kiên cường bước tiếp trên hành trình mưu sinh khắc nghiệt.

Tóm lại, hai câu thơ thực trong bài “Thương vợ” không chỉ khắc họa thành công hình ảnh một người vợ tảo tần, lam lũ mà còn là tiếng lòng của một người chồng đầy yêu thương và thấu hiểu. Qua những hình ảnh chân thực và đầy ám ảnh như “lặn lội thân cò”, “eo sèo mặt nước”, Tú Xương đã cho người đọc thấy được sự hy sinh thầm lặng mà cao cả của người phụ nữ trong gia đình, qua đó cũng thể hiện tư tưởng nhân văn sâu sắc trong thơ ông: đề cao vai trò và phẩm chất của người phụ nữ trong xã hội xưa.

Phân tích 2 câu thực bài Thương vợ - mẫu 6

          Trong thơ ca Việt Nam, hình ảnh người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng dồi dào cho nhiều tác phẩm. Nếu như trong ca dao, họ hiện lên với nét đẹp tảo tần, chịu thương chịu khó thì trong thơ Trần Tế Xương – một cây bút trào phúng nổi tiếng – hình ảnh người vợ lại càng được khắc họa rõ nét qua cảm quan đầy yêu thương, trân trọng. Bài thơ “Thương vợ” là lời tri ân tha thiết mà nhà thơ gửi đến người vợ tảo tần của mình. Đặc biệt, hai câu thơ thực:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Đã khắc họa chân thực và cảm động hình ảnh bà Tú – một người phụ nữ nhỏ bé nhưng đầy nghị lực, chịu đựng mọi gian lao vì chồng con.

Trong hai câu thơ này, hình ảnh độc đáo, giàu sức gợi và gần gũi nhất chính là hình ảnh con cò – một biểu tượng quen thuộc trong văn học dân gian. Tuy nhiên, Tú Xương không dùng trực tiếp hình ảnh “con cò”, mà thay vào đó là “thân cò” – một cách gọi đầy cảm xúc và sáng tạo. Cái “thân cò” ấy mang dáng vẻ nhỏ bé, gầy guộc, tội nghiệp – như chính thân phận của bà Tú giữa dòng đời khắc nghiệt. Cụm từ “lặn lội thân cò” kết hợp với nghệ thuật đảo trật tự cú pháp đã nhấn mạnh sự vất vả, cực nhọc, thậm chí đơn độc của người phụ nữ khi mưu sinh. Hình ảnh “quãng vắng” không chỉ gợi một không gian vắng vẻ, heo hút – nơi tiềm ẩn nhiều hiểm nguy, mà còn làm bật lên sự âm thầm, lặng lẽ trong hành trình mưu sinh mà bà Tú phải đi qua.

Tiếp đó, đến câu thơ thứ tư “Eo sèo mặt nước buổi đò đông”, người đọc càng cảm nhận rõ hơn cảnh buôn bán nhộn nhịp, chen lấn, ồn ào và đầy áp lực. Từ láy “eo sèo” không chỉ là âm thanh, mà còn là biểu hiện của sự căng thẳng, xô bồ trong không gian mưu sinh. Giữa “buổi đò đông” – lúc chợ búa đông đúc, bà Tú phải vật lộn với cuộc sống, với những tiếng kêu ca, mặc cả, phàn nàn của khách hàng. Bà không chỉ vất vả về thể xác mà còn phải chịu đựng cả những áp lực tinh thần trong hành trình mưu sinh vốn không dễ dàng. Đối lập với “quãng vắng” ở câu ba là “đò đông” ở câu bốn – một sự tương phản về không gian, nhưng lại bổ sung về ý nghĩa, làm nổi bật hình ảnh người phụ nữ luôn tất bật, gian truân dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào.

“Thân cò” trong thơ Tú Xương không chỉ là biểu tượng cho một người vợ cụ thể – bà Tú, mà còn là hình ảnh tiêu biểu cho bao người phụ nữ Việt Nam xưa: chịu thương, chịu khó, sẵn sàng hy sinh cả tuổi xuân, sức lực vì chồng con. Dù mang phận “cái cò” mỏng manh, nhỏ bé, nhưng bà Tú vẫn mạnh mẽ bươn chải, gồng gánh cả gia đình giữa dòng đời xô đẩy. Qua cách sử dụng linh hoạt hình ảnh dân gian kết hợp với thủ pháp đảo ngữ và ngôn ngữ đời thường, Tú Xương đã vẽ nên một hình tượng người vợ tuy lam lũ, vất vả nhưng vô cùng cao đẹp và cảm động.

Từ hai câu thơ thực đến toàn bộ bốn câu đầu của bài thơ “Thương vợ”, hình ảnh bà Tú hiện lên thật chân thực và sâu sắc. Đó là người phụ nữ hy sinh thầm lặng, gánh vác kinh tế gia đình, âm thầm chịu đựng tất cả vì chồng vì con. Dưới cái nhìn của Tú Xương, bà không chỉ là người vợ đảm đang mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp lao động và đức hy sinh cao cả. Qua đó, người đọc càng thêm yêu quý và trân trọng người phụ nữ Việt Nam trong đời sống cũng như trong văn chương.

Phân tích 2 câu thực bài Thương vợ - mẫu 7

          Trong kho tàng văn học trung đại Việt Nam, hiếm có bài thơ nào cảm động và chân thực về người vợ như bài “Thương vợ” của Trần Tế Xương. Nếu phần lớn thơ ông là tiếng cười châm biếm, thì ở đây lại là tiếng lòng yêu thương, xót xa và biết ơn dành cho người phụ nữ tảo tần đã hy sinh cả cuộc đời vì chồng con. Hai câu thơ thực:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

là minh chứng rõ nét cho sự vất vả, khổ cực của bà Tú – đồng thời cũng là hình ảnh tiêu biểu cho bao người phụ nữ Việt Nam xưa.

Để có được “tiếng thơm” lo toan cho chồng con, bà Tú đã phải đánh đổi bằng bao nhiêu công sức, nước mắt, thậm chí cả tuổi xuân. Hình ảnh “thân cò” mà Tú Xương sử dụng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, vừa kế thừa hình tượng quen thuộc trong ca dao, vừa mang tính cá nhân, giàu biểu cảm. Trong ca dao, hình ảnh con cò đã trở thành biểu tượng cho người phụ nữ hiền lành, chăm chỉ, lặng lẽ hy sinh vì gia đình:

“Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non”
,

Hay:

“Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”
.

Con cò ấy nhỏ bé, mong manh, lầm lũi sống bên bờ ruộng, bờ sông, nhẫn nhịn, chịu thương chịu khó – cũng như bao người phụ nữ Việt Nam sống âm thầm phía sau chồng con. Nhưng trong thơ Tú Xương, không phải là “con cò” mà là “thân cò” – không còn là con vật cụ thể, mà là biểu tượng cho thân phận, số phận. Từ “thân” nghe thật xót xa – nó gợi nên sự mỏng manh, yếu đuối, bé nhỏ trước những biến động, bão giông của cuộc đời.

Cụm từ “lặn lội thân cò khi quãng vắng” không chỉ gợi hành động mà còn gợi cả không gian và tâm trạng. “Lặn lội” là từ láy gợi hình, chỉ sự nhọc nhằn, vất vả – kết hợp với “quãng vắng” để tạo nên bức tranh mưu sinh lẻ loi, nguy hiểm, cô đơn. Khi mọi người còn đang yên giấc, đường sá vắng vẻ, thì bà Tú – một mình gánh hàng ra chợ, một mình vượt qua những khoảng không gian mênh mông đầy bất trắc, chỉ vì miếng cơm manh áo cho chồng con.

Sang đến câu thơ thứ tư, nỗi vất vả ấy vẫn tiếp tục – nhưng lần này là trong không gian “mặt nước buổi đò đông”. Nếu “quãng vắng” là nơi thiếu vắng người, thì “đò đông” lại là nơi chen chúc, tấp nập, xô bồ. Bà Tú không chỉ phải gồng gánh vật chất, mà còn phải chịu đựng cảnh “eo sèo” – những lời kêu ca, mặc cả, thậm chí tranh cãi nơi chợ búa. Một mình bà vừa tranh xuống đò, tranh lên chợ, vừa chịu sự xô đẩy, hối thúc của cuộc mưu sinh đầy áp lực. Tú Xương đã rất tinh tế khi sử dụng nghệ thuật đảo trật tự cú pháp để đưa những từ láy như “lặn lội”, “eo sèo” lên đầu câu – nhấn mạnh cảm xúc, tạo ấn tượng mạnh với người đọc.

Cặp câu thơ này đối nhau về hình thức – “khi quãng vắng” đối với “buổi đò đông”, nhưng lại thống nhất về nội dung – đều khắc họa sự vất vả của người vợ tảo tần. Khi đường vắng thì sợ hiểm nguy, khi chợ đông thì lại chịu mệt nhọc và phiền toái. Một thân cò gầy yếu nhưng vẫn phải dấn thân vào cả hai hoàn cảnh trái ngược ấy, chỉ vì chữ “lo” cho chồng con. Đó là hình ảnh quá đỗi chân thực và xúc động – vừa gợi hình, vừa gợi cảm.

Thông qua hình ảnh “thân cò”, Tú Xương không chỉ ca ngợi người vợ của mình mà còn thể hiện một cái nhìn rất nhân văn về người phụ nữ Việt Nam. Dù họ yếu đuối, nhỏ bé nhưng lại mang trong mình nghị lực phi thường. Thơ ông không hoa mỹ, không cao siêu, mà chân thành, giản dị như chính tấm lòng người chồng đang thầm rơi nước mắt nhìn vợ mình lặn lội sớm hôm.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học