10+ Phân tích 3 khổ cuối bài Ánh trăng (điểm cao)

Phân tích 3 khổ cuối bài Ánh trăng điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Phân tích 3 khổ cuối bài Ánh trăng (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Phân tích 3 khổ cuối bài Ánh trăng

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

- Giới thiệu khái quát về ba khổ thơ cuối.

2. Thân bài

a) Khổ thơ “Từ hồi về thành phố … Như người dưng qua đường”

- Chiến tranh kết thúc, những người lính rời khỏi chiến trường khốc liệt để trở về quê hương xứ sở. Họ tận hưởng một cuộc sống ngày càng trở nên hiện đại, văn minh hơn.

- Chính điều đó đã khiến người lính vô tình quên đi người bạn tri âm, tri kỉ.

b) Khổ thơ "Thình lình đèn điện tắt ... đột ngột vầng trăng tròn”

- Trước mặt người lính bây giờ là “vầng trăng tròn”, người bạn tri âm tri kỉ đã bị lãng quên bấy lâu nay.

- Trăng không bỏ đi dù người lính có lãng quên trăng. Trăng không trách cứ hờn dỗi dù có bị xem là “người dưng”.

c) Khổ thơ cuối

- Hình ảnh vầng trăng đã mang một ý nghĩa biểu tượng: trăng là quá khứ nghĩa tình, là vẻ đẹp bình dị vĩnh hằng trong đời sống.

Quảng cáo

+ Vầng trăng “tròn vành vạnh” thể hiện một vẻ đẹp viên mãn trọn vẹn, bất chấp sự vô tình của con người.

+ Trăng “im phăng phắc”, không nói gì mà chỉ nhìn.

=> Trăng đã trở thành hiện thân của quá khứ chân tình, chung thủy và nghiêm khắc nhắc nhở con người tự soi rọi lại chính mình.

=> Bài thơ chính là cuộc gặp gỡ có ý nghĩa gợi nhắc cho người đọc một thái độ sống một đạo lý cao đẹp của dân tộc Việt Nam mà không ai được lãng quên - Uống nước nhớ nguồn.

3. Kết bài

- Khẳng định giá trị của ba khổ thơ cuối nói riêng và bài thơ nói chung

- Tình cảm của em dành cho tác phẩm.

Quảng cáo

Phân tích 3 khổ cuối bài Ánh trăng - mẫu 1

Không biết tự bao giờ, trăng đã trở thành niềm cảm hứng sáng tác của các nhà văn, nhà thơ. Ta có thể bắt gặp một ánh trăng lãng mạn và chất chứa nhiều cảm xúc trong "Nguyên tiêu" của Hồ Chí Minh hay là một ánh trăng gợi lên nỗi nhớ da diết trong "Tình dạ tứ" của Lý Bạch. Đến với trăng của Nguyễn Duy, ta như thấy được một sự nhắc nhớ về truyền thống, đạo lí cao đẹp của dân tộc - Uống nước nhớ nguồn.

Bài thơ “Ánh trăng” là lời tự nhắc nhở bản thân của nhà thơ về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính. Vầng trăng gắn bó với tác giả suốt cả một quãng đời tuổi thơ. Trăng lại tiếp tục dõi theo từng bước chân hành quân trong suốt cuộc chiến, cùng chia sẻ những khó khăn gian khổ và cùng tận hưởng chiến thắng. Người và trăng lúc ấy gắn bó với nhau như những người bạn tri âm tri kỉ.

Ngỡ như không bao giờ quên được “vầng trăng tình nghĩa” nhưng sự thay đổi của lòng người như một nhát chổi cuốn phăng đi tất cả những kỉ niệm, hình ảnh về vầng trăng:

Quảng cáo

“Từ hồi về thành phố

quen ánh điện cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua dường”

Chiến tranh kết thúc, những người lính rời khỏi chiến trường khốc liệt để trở về quê hương xứ sở. Họ tận hưởng một cuộc sống ngày càng trở nên hiện đại, văn minh hơn. Người lính ngày xưa bây giờ được sống trong “ánh điện, cửa gương” và vầng trăng dần dần bị phai nhạt trong kí ức của họ. Vầng trăng giờ đây không còn là “vầng trăng tri kỉ” hay “vầng trăng tình nghĩa” nữa mà đã trở thành một “người dưng”, một người không có bất kì mối quan hệ nào với người lính. Phép nhân hóa “người dưng qua đường” đã gây xúc động mạnh trong lòng người đọc. Nó đã làm nổi bật lên sự thay đổi của lòng người. Sự ồn ã của phố phường, sự bận bịu mưu sinh bươn chải kiếm sống cùng với sự vô tâm của người lính đã lấn át đi lí trí của họ mà xóa bỏ vầng trăng ra khỏi trí nhớ. Điều này cũng nói lên một thực tế: khi con người được tận hưởng sự sung sướng đến từ vật chất thì họ bắt đầu lãng quên những kí ức gắn bó với mình lúc khó khăn.

Cuộc đời cũng như dòng sông có lắm thác nghềnh quanh co uốn khúc, đôi khi xảy ra những chuyện không bao giờ lường trước được:

“Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn”

Đèn điện tắt, cuộc sống hiện đại xa hoa của chốn thị thành bất chợt dừng lại và bao quanh con người giờ đây chỉ là một màn đêm. Như là một bản năng, con người không bao giờ muốn ở trong bóng đêm, họ tìm mọi cách để có được ánh sáng thế là “vội bật tung cửa sổ”. Trước mặt người lính bây giờ là “vầng trăng tròn”, người bạn tri âm tri kỉ đã bị lãng quên bấy lâu nay. Vầng trăng ấy vẫn cứ “tròn”, vẫn lành lặn vẹn nguyên như hồi nào. Trăng không bỏ đi dù người lính có lãng quên trăng. Trăng không trách cứ hờn dỗi dù có bị xem là “người dưng”. Cái lòng vị tha, bao dung của ánh trăng đã làm thức dậy trong nhà thơ những suy nghĩ bâng khuâng:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng, là bể

như là sông, là rừng”

Mặt người phải đối diện với mặt trăng hay chính tác giả đang phải đối diện với người bạn tri kỉ của mình ? Vầng trăng im lặng, chẳng nói, chẳng trách móc mà nhà thơ vẫn cứ cảm thấy “có cái gì rưng rưng”. Cảm xúc giờ đây như muốn trào ra thành từng giọt nước mắt. Điệp từ “như là” cùng với cấu trúc song hành và nghệ thuật liệt kê đã làm nổi bật lên dòng kí ức tuôn trào, vỡ òa trong thâm tâm của nhà thơ. “Đồng, bể, sông, rừng”, những cảnh vật đã gắn bó với người lính ngày xưa ùa về. Nó như là một thước phim chiếu lại những kỉ niệm thân thương mà bị lãng quên. Giọt nước mắt bây giờ khiến cho tâm hồn nhà thơ trở nên thanh thản, trong sáng lại, giúp ông nhận ra lỗi lầm của mình.

Ở khổ cuối, vầng trăng đã thực sự thức tỉnh con người:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”

Đến đây, hình ảnh vầng trăng đã mang một ý nghĩa biểu tượng: trăng là quá khứ nghĩa tình, là vẻ đẹp bình dị vĩnh hằng trong đời sống. Vầng trăng “tròn vành vạnh” thể hiện một vẻ đẹp viên mãn trọn vẹn, bất chấp sự vô tình của con người. Trăng “im phăng phắc”, không nói gì mà chỉ nhìn. Trăng đã trở thành hiện thân của quá khứ chân tình, chung thủy và nghiêm khắc nhắc nhở con người tự soi rọi lại chính mình. Con người có thể lãng quên, chối bỏ quá khứ nhưng quá khứ vẫn cứ mãi bất diệt, vẹn nguyên.

Thể thơ năm chữ cùng với nhịp thơ trôi chảy, tự nhiên và nhịp nhàng theo lời kể đã thể hiện được tâm trạng suy tư của tác giả. Giọng điệu tâm tình tự nhiên của nhà thơ cùng kết cấu độc đáo của đoạn thơ tạo nên tính chân thực, có sức truyền cảm sâu sắc cho người đọc. Cùng với phép nhân hóa và so sánh, vầng trăng hiện lên như một con người có tri giác, một người bạn tri âm tri kỉ không bao giờ bỏ rơi người lính.

Bài thơ “Ánh trăng” không chỉ là lời tự nhắc nhở bản thân của tác giả mà đó còn là thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm đến mọi người. Bài thơ đồng thời củng cố ở người đọc về thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

Phân tích 3 khổ cuối bài Ánh trăng - mẫu 2

Chúng ta đã từng biết đến vầng trăng nhớ cố hương của tiên thi Lý Bạch, từng rung cảm trước vẻ đẹp của ánh trăng người bạn tri âm với người tù cộng sản Hồ Chí Minh (Vọng nguyệt - Nhật Kí trong tù). Và với bài thơ “Ánh trăng”, Nguyễn Duy đã làm phong phú và giàu có thêm vẻ đẹp cũng như ý nghĩa của vầng trăng đã quen thuộc từ ngàn đời. Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian. Cảm nghĩ trữ tình của tác giả men theo dòng tự sự này để bộc lộ. Bài thơ “Ánh trăng” là tâm sự của Nguyễn Duy, là suy ngẫm của nhà thơ trước sự đổi thay của hoàn cảnh sống, khi mà con người từ chiến tranh trở về cuộc sống hoà bình. Ba khổ cuối bài thơ “Ánh trăng” chính là một lời nói kịp thời, là hình ảnh biểu tượng ẩn chứa triết lí sâu sắc:

Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng

Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.

Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ trước hết là vầng trăng của tự nhiên. Nhưng vầng trăng còn là biểu tượng của quá khứ đầy tình cảm, khi con người trần trụi giữa thiên nhiên, hồn nhiên, không so đo, tính toán. Khi đó, tâm hồn con người rộng mở, khoáng đạt như sông, như đồng, như bể, như rừng. Toàn là những hình ảnh thiên nhiên rộng dài, hùng vĩ. Nhưng khi kháng chiến thành công thì con người nhốt mình vào cửa kính, buyn – đinh, sống riêng cho mình, cho cái cá nhân nhỏ bé. Bởi thế mà không gần gũi, không mặn mà với vầng trăng. Lúc này trăng tượng trưng cho quá khứ ân tình, cho những tình cảm lớn lao mộc mạc nhưng bất tử, sáng trong mãi mãi. Con người có thể quên quá khứ, nhưng quá khứ không bao giờ quên. Trăng cứ tròn vành vạnh cũng như quá khứ tươi đẹp không bao giờ mờ phai, không bao giờ khuyết thiếu. Chỉ có những ai mê mải với cái riêng mới có thể dửng dưng.

Sự xuất hiện trở lại của vầng trăng thật đột ngột, ở vào một thời điểm không ngờ. Tình huống mất điện đột ngột trong đêm khiến con người vốn đã quen với ánh sáng, không thể chịu nổi cảnh tối om nơi căn phòng buyn đinh hiện đại.

Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn

Ba động từ “vội, bật, tung” đặt liền nhau diễn tả sự khó chịu và hành động khẩn trương, hối hả của tác giả để đi tìm nguồn sáng. Và hình ảnh vầng trăng tròn tình cờ mà tự nhiên, đột ngột hiện ra vằng vặc giữa trời, chiếu vào căn phòng tối om kia, chiếu lên khuôn mặt đang ngửa lên nhìn trời, nhìn trăng kia. Tình huống gặp lại trăng là bước ngoặt tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong tình cảm và suy nghĩ của nhân vật trữ tình với vầng trăng.

Vầng trăng đến đột ngột đã làm sáng lên cái góc tối ở con người, đánh thức sự ngủ quên trong điều kiện sống của con người đã hoàn toàn đổi khác. Trăng và con người đã gặp nhau trong một giây phút tình cờ. Con người không còn muốn trốn chạy vầng trăng, trốn chạy cả bản thân mình được nữa.

Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng là bể

như là sông là rừng

Tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” là tư thế đối mặt: “mặt” ở đây chính là vầng trăng tròn.

Con người thấy mặt trăng là thấy được người bạn tri kỉ ngày nào. Cách viết thật lạ và sâu sắc, dùng những từ không trực tiếp để diễn tả sự xúc động, cảm động chợt dâng trào trong lòng anh khi gặp lại vầng trăng. Người lính cảm thấy có cái gì “rưng rưng” tự trong tận đáy lòng và dường như nước mắt đang muốn trào ra vì xúc động trước lòng vị tha của người bạn “tri kỉ” của mình. Nhịp thơ hối hả dâng trào như tình người dào dạt. Niềm hạnh phúc của nhà thơ như đang được sống lại một giấc chiêm bao. Sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm ùa dậy ở tâm trí nhà thơ bao kỉ niệm quá khứ tốt đẹp khi cuộc sống còn quá nghèo nàn, gian lao. Lúc ấy con người với thiên nhiên trăng là tri kỷ, tình nghĩa.

Đối mặt với vầng trăng, bỗng người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào, nơi có “sông” và có “bể”. Chính những thước phim quay chậm ấy làm người lính trào dâng nhưng nỗi niềm và những giọt nước mắt tuôn ra tự nhiên, không chút gượng ép nào! Những giọt nước mắt ấy đã phần nào làm cho người lính trở nên thanh thản hơn, làm tâm hồn anh trong sáng lại. Một lần nữa những hình tượng trong tuổi thơ và chiến tranh được láy lại làm sáng tỏ những điều mà con người cảm nhận được. Cái tâm hồn ấy, cái vẻ đẹp mộc mạc ấy không bao giờ bị mất đi, nó luôn lặng lẽ sống trong tâm hồn mỗi con người và nó sẽ lên tiếng khi con người bị tổn thương.

Đoạn thơ hay ở chất thơ mộc mạc, chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm thía, những hình ảnh đi vào lòng người. Vầng trăng đã thực sự thức tỉnh con người:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”

Khổ thơ cuối cùng mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng tròn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, tròn đầy và không hề bị suy suyển dù cho trải qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng không nói gì cả, trăng chỉ nhìn, nhưng cái nhìn đó đủ khiến cho con người giật mình. Ở đây có sự đối lập giữa “tròn vành vạnh” và “kẻ vô tình”, giữa cái im lặng của ánh trăng với sự “giật mình” thức tỉnh của con người.

Vầng trăng có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Hình ảnh vầng trăng "tròn vành vạnh”, ngoài nghĩa đen là vẻ đẹp tự nó và mãi mãi vĩnh hằng của cuộc sống còn có nghĩa tượng trưng cho vẻ đẹp của nghĩa tình quá khứ, đầy đặn, thuỷ chung, nhân hậu bao dung của thiên nhiên, của cuộc đời, con người, nhân dân, đất nước.

Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” có ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta: con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt. Sự không vui, sự trách móc trong lặng im của vầng trăng là sự tự vấn lương tâm dẫn đến cái “giật mình” ở câu thơ cuối.

Cái “giật mình” là cảm giác và phản xạ tâm lí có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái hiện tại mà coi rẻ thiên nhiên. Thiên nhiên thật nghiêm khắc, lạnh lùng nhưng cũng thật ân tình, độ lượng bao dung, vầng trăng và thiên nhiên là trường tồn, bất diệt. Thì ra những bài học sâu sắc về đạo lí làm người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng xa xôi.

Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng. “Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìm lại những giá trị đó. Còn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức quý giá của mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn.

Ba đoạn thơ này không chỉ hay về mặt nội dung mà còn có những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu dòng thơ không viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất nhanh, giọng điệu tâm tình đã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc.

Phân tích 3 khổ cuối bài Ánh trăng - mẫu 3

Trăng từ lâu đã đi vào lòng người qua rất nhiều tác phẩm văn học. Trăng không rực rỡ chói chang như mặt trời, nhưng trăng lại là nguồn cảm xúc để cho ta gợi lên những nỗi niềm sâu lắng. Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, đã góp vào kho tàng văn học Việt Nam bài thơ “Ánh trăng”. Nếu như “Tĩnh dạ tứ” của Lý Bạch gợi lên nỗi nhớ quê hương da diết, “Vọng nguyệt” của Hồ Chí Minh thể hiện phong thái ung dung lạc quan và tình yêu thiên nhiên tha thiết của Người thì “Ánh trăng” gợi nhắc chúng ta về truyền thống uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

Bài thơ “Ánh trăng” là lời tự nhắc nhở bản thân của nhà thơ về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính. Vầng trăng gắn bó với tác giả suốt cả một quãng đời tuổi thơ. Trăng lại tiếp tục dõi theo từng bước chân hành quân trong suốt cuộc chiến, cùng chia sẻ những khó khăn gian khổ và cùng tận hưởng chiến thắng. Người và trăng lúc ấy gắn bó với nhau như những người bạn tri âm tri kỉ.

Ngỡ như không bao giờ quên được “vầng trăng tình nghĩa” nhưng sự thay đổi của lòng người như một nhát chổi cuốn phăng đi tất cả những kỉ niệm, hình ảnh về vầng trăng:

“Từ hồi về thành phố

quen ánh điện cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua dường”

Chiến tranh kết thúc, những người lính rời khỏi chiến trường khốc liệt để trở về quê hương xứ sở. Họ tận hưởng một cuộc sống ngày càng trở nên hiện đại, văn minh hơn. Người lính ngày xưa bây giờ được sống trong “ánh điện, cửa gương” và vầng trăng dần dần bị phai nhạt trong kí ức của họ. Vầng trăng giờ đây không còn là “vầng trăng tri kỉ” hay “vầng trăng tình nghĩa” nữa mà đã trở thành một “người dưng”, một người không có bất kì mối quan hệ nào với người lính. Phép nhân hóa “người dưng qua đường” đã gây xúc động mạnh trong lòng người đọc. Nó đã làm nổi bật lên sự thay đổi của lòng người. Sự ồn ã của phố phường, sự bận bịu mưu sinh bươn chải kiếm sống cùng với sự vô tâm của người lính đã lấn át đi lí trí của họ mà xóa bỏ vầng trăng ra khỏi trí nhớ. Điều này cũng nói lên một thực tế: khi con người được tận hưởng sự sung sướng đến từ vật chất thì họ bắt đầu lãng quên những kí ức gắn bó với mình lúc khó khăn.

Cuộc đời cũng như dòng sông có lắm thác nghềnh quanh co uốn khúc, đôi khi xảy ra những chuyện không bao giờ lường trước được:

“Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn”

Đèn điện tắt, cuộc sống hiện đại xa hoa của chốn thị thành bất chợt dừng lại và bao quanh con người giờ đây chỉ là một màn đêm. Như là một bản năng, con người không bao giờ muốn ở trong bóng đêm, họ tìm mọi cách để có được ánh sáng thế là “vội bật tung cửa sổ”. Trước mặt người lính bây giờ là “vầng trăng tròn”, người bạn tri âm tri kỉ đã bị lãng quên bấy lâu nay. Vầng trăng ấy vẫn cứ “tròn”, vẫn lành lặn vẹn nguyên như hồi nào. Trăng không bỏ đi dù người lính có lãng quên trăng. Trăng không trách cứ hờn dỗi dù có bị xem là “người dưng”. Cái lòng vị tha, bao dung của ánh trăng đã làm thức dậy trong nhà thơ những suy nghĩ bâng khuâng:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng, là bể

như là sông, là rừng”

Mặt người phải đối diện với mặt trăng hay chính tác giả đang phải đối diện với người bạn tri kỉ của mình ? Vầng trăng im lặng, chẳng nói, chẳng trách móc mà nhà thơ vẫn cứ cảm thấy “có cái gì rưng rưng”. Cảm xúc giờ đây như muốn trào ra thành từng giọt nước mắt. Điệp từ “như là” cùng với cấu trúc song hành và nghệ thuật liệt kê đã làm nổi bật lên dòng kí ức tuôn trào, vỡ òa trong thâm tâm của nhà thơ. “Đồng, bể, sông, rừng”, những cảnh vật đã gắn bó với người lính ngày xưa ùa về. Nó như là một thước phim chiếu lại những kỉ niệm thân thương mà bị lãng quên. Giọt nước mắt bây giờ khiến cho tâm hồn nhà thơ trở nên thanh thản, trong sáng lại, giúp ông nhận ra lỗi lầm của mình.

Ở khổ cuối, vầng trăng đã thực sự thức tỉnh con người:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình”

Đến đây, hình ảnh vầng trăng đã mang một ý nghĩa biểu tượng: trăng là quá khứ nghĩa tình, là vẻ đẹp bình dị vĩnh hằng trong đời sống. Vầng trăng “tròn vành vạnh” thể hiện một vẻ đẹp viên mãn trọn vẹn, bất chấp sự vô tình của con người. Trăng “im phăng phắc”, không nói gì mà chỉ nhìn. Trăng đã trở thành hiện thân của quá khứ chân tình, chung thủy và nghiêm khắc nhắc nhở con người tự soi rọi lại chính mình. Con người có thể lãng quên, chối bỏ quá khứ nhưng quá khứ vẫn cứ mãi bất diệt, vẹn nguyên.

Thể thơ năm chữ cùng với nhịp thơ trôi chảy, tự nhiên và nhịp nhàng theo lời kể đã thể hiện được tâm trạng suy tư của tác giả. Giọng điệu tâm tình tự nhiên của nhà thơ cùng kết cấu độc đáo của đoạn thơ tạo nên tính chân thực, có sức truyền cảm sâu sắc cho người đọc. Cùng với phép nhân hóa và so sánh, vầng trăng hiện lên như một con người có tri giác, một người bạn tri âm tri kỉ không bao giờ bỏ rơi người lính.

Bài thơ “Ánh trăng” không chỉ là lời tự nhắc nhở bản thân của tác giả mà đó còn là thông điệp mà nhà thơ muốn gửi gắm đến mọi người. Bài thơ đồng thời củng cố ở người đọc về thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

Phân tích 3 khổ cuối bài Ánh trăng - mẫu 4

Nguyễn Duy thuộc thế hệ các nhà thơ quân đội trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu. Bài thơ Ánh trăng là tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ giai đoạn sau chiến tranh. Ông trở về với những rung động đời thường bình dị nhưng ẩn chứa nhiều suy tư. Ba khổ thơ cuối của bài thơ là niềm trắc ẩn và cũng là sự tự chất vấn của bản thân trước những đổi thay của cuộc đời.

Khổ thơ thứ tư là một tình huống bất ngờ xảy ra làm chuyển mạch cảm của tác giả. Lãng quên hay vô tình có thể là mãi mãi nếu không có một bất ngờ. Hoàn cảnh bài thơ được đẩy đến bước ngoặt mới khi “thình lình đèn điện tắt – phòng buyn-đinh tối om”. Đây là một tình huống rất quen thuộc, rất thực nhưng cũng chính tình huống ấy đã tạo nên bước ngoặt để tác giả bốc lô cảm xức, thể hiên chủ dề tác phẩm.

“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”

Bốn câu thơ với hai từ “thình lình,đột ngột” được đảo trật tự, tạo nên nhịp thơ nhanh, nhấn mạnh sự việc bất thường: “đèn điện tắt, phòng tối om” đối lập với “vầng trăng tròn” đang bình tâm toả sáng. Tình huống bất ngờ đã tạo nên sư đối lập giữa ánh sáng và bóng tối. Nơi thành phố hiện đại với ánh điện, cửa gương khiến người ta chẳng mấy khi cần và ít chú ý đến ánh trăng, chỉ đến khi tắt điện thì mói lại có dịp đối diện với “vầng trăng tròn”. Và trong khoảnh khắc bất ngờ từ bóng tối bước ra ánh sáng, người ta không khỏi ngỡ ngàng, bàng hoàng khi nhận ra vầng trăng vẫn tròn như xưa, đẹp đẽ, đầy đặn, vẹn nguyên không mảy may sứt mẻ.

Việc “bật tung cửa sổ” chỉ là một việc làm theo thói quen, một phản xạ tự nhiên. Nhưng khi người và trăng “mặt nhìn mặt” thì tình xưa nghĩa cũ dâng trào lên trọn vẹn, đầy đủ . Rõ ràng, đây là một sự tình cờ mà như được sắp đặt. Dường như vầng trăng “tròn vành vạnh” vẫn luôn đứng bên cửa sổ chờ đợi. Trăng xuất hiên đốt ngột đã có sức rung động mạnh mẽ, làm thức tỉnh những cảm xúc và đánh thức lương tâm, lương tri của con người.

Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ toàn bài. Chính cái khoảnh khắc bất ngờ ấy đã tạo nên bước ngoặt trong mạch cảm xúc của nhà thơ. Trăng thiên nhiên không phải chỉ khi đèn tắt mới “đột ngột” xuất hiện. “Đột ngột” diễn tả trạng thái cảm xúc thảng thốt, bất ngờ của nhà thơ khi nhận ra trăng vẫn tròn, vẫn toả sáng, vẫn đồng hành cùng con người:

“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng”

Với tư thế “ngửa mặt lên nhìn mặt” người đọc cảm nhận sự lặng im, thành kính và trong phút chốc cảm xúc dâng trào khi gặp lại vầng trăng: “có cái gì rưng rưng”“Rưng rưng” của những niềm thương nỗi nhớ, của những lãng quên lạnh nhạt với người bạn cố tri; của một lương tri đang thức tỉnh sau những ngày đắm chìm trong cõi u mê, mộng mị; rưng rưng của nỗi ân hận ăn năn về thái độ của chính mình trong suốt thời gian qua. Một chút áy náy, một chút tiếc nuối, một chút xót xa đau lòng, tất cả đã làm nên cái “rưng rưng”,cái thổn thức trong sâu thẳm trái tim người lính.

Qua ánh sáng làm hiện về một miền kí ức tuổi thơ “với đồng, với bể” còn tươi nguyên. Ánh sáng mát dịu mà rực rỡ của vầng trăng gợi nhớ những tháng năm xua cũ nơi miền quê than thiết, nơi núi rừng thiêng liêng. Tất cả cuộn tròn trong trí nhớ nay bật tung ra ào ạt. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như “có cái gì rưng rưng”, đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc.

Khổ thơ kết thúc hụt hẫng, cảm xúc rơi vào chơi vơi. Sự im lặng mở ra một không gian suy tưởng ngược về quá khứ xa xăm vời vợi, ngược về những tháng năm gắn bó thiết tha, lần giở lại những lời đã hứa. Tất cả như trở về làm nhân chứng trong phiên tòa lương tâm. Sự im lặng ấy là cảm xúc trào dâng trong lòng, vừa là sự hàm ơn vừa là niềm ân hận của con người:

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”.

Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” mang ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở, là sự trách móc trong lặng im. Chính cái im phăng phắc của vầng trăng đã đánh thức con người, làm xáo động tâm hồn người lính năm xưa. Con người “giật mình” trước ánh trăng là sự bừng tỉnh của nhân cách, là sự trở về với lương tâm trong sạch, tốt đẹp. Đó là lời ân hận, ăn năn day dứt, làm đẹp con người.

Ở đây có sự đối lập giữa “tròn vành vạnh” và “kẻ vô tình”, giữa cái im lặng của ánh trăng với sự “giật mình” thức tỉnh của con người. Vầng trăng có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Hình ảnh “trăng cứ tròn vành vạnh” là tượng trưng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, đầy đặn, bao dung, nhân hậu. Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” có ý nghĩa nghiêm khắc nhắc nhở nhà thơ và cả mỗi chúng ta con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.

Sự không vui, sự trách móc trong lặng im của vầng trăng là sự tự vấn lương tâm dẫn đến cái “giật mình” ở câu thơ cuối. Cái “giật mình” là cảm giác và phản xạ tâm lý có thật của một người biết suy nghĩ, chợt nhận ra sự vô tình, bạc bẽo, sự nông nổi trong cách sống của mình. Cái “giật mình” của sự ăn năn, tự trách, tự thấy phải đổi thay trong cách sống. Cái “giật mình” tự nhắc nhở bản thân không bao giờ được làm người phản bội quá khứ, phản bội thiên nhiên, sùng bái vật chất tiện nghi mà coi rẻ thiên nhiên. Thiên nhiên thật nghiêm khắc, lạnh lùng nhưng cũng thật ân tình, độ lượng bao dung, vầng trăng và thiên nhiên là trường tồn, bất diệt.

Ý nghĩa của cái “giật mình” trong bài thơ Ánh trăng khiến ta nhận ra rằng thì ra những bài học sâu sắc về đạo lý làm người đâu cứ phải tìm trong sách vở hay từ những khái niệm trừu tượng xa xôi. Ánh trăng thật sự đã như một tấm gương soi để thấy được gương mặt thực của mình, để tìm lại cái đẹp tinh khôi mà chúng ta tưởng đã ngủ ngon trong quên lãng.

Ba khổ thơ cuối bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy là một lời tự nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Ý thơ gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ. Những câu thơ gần gũi, bình dị nhưng sâu sắc mà rất đỗi tài hoa, đi sâu vào cái nghĩa, cái tình muôn đời của con người Việt Nam còn đọng mãi trong lòng người đọc.

Phân tích 3 khổ cuối bài Ánh trăng - mẫu 5

"Thình lình đèn điện tắt 

phòng buyn-đinh tối om 

vội bật tung cửa sổ 

đột ngột vầng trăng tròn"

Một tình huống đèn điện tắt, phòng tối om, con người gặp lại vầng trăng tròn tỏa sáng tình nghĩa xưa. Đảo ngữ từ láy " thình lình " đưa lên trước để nhấn mạnh một tình huống bất ngờ xảy ra. Nhịp thơ nhanh hối hả với từ ngữ diễn tả sự đột ngột, nhanh chóng, sự thay đổi bất thường. Tình huống mất điện, một hành động rất nhanh: " vội bật tung cửa sổ ". Lúc này chính nhà thơ đã đối diện với vầng trăng tròn và khoảnh khắc bất ngờ đó đã tạo nên một bước ngoặt trong mạch cảm xúc. Hình ảnh vầng trăng tròn biểu tượng của sự thủy chung nguyên vẹn, tròn đầy. Vầng trăng tròn vẫn tỏa sáng và khi đèn điện tắt vầng trăng đột ngột xuất hiện. Từ " đột ngột " đã diễn tả cảm xúc hoảng hốt bất ngờ của nhà thơ khi nhận ra vầng trăng tình nghĩa vẫn luôn đồng hành với con người, vẫn luôn thủy chung gắn bó. Chính thứ ánh sáng đẹp, tình nghĩa của vầng trăng đã tạo bước ngoặt cảm xúc đánh thức những suy ngẫm trong lòng nhà thơ. Khi đối diện với với vầng trăng tròn tỏa sáng, cuộc gặp gỡ giữa người với trăng đã đánh thức bao cảm xúc mãnh liệt trong lòng nhà thơ, bao nhiêu kỉ niệm xưa bỗng ùa về làm tác giả rơi nước mắt. 

"Ngửa mặt lên nhìn mặt 

có cái gì rưng rưng 

như là đồng là bể 

như là sông là rừng"

Khi con người lặng lẽ đối diện với vầng trăng tròn có cái gì đó khiến cho nhà thơ áy náy dù không bị quở trách một lời nào cũng phải " rưng rưng ". Từ " mặt " ở cuối câu thơ là từ nhiều nghĩa tạo sự đa nghĩa cho ý thơ. Nhà thơ đối diện với vầng trăng tròn tỏa sáng, người bạn tri kỷ tình nghĩa năm xưa mà đã vô tình lãng quên để tự thú về sự bội bạc của chính mình. Khi nhà thơ đối diện với vầng trăng nhà thơ nhìn thấy cả mặt mình trong đó, ông tự vấn lương tâm hổ thẹn ân hận về sự thay đổi của mình. Người bạn năm xưa, vầng trăng một thời đã đồng hành trong những năm tháng gian khổ, người bạn đã từng gắn bó mà nay con người vô tình quên đi. Chính người lính đó đã thấy cái gì " rưng rưng " từ đáy lòng mình và cuộc đối thoại không lời trong khoảnh khắc ấy đã khiến cho nhà thơ rưng rưng xúc động. Dường như nước mắt đang muốn tuôn ra bởi vì quá khứ gian lao vất vả, những kỉ niệm bỗng ùa về trong tâm thức. Đối mặt với vầng trăng, người lính cảm thấy như đang xem một thước phim quay chậm về tuổi thơ của mình ngày nào nơi tràn ngập niềm vui cùng với trăng, với thiên nhiên nơi có sông có bể bấy lâu tưởng như đã quên giờ bỗng ùa về trong nỗi nhớ, rưng rưng như nghẹn ngào muốn khóc. Bằng hình ảnh so sánh, liệt kê, điệp ngữ trong đoạn thơ, giọng thơ mộc mạc chân thành, ngôn ngữ bình dị mà thấm đẫm hình ảnh mang cái hồn đi vào lòng người .

"Trăng cứ tròn vành vạnh 

kể chi người vô tình 

ánh trăng im phăng phắc 

đủ cho ta giật mình”

Khổ thơ cuối của bài thơ " Ánh trăng " được Nguyễn Duy thể hiện suy ngẫm sâu sắc và triết lý qua hình tượng vầng trăng. Vầng trăng đã trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp của sự bất biến vĩnh hằng không thể thay đổi. " Trăng cứ tròn vành vạnh " biểu tượng cho sự tròn đầy thủy chung nguyên vẹn của thiên nhiên, của quá khứ tốt đẹp ân tình ân nghĩa cho dù con người có vô tình lãng quên. Với nghệ thuật nhân hóa đặc sắc trong câu thơ " ánh trăng im phăng phắc " tác giả đã gợi sự liên tưởng về cái nhìn nghiêm khắc và bao dung độ lượng của người bạn thủy chung tình nghĩa. Sự im lặng của vầng trăng không hề trách móc con người đã khiến nhà thơ " giật mình " thức tỉnh. Cái giật mình của lương tâm nhà thơ thật đáng trân trọng biết bao. Nó thể hiện những suy ngẫm trăn trở, tự đấu tranh với chính mình để sống tốt hơn. Chính cái giật mình đó đã khiến nhà thơ nhận thấy sự bội bạc của mình, ăn năn hối lỗi. Thế nên dòng thơ cuối đã khép lại toàn bài, dồn nén biết bao nhiêu cảm xúc, bao nhiêu tâm sự, lời sám hối ăn năn day dứt dù không cất lên lời. Qua đó nhà thơ Nguyễn Duy muốn gửi gắm đến tất cả mọi người chúng ta, nhắc nhở về một lẽ sống tốt đẹp của dân tộc: " uống nước nhớ nguồn ", ân nghĩa thủy chung, đừng bao giờ quên đi quá khứ tốt đẹp.

Phân tích 3 khổ cuối bài Ánh trăng - mẫu 6

Hình ảnh vầng trăng luôn gần gũi với người Việt Nam từ xưa đến nay. Mỗi khi trăng rằm, ánh trăng chiếu sáng từ nhà ra ngõ... Điều này khiến hình ảnh vầng trăng trở thành nguồn cảm hứng đặc biệt trong văn học, đặc biệt là trong các tác phẩm của các thi sĩ. Nguyễn Duy cũng tìm thấy nguồn cảm hứng sáng tạo từ hình ảnh vầng trăng và đã tạo ra một bài thơ đặc sắc với 'Ánh trăng'. Bài thơ chứa đựng thông điệp, triết lí mà tác giả muốn truyền đạt, đặc biệt được thể hiện rõ qua ba khổ thơ cuối của bài.

Mạch cảm xúc của nhân vật chuyển biến khi có tình huống bất ngờ xảy ra:

Khi bất ngờ đèn điện tắt

Phòng im lặng, tối tăm

Vội vã mở cửa sổ

Vầng trăng bất ngờ hiện hình

Một tình huống bất ngờ, con người hối hả, vội vã mở cửa sổ. Người và trăng gặp nhau. Và mạch cảm xúc tiếp tục được thể hiện trong những câu thơ sau đây:

Nhìn lên thấy mặt trăng

Có cái gì dưng dưng

Như là đồng như là bể

Như là sông như là rừng

Mặt đối mặt, ở đây mặt chính là mặt trăng và mặt người. Cả hai đối diện nhau. Con người lúc này có cảm xúc dưng dưng, như tất cả quá khứ ùa về. Đó là sự tỉnh táo sau những lúc quên lãng của quá khứ nghĩa tình. Đối diện với vầng trăng, con người nhận ra sự thờ ơ, vô tâm của mình trong những xúc cảm rất đỗi thân thương. Vầng trăng vẫn ở đây, vẫn giữ nguyên:

Trăng vẫn cứ tròn vành vạnh

Mà người thì lạnh lùng

Ánh trăng im lặng phăng phắc

Đủ để ta giật mình

Vầng trăng vẫn như thường, nhưng 'im lặng phăng phắc' đủ để làm cho những sai lầm, những sự vô tâm của con người phải tỉnh lại, đủ để khiến con người giật mình. Đó là sự tỉnh táo đúng lúc, tỉnh táo về nhân cách, về cuộc sống.

Ba khổ thơ cuối riêng biệt hay cả bài thơ nói chung là những tâm trạng chân thực về những thông điệp mà Nguyễn Duy muốn chia sẻ với độc giả. Tận dụng hình ảnh của vầng trăng để nói lên cách sống, tư duy của một phần trong xã hội hiện nay, thường thức và lạnh lùng với môi trường xung quanh, với quá khứ và hiện tại.

Phân tích 3 khổ cuối bài Ánh trăng - mẫu 7

Giống như nhiều nhà thơ trẻ khác lớn lên trong thời kỳ kháng chiến. Nguyễn Duy đã trải qua nhiều gian khó, chứng kiến nhiều hy sinh và mất mát của dân tộc, và có mối liên kết đặc biệt với thiên nhiên. Nhưng khi cuộc chiến kết thúc, sống trong hòa bình với tiện nghi hiện đại, không ai nhớ lại những khó khăn, những kỷ niệm của một thời đã qua. Bài thơ “Ánh trăng” phản ánh một phần nào đó của sự vô tâm, dễ rơi vào trạng thái không nhận biết của một thời điểm cụ thể, đặc biệt là ba khổ cuối.

Tình huống bất ngờ: “mất điện, phòng tối om”. Tác giả diễn tả sự khó chịu và hối hả tìm ánh sáng, và ánh sáng ấy chính là vầng trăng ngày xưa. Sự xuất hiện bất ngờ của vầng trăng khiến tác giả ngỡ ngàng, bối rối, gợi lên ký ức nghĩa tình.

Trái tim nhà thơ đầy suy tư, cảm xúc trước vầng trăng:

Nhìn lên thấy mặt trăng

Có cái gì dưng dưng

Như là đồng như là bể

Như là sông như là rừng

Trăng vẫn cứ tròn vành vạnh

Mà người thì lạnh lùng

Ánh trăng im lặng phăng phắc

Đủ để ta giật mình

Nhà thơ trầm ngâm đối mặt với ánh trăng, tư thế kính trọng: “Ngửa mặt lên nhìn mặt”. Tâm trạng xúc động khi gặp lại vầng trăng, hồi tưởng về quá khứ gian lao. Hình ảnh thiên nhiên hiền hậu, bình dị: “như là đồng là bể/ như là sông là rừng”.

Vầng trăng tròn vẻ đẹp tượng trưng cho quá khứ nguyên vẹn, thủy chung. Hình ảnh “ánh trăng im phăng phắc” nhắc nhở mạnh mẽ, đánh thức nhân cách và tâm hồn. Nhà thơ giật mình nhận ra sự vô tình, bắt đầu lời ân hận, ăn năn tự trách mình, tìm thay đổi. Bài thơ là bài học sâu sắc về việc trân trọng quá khứ và thiên nhiên.

Bài thơ như một câu chuyện hòa quyện tự nhiên giữa tự sự và trữ tình, với giọng điệu tâm tình bằng thể thơ năm chữ. Nhịp thơ nhẹ nhàng, ngân nga thiết tha cảm xúc lúc lại trầm lắng, suy tư. Chủ đề của tác phẩm là lợi nhắc, củng cố thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung với quá khứ.

Phân tích 3 khổ cuối bài Ánh trăng - mẫu 8

Trong thơ ca truyền thống, trăng thường được sử dụng để thể hiện tâm sự, vẻ đẹp thần thánh và chiêm nghiệm. Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy mang đến thông điệp sâu sắc và riêng biệt.

Đời sống và dòng chảy cuộc sống khiến con người bận rộn, hối hả, chìm trong cuộc sống nhanh chóng. Cuộc đời tuân theo quy luật nhân - quả, có thành công và thất bại, vui buồn, sự thay đổi là cần thiết để con người hoàn thiện mình: “thình lình đèn điện tắt/phòng buyn đinh tối om”. Bài thơ của Nguyễn Duy thể hiện việc nhìn lại bản thân và nhận ra sự thay đổi vô tình của mình.

Thình lình đèn điện tắt

Phòng buyn đinh tối om

Vội bật tung cửa sổ

Đột ngột vầng trăng tròn

Cả khổ thơ là một chuỗi hành động nhanh chóng, kế tiếp nhau, để rồi ngỡ ngàng, ngạc nhiên không nói thành lời: “đột ngột vầng trăng tròn”.

Ta tự hỏi tại sao trăng lại tròn mà không phải khuyết? Trăng ở đây được nhân cách hóa với suy nghĩ, tâm tư con người: “trăng vẫn tròn vành vạnh/kể chi người vô tình”. Sự khuyết trong tâm hồn con người trước trăng tròn trở nên ngại ngùng, xấu hổ; chung thủy trước sau như một của trăng.

Nhìn lên thấy mặt trăng

Có cái gì dưng dưng

Như là đồng như là bể

Như là sông như là rừng

Một khoảnh khắc im lặng trong thực tế, nhưng trong tâm hồn con người, cảm xúc trào dâng đến đỉnh cao. Ký ức của quá khứ bỗng ùa về trong lòng. Ánh trăng, biểu tượng của những kỷ niệm tuổi thơ hạnh phúc và quê hương yêu thương. Cũng là biểu hiện của sự thay đổi, hối tiếc và ân hận của con người: “trăng vẫn tròn vành vạnh/kể chi người vô tình”. Lần nữa, hình ảnh trăng được nhân hóa, biến thành khuôn mặt của một người bạn thân thiết từng cùng trải qua những biến cố cuộc sống. Đó là sự thủy chung, bao dung và nhân ái của trái tim con người. Nhà thơ Nguyễn Duy đã sử dụng hình ảnh trăng một cách thông minh và tinh tế, đặt câu hỏi về sự quan trọng của thời gian và không gian trong tâm hồn con người: “trăng rọi đỉnh đầu”.

Trăng không chỉ là biểu tượng của thiên nhiên, mà còn là biểu tượng của một thế hệ với những tâm hồn bao dung, độ lượng, sống và giữ vững tình yêu và lòng trung thành với quê hương, đồng đội.

Trăng vẫn cứ tròn vành vạnh

Mà người thì lạnh lùng

Ánh trăng im lặng phăng phắc

Đủ để ta giật mình

Nghệ thuật sáng tạo khiến hình ảnh thơ sâu sắc, gợi mở nội tâm con người, thúc đẩy suy ngẫm về lương tâm và tự nhận biết. Hai câu cuối nhẹ nhàng nhưng ẩn chứa sâu sắc, tạo nên sức sống cho bài thơ. Điều mà Nguyễn Duy muốn truyền đạt qua cái giật mình đó là: cuộc sống dù bộn bề náo nhiệt, mỗi khoảnh khắc tự nhìn lại mình sẽ thêm ý nghĩa và giá trị cho cuộc sống.

Lời thơ không phải triết lý nhưng vẫn để lại dấu ấn trong lòng độc giả, khơi dậy suy nghĩ về nhân sinh; quá khứ và hiện tại luôn nhắc nhở mỗi người hoàn thiện bản thân; nghệ thuật biểu đạt qua việc gợi lại kí ức, đấu tranh nội tâm đã tạo ra thành công, khiến bài thơ bền vững qua thời gian.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học