10+ Phân tích 3 khổ đầu bài Ánh trăng (điểm cao)

Phân tích 3 khổ đầu bài Ánh trăng điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Phân tích 3 khổ đầu bài Ánh trăng (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Phân tích 3 khổ đầu bài Ánh trăng

1. Mở bài

- Trăng từ xưa đến nay đã trở thành đề tài có nhiều sức gợi trong thi ca.

- Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn khơi gợi trong tâm hồn của mỗi độc giả những cảm xúc mới mẻ, sâu sắc và nhiều ý nghĩa.

- Giới thiệu khái quát 3 khổ thơ đầu.

2. Thân bài

* Tác giả, tác phẩm:

- Nguyễn Duy tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, ông là một nhà thơ chiến sĩ, đã từng tham gia phục vụ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Sáng tác tiêu biểu là tập thơ Ánh trăng.

- Ánh trăng được sáng tác ở thành phố Hồ Chí Minh, vào năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

* Phân tích:

- Khổ thơ 1 + 2: Những kỷ niệm trong quá khứ, sự gắn bó của của vầng trăng trong từng bước đi của cuộc đời nhà thơ:

+ Thuở ấu thơ gắn bó mật thiết với đồng ruộng, sông, bể.

Quảng cáo

+ Lớn lên đi chiến đấu gắn bó với rừng già.

+ Trong suốt quá trình ấy vầng trăng luôn dõi theo và được nhà thơ xem như là người bạn tri kỷ, không bao giờ quên.

- Khổ 3: Sự thay đổi của cuộc sống, khiến người ta quên đi kỷ niệm xưa cũ

+ Quen “ánh điện cửa gương”, cuộc sống xa hoa, phố thị tách biệt với thiên nhiên.

+ Ánh trăng trở thành người xa lạ, bị người lính vô tình quên mất.

3. Kết bài

- Ánh trăng của Nguyễn Duy là một bài thơ dẫu câu từ có vẻ đơn giản, mộc mạc nhưng lại hàm súc những ý nghĩa lớn, ấy là bài học về sự ghi nhớ những ân tình trong quá khứ, là lời khuyên, là tấm gương về lối sống nhân nghĩa, luôn trân quý, biết ơn những người, những cảnh vật xưa cũ.

Phân tích 3 khổ đầu bài Ánh trăng - mẫu 1

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Bài thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978 đã thể hiện những cung bậc cảm xúc và suy tư của tác giả trước thực tế có người còn ghi nhớ những mất mát hi sinh trong cuộc chiến, có người lại lãng quên quá khứ vẻ vang ấy.

Quảng cáo

 Bài thơ diễn biến như một câu chuyện, bắt đầu từ hồi nhỏ sống ở làng quê ven biển và hồi chiến tranh sống ở rừng thì vầng trăng là tri kỉ, gần gũi:

Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ

Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa.

Hồi nhỏ tức là thuở còn bé thơ, còn sống với làng quê dân dã với trăng sáng. Lúc ấy, con người còn hồn nhiên, tươi vui, chưa toan tính điều gì. Trăng là một phần của thiên nhiên gắn kết với cuộc sống con người. Trăng mang theo nhiều điều mơ ước, chứa đựng biết bao tâm tư tình cảm. Trăng với người như hình với bóng, không thể xa rời.

Quảng cáo

Đến những năm tháng chiến trang gian khổ, ác liệt, vầng trăng đã trở thành “tri kỉ”, lúc nào cũng kề cận, soi sáng bước đường hành quân của người lính, soi sáng khát khao kháng chiến thắng lợi. Ở đây, tác giả đã sử dụng phép nhân hóa trăng giống như con người, trăng là người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng chí cùng chia sẻ những vui buồn với người chiến sĩ. Hành quân giữa đêm, trên những nẻo đường xa xôi trắc trở ra mặt trận, những phiên gác giữa rừng khuya lạnh lẽo, những tối nằm yên giấc, người lính đều có vầng trăng bên cạnh. Trăng ở bên, bầu bạn, cùng trải qua bao gian khổ của cuộc sống chiến đấu, đồng cam cộng khổ; cùng hân hoan trong niềm vui thắng trận, cùng khắc khoải mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ quê…

Cho đến khi chiến tranh kết thúc, con người được về sống với ánh điện thành phố, con người cũng thay đổi:

Từ hồi về thành phố
quen ánh điện cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường.

Cuộc sống tiện nghi, đầy đủ, khác xa với kháng chiến gian khổ đã khiến con người quên hẳn người tri kỉ năm xưa. Giờ đây, vầng trăng đi qua ngõ mà lạnh lùng và xa lạ như người dưng qua đường. Vầng trăng vẫn tròn đầy, vẫn thủy chung tình nghĩa, nhưng con người đã quên trăng, hờ hững, lạnh nhạt, dửng dưng đến vô tình.

 Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, bài thơ "Ánh trăng" của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị. Bài thơ gợi nhắc người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, "ân tình thủy chung".

Phân tích 3 khổ đầu bài Ánh trăng - mẫu 2

Bài thơ mở đầu bằng bốn dòng thơ ngắn, Nguyễn Duy như đã tìm về với tuổi thơ mình:

Hồi nhỏ sống với đồng

Với sông rồi với bể

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ

Câu thơ làm sông dậy hình ảnh cậu bé hồn nhiên, lớn lên nơi ruộng, đồng, sông, bể. Rồi cậu bé ấy lớn lên, trở thành người chiến sĩ. Chữ “hồi” được lặp lại như một ranh giới giữa những tháng ngày ấu thơ và lúc trưởng thành, cảnh vật theo dòng ngày tháng đã đổi thay nhưng vầng trăng vẫn còn đó, là gạch nối vắt qua giữa hai thời và con người đã xem trăng là bạn tri kỉ. Vầng trăng trở nên bình dị, gần gũi, gắn chặt với những gì thân thương nhất của làng quê Việt Nam:

Trần trụi với thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Có phải chăng trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, con người ta sống và đối xử với nhau chân thành hơn, vị tha hơn. Đó lá cái thời sống hồn nhiên, trong sáng như cây cỏ, không biết dối trá, giả tạo. Những tình cảm tự nhiên, chân thực thì sẽ vững bền theo dòng thời gian. Mối quan hệ thắm thiết giữa người và trăng làm cho nhân vật trữ tình tự khẳng định một tâm niệm:

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa

Phân tích 3 khổ đầu bài Ánh trăng - mẫu 3

Vầng trăng dịu mát, sáng trong, vầng trăng huyền diệu tròn đầy tự bao giờ đã trở nên thân thương gắn bó với con người.Nếu vị thi tiên Lí Bạch khi xa quê đã không thể quên ánh trăng trên đỉnh núi Nga Mi: “Ngẩng đầu nhìn trăng sáng Cúi đầu nhớ cố hương.

Nếu Bác kính yêu coi trăng như bè bạn tri âm “TRăng vào cửa sổ đòi thơ”thì Nguyễn Duy_nhà thơ trưởng thành thời kháng chiến chống Mỹ lại coi trăng là nguồn sáng lung linh để thanh lọc tâm hồn, để ăn năn hối lỗi. Bài thơ “Ánh trăng” (1978)của ông được khơi nguồn từ những cảm xúc chân thành và cao đẹp như thế.

Bài thơ mang dnág dấp như một câu chuyện với lời kể mở đầu tự nhiên,trôi chảy về mối quan hệ gán bó giữa trăng và nhà thơ:

Hồi nhỏ sống với đồng

Với sông rồi với bể

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ

Chỉ bằng 4 câu thơ ngắn Nguyễn Du đã dựng lại được cả thời niên thiếu cho đến lúc trưởng thành,1 không gian thân thương: đồng, sông, bể.Từ không gian đầy ắp kỉ niệm ấy ta nhận ra niềm say mê,sảng khoái của con người trong cái mát lành dịu ngọt ân tình của quê hương qua ánh trăng lai láng trên cánh đồng, dòng sông, bãi biển.Không gian cứ mở rộng mãi ra, bao la bát ngát theo nhịp trưởng thành của con người.Thời gian không ngừng vận động và cậu bé lớn lên từ quê hương ấy đã trở thành chiến sĩ. Khi xa quê, đi vào cuộc chiến, nỗi nhớ thương chợt hiện về quay quắt tâm hồn,lúc này người và trăng lại càng gắn bó _ánh trăng là bạn tri kỉ chia sẻ mọi gian nan thiếu thốn, mọi buồn vui sướng khổ trong những năm tháng chiến tranh của tác giả.NHư vậy là tuổi thơ chớp mắt đã trôi qua.Cái còn lại lúc này alf vầng trăng thật đơn sơ,chung thuỷ.

Hai chữ hồi ở câu thơ thứ nhất và thứ 3 làm cho khổ thơ như có một chỗ dừng chân. Cái dừng chân giữa ranh giới của ấu thơ và trưởng thành. Ánh trăng soi rọi về quá khứ khiến tiếng nói tâm tình trở nên sâu lắng thiết tha.

Trần trụi giữa thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa

Trăng hồn nhiên như trẻ thơ, trăng chân thành như bè bạn,trăng gắn bó sâu nặng với con người mà không trở lực nào có thể ngăn cách. Những năm tháng con người sống thật nhất với mình, trần trụi,hồn nhiên là khi con người ta trân trọng, đinh ninh một lời thề son sắt “ngỡ không bao gìơ quên,cái vầng trăng tình nghĩa” Từ ngỡ là chiếc cầu nối ngôn từ vừa khép lại thời qua khứ vừa mở ra thời hiện tại tạo nên sự chuyển tiếp cho khổ thơ thứ 3.

Từ hồi về thnàh phố

Quen đèn điện cửa gương

Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường

Cuộc sống hiện đại với ánh sáng chói loà của ánh điện cửa gương,với những vật dụng ngày càng hiện đại dường như đã làm lu mờ ánh sáng của vầng trăng.Tác giả đã tạo ra sự đối lập giữa vầng trăng nghĩa tình trong quá khứ với vầng trăng xa lạ như người dưng qua đường bây giờ.Là ánh trăng đã khác ánh trăng của ngày xưa?Không! Ánh trăng vẫn thế vẫn gần gũi thân thương dịu dàng,chỉ có hoàn cảnh sống của con người đã thay đổi khiến họ không nhận ra vẻ đẹp của vầng trăng tri kỉ ngày xưa hay chính họ đã thờ ơ,họ quên đi.Thật xót xa cho vầng trăng tuổi thơ vầng trăng đi bên nhau một thời chinh chiến như tri kỉ,vậy mà khi người ta sống giữa phồn hoa đô thị thig nó lại bị lãng quên.Mấy chục năm về trước Tố Hữu cũng đã từng băn khoăn, trăn trở về sự thay đổi của lòng người như thế trong bài thơ Việt Bắc: Mình về thành thị xa xôi.

Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng

Phố cao còn nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ ánh trăng giữa rừng

Ánh trăng đã đựơc tác giả nhân hoá để gửi gắm suy tư về nhân tình thế thái.Lời thơ so sánh của Nguyễn Duy “vầng trăng đi qua ngõ, như người dưng qua đường” như xoáy vào lòng người một nỗi niềm xót xa nhức nhối,bới sự phản bội ở đây không chỉ với lịch sử,với thiên nhiên mà còn với chính bản thân mình nữa.

Cuộc đời như một dòng sông khi duị êm lặng lẽ, lúc cuộn sóng trào dâng,bởi thế cuộc sống thời hiện đại sao có thể êm đềm mãi cho được.

Thình lình đèn điện tắt

Phòng buyn đinh tối om

Vội bật tung cửa sổ

Đột ngột vầng trăng tròn

Đây là khổ thơ quan trọng trong cấu tứ của toàn bài,là sự chuyển biến có ý nghĩa bước ngoặt của mạch cảm xúc, bộc lộ rõ chủ đề tư tưởng của bài thơ. Ở đây không chỉ là sự thay thế ánh trăng cho ánh điện mà còn là sự thức tỉnh trong tiềm thức của con người. Các từ “bật tung”, “đột ngột” diễn tả cảm xúc mạnh mẽ bất ngờ có cái gì như là thoảng thốt âu lo trong hình ảnh”Vội bật tung cửa sổ” Vầng trăng ấy đâu phải chỉ khi đèn điện tắt mới xuất hiện mà nó vẫn nguyên vẹn như thế, tròn đầy như thế, dịu lành như thế, vẫn lặng lẽ đi bên cạnh cuộc đời con người,nó làm sáng lên cái góc tối đánh thức sự quên lãng trong cái đời sống đủ đầy đến thừa thãi của con người.

Trong khoảng khắc thình lình đối diện với vầng trăng,một thời kỉ niệm ân tình ngày xưa ùa về “rưng rưng” sống dậy thổn thức,lay động da diết lòng người Ngửa mặt lên nhìn mặt.

Có cái gì rưng rưng

Như là đồng là bể

Như là sông là rừng

Hai chữ “mặt” trong một câu thơ là hai tấm lòng đang đối diện:mặt trăng và mặt người.Hay chính là con người đang đối diện với chí.

Phân tích 3 khổ đầu bài Ánh trăng - mẫu 4

Trăng là đề tài muôn thuở của thi ca. Với ánh sáng hiền dịu, với chu kì tròn khuyết lạ lùng, trăng đã gợi cho các thi nhân cổ kim nhiều ý tưởng sâu xa. Nguyễn Duy là nhà thơ lớn lên từ đồng quê, trăng như một ám ảnh. Rồi xê dịch với thời gian, và không gian, trăng vẫn theo đuổi nhà thơ và thế là thành thơ, thành triết lí…

      Bài  thơ “Ánh trăng” được viết theo thể thơ năm chữ, nhịp điệu  linh hoạt  để thể hiện sự vận động  của không giạn, của thời gian. Nếu như trong bài thơ “Tre Việt Nam”, câu thơ lục bát có khi được tách ra thành 2 hoặc 3 dòng thơ để tạo nên hiệu quả nghệ thuật biểu đạt gây ấn tượng, thì bài thơ “Ánh trăng” này lại có một nét mới. Chữ đầu của dòng thơ, câu thơ không viết hoa. Phải chăng nhà thơ muốn cho cảm xúc được dào dạt trôi theo dòng chảy của thời gian kỉ niệm?

      Hai câu thơ đầu nhà thơ nói về vầng trăng của tuổi thơ và vầng trăng của thời chiến tranh.

Hồi nhỏ sống với đồng

Với sông rồi với bể

Vầng trăng tuổi thơ trải rộng trên một không gian bao la. Hai câu thơ 10 tiếng, gieo vần lưng (đồng – sông), từ “với” được điệp lại 3 lần nhằm diễn tả một tuổi thơ đi nhiều, được hạnh phúc cảm nhận những vẻ đẹp kì thú của thiên nhiên, từng được ngắm trăng trên đồng quê, ngắm trăng trên dòng sông và ngắm trăng trên bãi bể. Ta thấy hồi ức được kể lại bằng hình ảnh. Hình ảnh chuyển rất nhanh, cái hay là bằng hình ảnh không gian đã diễn tả được sự vận động của thời gian.

Hai câu thơ tiếp theo nói về thời chiến tranh, vầng trăng của người lính, trăng đã thành tri kỉ.

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ

 Tri kỉ là biết người biết mình, bạn tri kỉ là người bạn rất thân, hiểu biết mình. Trăng với người lính, với nhà thơ trong những năm ở rừng thời chiến tranh đã trở thành đôi bạn tri kỉ. Người chiến sĩ nằm ngủ dưới trăng, giữa rừng khuya sương muối, người chiến sĩ đứng chờ giặc tới. Con đường hành quân của người lính nhiều đêm đã trở thành con đường dát vàng. Trăng đã chia sẻ ngọt bùi hân hoan trong niềm vui thắng trận với người lính tiền phương. Đất nước đã trải qua những năm dài máu lửa, trăng với anh bộ đội đã vượt lên mọi tàn phá hủy diệt của bom đạn quân thù. Thật thú vị khi đọc những vần thơ của Nguyễn Duy vì nó đã mở ra trong lòng nhiều người một trường liên tưởng.

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ

Sang khổ thơ thứ 2 như một lời nhắc nhở của tác giả về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, với đất nước bình dị, hiền hậu. Bằng nghệ thuật ẩn dụ, so sánh nhà thơ làm nổi bật chất trần trụi, chất hồn nhiên của người lính những năm tháng ở rừng. Đó là cốt cách của các anh.

Trần trụi với thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa

Vầng trăng là biểu tượng của những năm tháng ấy, đã trở thành vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa, ngỡ như  không bao gì có thể quên. Một ý thơ làm động đến tâm hồn như một thức tỉnh lương tâm đối với những kẻ vô tình.

      Sự thay đổi của lòng người thật đáng sợ. Hoàn cảnh sống thay đổi con người dễ thay đổi, có lúc trở nên vô tình, có kẻ dễ trở thành “ăn ở bạc”. Từ ở rừng, sau chiến tranh trở về thành phố được sống sung sướng ở buyn đinh cao ốc, quen ánh điện cửa gương, vầng trăng tri kỉ – vầng trăng tình nghĩa đã bị người lãng quên dửng dưng. Cách so sánh của tác giả làm chột dạ nhiều người.

Từ hồi về thành phố

Quen ánh điện cửa gương

Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường

Trăng được nhân hóa lặng lẽ đi qua đường, trăng như người dưng đi qua chẳng còn ai nhớ, chẳng còn ai hay. Những câu thơ rất bình dị, giọng thơ thầm thì như trò chuyện, giãi bày tâm sự cho nên chất trữ tình của thơ trở nên sâu lắng chân thành.

Phân tích 3 khổ đầu bài Ánh trăng - mẫu 5

Nguyễn Duy là nhà thơ trường thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Những sáng tác của ông đi vào lòng người đọc bởi sự nhẹ nhàng, gần gũi, mộc mạc của ngôn ngữ qua bài thơ “Hơi ấm ổ rơm”, “Tre Việt Nam”. Bài thơ “Ánh trăng” được rút ra từ tập thơ cùng tên, sáng tác năm 1978 tại thành phố Hồ Chí Minh đã khiến người đọc có cách nhìn nhận chân thực và sâu sắc hơn về cuộc sống, về quá khứ qua hình ảnh trung tâm “ánh trăng”.

Ánh trăng là hình ảnh xuyên suốt 4 khổ thơ, xâu chuỗi các dòng hoài niệm và suy nghĩ của một đời người về hiện tại và quá khứ. Có thể nói Nguyễn Duy đã rất tinh tế để xây dựng thành công hình tượng “vô tri vô giác” nhưng có sức mạnh đánh thức và lay động trái tim.

      Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh ánh trăng thân thuộc, gần gũi, gắn với những kỉ niệm đẹp gắn bó với tuổi thơ, với năm tháng chiến tranh ác liệt:

Hồi nhỏ sống với đồng

Với sông rồi với bể

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỉ

Có thể nói hình ảnh “ánh trăng” đã thành biểu tượng xuyên suốt tuổi thơ của tác giả, gắn bó với những kỉ niệm khó quên. Ánh trăng tinh khiết, dịu nhẹ lan tỏa từ cánh đồng mênh mông, từ dòng sông bến nước – nơi nuôi dưỡng tâm hồn của mỗi chúng ta.

Đến những năm tháng “hồi chiến tranh ở rừng” gian khổ, vất vả, ánh trăng từ kí ức tuổi thơ ấy đã thành “tri kỉ”, thành người bạn đồng hành, người bạn tâm tình đáng mến, thủy chung, son sắt. Có thể nói Nguyễn Duy đã rất khéo, rất tinh tế khi nhân hóa ánh trăng thành một người bạn tri kỉ của những anh bộ đội cụ hồ. Sự gắn bó quấn quýt, tình cảm chân thành và trong sáng giữa anh bộ đội và anh trăng thật đáng ngưỡng mộ.

Hai dấu mốc thời gian “hồi nhỏ” và “hồi chiến tranh” đã khiến cho ánh trăng trở nên gần gũi và nghĩa tình ở khổ thơ tiếp:

Trần trụi giữa thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa

Dù là ở đâu thì “ánh trăng” vẫn vẹn nguyên, gần gũi, phóng khoáng khiến cho tác giả có cảm giác “không bao giờ quên”, nhưng đó chỉ là “ngỡ” thôi. Vầng trăng tình nghĩa, chung thủy luôn là hình nhắc nhắc nhở tác giả không được phép quên đi.

Nhưng chính từ “ngỡ” ấy chính là dấu hiệu cho một sự rạn nứt, quên lãng ở khổ thơ tiếp theo:

Từ hồi về thành phố

Quen đèn điện của gương

Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường

Cuộc sống đô thị phồn hoa với đèn điện, cửa gương, với tiện nghi đầy đủ đã khiến cho tác giả quên mất đi người bạn tri kỉ ngày xưa đó. Ở hai câu thơ sau của khổ thơ này, giọng thơ chùng xuống khiến người đọc nghèn nghẹn. Và đặc biệt cách dùng từ “người dưng” đã gợi lên cảm giác xót xa đến tột độ. Từng là bạn tri kỉ, từng là “người” ngỡ như không quên, nhưng giờ đây tác giả vô tâm, vô tình, hờ hững xem như kẻ qua đường, không hơn không kém. Phép so sánh đấy đã khiến cho tứ thơ xoáy sâu vào lòng người nhiều nuối tiếc, day dứt, xót xa cho một sự thay đổi.

Phân tích 3 khổ đầu bài Ánh trăng - mẫu 6

Ánh trăng từ lâu đã trở thành đề tài muôn thuở, khơi gợi dòng cảm xúc bất tận của các nhà văn, nhà thơ. Ánh trăng qua mỗi dòng văn, dòng thơ của các tác giả khác nhau sẽ hiện lên với những hình ảnh riêng biệt. Nếu như ánh trăng trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu là "đầu súng trăng treo" đầy thơ mộng, thì ánh trăng của Nguyễn Duy lại đem đến hình ảnh ánh trăng như một người bạn tri kỉ trong những năm tháng gian lao chống giặc.

Hồi nhỏ sống với đồng

Với sông rồi với bể

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỷ

Khổ thơ trong bài "Đất Nước" của Nguyễn Khoa Điềm đã khắc họa một phần ký ức sâu sắc và đầy ấn tượng của tác giả về những thời khắc khác nhau trong cuộc đời. Câu thơ "Hồi nhỏ sống với đồng / với sông rồi với bể" gợi lên hình ảnh một tuổi thơ gắn liền với thiên nhiên, nơi con người sống hòa mình vào những không gian rộng lớn của đồng quê, sông nước, biển cả. Những hình ảnh này thể hiện sự bình dị, gần gũi và những kỷ niệm đẹp của một thời thơ ấu vô tư, trong sáng. Tiếp theo, câu "Hồi chiến tranh ở rừng" mở ra một chuyển biến mạnh mẽ trong không gian và thời gian, khi tác giả phải đối diện với những gian khổ của chiến tranh. Rừng không còn là một không gian thơ mộng mà trở thành nơi trú ẩn, là nơi chứng kiến sự kiên cường và sự đấu tranh của con người. Đặc biệt, hình ảnh "vầng trăng thành tri kỷ" là một biểu tượng sâu sắc, gợi lên sự gắn bó, thấu hiểu giữa con người với thiên nhiên trong những lúc cô đơn, chiến tranh. Trăng không chỉ là ánh sáng đơn thuần, mà là người bạn thấu hiểu, đồng hành cùng tâm hồn con người trong những giờ phút khó khăn. Cả khổ thơ là sự kết hợp hài hòa giữa ký ức cá nhân với bối cảnh lịch sử, qua đó bộc lộ tình cảm gắn bó sâu sắc giữa con người và thiên nhiên, giữa con người và đất nước.

Đến khi ra chiến trường, trăng thành người bạn tri kỉ, gắn bó. Ánh trăng khi ấy là ánh sáng trong đêm tối chiến tranh, là niềm vui bầu bạn của người lính trong gian lao của cuộc kháng chiến.

Trần trụi với thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa

Với phép liên tưởng đầy nghệ thuật ''trần trụi với thiên nhiên'' cùng lối so sánh độc đáo ''hồn nhiên như cây cỏ'' đã cho người đọc chúng ta sự ấn tượng về ánh trăng chân thành, không chút giả tạo và đầy tình nghĩa trong quá khứ. Ánh trăng ở trên trời, luôn hướng ánh sáng xuống thế gian làm bạn với các đồng chí, cũng chính vì vậy mà nhà thơ đã đinh ninh rằng bản thân sẽ chẳng bao giờ quên được ánh trăng nơi núi rừng ấy. Thế nhưng từ ''ngỡ'' lại như báo trước cho sự chuyển biến trong suy nghĩ, tâm trạng và thái độ của nhà thơ.

Chiến tranh qua đi, đất nước ngày càng phát triển, đời sống ngày càng được cải thiện. Và như một lẽ thường tình, hoàn cảnh sống thay đổi, lòng người cũng dễ dàng đổi thay:

Từ hồi về thành phố

Quen ánh điện cửa gương

Vầng trăng đi qua ngõ

Như người dưng qua đường

Nếu như trước đây ở trong rừng tối, những người chiến sĩ chỉ có ánh trăng làm bạn, ánh trăng soi rọi cho chiến sĩ sinh hoạt, thì bây giờ khi đã về thành phố, ánh trăng được thay thế bằng ánh đèn điện. Ánh đèn điện như làm lu mờ đi những tia sáng dịu nhẹ, chân thật phát ra từ vầng trăng trên đỉnh đầu. Ánh trăng vẫn vậy, vẫn tỏa sáng và ngày ngày hiện hữu trong đời sống con người, chỉ duy nhất có lòng người là đổi thay. Cái bạc bẽo, vô tình đến với người ta một cách từ từ, kín đáo, khó nhận ra: Từ'' vầng trăng tri kỉ'', ''vầng trăng tình nghĩa ''bỗng chốc trở thành ''người dưng qua đường'' lúc nào không hay. Chỉ với hình ảnh so sánh "vầng trăng'' với ''người dưng qua đường'' cũng đủ để thấy được thái độ thờ ơ, vô tâm của con người với người bạn của mình năm xưa. Nghe mới thật xót xa làm sao, khi mà chỉ với vài ánh đèn điện ở nơi phố thị xa hoa đã làm cho con người quên đi vầng trăng tình nghĩa sát cánh bên mình những năm tháng khó khăn gian khổ.

Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, "Ánh trăng" của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Điều đặc biệt, cả bài thơ ''Ánh trăng'' chỉ có duy nhất một dấu chấm khiến ta liên tưởng dòng hồi tưởng của Nguyễn Duy như một dòng chảy xiết, nó cứ triền miên mãi không nguôi mà lại đầy sâu lắng. Qua đó, Nguyễn Duy cũng muốn gửi gắm tới mọi người lời nhắc nhở về thái độ sống "ân tình, thuỷ chung'', ''uống nước nhớ nguồn'' của không chỉ riêng những người lính thời kỳ kháng chiến chống Mĩ cứu nước mà còn của tất cả mọi người, mọi thời - trong đó có chúng ta.

Phân tích 3 khổ đầu bài Ánh trăng - mẫu 7

Nguyễn Duy thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước. Thế hệ này từng trải qua bao thử thách, gian khổ của chiến tranh, chứng kiến bao hi sinh lớn lao của đồng đội nói riêng và nhân dân ta nói chung trong cuộc chiến. Bài thơ “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng miền Nam 1975, là để giãi bày những cảm xúc và suy tư của mình trước thực tế có người còn ghi nhớ những mất mát hi sinh năm xưa, có người lại lãng quên quá khứ.

Cái hay của bài thơ này là câu chuyện đời thường được kể bằng những lời thơ giản dị, mộc mạc mà chứa đựng tình cảm, tư tưởng sâu xa. Câu chuyện về mối quan hệ giữa nhà thơ và vầng trăng diễn ra như sau: Hồi nhỏ sống ở làng quê ven biển và hồi chiến tranh sống ở rừng thì vầng trăng là tri kỉ, gần gũi, thân thiết:

Hồi nhỏ sống với đồng

Với sông rồi với biển

Hồi chiến tranh ở rừng

Vầng trăng thành tri kỷ

Trần trụi với thiên nhiên

Hồn nhiên như cây cỏ

Ngỡ không bao giờ quên

Cái vầng trăng tình nghĩa.

Hồi nhỏ là hồi còn bé thơ, còn sống với làng quê với trăng sáng. Lúc ấy con người hồn nhiên, chưa toan tính điều gì. Trăng là một phần của thiên nhiên gắn kết với cuộc sống con người. Trang đến trang đi mang theo nhiều điều mơ ước, chứa đựng biết bao tâm tư tình cảm. Trăng với người như hình với bóng, không sao xa rời.

Những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh, “vầng trăng thành tri kỉ”, lúc nào cũng kề cận, soi bước hành quân, soi trong giấc ngủ. Nghệ thuật nhân hóa đặc sắc, trăng là người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng chí cùng chia sẻ những vui buồn trong chiến trận với người lính, của nhà thơ.

Hành quân giữa đêm, trên những nẻo đường chông gai ra mặt trận, những phiên gác giữa rừng khuya lạnh lẽo, những tối nằm yên giấc dưới màn trời đen đặc, người lính đều có vầng trăng bên cạnh. Trăng ở bên, bầu bạn, cùng trải qua bao gian khổ của cuộc sống chiến đấu, cùng chia ngọt sẻ bùi,đồng cam cộng khổ; cùng hân hoan trong niềm vui thắng trận, cung xao xuyến, bồn chồn, khắc khoải mỗi khi người lính nhớ nhà, nhớ quê…

Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, Ánh trăng của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ có ý nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân tình thủy chung cùng quá khứ.

Phân tích 3 khổ đầu bài Ánh trăng - mẫu 8

Trăng vốn là đề tài quen thuộc trong thơ Cổ, Kim, Đông, Tây. Nhìn chung, xưa nay thi nhân tả trăng, vịnh trăng không phải chỉ vì trăng, mà vì con người, vì cuộc sống nhân sinh. Trăng thì muôn thuở vẫn vậy, nhưng khi đi vào thơ lại có muôn vàn sắc thái và biểu cảm khác nhau, bởi sự đa dạng, phong phú của cuộc sống, tình đời cũng như các cung bậc tâm trạng thi sỹ trong những hoàn cảnh riêng, được thi nhân gửi vào trăng, theo trăng. Thế nhưng, viết về trăng có mang lại giá trị tư tưởng và thẩm mỹ mới hay không lại phụ thuộc vào cái nhìn nghệ thuật của thi nhân. Một cái nhìn mới, lạ hóa đối tượng sẽ đem đến những ý nghĩa và giá trị mới về tư tưởng và thẩm mỹ. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là một minh chứng cho điều đó.

“Ánh trăng” mang thần thái, dáng nét những thời gian, không gian sinh hoạt khác nhau của nhân vật trữ tình thể hiện ở ba điểm nhìn khác biệt nhau. Một là, ánh trăng hồi nhỏ và hồi chiến tranh ở rừng. Hai là ánh trăng từ hồi về thành phố. Ba là ánh trăng trong cảnh huống khi thình lình đèn điện tắt. Ba điểm nhìn với ba thời gian không gian khác nhau tạo nên một chuỗi liên kế về ánh trăng trong cảm xúc và suy tư của tác giả. Qua đó, tính tư tưởng, triết lý và thẩm mỹ của hình tượng thơ hiển lộ.

Nằm trong sự chi phối của cái nhìn nghệ thuật như thế, thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật trong bài thơ là hai hình tượng gắn liền với nhau. Mỗi thời gian đi liền với một không gian cụ thể, và hàm chứa những thông điệp thẩm mỹ, tư tưởng riêng.

Thời gian nghệ thuật trong bài thơ là thời gian được nhìn bằng khoảng và điểm. Thời gian khoảng bao gồm các chặng: Chặng thứ nhất là khoảng thời gian bao gồm hồi nhỏ và hồi chiến tranh:

Hồi nhỏ sống với đồng
Với sông rồi với bể
Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ
Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ
Ngỡ không bao giờ quên
Cái vầng trăng tình nghĩa

Trong khoảng thời gian hồi nhỏ, trăng gắn liền với nhân vật trữ tình trong những mối quan hệ hồn nhiên, chan hòa với đồng, với sông, với bể. Như vậy, trong Ánh trăng, thời gian này hàm chứa và gợi mở những hình ảnh và xúc cảm trong trẻo, tràn đầy chất thơ với thiên nhiên của nhân vật trữ tình, đến mức:

Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ.

Vẻ đẹp của ánh trăng, vẻ đẹp của tâm hồn con người được gợi nhiều hơn tả, và gọi về trong trường cộng hưởng của người đọc mênh mông và diệu kỳ những ánh trăng của chính mình thời thơ trẻ trong veo tâm hồn thánh thiện. Tiếp theo, vẫn chung trong tín hiệu thân mật, gần gũi, tan hòa giữa con người với ánh trăng, khoảng thời gian ở rừng, trăng trở thành tri kỷ. Đồng thời, ánh trăng bây giờ có thêm sắc diện mới so với hồi nhỏ. Đó là, hồi nhỏ thơ ngây, vô tư trần trụi và hồn nhiên, bây giờ thì trăng đã mang chất suy tư của người bạn tri kỷ với người lính đi giải phóng quê hương, bảo vệ Tổ quốc. Trăng thành vẻ đẹp của lý tưởng hòa bình, êm dịu và bình yên. Trăng hàm chứa những suy tư, xúc cảm của những người thanh niên dâng hiến tuổi xanh cho Tổ quốc vì nghĩa lớn.

Khoảng thời gian thứ ba có một sự thay đổi trong mối quan hệ giữa trăng với người. Đó là khoảng thời gian “Từ hồi về thành phố”… Các tình tiết nói về cuộc sống sinh hoạt của nhân vật trữ tình lúc này đã khác với ngày xưa: Nếu ngày xưa là với đồng, sông, bể thì bây giờ là quen ánh điện, cửa gương, phòng buyn-đinh; ngày xưa chan hòa, tan thấm vào nhau còn bây giờ là phụ thuộc, lệ thuộc; ngày xưa là thiên nhiên, cây cỏ thì bây giờ là nhân tạo; ngày xưa là nông thôn, núi rừng, biển khơi thì bây giờ là phố phường. Vì vậy, trăng bỗng nhiên thành thừa, và những gì của hồi nhỏ và hồi chiến tranh ở rừng đã gắn liền với trăng, cùng trăng thì nay cũng theo đó mà trở nên bị lãng quên, đến mức:

Vầng trăng đi qua ngõ
Như người dưng qua đường.

Ở Truyện Kiều, trong quãng thời gian phải chìm nổi trong nhơ đục và hỗn tạp, Thúy Kiều nhìn trăng và nhớ về ngày xưa trong nỗi hổ thẹn và đau khổ:

Thấy trăng mà thẹn những lời non sông
Trăng thề còn đó trơ trơ
Mà xa xôi mặt mà thưa thớt lòng…

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Thi tiên Lý Bạch nhìn trăng sáng đầu giường mờ ảo như sương, Ngẩng đầu nhìn trăng sáng, nhưng bỗng nhớ quê hương, nhớ về trăng xưa với bao kỉ niệm nên đã cúi đầu thương nhớ:

Đầu giường đầy trăng sáng
Dưới đất ngỡ là sương
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ cố hương

(Tĩnh dạ tứ – Lý Bạch).

Đi liền với ba khoảng thời gian đó là ba mảng không gian với những nét khác biệt, và thậm chí có sự trái ngược. Chính sự trái ngược về những đặc tính của không gian ấy là một trong những nguyên nhân kéo theo sự thay đổi có tính trái ngược của con người trong những thời gian khác nhau. Không gian thứ nhất là đồng, sông, bể. Không gian này gợi mở mối quan hệ gắn bó, thân thiết, chân tình và mộc mạc của người với trăng. Cái đẹp toát lên từ những hình ảnh:

Trần trụi với thiên nhiên
Hồn nhiên như cây cỏ.

Ở đây, dường như không còn khoảng cách giữa trăng với người, người tan thấm vào thiên nhiên và thiên nhiên hòa điệu với con người. Không gian Hồi chiến tranh ở rừng không được tác giả miêu tả, nhưng người đọc có thể hình dung ra được những đặc thù của nó trong quan hệ với người lính giải phóng quân. Và trong không gian ấy, trăng trở thành tri kỷ với người lính. Nhưng, không gian thứ ba thì mối quan hệ giữa người và trăng đã khác.

Trong tình huống thứ nhất, với những ánh điện, cửa gương, phòng buyn-đinh, con người, nhất là những người vừa trở về từ gian khổ khốc liệt, từ núi rừng heo hút và khó khăn mọi mặt trong đời sống sinh hoạt và chiến đấu thì dễ bập vào những cái thuận tiện và dễ dãi của vật chất sinh hoạt đời thường, thậm chí có những người bị tha hóa vì sa đà vào hưởng thụ cho bõ cơn thiếu khát những tháng ngày gian khó. Thế nên, trăng, với bao ý nghĩa và kỷ niệm sâu nặng ân tình, đã thành kẻ thừa Như người dưng qua đường.

Bài thơ “Ánh trăng” sử dụng thể thơ năm chữ, chủ yếu là tự sự. Nhưng khi đến cao trào thì trữ tình, dù dung lượng ít, vẫn làm bật lên những cảm xúc mới mẻ và tư tưởng sâu sắc. Ngôn từ giản dị nhưng được sử dụng đắc địa, có giá trị chuyển tải thành công tình cảm và triết luận của nhà thơ. Một đề tài cũ, những không gian tưởng chừng như đã quá quen, nhưng thi pháp mới với cái nhìn, quan niệm mới của Nguyễn Duy về ánh trăng thể hiện trong những điểm nhìn độc đáo đã tạo nên vẻ đẹp riêng, rất riêng của “Ánh trăng”.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học