10+ Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên (điểm cao)

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+ Hồng Nguyên làm công tác văn nghệ trong quân đội và trở thành một nhà thơ được chú ý đến trong nền thơ ca kháng chiến chống Pháp. Thơ ông viết về nhiều đề tài nhưng thường tập trung thể hiện tình cảm đối với anh bộ đội, nói lên niềm tin son sắt vào Chủ tịch Hồ Chí Minh, vào thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.

+ “Nhớ” là bài thơ hay nhất của Hồng Nguyên, ghi nhận một trong những thành tựu xuất sắc đầu tiên của thơ ca chống Pháp viết về anh bộ đội. Bài thơ giống như "kịch bản phân cảnh" của một bộ phim tài liệu, nói về một cuộc hành quân chiến đấu của những người lính Vệ quốc đoàn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

2. Thân bài

a) Phân tích nội dung và chủ đề của tác phẩm

Quảng cáo

Bài thơ “Nhớ” của nhà thơ Hồng Nguyên đã ngợi ca vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội của những người lính cách mạng mộc mạc, giản dị mà giàu lòng yêu nước, có lí tưởng cao đẹp, dũng cảm, tâm hồn lãng mạn, giàu chất thơ, có tinh thần cách mạng, ý chí chiến đấu và niềm lạc quan cách mạng dẫu kháng chiến nhiều khó khăn, gian khổ:

- “Nhớ” những ngày đầu vừa nhập ngũ, cùng nhau đứng dưới lá quân kì:

+ Họ đã tự giới thiệu về mình thật vô tư, hồn nhiên, số lượng tuy không công bố cụ thể nhưng khá đông. Trình độ văn hóa cũng rất thấp và trình độ quân sự cũng chưa cao. Tuy nhiên ở “chúng tôi” có điểm đặc biệt đó chính là tinh thần cách mạng, ý chí chiến đấu và niềm lạc quan vẫn vui cười dẫu kháng chiến nhiều khó khăn.

Quảng cáo

+ Những ngày đầu kháng chiến, các anh từ nhiều miền quê khác nhau hăng hái nhập ngũ, cùng nhau tập hợp về đây, cùng đứng dưới lá quốc kỳ. Họ là những người sống chân thực, khiêm tốn và cũng luôn náo nức với bao niềm vui của tuổi trẻ và trong cuộc đời mới.Ở họ quy tụ nhiều phẩm chất tốt đẹp của quần chúng cách mạng.

+ Những con người ấy đã từ luống cày mà bước ra, từ sau lũy tre làng bước tới. Hình ảnh này cũng giống với hình ảnh của những anh chiến sĩ trong thơ Chính Hữu. Họ từ “ nước mặn đồng chua”, từ miền quê nghèo “đất cày nên sỏi đá” để đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc và trở thành đồng đội. Đó cũng chính là ý thức chiến đấu, giải phóng dân tộc sâu sắc của anh bộ đội Cụ Hồ.

+ Tuy là những người tứ xứ, không hẹn mà quen, nhưng không hề xa lạ. Họ vốn là những người nông dân lần đầu mặc áo lính, họ gắn bó với ruộng đồng, quen thuộc với cuộc sống thanh bình, không quen chuyện binh đao. Trong giai đoạn này người lính còn bị hạn chế về trình độ văn hóa, nhiều người còn chưa biết chữ…Cái quan trọng nhất mà họ có được đó là lòng nhiệt tình yêu nước và tinh thần lạc quan. Không hề ngập ngừng, sợ hãi, họ chủ động tìm giặc mà đánh với những vũ khí thô sơ.

Quảng cáo

+ Cái thuở ban đầu đầy gian khó nhưng lòng các anh vẫn tràn đầy niềm vui và niềm tin yêu cuộc sống. Chính vì trong lòng luôn có sẵn niềm tin, niềm yêu như vậy nên dù bao khó khăn, thiếu thốn các anh vẫn vững vàng, chủ động “ áo vải chân không đi lùng giặc đánh”. Không ở đâu trên trái đất này, người chiến sĩ gánh trên vai trách nhiệm nặng nề, thiêng liêng nhất lại có một vẻ đẹp mộc mạc, bình dị đến thế !

+ Người lính dường như chỉ có tay không này sẽ tạo nên tất cả, thiếu giáo gươm họ sẽ rèn nên gươm giáo, thiếu súng đạn sẽ tìm ra súng đạn.

=> Bài thơ biểu thị khí thế của cuộc chiến tranh nhân dân; nhân dân khi đã được giác ngộ lí tưởng cách mạng, với lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần căm thù địch, mọi người đều thể hiện dũng khí trong chiến đấu.

- Nỗi nhớ quê hương:

+ Người lính trong bài thơ không chỉ làm ta khâm phục mà còn khiến ta mến thương bởi ân tình của các anh đối với quê hương. Là những người nông dân mặc áo lính, từ nông dân mà ra nên dù có ra đi vì nghĩa lớn, dù có cách xa quê hương ngàn dặm thì mối tình quê vẫn không hề thay đổi, vẫn da diết trong sâu thẳm hồn các anh. Đến với quân ngũ, người lính đã để lại ở hậu phương, gia đình và những người thân yêu. Trong cuộc hành quân trường kỳ, gian khổ, cái đọng lại trong lòng mỗi người lính chính là nỗi nhớ quê da diết, cồn cào. Và cũng có thể nói tình yêu quê nhà vọng về trong nỗi nhớ.

- “Nhớ” tình đồng đội và sinh hoạt của người chiến sĩ trong quân ngũ:

+ Tình đồng đội được biểu hiện sâu sắc, đằm thắm trong sinh hoạt hằng ngày. Trên những chặng đường hành quân còn ghi lại bao kỉ niệm, bình dị mà ân tình, sâu sắc.

+ Cuộc hành quân nhiều gian lao và khó khăn nhưng cũng có những khi phấn khởi bởi có được những lúc mộng mơ, đùa vui tếu táo. Tình nghĩa đậm đà ấy càng trở nên đáng nhớ hơn, bởi những tâm tình sâu kín được thể hiện thật nghịch ngợm, hóm hỉnh.

=> Tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng, sâu nặng đã giúp họ vượt lên mọi khó khăn gian khổ.

+ Với các anh cuộc đời lưu động là cuộc đời anh đã chọn nên mỗi bờ tre, mái rạ, mỗi đêm khuya “giường kê cánh cửa, bếp lửa khoai vùi” và cả những chặng đường hành quân tưởng chừng không dứt đều đã trở thành máu thịt. Tất cả, tất cả những kỉ niệm ấy đều gặp nhau ở mối tình quân dân cá nước mộc mạc mà cảm động.

+ Làng quê trong những năm đầu kháng chiến được miêu tả với tình cảm thân thiết, khai thác được nhiều cái mới của sinh hoạt tập thể, từ hình ảnh “nắng chiều đột kích mấy hàng cau” đến buổi “khai hội, yêu cầu, chất vấn”. Từ hình ảnh “ người mẹ già bắt rận cho những đứa con xa” đến phút chia tay đầy lưu luyến và có sắc thái riêng độc đáo về động tác và ngôn từ. Làm sao không nhớ được những làng quê đẹp, bình dị, giàu tình người như thế. Hồng Nguyên đã thành công trong việc khai thác bức tranh quê đẹp chan chứa ân tình.

- Nỗi nhớ, tình yêu thương đối với nhân dân và với đất nước:

+ Tầm mắt được mở rộng hơn nên vì thế cũng đầy sự lạc quan và yêu đời. Lần lượt nhiều cảnh sắc nếp sống sinh hoạt được ùa về như những cảnh phim rộng với lời thơ thanh thoát, thảnh thơi…

+ Nhớ lời dặn dò chân tình, đơn sơ mang phong vị miền Trung tahwms tình quân dân ẩn chứa niềm tin chiến thắng, khát vọng hoà bình của cả dân tộc .Cái tình quân dân cá nước sao mà tha thiết và gần gũi đến thế. Bao nhiêu kỷ niệm của làng quê về những con người, những tấm lòng của miền đất lạ đã in dấu và trong tâm hồn của người chiến sĩ. Và những kỷ niệm ấy sẽ không thể phai mờ theo năm tháng.

=> Bài thơ – mang chất sống của cuộc đời chiến sĩ gian lao và anh dũng, thể hiện tình cảm quân dân thắm thiết, tâm hồn sôi nổi, lạc quan của những người nông dân mặc áo lính.

b) Phân tích những hình thức nghệ thuật đặc sắc

-Trong cấu tứ, lời thơ, “Nhớ” kết hợp nhuần nhuyễn giữa kể chuyện với bộc lộ tâm trạng, cảm xúc. Hình ảnh, ngôn từ của “Nhớ” bình dị mà tinh tế, gợi cảm, chặt chẽ mà tự nhiên, phóng khoáng.

- Hồng Nguyên đã mạnh dạn đưa ồ ạt tiếng địa phương và khẩu ngữ vào thơ, ngôn ngữ thơ đậm chất miền Trung làm nên nét đặc trưng riêng của người con Thanh Hoá.

- Bằng việc chuyển hẳn thơ từ giọng ngâm sang giọng nói, ông đã góp phần làm cho thơ Việt chuyển hẳn sang một nội hàm và thi pháp mới.Chính vì vậy, bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên mãi mãi là viên ngọc sáng trong nền thi ca Việt Nam hiện đại.

3. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị của bài thơ, nêu cảm xúc của cá nhân hoặc bức thông điệp mà tác giả muốn gửi tới mọi người.

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên - mẫu 1

Ngay từ khi mới xuất hiện bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên đã trở thành một hiện tượng, một sự kiện được lan truyền rộng rãi. Cũng đã ghi đậm vào tâm trí của nhiều người và cũng đi cùng năm tháng.

Bài thơ Nhớ gồm có 62 dòng thơ và dòng dài nhất có 10 chữ. Nó được chia làm ba khổ thơ với ba mạch cảm xúc khác nhau. Nhưng ta cũng có thể thấy được ngay từ đoạn đầu bài thơ đã lựa chọn cách thể hiện rất riêng. Đó là hình ảnh của những người lính Vệ quốc đoàn trong những năm tháng kháng chiến. Họ có bao nhiêu người và gồm những ai? Thông tin này đã được nhà thơ giới thiệu thông qua những vần thơ đầu tiên.

Họ đã tự giới thiệu thế đây, số lượng tuy không công bố cụ thể nhưng khá đông. Và trình độ văn hóa cũng rất thấp và trình độ quân sự cũng chưa cao. Tuy nhiên ở chúng tôi có điểm đặc biệt đó chính là tinh thần cách mạng, ý chí chiến đấu và sự lạc quan vẫn vui cười khi kháng chiến.

Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ,
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “Một hai”
Súng bắn chưa quen,
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến
Lột sắt đường tàu,
Rèn thêm đao kiếm,
Áo vải chân không,
Đi lùng giặc đánh.
Ba năm rồi gửi lại quê hương.

Bằng những câu thơ hóm hỉnh nhà thơ đã tự giới thiệu về những đồng đội của mình đáng yêu và chân thành biết bao. Những con người ấy đã từ luống cày mà bước ra. Hình ảnh này cũng giống với hình ảnh của những anh chiến sĩ trong thơ Chính Hữu. Họ từ nước mặn đồng chua, từ miền quê nghèo đất cày nên sỏi đá để đi theo tiếng gọi tổ quốc. Cũng chính là ý thức chiến đấu, giải phóng dân tộc sâu sắc.

Trong cuộc hành quân ấy, cái đọng lại trong lòng mỗi người chính là nỗi nhớ quê đầy da diết và cồn cào. Và cũng có thể nói tình yêu quê nhà vọng về trong nỗi nhớ. Chỉ với những câu thơ này đã có thể tái hiện được nỗi nhớ ấy và nó amng tính ám ảnh rất cao. Đó chính là hình ảnh người vợ trẻ với tình thương và nỗi nhớ đong đầy.

Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng
Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng
Quờ chán tìm hơi ấm đêm mưa
– Đằng nớ vợ chưa?
– Đằng nớ?
– Tớ còn chờ độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu…

Cuộc hành quân ấy vẫn gian lao và khó khăn nhưng cũng có những khi phấn khởi bởi có được những lúc mộng mơ. Đó là hình ảnh của những o thôn nữ ở cuối nương dâu. Là những câu chuyện về người vợ người con từ các chú chiến sĩ với điệu cười sảng khoái.

Nỗi nhớ quê nhà ấy trong bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên còn thể hiện ở một cấp độ cao hơn chính là nỗi nhớ, tình yêu thương đối với nhân dân và với đất nước. Tầm mắt được mở rộng hơn nên vì thế cũng đầy sự lạc quan và yêu đời. Lần lượt nhiều cảnh sắc nếp sống sinh hoạt được ùa về như những cảnh phim rộng. Và đoạn này tác giả đã thành công trong việc khắc họa những điều đó nhờ lời thơ thanh thoát, thảnh thơi…

Tôi nhớ
Giường kê cánh cửa
Bếp lửa khoai vùi
Đồng chí nứ vui vui
Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ…
..
Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
“Độc lập, nhớ rẽ viền chơi ví chắc!”

Và cái tình quân dân cá nước ấy sao mà tha thiết và gần gũi tới thế. Bao nhiêu kỷ niệm của làng quê về những con người, những tấm lòng của miền đất lạ đã in dấu và trong tâm hồn của người chiến sĩ. Và những kỷ niệm ấy sẽ theo năm tháng mà không phai mờ và ta cũng sờ thấy được.

Tuy nhiên sau những giờ phút mệt nhọc ấy các anh lại lên đường với nhiệm vụ vô cùng nặng nề. Đó là nhiệm vụ mà đắt nước giao cho và cũng vô cùng khó khăn và gian khổ. Nó cũng giống như sức nặng của khẩu súng mà các anh vác trên vai. Qua đó cũng khắc họa được hình ảnh của người chiến sĩ với ý chí kiên cường và bất khuất. Đó cũng chính là giá trị của bài thơ Nhớ của nhà thơ Hồng Nguyên.

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên - mẫu 2

Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ
Gặp nhau hồi chưa biết chữ
Quen nhau từ buổi “một, hai”
Súng bắn chưa quen
Quân sự mươi bài
Lòng vẫn cười vui kháng chiến...

Khổ thơ gợi lên không khí những năm đầu kháng chiến chống Pháp, thanh niên cùng lứa tuổi từ nhiều miền quê khác nhau hăng hái nhập ngũ. Họ là những người sống chân thực, khiêm tốn và cũng luôn náo nức với bao niềm vui của tuổi trẻ và trong cuộc đời mới.

Trong nhũng năm kháng chiến chống Pháp hình tượng người chiến sĩ có một vị trí quan trọng trong văn thơ. Ở họ qui tụ nhiều phẩm chất đẹp của quần chúng cách mạng. Văn học giai đoạn này tập trung viết nhiều về người chiến sĩ quân đội. Trong văn có Trần Đăng, Hồ Phương, Nam Cao, Nguyễn Đình Thi. Trong thơ có Tố Hữu, Chính Hữu, Hồng Nguyên, Quang Dũng. Bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên được giải nhất trong cuộc họp Ban Văn nghệ Lam Sơn năm 1948 ở Thanh Hóa.

Bài thơ thể hiện chân thực hình ảnh người chiến sĩ quân đội trong thời kì đầu thành lập lực lượng vũ trang, những năm tháng gian khổ, thiếu thốn nhưng tinh thần chiến đấu vẫn tràn đầy quyết tâm. Viết về người chiến sĩ, các nhà thơ thường tìm tiếng nói gần gũi nhất với người chiến sĩ, Hồng Nguyên trong bài thơ Nhớ đã để cho chính người chiến sĩ nói về mình:

Lũ chúng tôi
Bọn người tứ xứ.

Lúc này lực lượng võ trang mới hình thành. Có một cái gì rất thân mật, gần gũi trong không khí tập thể của quân đội. Tuy là những người tứ xứ, không hẹn mà quen, nhưng không hề có không khi xa lạ. Cụm từ “lũ chúng tôi” không có ý xem nhẹ hoặc thiếu tôn trọng với đối tượng miêu tả mà đây là cách nói về mình một cách gần gũi tự nhiên. Họ vốn là những thanh niên nông dân mặc áo lính, gắn bó với ruộng đồng, quen thuộc vối cuộc sống thanh bình, không quen chuyện binh đao. Trong giai đoạn này người lính còn bị hạn chế về trình độ văn hóa, nhiều người còn chưa biết chữ, rồi đây tất cả sẽ được khắc phục trong những năm tháng ở quân đội. Cái quan trọng nhất mà họ nhiệt tình yêu nước và tinh thần lạc quan. Không hề ngập ngừng, sợ hãi, họ chủ động tìm giặc mà đánh với những vũ khí thô sơ:

Lột sắt đường tàu
Rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không
Đi lùng giặc đánh.

Đây có thể xem là đoạn thơ tiêu biểu nhất cho quyết tâm giết giặc của những chiến sĩ trong giai đoạn này. Người lính dường như chỉ có tay không này sẽ tạo nên tất cả, thiếu giáo gươm họ sẽ rèn nên gươm giáo, thiếu súng đạn sẽ tìm ra súng đạn. Bài thơ biểu thị khí thế của cuộc chiến tranh nhân dân; nhân dân khi đã được giác ngộ lí tưởng cách mạng, với lòng yêu nước sâu sắc và tinh thần căm thù địch, mọi người đều thể hiện dũng khí trong chiến đấu. Đến với quân ngũ, người lính đã để lại ở hậu phương, gia đình và những người thân yêu:

Mái lều tranh
Tiếng mõ đêm trường
Luống cày đất đỏ ít nhiều người vợ trẻ
Mòn chân bên cối gạo canh khuya.

Tình cảm với hậu phương là một tình cảm phổ biến của người ra đi chiến đấu và đã được các nhà thơ thể hiện với nhiều sắc thái khác nhau. Trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi bộc lộ tâm trạng người lính:

Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Chính Hữu trong Đồng chi cũng miêu tả tấm lòng và nỗi nhớ của hậu phương:

Giếng nước gốc đa
Nhớ người ra lính.

Đời sống nơi quê hương còn nhiều khó khăn. Những người chiến sĩ nghĩ về hậu phương với tình cảm nhớ thương chia sẻ nhưng không hề có sự tủi buồn và nản lòng, trong tấm lòng nhớ về hậu phương thì tha thiết nhất là tình cảm nhớ thương người vợ. Hồng Nguyên cũng đã nói đến tình cảm trên qua một hình ảnh cụ thể gợi cảm: “ít nhiều người vợ trẻ, mòn chân bên cối gạo canh khuya”. Người lính ra đi chiến đấu nhớ thương vợ, nghĩ đến hình ảnh người vợ vất vả sớm hôm trong trách nhiệm của người phụ nữ với gia đình và trách nhiệm của hậu phương với tiền tuyến.

Hai chữ “mòn chân” gợi nhiều xúc động nhớ thương của người ra đi với người thân yêu ở hậu phương.

Nhớ là một bài thơ nói về người chiến sĩ thông qua nhiều mối quan hệ, bài thơ đã nói lên chân thực, sinh động tình đồng đội và sinh hoạt của người chiến sĩ trong quân ngũ, đời sống còn khó khăn nhưng họ rất vui, lạc quan. Tình đồng đội được biểu hiện sâu sắc, đằm thắm trong sinh hoạt hằng ngày. Trên những chặng đường hành quân còn ghi lại bao kỉ niệm, bình dị mà ân tình sâu sắc:

Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng
Kì hộ lưng nhau, ngang bờ cát trắng
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa ...
- Đằng nớ vợ chưa? Đằng nớ
-Tớ còn chờ Độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu.

Bài thơ cũng bộc lộ sâu sắc tình quân dân. Làng quê trong những năm đầu kháng chiến được miêu tả với tình cảm thân thiết, khai thác được nhiều cái mới của sinh hoạt tập thể, từ hình ảnh “nắng chiều đột kích mấy hàng cau” đến buổi “khai hội, yêu cầu, chất vấn”. Từ hình ảnh người mẹ già bắt rận cho những đứa con xa đến phút chia tay đầy lưu luyến và có sắc thái riêng độc đáo về động tác và ngôn từ:

Chúng tôi đi, nhớ nhất câu nì
Dân chúng cầm tay lắc lắc:
“Độc lập nhớ rẽ viền với chắc”.

Làm sao không nhớ được những làng quê đẹp, bình dị, giàu tình người như thế. Hồng Nguyên đã thành công trong việc khai thác bức tranh quê đẹp chan chứa ân tình.

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên - mẫu 3

Cuộc kháng chiến thần kì của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược không chỉ là một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc mà còn là một dấu mốc đáng nhớ của văn học Việt Nam. Bởi lần đầu tiên trong thơ ca Việt Nam xuất hiện những con người mới tiêu biểu cho một dân tộc anh hùng: Đó là anh bộ đội cụ Hồ - anh bộ đội của thời kì đầu kháng Pháp với biết bao khó khăn gian khổ. Nhắc đến tên anh, tất cả chúng ta sẽ không thể quên bài Đồng chí của Chính Hữu - bài thơ như một định nghĩa hoàn hảo nhất về người lính và tình đồng chí cao đẹp. Nhưng chúng ta cũng mãi nhớ đến các anh trong một bức chân dung mới lạ - bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên

Bài thơ mở đầu thật độc đáo, độc đáo ngay ở cách các anh tự giới thiệu về mình:

Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi 1,2

Súng bắn chưa quen

Quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Những hình ảnh thơ liên tiếp xuất hiện đã gây cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc về những anh bộ đội của thời kì đầu chống Pháp. Cái thuở ban đầu đầy gian khó nhưng lòng các anh vẫn tràn đầy niềm vui & niềm tin yêu cuộc sống

Chính vì trong lòng luôn có sẵn niềm tin, niềm yêu như vậy nên dù bao khó khăn, thiếu thốn các anh vẫn vững vàng, chủ động, đi tìm giặc mà đánh. Những câu thơ thật khoẻ khoắn, mạnh mẽ:

Lột sắt đường tàu

Rèn thêm dao kiếm

Áo vải chân không

Đi lùng giặc đánh

Đọc đến đây tất cả chúng ta đều cảm thấy ngạc nhiên & cảm động. Bởi không ở đâu trên trái đất này, người chiến sĩ gánh trên vai trách nhiệm nặng nề, thiêng liêng nhất lại có một vẻ đẹp mộc mạc, bình dị đến như vậy. Nhưng đó chính là hiện thực – một hiện thực nguyên sơ không hề được điểm trang hay tô vẽ của cuộc kháng chiến trường kì. Chính vì vậy hình ảnh các anh bộ đội áo vải chân không mãi mãi là hình ảnh đẹp đẽ một đi không trở lại trong lịch sử dân tộc

Người lính trong bài thơ không chỉ làm ta khâm phục mà còn khiến ta mến thương bởi ân tình của các anh đối với quê hương:

Ba năm rồi gửi lại quê hương

Mái lều gianh

Tiếng mõ đêm trường

Luống cày đất đỏ

ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Là những người nông dân mặc áo lính, từ nông dân mà ra nên dù có ra đi vì nghĩa lớn, dù có cách xa quê hương ngàn dặm thì mối tình quê vẫn không hề thay đổi, vẫn da diết trong sâu thẳm hồn anh. Biết bao nghĩa tình sâu nặng với người vợ trẻ chất chứa trong câu thơ Mòn chân bên cối gạo canh khuya. Tình cảm ấy như một sợi chỉ đỏ mỏng manh, vô hình nhưng theo suốt cuộc đời chinh chiến của các anh, không bao giờ đứt nối

Trôi theo mạch hồi tưởng, nhớ nhung của bài thơ, ta còn thấy thêm được nhiều nét đẹp trong cuộc đời người lính. Những chặng đường hành quân gian khổ: Nắng mưa sờn mép ba lô, tháng năm bạn cùng thôn xóm nhưng các anh vẫn bền bỉ vượt qua. Động lực nào, sức mạnh nào đã làm nên điều kì diệu ấy? Đó chính là tình đồng chí, đồng đội. Nói về tình cảm cao đẹp này Chính Hữu viết: Thương nhau tay nắm lấy bàn tay, còn Hồng Nguyên lại viết: Quờ chân tìm hơi ấm đêm mưa. Cả hai đều là những câu thơ làm rung động lòng người, gợi bao ấm áp trong tâm hồn. Tình nghĩa đậm đà ấy càng trở nên đáng nhớ hơn, bởi những tâm tình sâu kín được thể hiện thật nghịch ngợm, hóm hỉnh:

- Đằng nớ vợ chưa

- Đằng nớ

- Tớ còn chờ độc lập

Cả lũ cười vang bên ruộng bắp

Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu

Ta tưởng như hình ảnh lãng mạn ấy, tiếng cười vui vẻ lạc quan ấy còn vang đâu đây như nhắc nhở chúng ta về một thời gian khổ nhưng quá đỗi hào hùng của dân tộc

Bài thơ nhiều lần nhắc lại cụm từ Tôi nhớ, chúng tôi đi. Phải chăng với các anh Cuộc đời lưu động là cuộc đời anh đã chọn nên mỗi bờ tre, mái rạ, mỗi đêm khuya giường kê cách cửa, bếp lửa khoai vùi và cả những chặng đường hành quân tưởng chừng không dứt đều đã trở thành máu thịt. Tất cả, tất cả những kỉ niệm ấy đều gặp nhau ở mối tình quân dân cá nước mộc mạc mà cảm động:

Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni

Dân chúng cầm tay lắc lắc

Độc lập nhớ rẽ viền chơi với chắc

Độc lập nhớ rẽ về chơi với nhau , lời dặn dò đơn sơ mang phong vị miền Trung ấy từ lâu đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ yêu thơ. Bởi nó nói được niềm tin chiến thắng, khát vọng hoà bình của cả dân tộc bằng những câu thơ vô cùng giản dị.

Bài thơ đã khép lại nhưng còn đọng mãi trong mỗi chúng ta hình ảnh anh bộ đội của thời kì đầu kháng Pháp với những đặc điểm riêng biệt thật khó quên nhưng luôn sáng mãi những phẩm chất cao đẹp của anh bộ đội cụ Hồ.

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên - mẫu 4

Xuất hiện vào thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, gần như cùng lúc với Đèo cả của Hữu Loan, Tình sông núi của Trần Mai Ninh, Tây Tiến của Quang Dũng, Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Nhớ của Hồng Nguyên đã làm nên bộ “ngũ tư bất tử” của thơ chống Pháp nói riêng và trong lịch sử thi đàn Việt Nam nói chung.

Ngay từ khi mới xuất hiện, Nhớ của Hồng Nguyên đã trở thành một hiện tượng, một sự kiện, được lan truyền rộng rãi và bám vào trí nhớ của nhiều người, nhiều lớp người dọc theo năm tháng.

Vì sao bài thơ lại có sức ám ảnh và vang động như vậy trong lòng người đọc? Lý giải điều đó tưởng không dễ dàng, song không phải là không làm được, nhất là sau hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, kể từ ngày bài thơ ra đời. (1948?)

Bài thơ có tất cả 62 dòng thơ, dòng dài nhất có 10 chữ (Có mẹ già bắt rận cho những đứa con xa), dòng ít nhất có hai chữ (- Đằng nớ?) và được chia làm ba khổ thơ mạch lạc, khúc triết, có mở có khép và có phát triển ở khoảng giữa thân bài. Cả bài thơ giống như “kịch bản phân cảnh” của một bộ phim tài liệu, nói về một cuộc hành quân chiến đấu của những người lính Vệ quốc đoàn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Vậy trong đoàn quân ấy có bao nhiêu người, họ là những ai? Vào đầu bài thơ, nhà thơ không ngần ngại, giới thiệu luôn:

Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi “một, hai”

Súng bắn chưa quen

Quân sư mươi bài

Rồi nhà thơ hồn nhiên hạ ngay một lời bình về tinh thần đoàn quân ấy:

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Thế đấy, chúng tôi tự giới thiệu về chúng tôi như thế đấy! Số lượng của chúng tôi không được công bố cụ thể (có lẽ vì bí mật quân sự), nhưng chúng tôi khá đông đảo (lũ, bọn) và trình độ văn hoá còn thấp (chưa biết chữ), trình độ quân sự cũng chưa cao (súng bắn chưa quen), song chúng tôi có nhiệt tình cách mạng, có ý chí chiến đấu và rất lạc quan (lòng vẫn cười vui kháng chiến).

Bằng giọng tự trào đầy hóm hỉnh, nhà thơ đã tự giới thiệu về đồng đội của mình vừa chuẩn xác, vừa chân thành và đáng yêu biết bao. Những con người ấy vừa từ luống cày bước ra, từ sau luỹ tre làng bước tới cũng hệt như những người chiến sĩ trong thơ Chính Hữu, từ nước mặn đồng chua, từ đất đồi cày lên sỏi đá, tụ tập về đây theo một tiếng gọi thiêng liêng và trở thành đồng đội. Ngoài tinh thần lạc quan và ý chí chiến đấu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, họ hầu như chả có trang bị, vũ khí gì đáng kể:

Lột sắt đường tàu

Rèn thêm dao kiếm

Áo vải chân không

Đi lùng giặc đánh...

Tôi không có cứ liệu trong tay để chứng minh bài thơ được viết vào năm 1948, nhưng tôi có câu thơ của Hồng Nguyên nói rõ điều đó:

Ba năm rồi gửi lại quê hương

Nếu tính từ mùa Thu Tháng Tám 1945, ba năm rồi gửi lại quê hương, ắt phải là năm 1948, mà cũng mùa thu nữa kia. Sao vậy? Bởi vì đến những ngày kỷ niệm cách mạng, các nhà thơ mới hay làm thơ! Thơ để in báo, thơ để tuyên truyền, cần phải trúng dịp, chứ sao!

Trong cuộc hành quân liên miên của đoàn quân ấy, thỉnh thoảng trong tâm trí mỗi người, hình ảnh quê là cũng hiện lên trong nỗi nhớ:

Mái lều gianh

Tiếng mõ đêm trường

Luống cày đất đỏ

Ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Nói theo ngôn ngữ điện ảnh, đây là một cảnh phim “phục hiện” có sức khái quát và ám ảnh rất cao. Cú máy đặc tả gót chân người vợ trẻ:

Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Cái tình thương nhớ thiết tha đau đáu chỉ diễn tả bằng hình, một khuôn hình đặc tả, tài vậy thay! Và đây là phim câm, phim không lời!

Cuộc hành quân vẫn tiếp tục, với những gian khổ, nhọc nhằn, nhưng cũng đầy lạc quan phấn khởi, có khi còn thơ mộng nữa, nếu như được nhìn thấy “mấy o thôn nữ cuối nương dâu”, nếu như, vào lúc nghỉ ở lưng đèo, những người lính trẻ nói chuyện bù khú về vợ con và cười sảng khoái, cười đến vang ruộng bắp:

Chúng tôi đi
Nắng mưa sờn mép ba lô
Tháng năm bạn cùng thôn xóm
Nghỉ lại lưng đèo
Nằm trên dốc nắng
Kỳ hộ lưng nhau ngang bờ cát trắng
Quờ chán tìm hơi ấm đêm mưa
- Đằng nớ vợ chưa?
- Đằng nớ?
- Tớ còn chờ độc lập
Cả lũ cười vang bên ruộng bắp
Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu...

Sang đoạn thơ thứ hai, bài thơ mở ra với những câu thơ dài rộng, thể hiện sự tiếp xúc và lớn vượt của đoàn quân với nhân dân và đất nước. Tầm mắt mở rộng hơn, tâm hồn mở rộng hơn và nhờ thế lòng lạc quan, yêu đời cũng càng thêm phơi phới. Bao nhiêu gặp gỡ, tiếp xúc, bao nhiêu cảnh sắc, nếp sinh hoạt ở từng miền quê lũ lượt ùa vào thơ như những cánh phim toàn rộng. Lời thơ thanh thoát, thảnh thơi, hơi thở điệp trùng, cuồn cuộn:

Chúng tôi đi mang cuộc đời lưu động

Qua nhiều nơi không nhớ hết tên làng

... Tôi nhớ bờ tre gió lộng

Làng xuôi xóm ngược mái rạ như nhau

Tình quân dân cá nước giản dị mà vô cùng thắm thiết, gần gũi:

... Có tiếng gà gáy sớm

Có “khai hội, yêu cầu, chất vấn”

Có mẹ già bắt rận cho những đứa con xa...

Trăng lên tập họp hát om nhà.

Bao nhiêu kỷ niệm về những làng quê, về những con người và những tấm lòng thơm thảo của những miền đất lạ đã in đậm trong tâm hồn người chiến sĩ. Những kỷ niệm ấy sẽ vĩnh viễn không phai mờ theo năm tháng, bởi vì nó cụ thể, nó hiển hiện trước mắt ta như sờ thấy được:

Tôi nhớ

Giường kê cánh cửa

Bếp lửa khoai vùi

Đồng chí nứ vui vui

Đồng chí nứ dạy tôi dăm tối chữ...

Tuy nhiên, đường hành quân còn dài, sau những phút giây nghỉ ngơi, đoàn quân lại lên đường, lặng lẽ vào một đêm trăng lu, “nòng súng nghiêng nghiêng, đường mòn thấp thoáng”. Các anh ra đi vì nhiệm vụ nặng nề mà đất nước giao cho, nhưng tấm lòng còn ở lại:

Chúng tôi đi nhớ nhất câu ni

Dân chúng cầm tay lắc lắc:

“Độc lập, nhớ rẽ viền chơi ví chắc!”

Câu thơ ấy chợt gợi nhớ đến câu thơ rất hay, rất đồng vọng của Hoàng Trung Thông:

Các anh đi đến khi nào trở lại

Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong...

(Bộ đội về làng)

Và một cộng hưởng của thơ Hữu Loan:

Một làng xa nho nhỏ

Đẹp như nơi hẹn hò

Có đôi lòng gắn bó

Những lời chưa nói ra...

(Những làng đi qua)

Cái mô típ: Những người lính hành quân - Những xóm làng đi qua - Những kỷ niêm thôn làng - Hẹn ngày trở lại, ta gặp rất nhiều trong thơ kháng chiến chống Pháp thời kỳ đầu. Tuy nhiên, cùng mô típ ấy, ở mỗi nhà thơ thể hiện mỗi khác và có những thành công khác nhau. Với Nhớ của Hồng Nguyên, bằng việc mạnh dạn đưa ồ ạt tiếng địa phương và khẩu ngữ vào thơ, bằng việc chuyển hẳn thơ từ giọng ngâm sang giọng nói, ông đã góp phần làm cho thơ Việt chuyển hẳn sang một nội hàm và thi pháp mới.

Chính vì vậy, bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên mãi mãi là viên ngọc sáng trong nền thi ca Việt Nam hiện đại. Điều thú vị nhất là, chỉ cần đem phân cảnh rồi quay phim, chúng ta sẽ có một bộ phim tên là Nhớ. Tôi tin là rất hay!

Phân tích bài thơ Nhớ của Hồng Nguyên - mẫu 5

Cuộc kháng chiến thần kỳ của nhân dân ta chống thực dân Pháp  không chỉ là một cột mốc vẻ vang trong lịch sử Việt Nam mà còn là một cột mốc đáng nhớ của văn học nước nhà. Bởi vì lần đầu tiên trong thơ Việt Nam xuất hiện một nhân vật anh hùng dân tộc mới. Đây chính là những ảnh bộ đội Hồ – anh bộ đội đã trải qua bao gian khổ trong những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Khi gọi tên anh, chúng ta sẽ không bao giờ quên bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, một bài thơ thể hiện định nghĩa đầy đủ nhất về người lính và tình đồng đội cao cả. Nhưng chúng ta cũng luôn nhớ đến các anh với một  chân dung mới lạ qua bài thơ “Nhớ” của Hồng Nguyên.

Câu mở đầu độc đáo của bài thơ ngay từ cách các anh tự giới thiệu về mình.

Lũ chúng tôi

Bọn người tứ xứ

Gặp nhau hồi chưa biết chữ

Quen nhau từ buổi 1,2

Súng bắn chưa quen

Quân sự mươi bài

Lòng vẫn cười vui kháng chiến

Những hình ảnh thơ được lặp đi lặp lại tạo cho người đọc những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc về những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Dù những ngày đầu đầy khó khăn nhưng trong lòng các anh bộ đội vẫn tràn ngập niềm vui và niềm tin vào cuộc sống.

Bất chấp mọi khó khăn, gian khổ, các anh luôn có niềm tin yêu lớn lao trong lòng nên vẫn kiên định, chủ động tìm kẻ thù mà đánh trận. Những vần thơ ấy thật khỏe khoắn và đầy sức mạnh làm sao:

Lột sắt đường tàu

Rèn thêm dao kiếm

Áo vải chân không

Đi lùng giặc đánh

Tất cả chúng ta đều ngạc nhiên và xúc động khi đọc đến những câu thơ này. Bởi không nơi nào trên thế giới những người lính, những người gánh trên vai trách nhiệm nặng nề, thiêng liêng nhất lại sở hữu vẻ đẹp giản dị, mộc mạc như vậy. Nhưng đây là hiện thực. Đó là một hiện thực nguyên sơ, không được tô điểm một cánh hoa mỹ hay che đậy của cuộc kháng chiến trường kỳ lâu dài. Chính vì vậy hình ảnh những người lính trong bộ đồ áo vải chân không sẽ mãi mãi là một hình ảnh đẹp không bao giờ lặp lại trong lịch sử đất nước này.

Những người lính trong bài thơ khiến chúng ta không chỉ ngưỡng mộ mà còn yêu mến các anh vì ân tình của các anh đối với quê hương.

Ba năm rồi gửi lại quê hương

Mái lều gianh

Tiếng mõ đêm trường

Luống cày đất đỏ

ít nhiều người vợ trẻ

Mòn chân bên cối gạo canh khuya

Là người nông dân mặc áo lính, dù có cách xa quê hương hàng ngàn cây số, dù có ra đi vì một mục đích cao đẹp thì tình quê vẫn in sâu trong trái tim các anh. Lời thơ “Mòn chân bên cối gạo canh khuya” chứa đựng tình nghĩa sâu nặng đối với người vợ trẻ. Tình yêu này giống như một sợi chỉ mỏng manh vô hình nhưng nó đi cùng suốt cuộc đời chiến đấu của các anh và không bao giờ đứt đoạn.

Đi theo dòng ký ức và nỗi nhớ trong bài thơ, chúng ta sẽ thấy cuộc sống của những người lính có nhiều nét tươi đẹp. Cùng với những người bạn cùng thôn xóm, các anh đã phải chịu đựng những tháng ngày hành quân gian khổ, nơi nắng mưa làm sờn mép ba lô. Sức mạnh nào đã tạo nên điều kỳ diệu này? Đó chính là tình đồng chí đồng đội. Tình nghĩa đậm đà ấy càng trở nên đáng nhớ hơn bởi những cảm xúc sâu lắng được thể hiện một cách tinh nghịch và hài hước.

– Đằng nớ vợ chưa

– Đằng nớ

– Tớ còn chờ độc lập

Cả lũ cười vang bên ruộng bắp

Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu

Hình ảnh lãng mạn đó, tiếng cười vui vẻ, lạc quan đó vẫn còn vang vọng đâu đó cho đến hôm nay, như để nhắc nhở chúng ta về một thời gian khó khăn nhưng vô cùng hào hùng của đất nước.

Câu “Tôi nhớ, chúng tôi đi” xuất hiện nhiều lần trong bài thơ. Phải chăng cuộc đời lưu động có phải là cuộc đời anh đã chọn? Mỗi bờ tre, từng mái tranh, từng đêm khuya giường kê cách cửa, bếp lửa đốt khoai, thậm chí cả những đám chặng đường hành quân tưởng chừng như vô tận… đã trở thành máu thịt. Tất cả những kỷ niệm ấy gặp nhau trong một tình yêu giản dị nhưng cảm động giữa con người và đất nước.

Chúng tôi đi nhớ nhất câu nì

Dân chúng cầm tay lắc lắc

Độc lập nhớ rẽ viền với chắc

“Độc lập nhớ rẽ về chơi với nhau” Lời dặn dò đơn giản, mang đậm chất quê hương này từ lâu đã để lại dấu ấn trong lòng bao thế hệ người yêu thơ. Bởi bài thơ thể hiện niềm tin vào chiến thắng và khát vọng hoà bình của toàn dân qua những vần thơ vô cùng giản dị.

Bài thơ đã kết thúc nhưng hình ảnh những người lính trong thời kỳ đầu của kháng chiến chống Pháp với những nét đặc sắc khó quên làm nổi bật phẩm chất cao quý của bộ đội Cụ Hồ vẫn còn mãi trong tấm lòng mỗi chúng ta.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học