10+ Phân tích Chinh phụ ngâm (điểm cao)
Phân tích Chinh phụ ngâm điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
10+ Phân tích Chinh phụ ngâm (điểm cao)
Dàn ý Phân tích Chinh phụ ngâm
a) Mở bài:
+ Giới thiệu về Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm.
+ Nội dung chính của tác phẩm và ý nghĩa của trích đoạn được học.
b) Thân bài:
+ Nỗi cô đơn và sự lạnh lẽo bủa vây đối với người chinh phụ.
+ Những khát khao chia sẻ cùng nỗi nhớ thương chồng phương xa.
+ Niềm mong mỏi và khát khao hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ.
+ Sự gắng gượng để thoát khỏi nỗi cô đơn dày vò của người chinh phụ.
c) Kết bài:
+ Tóm tắt giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chinh phụ ngâm và đoạn trích + Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ.
+ Ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm và trích đoạn được học.
+ Trình bày suy nghĩ của bản thân khi tìm hiểu, phân tích Chinh phụ ngâm.
Phân tích Chinh phụ ngâm - mẫu 1
Chinh phụ ngâm được viết bằng chữ Hán, do tác giả Đặng Trần Côn sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Đây là thời kì vô cùng rối ren của xã hội phong kiến. Chiến tranh xảy ra liên miên, hết Lê-Mạc đánh nhau đến Trịnh-Nguyễn phân tranh, đất nước chia làm hai nửa. Ngai vàng của nhà Lê mục ruỗng. Nông dân bất bình nổi dậy khởi nghĩa ở khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh loạn li nồi da nấu thịt, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất tàn bạo, phản động của giai cấp thống trị và nỗi đau khổ của những nạn nhân trong chế độ thối nát ấy. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của tầng lớp Nho sĩ. Nhiều bản dịch xuất hiện, trong đó bản dịch sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được coi là hoàn hảo hơn cả, thể hiện thành công lẫn trị nội dung và nghệ thuật của nguyên tác.
Nội dung Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là đề cao quyền sống cùng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người. Đó là điều ít được nhắc đến trong thơ văn trước đây.
Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh. Nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ lập được công danh và trở về cùng với vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi tiễn đưa, nàng sống trong tình cảnh lẻ loi, ngày đêm xót xa lo lắng cho chồng. Thấm thìa nỗi cô đơn, nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang qua đi và cảnh lứa đôi đoàn tụ hạnh phúc ngày càng xa vời. Người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn đến cùng cực. Khúc ngâm thể hiện rất rõ tâm trạng cô đơn ấy.
Đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (từ câu 193 đến câu 228) miêu tả những cung bậc và sắc thái khác nhau của nỗi cô đơn, buồn khộ ở người chinh phụ đang khao khát được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
Đoạn trích có thể chia làm ba đoạn nhỏ:
Đoạn 1 : Từ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước… đến Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng: Nỗi cô đơn của người chinh phụ trong cảnh lẻ loi; cảm giác về thời gian chờ đợi; cố tìm cách giải khuây nhưng không được.
Đoạn 2: Từ Lòng này gùi gió đông có tiện… đốn Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi: Nỗi nhớ thương người chồng ở phương xa; cảnh vật khiến lòng nàng thêm sầu thảm.
Đoạn 3: Từ Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc… đến Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!. Cảnh vật xung quanh khiến lòng người chinh phụ rạo rực niềm khát khao hạnh phúc.
Sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra cảnh chiến trường đầy hiểm nguy, chết chóc mà xót xa, lo lắng cho chồng. Một lần nữa nàng tự hỏi vì sao đôi lứa uyên ương lại phải chia lìa? Vì sao mình lại rơi vào tình cảnh lẻ loi? Bấy nhiêu câu hỏi đều không có câu trả lời. Tâm trạng băn khoăn, day dứt ấy được tác giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế. Có thể nói, sầu và nhớ là cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ này.
Trong mười sáu câu thơ đầu, tác giả tập trung miêu tả hành động và tâm trạng của người chinh phụ:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Nàng lặng lẽ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước trong nỗi cô đơn đang tràn ngập tâm hồn. Nhịp thơ chậm gợi cảm giác như thời gian ngưng đọng.
Giữa không gian tịch mịch, tiếng bước chân như gieo vào lòng người âm thanh lẻ loi, cô độc. Nỗi nhớ nhung sầu muộn và khắc khoải mong chờ khiến bước chân người chinh phụ trở nên nặng trĩu. Nàng bồn chồn đứng ngồi không yên, hết buông rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên, sốt ruột mong một tiếng chim thước báo tin vui mà chẳng thấy.
Nàng khát khao có người đồng cảm và chia sẻ tâm tình. Không gian im ắng, chỉ có ngọn đèn đối diện với nàng. Lúc đầu, nàng tưởng như ngọn đèn biết tâm sự của mình, nhưng rồi lại nghĩ: Đèn có biết dường bằng chẳng biết, bởi nó là vật vô tri vô giác. Nhìn ngọn đèn chong suốt năm canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, nàng chợt liên tưởng đến tình cảnh của mình và trong lòng rưng rưng nỗi thương thân tủi phận: Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Hình ảnh người chinh phụ thầm gieo từng bước ngoài hiên vắng và suốt năm canh ngồi một mình bên ngọn đèn chong, không biết san sẻ nỗi niềm tâm sự cùng ai đã miêu tả được tâm trạng cô đơn tột độ của người chinh phụ.
Tác giả đặc tả cảm giác cô đơn của người chinh phụ trong tám câu thơ. Đó là cảm giác lúc nào và ở đâu cũng thấy lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài phòng, trong phòng. Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài vô tận theo thời gian luôn deo đẳng, ám ảnh nàng.
Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại như cộng hưởng với nỗi sầu miên man của người chinh phụ, khiến nàng càng đớn đau, sầu tủi:
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rũ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Tiếng gà gáy báo canh năm làm tăng thêm vẻ tĩnh mịch, vắng lặng. Cây hòe phất phơ rũ bóng trong ánh sáng lờ mờ của ban mai gợi cảm giác buồn bã, hoang vắng. Giữa không gian ấy, người chinh phụ cảm thấy mình nhỏ bé, cô độc biết chừng nào!
Ở các khổ thơ tiếp theo, nỗi ai oán hiện rõ trong từng chữ, từng câu, dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dày uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Người chinh phụ cố gắng tìm mọi cách để vượt ra khỏi vòng vây của cảm giác cô đơn đáng sợ nhưng vẫn không sao thoát nổi. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho khuây khỏa nhưng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi đơn chiếc, Khi Hương gượng đốt thì hồn nàng lại chìm đắm vào nỗi thấp thỏm lo âu. Lúc Gương gượng soi thì nàng lại không cầm được nước mắt bởi vì nhớ gương này mình cùng chồng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh đang tàn phai xuân sắc của mình. Nàng cố gảy khúc đàn loan phượng sum vầy thì lại chạnh lòng vì tình cảnh vợ chồng đang chia lìa đôi ngả, đầy những dự cảm chẳng lành: Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành ngẩn ngơ trở về với nỗi cô đơn đang chất ngất trong lòng mình vậy.
Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình nghĩa vợ chồng. Nay vợ chồng xa cách, tất cả đều trở nên vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không dám đụng tới bất cứ thứ gì vì chúng nhắc nhở tới những ngày đoàn tụ hạnh phúc đã qua và linh cảm đến sự chia Ha đôi lứa trong hiện tại. Tâm thế của nàng thật chông chênh, chơi vơi khiến cho cuộc sống trở nên khổ sở, bất an. Mong chờ trong nỗi sợ hãi và tuyệt vọng, nàng chí còn biết gửi nhớ thương theo cơn gió:
Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Sau những day dứt của một trạng thái bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt có một ý nghĩ rất nên thơ: nhờ gió xuân gửi lòng mình tới người chồng ở chiến trường xa, đang đối đầu với cái chết để mong kiếm chút tước hầu. Chắc chắn, chàng cũng sống trong tâm trạng nhớ nhung mái ấm gia đình với bóng dáng thân yêu của mẹ già, vợ trẻ, con thơ:
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Không gian xa cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh vũ trụ vô biên: Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Thăm thẳm nỗi nhớ người yêu, thăm thẳm con đường đến chỗ người yêu, thăm thẳm con đường lên trời. Câu thơ hàm súc về mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình thức. Cách bộc lộ tâm trạng cá nhân trực tiếp như thế này cũng là điều mới mẻ, hiếm thấy trong vắn chương nước ta thời trung đại:
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Hai câu thất ngôn chứa đựng sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác xót xa, cay đắng. Đất trời thì bao la, bát ngát, không giới hạn, liệu có thấu nỗi sinh li đau đớn đang giày vò ghê gớm cõi lòng người chinh phụ này chăng? Nói như người xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức biết kêu ai? biết ngỏ cùng ai? Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng cuộn xoáy, gây nên nỗi đớn đau cho thể xác:
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Giữa con người và cảnh vật dường như có sự tương đồng khiến cho nỗi sầu thương trở nên da diết, bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã chuyển thành tâm cảnh bởi được nhìn qua đôi mắt đẫm lệ buồn thương cho thân phận bất hạnh, cô đơn. Sự giá lạnh của tâm hồn làm tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. Cũng giọt sương ấy đọng trên cành cây, cũng tiếng trùng ấy rả rích trong đêm mưa gió, nhưng cảnh ấy tình này lại gợi nên bao sóng gió, bao nỗi đoạn trường trong lòng người chinh phụ. Tình cảnh ấy, tâm trạng ấy tự nó đã nối lên bi kịch của người phụ nữ trong xã hội cũ không được sống hạnh phúc, đồng thời cũng phản ánh thái độ lên án chiến tranh của tác giả.
Bầu trời bát ngát không cùng và nỗi nhớ cũng không cùng, nhưng suy tưởng thì có hạn; người chinh phụ lại trỏ về với thực tế cuộc sống nghiệt ngã của mình. Ý thơ chuyển từ tình sang cảnh. Thiên nhiên lạnh lẽo như truyền, như ngấm cái lạnh đáng sợ vào tận tâm hồn người chinh phụ cô đơn:
Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.
Hình như người chinh phụ đã thấm thìa sức tàn phá ghê gớm của thời gian chờ đợi. Tuy nhiên đến câu: Sâu tường kêu vắng chuông chùa nện khơi thì không khí đã dễ chịu hơn, cũng bởi người chinh phụ chí mới thất vọng mà chưa tuyệt vọng.
Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm:
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!
Ý thơ đi từ tinh đến cảnh rồi lại từ cảnh trở về tình, cứ dội qua dội lại như vậy nhằm thể hiện rõ tâm trạng ở đâu, lúc nào, làm gi… người chinh phụ cũng chí vò võ một mình một bóng mà thôi!
Từ thốc rất mạnh trong câu Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên báo hiệu sự chuyển sang một tâm trạng mới ở người chinh phụ. Cảnh hoa – nguyệt giao hòa khiến lòng người rạo rực, khao khát hạnh phúc lứa đôi. Những động từ dãi, lồng toát lên cái ý lứa dôi quấn quýt gần gũi, âu yếm nồng nàn mà vẫn tế nhị, kín đáo.
Tác giả lựa chọn và dùng từ rất kĩ, rất đắt: Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước, Sương như búa, bổ mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô, Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên… Đặc biệt, tác giả đã sử dụng thành công hàng loạt từ láy: eo óc, phất phơ, đằng đẵng, dằng dặc, mê mải, châu chan, thăm thẳm, đau đáu… về nhạc điệu, tác giả đã phát huy một cách tài tình nhạc điệu du dương của thể thơ song thất lục bát, giống như những đợt sóng dạt dào, diễn tả tâm trạng người chinh phụ hết nhớ lại thương, hết thương lại nhớ trong tình cảnh lẻ loi đơn chiếc.
Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã diễn tả được những diễn biến phong phú, tinh vi các cung bậc tình cảm của người chinh phụ. Cảnh cũng như tình được miêu tả rất phù hợp với diễn biến của tâm trạng nhân vật.
Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống trong tình cảnh lẻ loi vì chồng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực của các vua chúa, tác giả đã đề cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện tinh thần phản kháng đối với chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương;một thời, đó là tư tưởng đòi quyền sống quyền được hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.
Phân tích Chinh phụ ngâm - mẫu 2
Chinh phụ ngâm được tác giả Đặng Trần Côn sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII bằng chữ hán. Đây là thời kì vô cùng khủng hoảng của chế độ phong kiến. Chiến tranh xảy ra triền miên, hết Lệ-Mạc đánh nhau đến Trịnh-Nguyễn tranh giành quyền lực khiến đất nước chia làm 2 nửa. Ngai vàng của nhà Lê mục ruỗng, nông dân bất bình nổi dậy khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh lầm than, nghèo khổ, chồng xa vợ, cha mẹ xa con. Văn học thời kì này chủ yếu tập trung vào phản ánh nỗi khổ đau của nhân dân và sự dã man tàn bạo của giai cấp thống trị. Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm rộng rãi của mọi tầng lớp nhất là Nho sĩ. Nhiều bản dịch cũng đã xuất hiện, trong đó có bản dịch sang chữ Nôm của bà Đoàn Thị Điểm được coi là hoàn hảo hơn cả, phác họa thành công lại cả giá trị nội dung và nghệ thuật của nguyên tác.
Tác phẩm Chinh phụ ngâm phản ánh thái độ của người dân căm ghét những cuộc chiến phi nghĩa, đặc biệt là nêu lên khát khao được sống trong hòa bình, hạnh phúc đầy yêu thương mãnh liệt của con người. Đó là điều ít được thể hiện trong thơ văn trước đây.
Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh. Nàng miễn cưỡng tiễn đưa chồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ lập được nhiều chiến công vang dội và trở về trong sự vinh hoa, phú quý. Nhưng ngay sau buổi rời xa đó, nàng sống trong tình cảnh cô đơn lẻ loi, ngày đêm tựa cửa mong chồng trở về. Thấm thía nỗi cô đơn, buồn tủi đó, nàng chợt nhận ra rằng tuổi thanh xuân của mình đã trôi qua vô nghĩa mà không hề thực sự có tình cảm lứa đôi. Người chinh phụ rơi vào hoàn cảnh cô đơn đến tột cùng. Khúc ngâm thể hiện rất rõ tâm trạng cô đơn buồn tủi ấy.
Sau buổi tiễn đưa, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra những tình cảnh chiến trường đầy chết chóc, đẫm máu và nguy hiểm hiện ra trước mắt mà xót xa đến người chồng của mình đang phải ra trận. Một lần nữa nàng tự đặt câu hỏi vì sao tình yêu đôi uyên ương lại phải chia xa? Vì sao bản thân mình lại rơi vào tình cảnh như vậy? Bấy nhiêu câu hỏi mà nàng không có câu trả lời lại khiến nàng vô cùng day dứt. Tâm trạng băn khoăn, day dứt ấy được tác giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật miêu tả tâm lý tinh tế. Có thể nói rằng, nỗi buồn và xúc cảm chủ đạo bao trùm lên cả đoạn thơ này.
Trong mười sáu câu thơ đầu, Đặng Trần Côn tập trung miêu tả hành động và tâm trạng của người chinh phụ:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Nàng lặng lẽ Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước trong nỗi buồn sâu thẳm trong tâm hồn. Nhịp thơ chậm như gợi cho người đọc cảm giác như thời gian đang đứng yên không chuyển động.
Giữa không gian tĩnh lặng, tiếng bước chân vang lên như chạm vào lòng người âm thanh lẻ loi, cô độc đến tột độ. Nỗi nhớ nhung sầu muộn và khắc khoải khiến bước chân của nàng trở nên nặng nề. Trong người nàng đang có một cảm giác bồn chồn, đứng ngồi không yên, hết buông rèm xuống rồi lại cuốn rèm lên, trong lòng đầy lo lắng mong một tin vui được báo về mà chẳng thấy.
Nàng khao khát có một người bạn đồng cảm và chia sẻ những nỗi tâm tình của mình. Trong không gian im ắng ấy chỉ có ngọn đèn đối diện và bầu bạn với nàng. Ban đầu, nàng tưởng như ngọn đèn hiểu được những nỗi tâm tư của mình, nhưng rồi lại nghĩ: Đèn vô tri vô giác thì nó làm sao mà hiểu được. Nhìn ngọn đèn chong suốt năm canh, dầu đã cạn, bấc đã tàn, nàng chợt liên tưởng đến tình cảnh mà bản thân mình đang mắc phải mà trong lòng rưng rưng nỗi nhớ thương tủi phận: Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Hình ảnh người chinh phụ gieo bước ngoài hiên vắng trong thầm lặng và suốt năm canh ngồi một mình bên ngọn đèn chong, không biết tìm ai để có thể san sẻ nỗi buồn đã miêu tả được tâm trạng vô cùng cô đơn buồn tủi tột độ của người chinh phụ.
Chỉ qua tám câu thơ tác giả đã thể hiện hết được sự cô đơn, buồn tủi của người chinh phụ. Đó là cảm giác dù ở bất cứ nơi đâu và bất kì thời gian nào cũng thấy bản thân mình lẻ loi: ban ngày, ban đêm, ngoài phòng, trong phòng. Nỗi cô đơn tràn ngập khắp không gian và thời gian, ám ảnh nàng.
Cảnh vật xung quanh không những không san sẻ mà ngược lại còn như xát muối vào nỗi đau của nàng, khiến nàng càng đau đớn, buồn tủi:
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Tiếng gà gáy báo canh năm làm tăng thêm vẻ tĩnh lặng của xung quanh. Cây hòe phất phơ rủ bóng trong ánh sáng lờ mờ của ban mai gợi cảm giác buồn bã, cô đơn. Người chinh phụ cảm thấy sự nhỏ bé, cô đơn buồn tủi của bản thân giữa không gian biết nhường nào.
Ở các khổ thơ tiếp theo, dù tác giả không hề nhắc đến hai từ "chiến tranh" nhưng nỗi ai oán vẫn hiện rõ trong từng chữ, từng câu
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.
Người chinh phụ đang cố gắng hết sức mình để tìm mọi cách vượt qua được cảm giác cô đơn buồn tủi đến đáng sợ này. Nàng gắng gượng điểm phấn tô son và dạo đàn cho giảm bớt đi nỗi cô đơn, nhớ người chồng yêu dấu nhưng dường như điều đó lại khiến nàng càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào tình cảnh lẻ loi. Khi Hương gượng đốt thì tâm hồn nàng lại chìm đắm vào nỗi lo âu thấp thỏm. Lúc Gương gượng soi thì nàng lại không thể cầm được nước mắt vì nhớ gương này mình cùng chồng đã từng chung bóng, bởi vì phải đối diện với hình ảnh trong quá khứ hạnh phúc của mình đang tàn phai. Nàng cố gảy khúc đàn long phụng sum vầy thì hình như tình cảm vợ chồng lại đang ngày càng chia xa, đẩy những dự cảm chẳng lành: Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng. Rốt cuộc, người chinh phụ đành phải quay lại với nỗi cô đơn, buồn tủi, lẻ loi đang chất chứa trong lòng mình vậy.
Sắt cầm, uyên ương, loan phụng là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, tình cảm vợ chồng. Nay vợ chồng đã chia xa, tất cả đều trở thành vô nghĩa. Dường như người chinh phụ không dám nghĩ, đụng hay nhắc đến tới bất cứ thứ gì vì sợ chúng sẽ lại gợi lên trong ký ức nàng những cảm giác hạnh phúc của gia đình ngày xưa, giờ đã trôi qua và linh cảm đến sự chia lừa đôi lứa trong hiện tại. Cảm giác của nàng thật chơi vơi, bấp bênh khiến cho cuộc sống của nàng trở nên khó khăn, bất an. Mong chờ trong nỗi tuyệt vọng, nàng chỉ còn biết gửi những nỗi niềm, tình cảm của mình theo làn gió:
Lòng này gửi gió đông có tiện?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Sau những day dứt của một trạng thái bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt có một ý nghĩa rất thơ ngây: nhờ gió gửi đến người chồng yêu dấu nơi chiến trường xa những nỗi nhớ thương của mình, đang đối đầu với cái chết để mong kiếm chút tước hầu. Chắc chắn, mặc dù xung quanh chàng toàn là bom đạn nhưng trong tâm trạng của chàng lúc nào cũng nhớ thương vô cùng mái ấm gia đình và bóng dáng người vợ thân yêu, mẹ già và những đứa con thơ:
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Hình ảnh vũ trụ vô biên được tác giả đem ra so sánh khoảng cách của hai đầu nỗi nhớ: Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời. Thăm thẳm nỗi nhớ người yêu, thăm thẳm con đường đến với nơi người yêu đang chiến đấu, thăm thẳm con đường lên trời. Câu thơ hàm súc về mặt ý nghĩa và cô đọng về mặt hình thức. Đó là điều mà chưa hề được thể hiện trong thơ văn trước đây - nỗi nhớ trực tiếp của một con người đang hạnh phúc trong tình yêu mà phải chia xa
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Hai câu thơ chan chứa sự tương phản sâu sắc tạo nên cảm giác đau thương, cay đắng. Đất trời thì vô biên, bát ngát, không có giới hạn, liệu có thấu nỗi đau mà nàng đang phải ngày đêm gánh chịu nơi cõi lòng người chinh phụ này không? Nói như ngày xưa: trời thì cao, đất thì dày, nỗi niềm uất ức biết kêu ai? biết ngỏ cùng ai? Bởi vậy nên nó càng kết tụ, càng xoáy sâu vào thì lại càng gây nên nỗi đớn đau về thể xác:
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Giữa con người và cảnh vật dường như có sự hòa hợp, tương đồng với nhau khiến cho nỗi buồn tủi, cô đơn trở nên da diết, bất tận. Cảnh vật xung quanh người chinh phụ đã chuyển thành tâm cảnh bởi được nhìn qua đôi mắt đẫm lệ buồn đau cho những mảnh đời bất hạnh, đơn côi. Sự buốt giá của tầm hồn càng làm tăng thêm sự giá lạnh của cảnh vật. Cũng giọt sương ấy đọng trên cành cây, cũng tiếng trùng ấy rả rích trong đêm mưa gió, nhưng cảnh tình này lại gợi lên rất nhiều sóng gió, bao nỗi đoạn trường trong lòng nàng. Tình cảnh ấy, tâm trạng ấy đã thể hiện được sự bi kịch trong số phận của người phụ nữ ở thời kì những cuộc chiến tranh phi nghĩa diễn ra triền miên, sống không được hạnh phúc, đồng thời cũng lên án chiến tranh của tác giả.
Bầu trời bát ngát và nỗi nhớ không cùng, nhưng suy tưởng thì có hạn; người chinh phụ lại trở về với thực tế cuộc sống đầy trái đắng của mình. Ý thơ chuyển từ tình sang cảnh. Thiên nhiên lạnh lẽo đến đáng sợ như truyền vào tâm hồn người chinh phụ cô đơn:
Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô.
Hình như người chinh phụ đã hết sức sống khi phải trải qua sức tàn phá ghê gớm của thời gian đợi chờ. Tuy nhiên đến câu: Sâu tường kêu vẳng chuông chùa nện khơi thì không khí đã trở nên dễ chịu hơn, cũng bởi người chinh phụ chỉ mới thất vọng mà chưa tuyệt vọng.
Tám câu cuối là bức tranh tả cảnh ngụ tình đặc sắc nhất trong Chinh phụ ngâm:
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên.
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm.
Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau!
Ý thơ đi từ tình đến cảnh rồi lại quay lại tình, cứ dội qua dội lại như vậy nhằm thể hiện rõ tâm trạng đang ở đâu, thời gian nào và như thế nào....người chinh phụ cũng chỉ vò võ một mình một bóng mà thôi!
Từ thốc rất mạnh trong câu Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên báo hiệu sự chuyển sang một trạng thái mới của người chinh phụ. Cảnh hoa - nguyệt giao hòa làm một khiến cho lòng người trở nên rạo rực tràn đầy hạnh phúc khi lứa đôi được đoàn tụ. Những động từ dãi, lồng toát lên cái ý lứa đôi quấn quýt gần gũi, âu yếm bên nhau mà vẫn vô cùng kín đáo, tế nhị.
Từ ngữ được tác giả lựa chọn rất cẩn thận, tỉ mỉ: Dạo hiên vắng gieo từng bước, Sương như búa, bổ mòn gốc liễu, Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô, Một hàng tiêu gió thốc ngoài hiên....Đặc biệt, các từ láy được tác giả sử dụng rất thành công: eo óc, đằng đẵng, phất phơ, dằng dặc, châu chan, mê mải, thăm thẳm, đau đáu....về nhạc điệu, nhạc điệu du dương của thể thơ song thất lục bát cũng được tác giả thể hiện rõ nét, giống hệt những làn sóng dạt dào đang vỗ vào bờ, thể hiện được tâm trạng người chinh phụ thương, nhớ lẫn lộn trong tình cảm lẻ loi đơn chiếc.
Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã phác họa thành công tâm trạng chân thực vô cùng phong phú cùng các cung bậc cảm xúc của người chinh phụ. Cảnh cũng như tình được hòa quyện vào nhau rất phù hợp với tâm trạng của người chinh phụ.
Thông qua tâm trạng buồn đau buồn tủi của người chinh phụ đang sống trong tình cảnh lẻ loi vì người chồng đang phải ra trận chiến đấu phi nghĩa tranh giành quyền lực lại cho các vua chúa, tác giả đã đề cao hạnh phúc đôi lứa và thể hiện tinh thần phản căm ghét cuộc chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã toát lên tư tưởng chủ đạo trong văn chương; một thời, đó là tư tưởng quyền được sống và mưu cầu hạnh phúc chính đáng của con người phải được đảm bảo.
Phân tích Chinh phụ ngâm - mẫu 3
Chinh phụ ngâm nguyên văn bằng chữ Hán, do Đặng Trần Côn sáng tác. Bản Nôm hiện hành, nhiều ý kiến thống nhất, là của dịch giả Đoàn Thị Điểm. Trước cảnh chiến tranh liên miên đầu thế kỉ XVIII, cảm động trước thời thế, Đặng Trần Côn đã viết Chinh phụ ngâm. Qua nỗi niềm và tâm trạng cô đơn, tủi hờn của người chinh phụ, tác phẩm đã nói lên sự oán ghét chiến tranh phong kiến phi nghĩa, đặc biệt là thể hiện tâm trạng khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi.
Bản dịch đã thể hiện tài năng của tác giả và dịch giả trong việc thể hiện những trạng thái tâm lí vô cùng tinh tế và phức tạp của người vợ nhớ chồng.
Về bản dịch Chinh phụ ngâm hiện có tất thảy bảy bản dịch và phỏng dịch bằng các thể song thất lục bát (bốn bản) và lục bát (ba bản) của các dịch giả: Đoàn Thị Điểm, Phan Huy Ích, Bạch Liên Am Nguyễn và hai tác giả khuyết danh, nhưng chưa biết bản dịch nào của ai. Riêng bản dịch thành công nhất và được phổ biến rộng rãi xưa nay, thể song thất lục bát, 412 câu (bản in chữ Nôm cũ hiện còn (1902, AB26), hoặc 408 câu (một bản khác lưu tại thư viện Pa-ri) có người cho là của Đoàn Thị Điểm, có người cho là của Phan Huy Ích. (Nguyễn Lộc, Từ điển văn học, tập I, Sđd)
So bản dịch của bà với bản chữ nho thì thấy văn dịch rất sát nghĩa nguyên văn mà lời văn êm đềm, ảo não, rõ ra giọng một người đàn bà buồn bã, nhưng có vẻ thê lương hơn là vẻ đau đớn, không đến nỗi réo rắt, sầu khổ như giọng văn cung oán, thật là lời văn hợp cảnh vậy. Bản dịch viết theo thể “song thất”. Có nhiều đoạn đặt theo lối liên hoàn, những chữ cuối câu trên láy lại làm chữ đầu câu dưới, cứ thế đặt dài tới mấy câu, thật hợp với tình buồn liên miên không dứt của người chinh phụ. (Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, 1950)
Người chinh phụ vốn dòng dõi trâm anh quyền quý, nàng tiễn chồng ra trận với mong muốn người chồng sẽ lập công danh nơi yên ngựa và trở về trong cảnh vinh hoa. Thấm nỗi cô đơn lẻ loi, nàng nhận ra tuổi xuân của mình đang đi qua và hạnh phúc lứa đôi ngày càng xa vời.
Người chinh phụ rơi vào tâm trạng cô đơn cùng cực. Khúc ngâm thể hiện tâm trạng cô đơn ấy của người chinh phụ. Đoạn trích miêu tả tâm trạng lẻ loi của người chinh phụ trong cảnh chờ chồng.
Đầu đời Cảnh Hưng, chiến tranh xảy ra liên miên, hết Lê Mạc đánh nhau đến Trịnh Nguyễn kéo dài cuộc phân tranh, đất nước chia làm hai nửa dưới cái ngai vàng mục ruỗng, rồi khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi. Nhân dân sống trong cảnh nồi da nấu thịt, loạn li chinh chiến, cha mẹ xa con, vợ xa chồng. Văn học thời kì này tập trung phản ánh bản chất thối nát, bộ mặt tàn bạo của chế độ phong kiến và nỗi đau khổ của con người những nạn nhân của chế độ xã hội ấy. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra đời đã nhận được sự đồng cảm của rất nhiều nho sĩ. Nhiều bản dịch Chinh phụ ngâm ra đời, trong đó bản dịch được cho là của Đoàn Thị Điểm là bản dịch thành công hơn cả vì dịch giả đã gặp được ở đó sự đồng cảm sâu sắc.
Hình tượng nổi bật của Chinh phụ ngâm là hình tượng người chinh phụ héo mòn trong trông ngóng chờ đợi. Người chinh phụ hiện lên trong khúc ngâm với ước vọng công hầu và khát khao hạnh phúc lứa đôi. Được nuôi dưỡng trong nền giáo dục Nho gia, người phụ nữ quý tộc phong kiến cũng từng mong ước, tự hào về hình ảnh một người chồng dũng mãnh:
Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt
Xếp bút nghiên theo việc đao cung
Thành liền mong tiễn bệ rồng
Thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa
Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao
Thế nhưng sau những ngày mỏi mòn chờ chồng trong tuyệt vọng, nàng rơi vào tâm trạng cô đơn, tuyệt vọng và cất lời oán trách.
Qua tâm trạng của người thiếu phụ, khúc ngâm là tiếng nói oán trách chiến tranh phong kiến đã giày xéo lên hạnh phúc lứa đôi. Chinh phụ ngâm là một tác phẩm trữ tình, từ đầu đến cuối tác phẩm vẫn chỉ là tâm trạng của nhân vật trữ tình người chinh phụ.
Khúc ngâm được phát triển theo mạch tâm trạng và nỗi nhớ nhung của người chinh phụ. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã bao quát được những trạng thái tâm trạng của người chinh phụ. Nội tâm đầy biến động được diễn tả qua những từ ngữ chỉ ngoại hình, tả hành động, tả việc làm của người chinh phụ. Người thiếu phụ trong Khuê oán của Vương Xương Linh vẫn vô tư trang điểm má hồng để lên lầu biếc ngắm cảnh xuân, chỉ khi ngắm màu dương liễu mới bừng tỉnh và nhận ra cảnh ngộ cô đơn của mình; còn người chinh phụ này luôn chìm đắm trong nỗi cô đơn. Sự trông đợi mỏi mòn và vô vọng đã khiến nàng trễ nải cả việc điểm phấn tô son, công việc quan trọng nhất của người phụ nữ nơi gác tía lầu son như nàng:
Trâm cài xiêm thắt thẹn thùng,
Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo.
Nỗi đau buồn của người thiếu phụ trong cảnh đợi chồng đi chiến trận đã khiến nàng mất hết sức lực, như người mộng du trong ngôi nhà của mình:
Há như ai hồn say bóng lẫn,
Bỗng thơ thơ thẩn thẩn như không.
Sự chờ đợi vô vọng đã khiến nàng tê liệt cả tinh thần. Với việc miêu tả dáng vẻ bề ngoài, tác giả đã lột tả được trạng thái tâm lí phức tạp trong nội tâm của người thiếu phụ. Người thiếu phụ hiện lên với vẻ mệt mỏi và buông xuôi, nỗi cô đơn đã giày vò cả tâm thần và thể xác của người thiếu phụ khiến nàng nhạt phấn phai hương. Nỗi cô đơn bao trùm cả lên không gian và thời gian, ngày và đêm. Trong và ngoài căn phòng đều tràn ngập nỗi cô đơn. Chỉ có người thiếu phụ đối diện ngọn đèn, tình cảnh lẻ loi càng hiện rõ hơn. Cái vẻ lẻ loi tội nghiệp ấy hiện lên thật rõ ràng với hình ảnh:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Giữa cái không gian tĩnh mịch của đêm, tiếng bước chân chậm rãi như gieo vào lòng người cái âm thanh lẻ loi cô độc. Pu-skin trên con đường mùa đông vắng vẻ, cô đơn hơn bởi tiếng lục lạc đơn điệu thì người chinh phụ cô đơn hơn khi nghe tiếng bước chân của mình. Nỗi đau đớn âm thầm nhưng quá lớn ấy khiến nàng khao khát có sự đồng cảm. Nhưng chỉ có ngọn đèn đối diện với nàng mà thôi. Liệu ngọn đèn có thấu hiểu được không hay sức nặng của nỗi cô đơn, của sự nhung nhớ lại dồn cả lên nàng. Ngọn đèn chỉ là vật vô tri vô giác, “có biết dường bằng chẳng biết”:
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Cảnh vật không san sẻ mà cộng hưởng cùng nỗi sầu của người chinh phụ khiến nàng đau càng đau, sầu càng sầu. Nỗi chờ đợi ngày càng vô vọng. Dường như người thiếu phụ thức trắng cả năm canh và bị nỗi nhớ nhung giày vò:
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Dịch giả đã sử dụng rất hợp lí những từ ngữ thuần Việt với những chữ như “eo óc”, “phất phơ”, những từ ngữ ấy dùng để tả cảnh nhưng đã chuyển tải được nỗi cô độc, buồn sầu của người thiếu phụ. Nó vừa gợi hình ảnh, vừa gợi tâm trạng. Dáng hoè phất qua bên nọ bên kia gợi nên hình ảnh người chinh phụ vật vã trong nhớ nhung giữa đêm khuya lẻ loi. Đếm từng khắc thời gian trôi đi chậm chạp, nhìn xung quanh thì bốn phía chỉ là cây hoè rủ bóng, nàng chìm ngập trong nỗi cô đơn. Khi chờ đợi bao giờ thời gian cũng rất dài.
Thuý Kiều trong tâm trạng đợi chờ Kim Trọng:
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!
Giống như tâm trạng người chinh phụ chờ chồng:
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Thời gian cứ dài dằng dặc và không gian thì mênh mông vô tận, người chinh phụ nhỏ bé và đơn độc trước không gian và thời gian. Biết nỗi đợi chờ là vô vọng, nàng đã cố gắng để đưa mình ra khỏi nỗi cô đơn. Gắng gượng điểm phấn tô son, dạo đàn nhưng càng cố gắng vùng vẫy càng lún sâu hơn vào sự tuyệt vọng. Chạm đến đâu cũng là chạm vào nỗi đau, cũng nhìn thấy cảnh lẻ loi đơn chiếc. Soi gương thì nước mắt đầm đìa bởi nàng phải đối diện với gương mặt thanh xuân đang mỏi mòn dần và thì xuân sắc đang phũ phàng trôi qua. Khúc đàn loan phượng thì gợi nhớ cảnh chồng vợ chia lìa. Nỗi đau đớn, tủi hờn của người chinh phụ thể hiện nỗi khao khát hạnh phúc lứa đôi chân chính. Với nỗi niềm cảm thông sâu sắc, tác giả và dịch giả đã thể hiện rất tinh tế và thành công những trạng thái tâm lí phức tạp của người thiếu phụ, qua đó thể hiện thái độ của mình trước những cuộc chiến tranh, binh biến liên miên dưới chế độ phong kiến thế kỉ XVIII.
Tuy tác phẩm không nói rõ tính chất cuộc chiến tranh mà người chinh phu tham gia, song dựa trên những điều kiện lịch sử khi tác phẩm ra đời, có thể nhận thấy, đó không phải là cuộc chiến tranh vệ quốc, mà là cuộc chiến giành giật quyền lực của các tập đoàn phong kiến, những cuộc chiến phi nghĩa. Dịch Chinh phụ ngâm, dịch giả đã chọn thể thơ song thất lục bát, một thể thơ dân tộc có khả năng lớn trong việc thể hiện tâm trạng của nhân vật, nhất là tâm trạng buồn đau, sầu muộn. Dịch giả đã dịch rất thanh thoát nội dung của nguyên tác, thể hiện chân thực nỗi buồn của người thiếu phụ phương Đông, mãnh liệt, da diết nhưng kín đáo.
Chinh phụ ngâm đã đánh dấu một bước tiến vượt bậc của ngôn ngữ văn học dân tộc. Với tác phẩm này, tiếng Việt đã chứng minh khả năng diễn tả tư tưởng tình cảm một cách sâu sắc, tinh tế. Với tấm lòng thương yêu và sự cảm thông sâu sắc với những khát khao hạnh phúc chính đáng của người thiếu phụ, tác giả và dịch giả cất lên tiếng kêu nhân đạo, tiếng kêu phản đối chiến tranh phi nghĩa. Thái độ phản chiến tuy không bộc lộ trực tiếp song lại rất mạnh mẽ.
Chiến tranh đã cướp đi của con người hạnh phúc và tuổi trẻ, thậm chí cả mạng sống. Vì một cuộc chiến, có biết bao người vợ phải xa chồng, phải giam mình trong nỗi cô đơn, buồn tủi như người chinh phụ kia. Có người đón chồng trở về khi tóc đã pha sương, nhưng đó còn là may mắn. Có người đau xót đón tin chồng không trở về sau những ngày mỏi mòn trông đợi. “Vì ai gây dựng cho nên nỗi này” là lời oán thán nặng nề nhất trong Chinh phụ ngâm, lời ai oán không mạnh mẽ nhưng uất ức và oán trách. Đó là một trong những giá trị của Chinh phụ ngâm. Nhưng cao hơn cả, tác phẩm là sự tiếp nối xuất sắc cảm hứng nhân đạo của nền văn học dân tộc, một lần nữa, những khao khát hạnh phúc chính đáng của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến lại được ủng hộ. Đề tài về thân phận người phụ nữ lại được góp thêm một tiếng nói mới đầy sức mạnh nhân văn.
Phân tích Chinh phụ ngâm - mẫu 4
Cuộc đời và số phận của người phụ nữ là một trong những chủ đề tốn khá nhiều giấy mực của các nhà văn nhà thơ. Riêng trong nền văn học trung đại Nguyễn Du dùng hết những khả năng thơ ca của mình để kể về cuộc đời nàng Kiều trong Kim Vân Kiều truyện, nhà thơ Hồ Xuân Hương cũng có những bài thơ tự tình về cảnh sống vợ lẽ của người ta. Và Đặng Trần Côn cũng góp vào chủ đề ấy tác phẩm chinh phụ ngâm. Không phải là một cô gái bạc mệnh, không phải san sẻ tình cảm với người khác nhưng người con gái ấy vẫn khổ và buồn. cái khổ cái buồn ấy chính là do chiến tranh buộc người chồng phải đi xa nhà làm cho nàng phải chịu cảnh một mình cô đơn.
Chinh phụ ngâm là một tác phẩm thơ dài và sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu đoạn trích thể hiện rõ nhất cảm xúc của người chinh phụ có chồng đi đánh trận ở xa mà thôi. Có thể nói chỉ cần qua đoạn trích ấy biết bao nhiêu tâm trạng của người phụ nữ được thể hiện. Bài thơ ấy được Đoàn Thị Điểm dịch lại và cho ra những vần thơ như ngày hôm nay.
Ngay từ những câu thơ đầu thì tâm trạng của người chinh phụ ấy đã hiện lên rõ nét. Những vần thơ như gieo vào lòng người những đồng cảm với người con gái ấy:
“Lòng này gửi gió đông có tiện,
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong,
Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.”
Người con gái có chồng ở phương xa ấy đã mượn ngọn gió đông kia để mong mang đi những tâm sự của mình cho chồng ở phương xa. Non Yên kia chính là nơi người chồng xa nhớ của nàng đang chinh chiến. Người con gái ấy ban đầu mang một nỗi buồn thương vô hạn. Đó là một nỗi nhớ chàng thăm thẳm. Người ta hay nói sâu thăm thẳm phải chăng người con gái kia mang một nỗi buồn nhớ thương người chồng sâu sắc mà chỉ có nàng mới là người hiểu rõ. Thật vậy nỗi nhớ chồng chỉ có thể trải qua mới hiểu được cảm giác nó như thế nào chứ còn không trải qua thì chỉ cảm nhận được một phần nào đó mà thôi. Không biết những nỗi nhớ thương những lời tâm sự kia có đến được Non Yên không nhưng người thiếu phụ vẫn cứ muốn thổ lộ cho những nỗi nhớ trong lòng mình ra. Chàng ở chiến trận xa xôi mong rằng sẽ hiểu được tấm lòng thiếp ở nơi này. Nỗi nhớ ấy trở thành nỗi đau khi từ “thăm thẳm” lại một lần nữa được cất lên ở câu dưới. Chính cái khoảng cách xa xôi kia khiến cho nàng không thể nào nói với chàng được. Chính vì thế mà nỗi nhớ trở thành nỗi đau và những hạt mưa phùn rơi ngoài trời giống như những giọt nước mắt của nàng thiếu phụ.
Những câu thơ sau như cụ thể hóa nỗi buồn thương ấy. Đồng thời ta thấy cảnh vật cũng như nhuốm màu tâm trạng. Thật là thê lương, thật là đau đớn:
“Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô,
Giọt sương phủ, bụi chim gù,
Sâu tường kêu vẳng, chuông chùa nện khơi.
Vài tiếng đế, nguyệt soi trước ốc,
Một hàng tiêu, gió thốc ngoài hiên,
Lá màn lay ngọn gió xuyên,
Bóng hoa theo bóng nguyệt lên trước rèm,
Hoa đãi nguyệt, nguyệt một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông…
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đau.”
Hình ảnh những cây cối cảnh vật bên ngoài cũng như đang làm cho cảnh vật kia mang một tâm trạng được gói gọn trong động từ “nhớ”. Ngay cả sương tuyết những thứ là hiện tượng của thiên nhiên tạo hóa cũng làm cho cảnh vật kia thê lương kì lạ. Động từ “búa” “bổ”, “cưa”, “xẻ” giống như những nhát búa nhát dao đâm vào tim người thiếu phụ ấy. Sương như búa bổ gốc liễu kia mòn. Liễu ấy chính là người chinh phụ thấy trong lòng mình liễu yếu đào tơ và sương như làm cho cô thấy lạnh hơn khi không có chồng ở bên cạnh. Nó làm nàng hiện lên một nỗi đau trong lòng. Thế rồi tuyết như là đang cưa xẻ cây ngô, sương như phủ trắng bụi chim gù…Tóm lại hình ảnh ấy có màu sắc, có âm thanh, có sớm, có muộn, có gần, có xa. Tất thấy những hình ảnh như giọt sương, bông tuyết, sâu, nguyệt bóng hoa…Ta đều thấy được một tâm hồn kia đầy những đau đớn dằn vặt như bị “cưa”, “xẻ”, bủa bổ. Hai từ “xiết đau như thể hiện rõ được tâm trạng ấy của người chinh phụ.
Như vậy có thể nói qua đoạn trích này ta hiểu được tấm lòng của người chinh phụ thương nhớ người chinh phu. Một số phận người phụ nữ nữa lại góp phần vào đề tài văn học Việt Nam. Người con gái ấy không tài năng không xinh đẹp, không chịu cảnh chồng chung nhưng lại có chồng mà lại như không. Tình cảnh ấy cũng khổ không kém gì những số phận người phụ nữ từng được nói đến. Chồng đi đánh trận không biết rằng có sống sót mà trở về hay không. Tóm lại chinh phụ ngâm là một tác phẩm có giá trị rất lớn.
Phân tích Chinh phụ ngâm - mẫu 5
Trong văn học trung đại, để lên án sự suy tàn của xã hội phong kiến cũng như ngợi ca những khát khao niềm hạnh phúc của con người, nhiều thi nhân đã gửi gắm tâm sự, nỗi bất bình của mình vào các bài thơ, khúc ngâm. Thời Đường ở Trung Quốc, Vương Xương Linh oán ghét cuộc chiến tranh phi nghĩa, mà viết Khuê oán. Thời Lê ở nước ta, Đặng Trần Côn cảm thông thâm thúy trước số phận những người dân phụ nữ có chồng đi lính mà làm ra tuyệt tác Chinh phụ ngâm. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ thuộc tác phẩm trên đã chạm đến trái tim người đọc khi tái hiện hoàn cảnh cô độc, nỗi nhớ thương da diết của người phụ nữ ước mơ niềm hạnh phúc đoàn tụ.
Chinh phụ ngâm ra đời vào tầm khoảng thế kỷ XVIII, đầu đời Lê Hiển Tông, trào lưu khởi nghĩa nông dân diễn ra liên miên, triều đình điều binh lính đi dẹp loạn. Từ đấy nhiều gia đình chịu cảnh chia lìa, kẻ ở người đi, không hẹn ngày tái ngộ. Số phận và thảm kịch của những con người nhỏ bé trong cái xã hội phong kiến đang đứng bên bờ vực thẳm ấy đã lay động trái tim của Đặng Trần Côn.
Trong khúc ngâm viết bằng chữ Hán của ông có 476 câu thơ, tuân theo thể trường đoản cú. Khi Đoàn Thị Điểm dịch sang chữ Nôm đã chuyển tác phẩm về thể thơ song thất lục bát, dùng âm điệu réo rắt, thiết tha của thể thơ dân tộc bản địa góp phần thể hiện tình cảnh và tâm trạng của người phụ nữ có chồng đi lính. Sở dĩ Hồng Hà nữ sĩ trung thành với chủ với nguyên tác và có nhiều sáng tạo trong quá trình dịch bởi dịch giả đã ở cùng một hoàn cảnh với nhân vật trữ tình: sau lúc cưới không lâu, chồng bà là Nguyễn Kiều phải đi sứ Trung Quốc, chính vì thế, bà thấu hiểu cảnh sống cô đơn, tẻ nhạt với những buồn lo, nhung nhớ của người chinh phụ.
Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ viết về tình cảnh và tâm trạng người chinh phụ phải sống cô đơn, buồn khổ trong thời gian dài người chống đi đánh trận, không có tin tức, không rõ ngày quay trở về.
Tình cảnh lẻ loi, nỗi cô đơn bủa vây của người chinh phụ, nỗi thương nhớ người chồng phương xa, sự khao khát niềm hạnh phúc lứa đôi… là những ý chính khi phân tích Chinh phụ ngâm.
Sau thời điểm tiễn chồng ra trận, người chinh phụ bơ vơ chốn khuê phòng vắng lặng, lạnh lẽo, nỗi khổ tâm của nàng được bộc lộ qua hành động và ngoại cảnh:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”
Người chinh phụ rải bước trong hiên vắng, vừa đi vừa thầm đếm bước tiến mình, như đếm từng ngày chồng đi. Những bước tiến lặng lẽ của nàng nặng trĩu u sầu, đong đầy thương nhớ, như bước tiến người cung nữ trong Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều: “Ngán trăm chiều bước lại ngẩn ngơ”.
Trong những buổi đi dạo của nàng không còn vẻ ung dung, an nhàn mà thay vào đó là sự việc ngán ngẩm, buồn chán – tâm trạng khác hẳn với Thúy Kiều khi bước đi tìm người yêu: “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Nàng Kiều đi tìm tình quân trong thú vui sướng, niềm hạnh phúc ngập tràn, còn người chinh phụ vừa đi vừa gặm nhấm nỗi cô đơn, lo lắng cho việc an nguy của người thân chốn biên ải xa xôi.
Nàng hết dạo hiên, lại ngồi buồn, cuốn rèm, buông rèm. Những hành động vô nghĩa ấy được lặp đi tái diễn trong vô thức, nàng chẳng còn bận tâm mình đang làm gì bởi tâm trí nàng giờ dồn hết vào người chồng đang tòng quân. Thẩm mỹ và làm đẹp sử dụng từ ngữ “vắng”, “thưa” vẽ ra không gian trống trải, thưa thớt tình thương yêu, càng tô đậm sự lẻ loi, buồn bã, bồn chồn của nhân vật trữ tình.
Người chinh phụ không chỉ buồn nhớ, lo lắng cho chồng mà còn trông ngóng tin chàng. Nàng đợi tin lành của chim thước sẽ xoa dịu nỗi không an tâm, nhưng chim thước không tới. Nàng lại trở bóng đèn, hỏi đèn mà hỏi lòng. Phân tích Chinh phụ ngâm sẽ thấy nàng nhận ra rằng càng hi vọng, mòn mỏi trông chờ thì sẽ càng hụt hẫng, tuyệt vọng.
Khát khao sum vầy đoàn tụ, khát khao hơi ấm gia đình của nàng càng khiến nàng đau đớn, thất vọng. Vướng mắc tu từ và điệp từ “rèm” tái diễn ba càng đẩy nàng vào bế tắc, cái bế tắc của xã hội phong kiến suy tàn, của triều đình loạn lạc khiến niềm tin của con người về tình yêu, niềm hạnh phúc không còn giá trị. Chao ôi, người chinh phụ mới đáng thương làm thế nào!
Phân tích Chinh phụ ngâm sẽ thấy người chinh phụ hết mong ngày, lại mong đêm, khi bóng tối cô đơn tịch mịch kéo xuống bao trùm lấy nàng, nàng chỉ có thể làm bạn với bóng đèn:
“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Rầu rĩ nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”
Điệp ngữ bắc cầu “đèn biết chăng”, “đèn có biết” khiến nỗi buồn đau, thương nhớ của người chinh phụ thêm da diết, day dứt. Trong tâm trạng đó, nàng đối diện với ngọn đèn dầu, mong muốn được thấu hiểu, được chia sẻ tâm tư…
Khi phân tích Chinh phụ ngâm, ta thấy hình ảnh cây đèn dầu cũng xuất hiện trong những tác phẩm văn học dân gian và văn học trung đại khác. Ca dao có câu “đèn thương nhớ ai/ mà đèn không tắt”, thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của người con gái với những người mình yêu. Trong Chuyện người con gái Nam Xương, Vũ Nương cũng lấy ngọn đèn dầu để xóa giải nỗi cô đơn khi Trương Sinh đi lính.
Nhưng đến Chinh phụ ngâm, ý nghĩa biểu tượng của ánh đèn dầu không chỉ tạm dừng ở đó. Đặng Trần Côn mượn cây đèn đang tàn mà ẩn dụ sự trôi đi nhanh chóng của thời gian, sự tàn lụi, héo hon của kiếp người. Nhà thơ như đang muốn nói: cuộc đời chỉ là kiếp hoa đèn mong manh dang dở. Chính vì vậy, vật vô tri vô giác là cây đèn cháy đỏ khắc khoải, cháy đến tàn bấc dầu kia không những không thể đồng cảm với nỗi đau buồn, tình cảnh cô đơn, lẻ loi người chinh phụ mà càng khiến nàng vô vọng khôn cùng.
Tâm trạng của nhân vật trữ tình được khắc họa bằng những tính từ chỉ cảm xúc: “bi thiết”, “rầu rĩ”, “thương”. “Bi thiết” được hiểu là sự việc bi thương, thảm thiết. Từ “thiết” theo nghĩa Hán Việt còn tồn tại nghĩa là cắt, mài. Những suy tư muộn phiền của người chinh phụ khao khát được bộc lộ, được thấu hiểu.
Nhưng trong tình cảnh cô độc vắng tẻ của nàng biết lấy ai để trút bầu tâm sự. Nàng chỉ biết dồn nén những cảm xúc ấy, cảm nhận nỗi đau như thể trái tim bị cứa, mài. Qua việc cảm nhận tâm sự của người chinh phụ khi đối diện với ngọn đèn, người đọc trầm trồ ngợi ca tài năng nghệ thuật và thẩm mỹ trong miêu tả tâm trạng của tác giả!
Ngọn đèn tắt, bỏ lại người chinh phụ cô quạnh trong đêm dài tịch mịch u sầu:
“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.”
Một đêm dài năm canh, người chinh phụ vì trông ngóng người chinh phụ, thức trọn năm canh, nghe tiếng gà gáy mà sợ hãi, rầu rĩ. Cái âm thanh “eo óc” ấy thưa thớt, ghê rợn, tang tóc, khó chịu, từng tiếng từng tiếng vang lên rõ mồn một, đối lập với việc tĩnh lặng, trầm lắng trong tâm nàng. Tiếng gà gáy trong đêm gợi ra khoảng trống không gian mênh mông, hiu quạnh, khiến người phụ nữ cô đơn, lẻ loi trở nên nhỏ bé, đáng thương. Thẩm mỹ và làm đẹp lấy động tả tĩnh đẩy tâm trạng người chinh phụ lên một nấc thang mới, khiến nó đau đớn hơn, cô độc hơn, dày vò nàng hơn.
Không chỉ có tiếng gà gáy khiến nàng trằn trọc, bóng “hòe phất phơ” cũng khiến người chinh phụ suy tư, lo nghĩ. Vây quanh người chinh phụ là những bóng vía mập mờ lay động trong đêm, như ẩn như hiện, như có như không. Từ láy gợi hình “phất phơ” càng tăng thêm tính mơ hồ, hư ảo của cảnh vật, của tin tức về người chồng ngoài biên ải, của những buổi đoàn tụ, sum họp gia đình trong mơ ước ấy, nàng càng mong chờ, càng cảm thấy xa xôi.
Phân tích Chinh phụ ngâm, ta thấy hình ảnh cây hòe trong câu thơ trên gợi nhắc về bài thơ Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi: “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”. Cây hòe của Nguyễn Trãi đẹp, căng tràn nhựa sống, gợi nên sự vui tươi của buổi chiều mùa hạ, khác hẳn với vẻ buồn bã, u sầu của cây hòe đặt trong đêm khuya thanh vắng trong khúc ngâm của Đặng Trần Côn. Từ đó ta thấy nghệ thuật và thẩm mỹ dùng từ của tác giả, từ tính từ “phất phơ” đến động từ “rủ”, tất cả mang sắc thái chán chường, ủ rũ.
Trong không gian vắng lặng, thời gian đã đi qua màn đêm, người chinh phụ ôm nỗi nhung nhớ, thấm thía về thảm kịch đời mình:
“Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Vắng chồng, cuộc sống của người chinh phụ thật tẻ nhạt, buồn chán và nặng nề với những thương nhớ đong đầy từng khắc, cô đơn bủa vây từng giờ. Những ngày tháng này, thời gian trôi đi thật chậm chạp, như muốn gặm nhấm chuỗi ngày sầu bi của nàng. Một ngày không còn được đo bằng vài canh, mấy khắc, mà được tính đếm bằng cả năm dài “đằng đẵng”.
Từ láy “đằng đẵng” kéo dãn dài thời gian, kéo dãn dài nỗi buồn và tình cảnh lẻ loi của người phụ nữ có chồng ra trận. Nàng giờ ở vào hoàn cảnh của Kim Trọng khi thương nhớ Thúy Kiều: “Sầu đong càng lắc càng đầy/ Ba thu dọn lại một ngày dài ghê!” Trong những ngày tháng khó khăn này, người chinh phụ ngẫm về cuộc hôn nhân gia đình dang dở, về cuộc đời không được hưởng niềm hạnh phúc trọn vẹn, khiến nàng đã sầu lại càng sầu thêm. Quả đúng là “sầu đong càng lắc càng đầy”, nỗi buồn của người chinh phụ càng triền miên, không có kết quả cuối cùng.
Phân tích Chinh phụ ngâm sẽ thấy tác giả đã so sánh tâm tư của nàng với hình ảnh ước lệ “miền biển xa”, những lo lắng, buồn thương, đau xót của người chinh phụ vượt ra ngoài giới hạn về không gian và thời gian. So sánh với bản chữ hán của Đặng Trần Côn “Sầu tự hải/ Khắc như niên”, ta thấy Đoàn Thị Điểm không chỉ trung thành với chủ với nguyên tác mà còn tồn tại những sáng tạo riêng trong quá trình dịch, giúp người đọc đơn giản và giản dị hiểu, đơn giản và giản dị đồng cảm hơn với nhân vật trữ tình.
Người chinh phụ chán ghét thời gian trôi chậm chạp, cố vùng thoát khỏi chuỗi ngày cô đơn, lẻ loi dai dẳng:
“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng.”
Mong muốn xóa tan ưu phiền, người chinh phụ đốt hương nhưng lại không kìm lấy được lòng mà mê man trong quá khứ. Trong đoạn trích Thề nguyền trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, Kim Trọng cũng đốt hương “Đài sen nối sáp, lò đào thêm hương” để mùi hương trầm ấm áp làm chứng cho thời khắc quan trọng – hai người cất hẹn ước trăm năm.
Người chinh phụ cũng bổi hổi nhớ lại lời hẹn thề năm nào. Mùi hương trầm đã vô tình đưa nàng trở về những tháng ngày niềm hạnh phúc trước kia, để tâm hồn nàng lạc đi tìm những kí ức đẹp quá xa vời. Nhưng càng tiếc nuối quá khứ tươi đẹp, nhân vật trữ tình càng thấm thía thảm kịch hiện tại. Nàng trơ trọi, bơ vơ trong sự thật hiển nhiên: những mặn nồng xưa kia không thể lấy lại được.
Có thể thấy, việc đốt hương vốn để tìm lại niềm thanh thản trong tâm hồn lại khiến người phụ nữ bé nhỏ, đáng thương và bơ vơ thêm thống khổ. Người chinh phụ đành tìm cách khác để giải tỏa tâm sự: nàng soi gương. Trong chuỗi ngày đợi chờ người chinh phu, người chinh phụ chẳng buồn đoái hoài đến phấn son hoa lệ: “Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai?”.
Nhưng đêm nay, mong muốn thoát khỏi nỗi cô đơn bủa vây, nàng gượng gạo cầm gương soi. Nàng giật mình xót xa cho dung nhan võ vàng của người phụ nữ trong gương kia. Nàng thương hai con mắt buồn chứa chan u sầu, nàng thương đôi môi chẳng thể nở một nụ cười nhạt, nàng khóc cho tuổi xuân héo tàn, cho dung mạo đang độ tươi thắm bị nỗi đau âm ỉ tàn phá. Nhưng những giọt lệ nào có thể giúp nàng cứu vãn được tình cảnh bi đát này.
Phân tích Chinh phụ ngâm sẽ thấy, khi cảm thấy việc đốt hương hay soi gương không thể giúp quên đi chuyện buồn, người chinh phụ tìm về tiếng đàn. Tác giả sử dụng một loạt hình ảnh ước lệ như “sắt cầm”, “dây uyên”, “phím loan” tượng trưng cho tình yêu đôi lứa, cho vợ chồng hòa hợp. Người chinh phụ lo sợ dây đàn đứt, báo điều chẳng lành về cuộc hôn nhân gia đình hiện nay đang bị chia cắt, về người chồng ngoài chiến trường bặt vô âm tín.
Điệp từ “gượng” cho thấy sự cố gắng nỗ lực gượng gạo, chán nản ở người chinh phụ, nàng vùng vẫy trong nỗi cô đơn nhưng lại bị chính nỗi cô đơn bóp chặt. Những thú vui của tầng lớp quý tộc kia giờ đây lại không thể đem lại cho nàng thú vui. Hơn thế nữa chúng lại như liều thuốc kích thích khối u sầu khổ trong tâm nàng. Nàng chỉ muốn được sum vầy mà thôi, những buổi đoàn tụ trong tưởng tượng của nàng lại quá đỗi xa xỉ trong hoàn cảnh này.
Góp phần truyền tải nội dung và giá trị nhân đạo của Chinh phụ ngâm là tài năng nghệ thuật và thẩm mỹ và sáng tạo tài tình của tác giả và dịch giả. Xuyên thấu mười tám câu thơ trong đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là các biện pháp nghệ thuật và thẩm mỹ như điệp ngữ, thắc mắc tu từ, ẩn dụ,… và các văn pháp ước lệ tượng trưng, tả cảnh ngụ tình.
Khi phân tích Chinh phụ ngâm cũng như đoạn trích sẽ thấy tác giả có sự chọn lọc tinh tế các từ ngữ gợi hình, gợi cảm để miêu tả rõ ràng và cụ thể và chân thực, cảm động từng cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Thêm vào đó, thể thơ song thất lục bát với âm điệu réo rắt, thiết tha, giàu tính nhạc cũng góp phần quan trọng thể hiện nội tâm người chinh phụ. Sát gần đó, Đoàn Thị Điểm rất trung thành với chủ với nguyên tắc khi dịch nên nhiều ý thơ giàu cảm xúc được truyền tải đến người đọc một cách trọn vẹn.
Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trích Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn đã để lại trong tâm người đọc nhiều dư âm thâm thúy về nỗi buồn đau, thương nhớ da diết, tình cảnh cô độc, lẻ loi của người phụ nữ có chồng đi lính. Thông qua đó, người đọc hiểu những tâm tư tình cảm và suy nghĩ của tác giả về con người, xã hội đương thời. Ông lên án cơ chế phong kiến mục nát với những trận đấu tranh phi nghĩa kéo dãn dài và ngợi ca tình yêu cao đẹp, khát khao yêu thương đôi lứa.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Phân tích Chuyện chức phán sự đền Tản Viên
- Phân tích cô kĩ sư trong Lặng lẽ Sa Pa
- Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí
- Phân tích cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn
- Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn và Đế Thích
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

