10+ Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí (điểm cao)
Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí
- Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí (mẫu 1)
- Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí (mẫu 2)
- Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí (mẫu 3)
- Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí (mẫu 4)
- Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí (mẫu 5)
- Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí (mẫu 6)
- Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí (mẫu 7)
- Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí (mẫu 8)
- Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí (mẫu 9)
- Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí (các mẫu khác)
10+ Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí (điểm cao)
Dàn ý Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí
a) Mở đoạn:
Giới thiệu tác giả Chính Hữu, bài thơ Đồng chí, vấn đề: cơ sở hình thành tình đồng chí.
b) Triển khai
- Những người lính có chung hoàn cảnh, xuất thân
+ Đều đến từ những vùng quê nghèo khó "đất mặn, đồng chua", "đất cày lên sỏi đá": đất đai khó canh tác, trồng trọt nên nghèo đói, khó khăn.
+ Chung giai cấp xuất thân từ tầng lớp dân nghèo lao động, rời xa quê hương để làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
- Cùng chung lí tưởng và nhiệm vụ chiến đấu
+ Có chung mục đích chiến đấu: đánh giặc bảo vệ độc lập dân tộc.
--> Cùng chung nhiệm vụ, luôn sát cánh bên nhau "Súng bên súng, đầu sát bên đầu".
+ Cùng trải qua, chia sẻ với nhau những gian khổ nơi chiến trường.
+ Đoàn kết, chia sẻ chan hòa mọi gian lao vất vả, vui buồn nơi chiến trường.
+ Cùng nhau trải qua gian khổ, chia ngọt sẻ bùi, trở thành tri kỉ của nhau "đêm rét chung chăn"
- Khái quát đặc sắc nghệ thuật
+ Câu thơ cuối một từ hai tiếng "Đồng chí!" vang lên, nhấn mạnh như một lời khẳng định rõ ràng.
+ Hình ảnh và ngôn từ mộc mạc, gần gũi, bình dị.
c) Kết đoạn:
Khẳng định lại vẻ đẹp của tình đồng chí trong bài thơ.
Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí - mẫu 1
"Đồng chí" - một bài thơ thành công của Chính Hữu khi đi khai thác đề tài vẻ đẹp người lính. Người lính vốn là những con người xa lạ nhưng họ lại được gắn kết với nhau bằng tình cảm đồng chí thiêng liêng, cao đẹp. Tình đồng chí ấy được bắt nguồn từ nhiều cơ sở. Trước tiên tình đồng đội giữa những người lính trong chiến dịch Việt Bắc bắt nguồn từ sự tương đồng về cảnh ngộ, hoàn cảnh xuất thân. Mặc dù họ đến từ nhiều phương trời khác nhau nhưng đều chung cảnh quê nghèo đói: "Quê hương anh đất mặn, đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá". Họ có chung một hoàn cảnh xuất thân, đều là những người nông dân nghèo trên quê hương nhọc nhằn, nghèo khó, đất nhiễm mặn, đồng ruộng cằn cỗi, đất trơ sỏi đá. Chung cảnh nghèo, lại chung xuất thân là giai cấp nông dân, những người lính còn có chung một mục đích cách mạng đó là chống giặc để bảo vệ đất nước, thoát khỏi kiếp làm nô lệ, sống cuộc sống tự do. Tình đồng chí được gây dựng nên từ sự chung lí tưởng cách mạng, chung nhiệm vụ chiến đấu. Ở những người lính đều có lí tưởng cách mạng vững vàng, tin tưởng vào đường lối và sự lãnh đạo của Đảng. Họ luôn sát cánh bên nhau cùng chiến đấu trong mọi hoàn cảnh "Súng bên súng, đầu sát bên đầu". Tình đồng chí ở những người lính còn được nảy nở trong suốt quá trình cùng nhau làm nhiệm vụ, tình cảm ấy càng ngày càng bền chặt và ý nghĩa hơn khi họ cùng sống, chiến đấu, sống yêu thương, chia sẻ và đùm bọc lẫn nhau. "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ", tình đồng chí là cùng nhau đi qua gian lao, nguy hiểm, khó khăn và trở thành những người tri kỉ của nhau. Hai từ "Đồng chí" thốt lên cuối đoạn thơ như một lời khẳng định thiêng liêng và chắc chắn về cội nguồn hình thành nên tình đồng chí.
Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí - mẫu 2
Bài thơ "Đồng chí" là trải nghiệm thực, cảm xúc thực của tác giả Chính Hữu với đồng đội tại chiến dịch Việt Bắc. Trong bài thơ, nhà thơ Chính Hữu đã dùng bảy câu thơ đầu để về cơ sở hình thành tình đồng chí. Cấu trúc câu thơ sóng đôi "quê hương anh" với "làng tôi" ; "đất mặn, đồng chua" với "đất cày lên sỏi đá" đều có chung một ý nói về xuất thân nghèo khó của những người lính. Thêm một sợi dây gắn kết họ trở thành đồng chí đó chính là tương đồng về giai cấp - đều là nông phu nghèo khó, họ từ những người xa lạ chẳng hề quen nhau nhưng đều mang trong mình dòng máu cách mạng, lí tưởng cách mạng nên đã hội tụ về cùng một mối từ đó thân quen và gắn bó với nhau tạo nên tình đồng chí. "Đôi người" chỉ sự gắn kết tự nhiên, chặt chẽ không thể tách rời. Những người lính lại cùng chung nhiệm vụ, lí tưởng đấu tranh, dù là trong cuộc sống sinh hoạt hay chiến đấu đều kề cạnh sát cánh bên nhau, nguy nan luôn có mặt để hỗ trợ và bảo vệ cho nhau "Súng bên súng, đầu sát bên đầu". Ở nơi chiến trường gian khổ và khốc liệt, tình đồng chí đồng đội càng thêm gắn bó qua việc sẻ chia, cùng nhau trải qua sướng, khổ, buồn, vui, nguy hiểm và cả khi cái chết cận kề "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ". Tình đồng chí càng thiêng liêng hơn khi nhà thơ để dành trọn câu thơ thứ bảy để viết hai từ "Đồng chí". Bằng giọng thơ trìu mến như tâm tình cùng những hình ảnh giản dị, chất phác, nồng hậu, đoạn thơ đã mang đến cho người đọc những cảm nhận chân thực nhất về cơ sở hình thành nên tình đồng chí và từ đó giúp người đọc khắc sâu, ghi nhớ về hai chữ thiêng liêng "Đồng chí".
Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí - mẫu 3
Có thể nói, xuyên suốt bài thơ Đồng chí của Chính Hữu đều tập trung làm nổi lên vẻ đẹp, sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội. Trong đó bảy câu thơ đầu đã lí giải về cơ sở hình thành của tình đồng chí của những người lính. Cơ sở đầu tiên hình thành nên tình đồng chí giữa những người lính đó là chung hoàn cảnh xuất thân, hoàn cảnh ở đây được nhấn mạnh ngay trong hai câu thơ mở đầu: "Quê hương anh đất mặn, đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá". Một lời giới thiệu cũng như lời nhấn mạnh về cái chung hoàn cảnh quê hương nghèo khó, dù là người miền biển đất nhiễm mặn đồng phèn chua hay người miền núi đất trơ sỏi đá thì "anh" và "tôi" đều đi ra từ những làng quê nghèo, điều kiện sống khắc nghiệt và đều là những người nông dân tay lấm chân bùn. Họ đều trải qua cuộc sống khó khăn, nhọc nhằn, tương đồng về xuất thân lại tương đồng cảnh ngộ nên họ dường như tìm thấy được điểm chung. Tình đồng chí còn được hình thành từ sự hòa hợp về nhận thức và niềm tin vào lí tưởng cách mạng, chung mục đích chiến đấu, đều xuất phát từ một lòng nồng nàn yêu nước, mang trong mình sứ mệnh đấu tranh và cùng đi theo ngọn đuốc cách mạng của Đảng. Từ những người xa lạ họ đã về đứng trong cùng hàng ngũ, cùng chung một kẻ thù chung mục đích chiến đấu, luôn sát cánh bên nhau, hỗ trợ cho nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ được giao"Súng bên súng, đầu sát bên đầu". Cuối cùng, tình đồng chí ở những người lính có được sự thiêng liêng không gì sánh bằng chính nhờ sự keo sơn gắn bó trong suốt quá trình cùng nhau chiến đấu nơi chiến trường. "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ", không cùng nhau trải qua khó khăn gian khổ sao có thể thành đồng chí, họ luôn đoàn kết với nhau như một khối thống nhất, chia sẻ chan hòa mọi gian lao vất vả, vui buồn nơi chiến trường. Ở nơi chiến trường khắc nghiệt ấy, nơi thiếu thốn cả vật chất và tinh thần, nơi họ phải vô số lần đối mặt với cái chết tình đồng chí chính là điểm tựa tinh thần vững chắc nhất, xoa dịu mọi vết thương và nỗi đau. Cùng nhau trải qua vui buồn, gian khổ, tình đồng chí ở những người lính càng bền chặt, càng đáng tự hào để rồi nhà thơ phải cất lên tiếng vang "Đồng chí". Hai từ "đồng chí" như một lời khẳng định chất chứa trong đó biết bao niềm xúc động về tình cảm gắn bó thiêng liêng, sâu nặng. Đọc hết đoạn thơ ta vẫn thấy lời thơ âm vang, tha thiết, chân thành mà cảm động, những hình ảnh về đồng chí cách mạng vẫn còn hiện lên với vẻ đẹp thật giản dị mà thiêng liêng.
Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí - mẫu 4
Bài thơ " Đồng chí" của Chính Hữu là một bài thơ hay nói về tình đồng chí, đồng đội cao đẹp của những người chiến sĩ nông dân thời chống Pháp. Tình cảm của họ được nảy sinh bắt đầu từ cơ sở hình thành của tình đồng chí, đồng đội. Những người lính thời chống Pháp đều xuất thân từ những người nông dân ở những vùng quê nghèo khó, lam lũ. Quê anh thì ở nơi " nước mặn đồng chua", còn làng tôi thì là vùng quê nghèo " đất cày lên sỏi đá" . Chính vì chung hoàn cảnh xuất thân nên những anh lính dễ xích lại gần nhau hơn trong những chuyện quê, chuyện nhà. Từ bốn phương trời, những con người xa lạ tụ hội lại với nhau, cùng chung sống, chiến đấu vì một lí tưởng cao đẹp của thời đại : chiến đấu để bảo vệ nền độc lập của non sông. Và rồi, họ cùng sống, cùng gắn bó với nhau, đồng cam cộng khổ với nhau trong từng nhiệm vụ chiến đấu của mình. Những năm tháng gian nan, cực khổ ấy đã kéo người lính xích lại gần nhau, hình thành nên trong họ tình đồng chí, đồng đội cao đẹp. Đây cũng chính là cơ sở cao đẹp của tình đồng chí, đồng đội mà tác giả muốn ngợi ca.
Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí - mẫu 5
Chính Hữu là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Thơ ông vừa bình dị, sâu lắng và hàm súc. Ông thường tập trung khai thác ở hai mảng đề tài chính là người lính và chiến tranh. Bài thơ “Đồng chí” sáng tác năm 1948. Bài thơ là kết quả từ những trải nghiệm của tác giả về thực tế cuộc sống và chiến đấu của bộ đội ta trong những ngày đầu kháng chiến. Qua bài thơ, người đọc thấy được tình cảm đồng chí, đồng đội keo sơn, gắn bó mặn nồng. Đặc biệt, 7 câu thơ đầu bài thơ đã cho thấy cơ sở hình thành tình đồng chí, đồng đội của những người lính.
Đồng chí” được sáng tác năm 1948, sau khi tác giả tham gia chiến dịch Việt Bắc Thu – Đông (1947) - thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bài thơ ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Trong đó, 7 câu thơ đầu là những lời thơ xúc động của Chính Hữu khi kể về những người lính với hoàn cảnh xuất thân, lí tưởng, tấm lòng… có những điểm tương đồng, là cơ sở nảy sinh tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn.
Trước tiên, tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Hai câu thơ đầu tiên, tác giả sử dụng nghệ thuật đối “quê hương anh” – “làng tôi”, “nước mặn, đồng chua” – “đất cày lên sỏi đá”, gợi lên sự tương đồng về quê hương của những người lính.Thành ngữ “nước mặn đồng chua”: gợi lên một miền đất nắng gió ven biển, đất đai bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, rất khó trồng trọt. Cái đói, cái nghèo như manh nha từ trong làn nước. Còn cụm từ “đất cày lên sỏi đá” lại gợi lên trong lòng người đọc về một vùng đồi núi, trung du đất đai cằn cỗi, khó canh tác. Cái đói, cái nghèo như ăn sâu vào trong lòng đất.Lời thơ mộc mạc, giản dị, chân thành đã cho thấy những người lính, họ đều xuất thân từ những người nông dân chân lấm tay bùn, vất vả và nghèo khó. Các anh tuy có khác nhau về địa giới, người miền xuôi, kẻ miền ngược thì cũng giống nhau ở cái nghèo, cái khổ. Chính sự tương đồng về cảnh ngộ, sự đồng cảm giai cấp là sợi dây tình cảm nối họ lại với nhau, là cơ sở ban đầu để hình thành trong họ tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn.
Không chỉ tương đồng về hoàn cảnh xuất thân, từ những con người vốn chẳng hề thân quen, nay cùng chung lí tưởng cách mạng mà gặp gỡ, từ đó mà làm nên tình đồng chí.
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.
Nếu trong 2 câu thơ mở đầu, “tôi“, “anh” đứng ở 2 vị trí độc lập, tách rời thì đến 2 câu thơ này, “tôi“, “anh” đã chung trong một dòng thơ. Nhà thơ không nói “hai người xa lạ” mà là “đôi người xa lạ“! Vì thế ý thơ được nhấn mạnh, mở rộng thêm. Đôi có nghĩa là sự gắn bó chặt chẽ, keo sơn, thắm thiết. Dùng từ đôi, Chính Hữu đã muốn khẳng định tình thân gắn bó không thể tách dời giữa những người lính chiến sĩ.
Câu thơ “súng bên súng, đầu sát bên đầu” có sự đối ứng chặt chẽ: “Súng bên súng”: là cách nói giàu hình tượng để diễn tả sự cùng nhau kề vai sát cánh đi bên nhau trong chiến đấu; cùng chung mục tiêu, cùng chung nhiệm vụ. “Đầu sát bên đầu”: là cách nói hoán dụ tượng trưng cho ý chí, quyết tâm chiến đấu của những người lính trong cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc.
Câu thơ chia làm 2 vế tiểu đối đã làm nổi bật hình ảnh những người đồng đội luôn sát cánh bên nhau.
Trong cuộc sống nơi chiến trường, họ cùng trải qua những khó khăn, thiếu thốn. Đó cũng là cơ sở để những người lính thể hiện tình đồng chí đồng đội gắn bó “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.
Cuộc sống chiến đấu đã gắn kết những người chiến sĩ. Hai dòng chữ chỉ có một chữ chung mà cái chung đã bao trùm lên tất cả. Câu thơ đã gợi lên một hình ảnh đẹp đong đầy những kỉ niệm. Những người lính đã từng chiến đấu nơi chiến khu Việt Bắc hẳn không ai quên được cái rét của núi rừng như nhà thơ Tố Hữu đã viết:
Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế
Gió qua rừng Đèo Khế gió sang.
Và cũng chẳng ai quên được sự yêu thương chia sẻ của mọi người “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” (Tố Hữu). Họ cùng nhau chia sẻ vui buồn. Họ kể cho nhau nghe về bản thân mình. Họ cùng truyền cho nhau hơi ấm tình đồng đội… Và nếu như “anh với tôi” vẫn còn có một chút khoảng cách thì đến bây giờ, khi “đêm rét chung chăn“, mọi khoảng cách đã không còn. Tất cả những hành động và tình cảm chân thành ấy đã làm nên những người bạn “tri kỉ” tri âm mà cao hơn là tình đồng chí, đồng đội bền chặt, thiêng liêng.
Khép lại đoạn thơ là một câu thơ có vị trí rất đặc biệt, được cấu tạo bởi hai từ: “đồng chí!”. Câu thơ vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một định nghĩa về đồng chí. Thể hiện cảm xúc dồn nén, được thốt ra như một cao trào của cảm xúc. Trở thành tiếng gọi thiết tha của tình đòng chí, đồng đội. Dòng thơ đặc biệt ấy như một bản lề gắn kết. Nó nâng cao ý thơ đoạn trước và mở ra ý thơ đoạn sau. Dấu chấm cảm đi kèm hai tiếng ấy bỗng như chất chứa bao trìu mến yêu thương.
Với giọng điệu tâm tình, thiết tha; lời thơ giản dị, nồng ấm, đoạn thơ đã đi sâu khám phá, lí giải cơ sở của tình đồng chí. Đồng thời tác giả đã cho thấy sự biến đổi kì diệu từ những người nông dân hoàn toàn xa lạ trở thành những người đồng chí đồng, đội sống chết có nhau. Tình đồng chí, đồng đội nảy nở và bền chặt trong sự chan hoà, chia sẻ mọi gian lao cũng như những niềm vui, nỗi buồn. Đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt. Những người đồng chí, đồng đội, sống gắn bó bên nhau.
Đoạn thơ kết thúc nhưng dư âm còn vang mãi trong lòng mỗi người. Hình ảnh người chiến sĩ với tình cảm đồng chí, đồng đội như còn khắc sâu trong tâm trí người đọc. Ta thêm cảm phục, tự hào về những con người bình dị mà cao đẹp trong buổi đầu kháng chiến đày gian khổ. Từ đó, ta mới thấy hết được trách nhiệm của bản thân trong việc bảo vệ và phát triển quê hương, dân tộc mình.
Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí - mẫu 6
Những câu thơ mộc mạc, tự nhiên, mặn mà như một lời thăm hỏi. Họ hiểu nhau, thương nhau, tri kỉ với nhau bằng tình tương thân tương ái vốn có từ lâu giữa những người nghèo, người lao động. Nhưng “tự phương trời” họ về đây không phải do cái nghèo xô đẩy, mà họ về đây đứng trong cùng đội ngũ do họ có một lí tưởng chung, cùng một mục đích cao cả: chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc. Hình ảnh : “Anh – tôi” riêng biệt đã mờ nhoà, hình ảnh sóng đôi đã thể hiện sự gắn bó tương đồng của họ trong nhiệm vụ và lí tưởng chiến đấu: “Súng bên súng đầu sát bên đầu”. “Súng” và “đầu” là hình ảnh đẹp, mang ý nghĩa tượng trưng cho nhiệm vụ chiến đấu và lý tưởng cao đẹp. Điệp từ “súng” và “đầu” được nhắc lại hai lần như nhấn mạnh tình cảm gắn bó trong chiến đấu của người đồng chí.
Tình đồng chí nảy nở bền chặt trong sự chan hoà, chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, đó là mối tình tri kỉ của những người bạn chí cốt mà tác giả biểu hiện bằng một hình ảnh thật cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”. Đêm Việt Bắc thì quá rét, chăn lại quá nhỏ, loay hoay mãi không đủ ấm. Đắp được chăn thì hở đầu, đắp được bên này thì hở bên kia. Chính trong những ngày thiếu thốn, khó khăn ấy từ “xa lạ” họ đã trở thành tri kỉ của nhau. “Tri kỉ” là người bạn thân thiết hiểu rất rõ về ta. Vất vả nguy nan đã gắn kết những người đồng chí khiến họ trở thành người bạn tâm giao gắn bó. Những câu thơ giản dị mà hết sức sâu sắc, như được chắt lọc từ cuộc sống, từ cuộc đời người lính gian khổ. Bao nhiêu yêu thương được thể hiện qua những hình ảnh vừa gần gũi vừa tình cảm hàm súc ấy. Chính Hữu đã từng là một người lính, đã trải qua cuộc đời người lính nên câu thơ bình dị mà có sức nặng, sức nặng của tình cảm trìu mến, yêu thương với đồng đội. Hình ảnh thật giản dị nhưng rất cảm động.
Từ trong tâm khảm họ, bỗng bật thốt lên hai từ “đồng chí”. Từ “đồng chí” được đặt thành cả một dòng thơ ngắn gọn mà ngân vang, giản dị mà thiêng liêng. Từ “đồng chí” với dấu chấm cảm như một nốt nhấn đặc biệt mang những sắc thái biểu cảm khac nhau, nhấn mạnh sự thiêng liêng cao cả trong tình cảm mới mẻ này. Đồng chí là cùng chí hướng, cùng mục đích. Nhưng trong tình cảm ấy một khi có cái lõi bên trong là “tình tri kỉ” lại được thử thách, được tôi rèn trong gian khổ thì mới thực sự vững bền. Không còn anh, cũng chẳng còn tôi, họ đã trở thành một khối đoàn kết, thống nhất gắn bó. Như vậy, trong tình đồng chí có tình cảm giai cấp (xuất thân từ nông dân), có tình bạn bè tri kỉ và có sự gắn bó giữa con người cùng chung lí tưởng, chung mục đích chiến đấu. Và khi họ gọi nhau bằng tiếng “đồng chí” họ không chỉ còn là người nông dân nghèo đói lam lũ, mà họ đã trở thành anh em trong cả một cộng đồng với một lý tưởng cao cả vì đất nước quên thân để tạo nên sự hồi sinh cho quê hương, cho dân tộc. Câu thơ vẻn vẹn có 2 chữ như chất chứa, dồn nén bao cảm xúc sâu xa từ sáu câu thơ trước và khởi đầu cho những suy nghĩ tiếp theo. Quả thật ngôn từ Chính Hữu thật là hàm súc.
Phân tích cơ sở hình thành tình đồng chí - mẫu 7
Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hi vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.
Hai câu thơ đầu tiên giới thiệu “quê hương anh” và “làng tôi” – những người lính xuất thân là nông dân. “Nước mặt đồng chua” là vùng đất ven biển nhiễm phèn khó làm ăn, “đất cày lên sỏi đá” là nơi đồi núi, trung du, đất bị đá ong hoá, khó canh tác. Hai câu chỉ nói về đất đai – mối quan tâm hàng đầu của người nông dân, cho thấy sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó là cơ sở sự đồng cảm giai cấp của những người lính cách mạng. Họ vốn là những người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. Cảnh ngộ chung ấy khiến họ dễ dàng đồng cảm với nhau, hòa điệu với nhau để trở thành những người bạn thân thiết tha có thể nhận ngay ra rằng: tình đồng chí, tình tri ky bắt đầu từ tình yêu giai cấp. Đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. Anh và tôi, hai người bạn mới quen, đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó. Hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm gắn bó của những người lính.
Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tố quốc:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.
Từ hai miền đất khác nhau, “đôi người xa lạ” nhưng cùng giống nhau ở cái “nghèo” lại “chẳng hẹn quen nhau”. Một cái hẹn không lời nhưng mà mang bao ý nghĩa cao cả từ trong sâu thẳm tâm hồn của những chiến sĩ. Từ “đôi” đã gợi lên một sự thân thiết, chung nhau nhưng chưa thể bộc bạch. Từ phương trời tuy chẳng quen nhau nhưng cùng một nhịp đập của trái tim, cùng tham gia chiến đấu, giữa họ đã nảy nở một thứ tình cảm cao đẹp: Tình đồng chí – tình cảm ấy không phải chỉ là cùng cảnh ngộ mà còn là sự gắn kết trọn vẹn cả về lý trí, lẫn lý tưởng và mục đích cao cả: chiến đấu giành độc lập tự do cho tổ quốc. Tình đồng chí còn được nảy nở từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng sát cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu. Dường như tình đồng đội cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn, câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!…
Câu thơ là bức tranh tả thực tư thế sẵn sàng, sát cánh bên nhau của người lính khi thi hành nhiệm vụ. Vẫn là hình ảnh sóng đôi, nhịp nhàng trong cấu trúc “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. “Súng” biểu tượng cho sự chiến đấu, “đầu” biểu tượng cho lý trí, suy nghĩ của người lính. Phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo âm điệu khỏe, chắc, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung nhiệm vụ, cùng chung chí hướng và lý tưởng. Tình đồng chí còn được nảy nở và trở thành bền chặt trong sự chan hoà chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, nỗi buồn. Đó là mối tình tri kỷ của những người bạn chí cốt được biểu hiện bằng hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”. Câu thơ đầy ắp kỷ niệm và ấm áp tình đồng chí, đồng đội.
Thiên nhiên khắc nghiệt ở núi rừng Việt Bắc giữa bao đêm trường rét buốt, cơn giá lạnh chính là những khó khăn, thử thách mà người chiến sĩ phải trải qua. Vượt lên trên những khó khăn, thiếu thốn về vật chất, sự khắc nghiệt của thời tiết, họ đã chia sẻ tấm chăn cho nhau để giữ ấm. Chính cái “chung chăn” ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để rồi họ trở thành “đôi tri kỷ”. “Tri kỷ” đã là thân thiết, gắn bó, hiểu tâm tư tình cảm của nhau rồi, mà là “đôi tri kỷ” thì lại càng gắn bó, thân thiết với nhau hơn. Chính vì thế câu thơ nói đến sự khắc nghiệt của thời tiết, của chiến tranh nhưng sao ta vẫn cảm nhận được cái ấm của tình đồng chí, bởi cái rét đã tạo nên cái tình của hai người đồng đội.
Cả 7 câu thơ có duy nhất từ “chung” nhưng bao hàm nhiều ý: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung một khát vọng… Nhìn lại cả 7 câu thơ đầu những từ ngữ nói về người lính: đầu tiên là “anh” và “tôi” trên từng dòng thơ như một kiểu xưng danh khi mới gặp gỡ, dường như vẫn là hai thế giới riêng biệt. Rồi “anh” với “tôi” trong cùng một dòng, đến “đôi người” nhưng là “đôi người xa lạ”, và rồi đã biến thành đôi tri kỷ – một tình bạn keo sơn, gắn bó. Và cao hơn nữa là đồng chí. Như vậy, từ rời rạc riêng lẻ, hai người đã dần nhập thành chung, thành một, khó tách rời.
Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ đưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ cuối chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc. Hai tiếng “Đồng chí!” kết thúc khổ thơ thật đặc biệt, sâu lắng chỉ với hai chữ “Đồng chí” và dấu chấm cảm, tạo một nét nhấn như một điểm tựa, điểm chốt, như đòn gánh, gánh hai đầu là những câu thơ đồ sộ. Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một tiếng gọi trầm xúc động từ trong tim, lắng đọng trong lòng người về hai tiếng mới mẻ, thiêng liêng ấy. Câu thơ như một bản lề gắn kết hai phần bài thơ làm nổi rõ một kết luận: cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng lý tưởng chiến đấu thì trở thành đồng chí của nhau. Như một nốt nhạc làm bừng sáng cả bài thơ, là kết tinh của một tình cảm Cách mạng mới mẻ chỉ có ở thời đại mới. Câu thơ thứ 7 chính là một câu thơ đặc biệt như vậy.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Phân tích cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn
- Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn và Đế Thích
- Phân tích cuộc đối thoại giữa hồn và xác
- Phân tích đặc điểm nhân vật Sọ Dừa
- Phân tích đặc điểm nhân vật võ tòng
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

