10+ Phân tích Đồng chí khổ 1 (điểm cao)
Phân tích Đồng chí khổ 1 điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Phân tích Đồng chí khổ 1
- Phân tích Đồng chí khổ 1 (mẫu 1)
- Phân tích Đồng chí khổ 1 (mẫu 2)
- Phân tích Đồng chí khổ 1 (mẫu 3)
- Phân tích Đồng chí khổ 1 (mẫu 4)
- Phân tích Đồng chí khổ 1 (mẫu 5)
- Phân tích Đồng chí khổ 1 (mẫu 6)
- Phân tích Đồng chí khổ 1 (mẫu 7)
- Phân tích Đồng chí khổ 1 (mẫu 8)
- Phân tích Đồng chí khổ 1 (mẫu 9)
- Phân tích Đồng chí khổ 1 (các mẫu khác)
10+ Phân tích Đồng chí khổ 1 (điểm cao)
Dàn ý Phân tích Đồng chí khổ 1
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Dẫn dắn đến khổ 1.
2. Thân bài
a) Giới thiệu chung:
- Hoàn cảnh ra đời bài thơ: Bài thơ được sáng tác vào đầu năm 1948, thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tại nơi ông phải nằm điều trị bệnh.
- Nội dung đoạn trích: Cơ sở hình thành tình đồng chí.
b) Tình đồng chí của người lính bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân:
- Ngay từ những câu thơ mở đầu, tác giả đã lí giải cơ sở hình thành tình đồng chí thắm thiết, sâu nặng của anh và tôi – của những người lính Cách mạng:
“Quê hương tôi nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.”
+ Thành ngữ “nước mặn đồng chua”, hình ảnh “đất cày lên sỏi đá”.
+ Giọng điệu thủ thỉ, tâm tình như lời kể chuyện.
=> Các anh ra đi từ những miền quê nghèo đói, lam lũ - miền biển nước mặn, trung du đồi núi, và gặp gỡ nhau ở tình yêu Tổ quốc lớn lao. Các anh là những người nông dân mặc áo lính – đó là sự đồng cảm về giai cấp.
- Cũng như giọng thơ, ngôn ngữ thơ ở đây là ngôn ngữ của đời sống dân dã, mộc mạc:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”.
=> Đến từ mọi miền đất nước, vốn là những người xa lạ, các anh đã cùng tập hợp trong một đội ngũ và trở nên thân quen.
b) Cùng chung mục đích, lí tưởng chiến đấu:
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
- Điệp từ, hình ảnh sóng đôi mang ý nghĩa tượng trưng.
=> Tình đồng chí, đồng đội được hình thành trên cơ sở cùng chung nhiệm vụ và lí tưởng cao đẹp. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc thân yêu, các anh đã cùng tập hợp dưới quân kì, cùng kề vai sát cánh trong đội ngũ chiến đấu để thực hiện nhiệm vụ thiêng liêng của thời đại.
c) Cùng chia sẻ mọi gian lao, thiếu thốn:
- Mối tính tri kỉ của những người bạn chí cốt được biểu hiện bằng một hình ảnh cụ thể, giản dị, gợi cảm:
“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”.
- Chính trong những ngày gian khó, các anh đã trở thành tri kỉ của nhau,để cùng chung nhau cái giá lạnh mùa đông, chia nhau cái khó khăn trong một cuộc sống đầy gian nan.
d) Đánh giá chung:
- Thể thơ tự do với những câu dài ngắn đan xen đã giúp cho nhà thơ diễn tả hiện thực và bộc lộ cảm xúc một cách linh hoạt.
- Hình ảnh thơ cụ thể, xác thực mà giàu sức khái quát.Ngôn ngữ thơ hàm súc,cô đọng,giàu sức biểu cảm.
3. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị bài thơ.
Phân tích Đồng chí khổ 1 - mẫu 1
Chính Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn học Việt Nam thời kì chống Pháp. Ông có nhiều sáng tác đặc sắc viết về người lính và chiến tranh. Thơ Chính Hữu giản dị nhưng chân thành và đằm thắm. Tiêu biểu cho phong cách thơ đó phải kể đến bài thơ "Đồng chí" viết về tình đồng đội gắn bó keo sơn trong kháng chiến. Với bảy câu thơ đầu, tác giả đã làm nổi bật cơ sở hình thành nên tình cảm thiêng liêng đó.
Ở những câu thơ đầu tiên, tác giả đã giới thiệu về hoàn cảnh xuất thân của những người lính:
"Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày nên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"
Đó đều là những người lính đến từ những miền quê nghèo, lam lũ, khó nhọc. "Nước mặn, đồng chua" đó là vùng ven biển, đất bị nhiễm mặn rất khó để trồng trọt, làm ăn. Còn "đất cày nên sỏi đá" là vùng miền núi, đất đai khô cứng. Qua đây, người đọc phần nào có thể cảm nhận được hoàn cảnh sống khó khăn, vất vả của những người lính. Họ đều xuất thân là người nông dân, cùng nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ Quốc mà tham gia cách mạng. Trước khi bước chân vào cuộc chiến, họ vốn là những người xa lạ. Vậy mà ở nơi đây, những người lính lại có cơ duyên gặp gỡ và sát cánh bên nhau.
Họ luôn giúp đỡ, đồng cam cộng khổ trong mọi hoàn cảnh:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!"
Hình ảnh thơ "Súng bên súng, đầu sát bên đầu" thể hiện sự gắn bó, luôn đồng hành trong mọi hoàn cảnh của những người chiến sĩ. Dù cuộc sống chiến đấu có khó khăn thì những người đồng chí vẫn luôn bên nhau "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ". Trong cái rét buốt của rừng đêm mà chỉ có tấm chăn mỏng. Họ đã cùng đắp chung chăn để chia sẻ hơi ấm. Hai tiếng "tri kỉ" như một lời khẳng định cho tình đồng đội cao đẹp không gì có thể thay đổi được. Cứ như vậy mà họ trở nên thân thiết như những người thân trong gia đình. Kết thúc đoạn thơ, ta thấy vang lên hai tiếng "Đồng chí" thật đặc biệt và mang nhiều ý nghĩa. Đó là một tiếng gọi thân thương, chất chứa bao tình cảm mà tác giả dành cho những người đồng đội đội của mình.
Bằng những hình ảnh thơ chân thực, xúc động, Chính Hữu đã mang đến cho người đọc những cảm nhận sâu sắc về hình ảnh người lính trong chiến tranh. Họ không chỉ giống nhau ở hoàn cảnh xuất thân mà còn gặp nhau ở tình yêu nước tha thiết. Chính điều đó đã góp phần làm nên những chiến thắng lịch sử, trả lại hòa bình, độc lập cho Tổ quốc thân yêu.
Phân tích Đồng chí khổ 1 - mẫu 2
Chính Hữu là một trong những tác giả nổi bật của văn học thời kì kháng chiến chống Pháp. Thơ Chính Hữu giản dị, chân thật mà thấm đượm tình người, những trang thơ của ông đã mở ra trong tâm hồn người đọc những cảm xúc khó quên về vẻ đẹp của những người lính nơi chiến trận. Một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Chính Hữu là "Đồng chí", bài thơ viết về tình đồng đội, đồng chí cao đẹp. Đặc biệt, trong 7 khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã tập trung làm sáng tỏ cơ sở hình thành nên tình cảm cao đẹp, thiêng liêng ấy.
Ngay trong phần đầu bài thơ, tác giả Chính Hữu đã mượn thành ngữ dân gian giới thiệu về quê hương, hoàn cảnh gặp gỡ của những người lính:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Các từ cùng trường nghĩa "quê hương", "làng" gắn với đặc điểm địa lý được tác giả vận dụng tinh tế để gợi liên tưởng về những vùng quê nghèo. Anh và tôi đều xuất thân từ nông dân, sinh ra và lớn lên nơi sỏi đá khô cằn, nơi đồng chua nước mặn. Những hình ảnh được gợi lên từ sự sáng tạo những thành ngữ dân gian"nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá" đã cho thấy được những khó khăn, nhọc nhằn của người lao động nơi đây, họ phải kiếm sống, làm ăn nơi vùng đất không mấy thuận lợi, cỏ cây, hoa màu khó sinh trưởng. Những người lính có sự tương đồng về cảnh ngộ, họ đều là những người nông dân nghèo quanh năm chân lấm tay bùn. Cũng chính sự tương đồng về xuất thân, hoàn cảnh sống đã giúp những người lính trở nên gắn bó với nhau.
"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"
Các xưng hô "anh" - "tôi" tưởng như xa lạ nhưng khi kết hợp cùng quan hệ từ "với" lại gợi sự gắn bó, gần gũi biết bao! Đồng thời, đó cũng là cách mà người lính thể hiện tình cảm, sự trân trọng của mình dành cho người đồng chí chiến đấu "anh"- "tôi". Họ đến từ những quê hương, phương trời xa lạ, họ gặp nhau khi con tim cùng chung nhịp đập của lòng yêu nước, khi có chung mục đích chiến đấu lớn lao, khi cả hai cùng mang sứ mệnh đấu tranh bảo vệ quê hương. Tình cảm gắn bó giữa hai người lính không chỉ là cùng cảnh ngộ mà còn là sự hoà hợp cả về lý tưởng và mục đích cao đẹp: chiến đấu vì Tổ quốc.
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ"
Những người lính rời xa tay cày nơi ruộng đồng để đến nơi chiến trường khắc nghiệt theo tiếng gọi của Tổ quốc. Họ sát cánh bên nhau làm nhiệm vụ, luôn trong tư thế cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu với quân thù "súng bên súng". Câu thơ sóng đôi, phép điểm từ "súng', bên cùng nhịp thơ 3/3 kết hợp với hình ảnh giàu chất hội họa trong ngôn từ, Chính Hữu đã dựng lên một bức tranh đẹp của tình đồng chí trong khi thực thi nhiệm vụ. m điệu nhịp nhàng, cảnh vừa thực, vừa mộng. Tác giả đang thi vị hoá cái hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh nhưng không hề chối bỏ cái khốc liệt của nó, dựng lên hình ảnh "súng bên súng" để khẳng định lý tưởng yêu nước, quyết tâm chống giặc của những người lính. Ở nơi chiến trường, những người lính không chỉ phải đối mặt với hiểm nguy của bom đạn mà còn đối mặt với cả nhưng thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần. Nhưng cũng chính cái thiếu thốn, khắc nghiệt của hoàn cảnh sống càng làm cho tình đồng đội, đồng chí trở nên bền chặt, đáng quý:
"Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"
Khi màn đêm buông xuống cũng là khi những người lính cảm nhận thấm thía cái lạnh cắt da cắt thịt của thời tiết nơi rừng thiêng nước độc. Khó khăn là vậy, gian khổ là vậy nhưng những người lính vẫn san sẻ cho nhau chút hơi ấm ít ỏi từ tấm chăn mỏng "Đêm rét chung chăn". "Chung" ở đây không chỉ là hành động sẻ chia về vật chất mà còn là sự gắn bó về tinh thần, tình cảm. Câu thơ gợi ra cái khắc nghiệt của hoàn cảnh sống nhưng cũng làm nổi bật lên vẻ đẹp của tình đồng đội, đồng chí giữa những người lính.
Câu thơ thứ 7 trong lời mở đầu cất lên chỉ hai tiếng thân tình mà chất chứa bao tình cảm cao đẹp, thiêng liêng;
"Đồng chí!"
Anh và tôi từ "đôi người xa lạ" trở thành "đôi tri kỉ" và gắn bó thân thiết thành "đồng chí". Hai tiếng "Đồng chí!" ngắn gọn với hai tiếng kết hợp cùng dấu chấm than vang lên như một lời khẳng định về tình cảm bình dị mà thật thiêng liêng, cao đẹp, nó được hình thành trong những ngày tháng gian khó nhất của cuộc chiến tranh vệ quốc, giữa những con người có chung xuất thân, cùng chung lí chí hướng cao cả. Câu thơ thứ bảy như một nốt nhạc ngân vang, kết tinh những tình cảm tuyệt diệu, thiêng liêng, chân thật nhất của những người lính trao nhau giữa chiến trường.
Bêlinxki từng nói: "Thơ trước hết là cuộc đời sau đó mới là nghệ thuật". Quả thật, Chính Hữu đã tái hiện chính cuộc đời qua ngôn từ của mình. Đoạn thơ đã thể hiện được tình đồng chí chân thực trong thời chiến với những gì giản dị, chân chất, tự nhiên nhất, mỗi lời thơ, tứ thơ đều góp phần thể hiện tình cảm cao đẹp của người cách mạng thời chiến.
Phân tích Đồng chí khổ 1 - mẫu 3
Vẻ đẹp của tình đồng chí là một đề tài nổi bật trong thơ cơ Việt Nam, đặc biệt là thơ ca kháng chiến. Viết về đề tài này, mỗi nhà thơ chọn cho mình một cách khai thác khác nhau góp phần làm phong phú thêm mảng thơ ca này. Nhắc đến đây, ta không thể bỏ qua bài " Đồng chí" của nhà thơ Chính Hữu. Bài thơ được đánh giá là tiêu biểu của thơ ca kháng chiến giai đoạn 1946-1954, nó đã làm sang trọng một hồn thơ chiến sĩ của Chính Hữu mà đoạn trích sau là tiêu biểu:
Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!
Bài thơ sáng tác mùa xuân 1948, thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.Bài thơ theo thể tự do, 20 dòng chia làm 3 đoạn. Cả bài thơ tập trung thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội, nhưng ở mỗi đoạn sức nặng của tư tưởng và cảm xúc được dẫn dắt để dồn tụ vào những dòng thơ gây ấn tượng sâu đậm (các dòng 7, 17 và 20). Bảy câu thơ đầu bài thơ là sự lí giải về cơ sở của tình đồng chí.
Trước hết, ở đoạn đầu, với 7 câu tự do, dài ngắn khác nhau, có thể xem là sự lý giải về cơ sở của tình đồng chí.Mở đầu bằng hai câu đối nhau rất chỉnh:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Hai câu thơ đầu tiên giới thiệu quê hương "anh" và “tôi” – những người lính xuất thân là nông dân. "Nước mặt đồng chua" là vùng đất ven biển nhiễm phèn khó làm ăn, "đất cày lên sỏi đá" là nơi đồi núi, trung du, đất bị đá ong hoá, khó canh tác. Hai câu chỉ nói về đất đai - mối quan tâm hàng đầu của người nông dân, cho thấy sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó là cơ sở sự đồng cảm giai cấp của những người lính cách mạng.
"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Từ “tôi” chỉ 2 người, 2 đối tượng chẳng thể tách rời nhau kết hợp với từ “xa lạ” làm cho ý xa lạ được nhấn mạnh hơn... Tự phương trời tuy chẳng quen nhau nhưng cùng một nhịp đập của trái tim, cùng tham gia chiến đấu, giữa họ đã nảy nở một thứ tình cảm cao đẹp: Tình đồng chí - tình cảm ấy không phải chỉ là cùng cảnh ngộ mà còn là sự gắn kết trọn vẹn cả về lý trí, lẫn lý tưởng và mục đích cao cả: chiến đấu giành độc lập tự do cho tổ quốc.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu”
Tình đồng chí còn được nảy nở và trở thành bền chặt trong sự chan hoà chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui, nỗi buồn. Đó là mối tình tri kỷ của những người bạn chí cốt được biểu hiện bằng hình ảnh cụ thể, giản dị mà hết sức gợi cảm: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”. “Chung chăn” có nghĩa là chung cái khắc nghiệt, khó khăn của cuộc đời người lính, nhất là chung hơi ấm để vượt qua cái lạnh, mà sự gắn bó là thành thật với nhau. Câu thơ đầy ắp kỷ niệm và ấm áp tình đồng chí, đồng đội.Cả 7 câu thơ có duy nhất! Từ “chung” nhưng bao hàm nhiều ý: chung cảnh ngộ, chung giai cấp, chung chí hướng, chung một khát vọng…
Nhìn lại cả 7 câu thơ đầu những từ ngữ nói về người lính: đầu tiên là “anh” và “tôi” trên từng dòng thơ như một kiểu xưng danh khi mới gặp gỡ, dường như vẫn là hai thế giới riêng biệt. Rồi “anh” với “tôi” trong cùng một dòng, đến “đôi người” nhưng là “đôi người xa lạ”, và rồi đã biến thành đôi tri kỷ - một tình bạn keo sơn, gắn bó. Và cao hơn nữa là đồng chí. Như vậy, từ rời rạc riêng lẻ, hai người đã dần nhập thành chung, thành một, khó tách rời.
Hai tiếng “Đồng chí!” kết thúc khổ thơ thật đặc biệt, sâu lắng chỉ với hai chữ “Đồng chí” và dấu chấm cảm, tạo một nét nhấn như một điểm tựa, điểm chốt, như đòn gánh, gánh hai đầu là những câu thơ đồ sộ. Nó vang lên như một phát hiện, một lời khẳng định, một tiếng gọi trầm xúc động từ trong tim, lắng đọng trong lòng người về 2 tiếng mới mẻ, thiêng liêng ấy. Câu thơ như một bản lề gắn kết hai phần bài thơ làm nổi rõ một kết luận: cùng hoàn cảnh xuất thân, cùng lý tưởng thì trở thành đồng chí của nhau. Đồng thời nó cũng mở ra ý tiếp theo: đồng chí còn là những biểu hiện cụ thể và cảm động ở mười câu thơ sau.Như một nốt nhạc làm bừng sáng cả bài thơ, là kết tinh của 1 tình cảm Cách mạng mới mẻ chỉ có ở thời đại mới, câu thơ thứ 7 là một câu thơ đặc biệt.
Nội dung này được thể hiện bằng hình thức nghệ thuật đặc sắc. Ngôn ngữ thơ cô đọng hình ảnh chân thực, gợi tả, có sức khái quát cao nhằm diễn tả cụ thể quá trình phát triển của 1 tình cảm Cách mạng thiêng liêng: Tình đồng chí - một tình cảm chân thực không phô trương mà lại vô cùng lãng mạn và thi vị.Giọng thơ sâu lắng, xúc động như một lời tâm tình, tha thiết.
Bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng đã đánh dấu 1 bước ngoặt mới cho khuynh hướng sáng tác của thơ ca kháng chiến.ặc biệt là cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ Cách mạng, anh bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Phân tích Đồng chí khổ 1 - mẫu 4
Văn chương giống như một cây bút đa màu, nó vẽ lên bức tranh cuộc sống bằng những gam màu hiện thực. Văn chương không bao giờ tìm đến những chốn xa hoa mỹ lệ để làm mãn nhãn người đọc, nó tiếp cận hiện thực và tiếp nhận thứ tình cảm chân thật không giả dối. Người nghệ sĩ đã dùng cả trái tim mình để đưa bạn đọc trở lại với đời thực để cùng lắng đọng, cùng sẻ chia. Phân tích bài thơ Đồng Chí, Chính Hữu đã dẫn bạn đọc vào bức tranh hiện thực nơi núi rừng biên giới nhưng thấm đẫm tình đồng chí đồng đội bằng thứ văn giản dị, mộc mạc. Đặc biệt là bảy câu thơ đầu. Tác giả đã thổi hồn vào bài thơ tình đồng chí tri kỉ, keo sơn và gắn bó, trở thành một âm vang bất diệt trong tâm hồn những người lính cũng như con người Việt Nam.
Phải chăng, chất lính đã thấm dần vào chất thơ, sự mộc mạc đã hòa dần vào cái thi vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc?
Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương nhiên, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:
“Quê hương anh đất mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa. Đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một tròng áp bức. “Anh và tôi”, hai người bạn mới quen, đều xuất thân từ những vùng quê nghèo khó. hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họ tạm biệt người thân, tạm biệt xóm làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu, họ ra đi chiến đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tổ quốc. Những khó khăn ấy dường như không thể làm cho những người lính chùn bước:
“Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Họ đến với cách mạng cũng vì lý tưởng muốn dâng hiến cho đời. Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình. Chung một khát vọng, chung một lý tưởng, chung một niềm tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào... Dường như tình đồng đội cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ dồn dập hơn, câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”
Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ không chỉ đưa bài thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao quý hơn. Câu thơ chỉ có hai tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng người đọc. Trong muôn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lý tưởng nhất, nhịp thở của bài thơ như nhẹ nhàng hơn, hơi thơ của bài thơ cũng như mảnh mai hơn. Dường như Chính Hữu đã thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu.
Chi với bảy câu thơ đầu của bài “Đồng chí”, Chính Hữu đã sử dụng những hình ảnh chân thực, gợi tả và khái quát cao đã thể hiện được một tình đồng chí chân thực, không phô trương nhưng lại vô cùng lãng mạn và thi vị. Tác giả đã thổi hồn vào bài thơ tình đồng chí tri kỉ, keo sơn và gắn bó, trở thành một âm vang bất diệt trong tâm hồn những người lính cũng như con người Việt Nam.
Phân tích Đồng chí khổ 1 - mẫu 5
Chính Hữu là cây bút nổi bật thời kì kháng chiến chống Pháp. Thơ ông đã mở ra trong ta bao cảm nhận về con người kháng chiến đặc biệt là chân dung những anh bộ đội cụ Hồ. Và đẹp hơn cả ở họ là tình đồng chí, đồng đội gắn kết được nhà thơ khắc họa qua Đồng chí. Bảy câu thơ đầu của bài đã cho chúng ta những cảm nhận, những hiểu biết về cơ sở hình thành tình đồng chí trong gian khổ chiến tranh.
Đồng chí là bài thơ tiêu biểu nhất của thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được viết năm 1948 trong những ngày đông lạnh giá tại núi rừng căn cứ địa kháng chiến và làm nổi bật, làm sáng chân dung anh bộ đội cụ Hồ với vô vàn nét đẹp đáng trân, đáng quý! Tình đồng chí ở họ cũng đẹp và ấm áp như vậy trong ngày đông giá lạnh nơi chiến khu!
Cơ sở trước hết gắn kết người lính là sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân nghèo khó. Một loạt hình ảnh như quê anh, làng tôi kết hợp cùng với thành ngữ như nước mặn đồng chua hay ẩn dụ đất cày lên sỏi đá đều cho người đọc hiểu được đây là những miền quê nghèo trên đất nước. Miền quê nghèo vật chất nhưng giàu giá trị tinh thần đã cho tổ quốc người con thật đẹp là anh và tôi. Để rồi từ hai phương trời xa lạ, tưởng chừng chẳng liên quan ấy mà người nông dân cùng nhau gặp gỡ, cùng đồng hành.
Ở người lính, tương đồng về giai cấp xuất thân đã giúp họ thêm hiểu nhau hơn bao giờ hết. Xuất thân cơ hàn đã giúp họ mạnh mẽ vượt qua mọi gian khó nơi chiến địa và cùng nhau hiểu được nỗi vất vả khó nhọc để rồi cùng đứng lên vì Tổ quốc.
Nhưng có lẽ đẹp hơn cả là sự gắn kết trong một lí tưởng lớn lao: Súng bên súng, đầu sát bên đầu. Hình ảnh chiếc súng kia là ẩn dụ cho chiến tranh khói lửa, cho nhiệm vụ thường trực của người lính. Họ nhọc nhằn trong nhiệm vụ chiến đấu nhưng họ tự hòa và mang theo khí thế niềm tin. Chính những tương đồng tưởng chừng bé nhỏ này lại là sợi dây tình cảm sâu sắc nhất gắn kết người lính cách mạng dẫu trong gian khổ chiến trường ác liệt.
Và đặc biệt, tình cảm ấy giữa hai người xa lạ đã nhân lên thành tình cảm quý báu thiêng liêng: Đồng chí! Đó là hai từ giản dị mà hàm súc chứa chan bao tình cảm gắn kết của anh bộ đội cụ Hồ. Tình cảm thiêng liêng ấy đã và đang làm lòng người thêm muôn phần xúc động, thấm thía. Nốt nhạc của tình đồng chí, đồng đội ngân vang trong không khí chiến trường dẫu khói lửa. Và đó là sự keo sơn gắn bó của tình cảm thiêng liêng, cao quý vô ngần!
Thể thơ tự do được nhà thơ khai thác triệt để nhằm ngân vang dòng cảm xúc. Mỗi một lời thơ với hình ảnh giàu sức gợi, hình ảnh ẩn dụ biểu trưng đều đang góp phần làm đẹp bức tranh tình cảm của người lính cách mạng. Chân dung tự họa về tình cảm anh bộ đội cụ Hồ thời kì kháng chiến chống Pháp làm ta vô cùng xúc động.
Bảy câu đầu bài Đồng chí đã cho bạn đọc những hiểu biết về cơ sở hình thành tình cảm cao đẹp này. Tình đồng chí đã tồn tại và thật đẹp trong những trang thơ kháng chiến chống Pháp nói riêng và xuyên suốt thời kì lịch sử dân tộc nói chung. SỰ cao đẹp của tình đồng chí, đồng đội đã và đang góp phần giúp ta hiểu thêm về tình cảm cao đẹp trong chiến tranh khắc nghiệt!
Chính Hữu là cây bút nổi bật thời kì kháng chiến chống Pháp. Thơ ông đã mở ra trong ta bao cảm nhận về con người kháng chiến đặc biệt là chân dung những anh bộ đội cụ Hồ. Và đẹp hơn cả ở họ là tình đồng chí, đồng đội gắn kết được nhà thơ khắc họa qua Đồng chí. Bảy câu thơ đầu của bài đã cho chúng ta những cảm nhận, những hiểu biết về cơ sở hình thành tình đồng chí trong gian khổ chiến tranh.
Đồng chí là bài thơ tiêu biểu nhất của thời kì đầu kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được viết năm 1948 trong những ngày đông lạnh giá tại núi rừng căn cứ địa kháng chiến và làm nổi bật, làm sáng chân dung anh bộ đội cụ Hồ với vô vàn nét đẹp đáng trân, đáng quý! Tình đồng chí ở họ cũng đẹp và ấm áp như vậy trong ngày đông giá lạnh nơi chiến khu!
Cơ sở trước hết gắn kết người lính là sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân nghèo khó. Một loạt hình ảnh như quê anh, làng tôi kết hợp cùng với thành ngữ như nước mặn đồng chua hay ẩn dụ đất cày lên sỏi đá đều cho người đọc hiểu được đây là những miền quê nghèo trên đất nước. Miền quê nghèo vật chất nhưng giàu giá trị tinh thần đã cho tổ quốc người con thật đẹp là anh và tôi. Để rồi từ hai phương trời xa lạ, tưởng chừng chẳng liên quan ấy mà người nông dân cùng nhau gặp gỡ, cùng đồng hành.
Ở người lính, tương đồng về giai cấp xuất thân đã giúp họ thêm hiểu nhau hơn bao giờ hết. Xuất thân cơ hàn đã giúp họ mạnh mẽ vượt qua mọi gian khó nơi chiến địa và cùng nhau hiểu được nỗi vất vả khó nhọc để rồi cùng đứng lên vì Tổ quốc.
Nhưng có lẽ đẹp hơn cả là sự gắn kết trong một lí tưởng lớn lao: Súng bên súng, đầu sát bên đầu. Hình ảnh chiếc súng kia là ẩn dụ cho chiến tranh khói lửa, cho nhiệm vụ thường trực của người lính. Họ nhọc nhằn trong nhiệm vụ chiến đấu nhưng họ tự hòa và mang theo khí thế niềm tin. Chính những tương đồng tưởng chừng bé nhỏ này lại là sợi dây tình cảm sâu sắc nhất gắn kết người lính cách mạng dẫu trong gian khổ chiến trường ác liệt.
Và đặc biệt, tình cảm ấy giữa hai người xa lạ đã nhân lên thành tình cảm quý báu thiêng liêng: Đồng chí! Đó là hai từ giản dị mà hàm súc chứa chan bao tình cảm gắn kết của anh bộ đội cụ Hồ. Tình cảm thiêng liêng ấy đã và đang làm lòng người thêm muôn phần xúc động, thấm thía. Nốt nhạc của tình đồng chí, đồng đội ngân vang trong không khí chiến trường dẫu khói lửa. Và đó là sự keo sơn gắn bó của tình cảm thiêng liêng, cao quý vô ngần!
Thể thơ tự do được nhà thơ khai thác triệt để nhằm ngân vang dòng cảm xúc. Mỗi một lời thơ với hình ảnh giàu sức gợi, hình ảnh ẩn dụ biểu trưng đều đang góp phần làm đẹp bức tranh tình cảm của người lính cách mạng. Chân dung tự họa về tình cảm anh bộ đội cụ Hồ thời kì kháng chiến chống Pháp làm ta vô cùng xúc động.
Bảy câu đầu bài Đồng chí đã cho bạn đọc những hiểu biết về cơ sở hình thành tình cảm cao đẹp này. Tình đồng chí đã tồn tại và thật đẹp trong những trang thơ kháng chiến chống Pháp nói riêng và xuyên suốt thời kì lịch sử dân tộc nói chung. Sự cao đẹp của tình đồng chí, đồng đội đã và đang góp phần giúp ta hiểu thêm về tình cảm cao đẹp trong chiến tranh khắc nghiệt!
Phân tích Đồng chí khổ 1 - mẫu 6
Chính Hữu là nhà thơ chiến sĩ nổi tiếng với các tác phẩm viết về người lính và hai cuộc chiến tranh. Các tác phẩm của ông luôn chất chứa những nỗi niềm về tình đồng chí, đồng đội và tình yêu quê hương đất nước. “Đồng chí” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Chính Hữu được viết năm 1948. Tác phẩm được in trong tập “Đầu súng trăng treo” và được giới phê bình văn học đánh giá rất cao về ý nghĩa và giá trị nghệ thuật. Tình đồng chí, đồng đội sâu nặng mà tác giả nhắc đến được thể hiện rõ nét trong 7 câu thơ đầu của bài thơ.
Mở đầu đoạn thơ, Chính Hữu đã miêu tả rõ nét xuất thân của những người lính cách mạng. Đó là những người lính đi lên từ:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Những ngôn từ thật bình dị, chân thật về xuất thân của những người lính. Đó là những người nông dân nghèo vì tình yêu quê hương đất nước mà bỏ cuốc thuổng, ruộng vườn để đứng lên chiến đấu. Ở đây, tác giả đã sử dụng kết cấu sóng đôi, đối ứng để tạo nên sự gần gũi. Đó là “quê hương anh – làng tôi”, là “nước mặn đồng chua – đất cày lên sỏi đá”. Dường như hoàn cảnh của những người lính chẳng có gì khác nhau. Họ tương đồng ở chỗ đều xuất thân từ những làng quê nghèo khó.
Việc sử dụng cụm thành ngữ “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” càng gợi ra trước mắt ta sự nghèo khó của những vùng quê nghèo ven biển quanh năm bị nhiễm mặn. Là sự bươn chải khổ cực của những vùng quê miền núi, nơi đất khô cằn, cây cối khó canh tác vì toàn sỏi đá. Có lẽ vì đồng cảm vì cảnh ngộ, nên chỉ mới gặp nhau nhưng:
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Từ những người xa lạ ở những miền quê khác nhau, nhưng khi đã cùng đứng chung hàng ngũ, cùng lý tưởng và mục đích chiến đấu, “họ” trở thành những người thân của nhau. Ở đây Chính Hữu đã sử dụng từ “đôi” thay vì “hai” để gợi lên sự thân thiết ngay từ khi mới gặp mặt. Mặc dù là bất ngờ, “chẳng hẹn” mà gặp nhưng cuộc gặp gỡ này của những người lính như là lời hẹn từ trước. Đó là lời hẹn với quê hương đất nước, bởi anh và tôi đều chung ý chí chiến đấu, một lòng yêu nước, cùng tự nguyện nhập ngũ để quen nhau.
Lời hẹn của những người lính nảy sinh từ điều kiện của đất nước. Cái hẹn không lời mà tác giả nhắc đến mang bao ý nghĩa sâu trong tâm hồn người lính. Tình đồng chí được vun đắp thêm qua những nhiệm vụ, qua lý tưởng chiến đấu.
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Câu thơ là bức tranh tả thực mà tác giả ghi lại khi những người lính làm nhiệm vụ. Đó là hình ảnh sát cánh bên nhau cùng hành quân làm nhiệm vụ. Ở đây, Chính Hữu vẫn dùng hình ảnh sóng đôi để miêu tả “súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Với người lính, “súng” là một vật vô cùng quan trọng, đó là biểu tượng cho sự lý trí, cho sức chiến đấu, nó không thể tách rời được với người lính.
Hình ảnh “súng bên súng” không chỉ đơn thuần là miêu tả người lính, nó còn thể hiện cho sự gian truân, vất vả của người lính. Trên đường hành quân, có đôi khi mệt mỏi, những người lính ngồi lại bên nhau. Và lúc ấy tình đồng chí đồng đội càng trở nên bền chặt hơn bao giờ hết. Thế nên “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”.
Câu thơ ấy vừa là miêu tả hiện thực nơi chiến khu Việt Bắc, vừa là sự khó khăn người lính phải trải qua. Cái lạnh, giá buốt về đêm khiến cho những chiến sĩ lạnh đến mức đôi khi còn bị sốt cao. Nhưng dù môi trường có khắc nghiệt đến đâu thì những người lính đã tự ủ ấm cho nhau bằng cách chung tấm chăn mỏng manh. Thời tiết ngoài kia có giá lạnh, nhưng bên trong tình đồng chí đồng đội đã làm cho những người lính cảm thấy ấm áp từ trong lòng.
Để rồi họ trở thành những “đôi tri kỷ”¸ họ thân thiết, thấu hiểu nhau hơn. Thế nên câu thơ nghe có vẻ giá lạnh, nhưng người đọc vẫn cảm nhận được cái ấm tỏa ra từ tình đồng chí, đồng đội.
Câu thơ cuối là một sự đặc biệt, sự thiêng thiêng, cao cả được gói trọn trong hai tiếng “Đồng chí”. Nghe sao mà thân thuộc đến vậy. Thêm dấu chấm cảm cuối câu tạo cho ta cảm xúc lâng lâng khó tả. Dường như tình đồng chí, đồng đội chẳng có từ ngữ nào có thể diễn tả hết được. Bởi thế, chỉ dùng hai từ ấy thôi là đủ để người ta cảm nhận. Đó là tiếng gọi xúc động từ con tim, phải thật trân trọng lắm mới có thể thốt ra được hai tiếng thiêng liêng ấy.
“Đồng chí!” như một sự gắn kết và làm rõ thêm được sự trân trọng mà tác giả dành cho mối lương duyên này. Nghe hai từ ấy bình dị mà sâu sắc. Nó càng làm thêm vẻ đẹp tinh thần, sức mạnh của những người lính cách mạng.
Càng phân tích 7 câu thơ đầu bài Đồng chí của Chính Hữu càng thấy được sự tài hoa trong việc sử dụng ngôn từ để miêu tả cảm xúc. Khổ thơ đã khơi gợi lại những kỷ niệm đẹp, tình cảm gắn bó của những người lính trong những ngày gian khổ. Đồng thời, nó mang đến cho người đọc dâng trào bao cảm xúc.
Phân tích Đồng chí khổ 1 - mẫu 7
Có thể nói, xuyên suốt bài thơ Đồng chí của Chính Hữu đều tập trung làm nổi lên vẻ đẹp, sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội. Trong đó bảy câu thơ đầu đã lí giải về cơ sở hình thành của tình đồng chí của những người lính.
Cơ sở đầu tiên hình thành nên tình đồng chí giữa những người lính đó là chung hoàn cảnh xuất thân, hoàn cảnh ở đây được nhấn mạnh ngay trong hai câu thơ mở đầu:
"Quê hương anh đất mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Một lời giới thiệu cũng như lời nhấn mạnh về cái chung hoàn cảnh quê hương nghèo khó, dù là người miền biển đất nhiễm mặn đồng phèn chua hay người miền núi đất trơ sỏi đá thì "anh" và "tôi" đều đi ra từ những làng quê nghèo, điều kiện sống khắc nghiệt và đều là những người nông dân tay lấm chân bùn. Họ đều trải qua cuộc sống khó khăn, nhọc nhằn, tương đồng về xuất thân lại tương đồng cảnh ngộ nên họ dường như tìm thấy được điểm chung.
Tình đồng chí còn được hình thành từ sự hòa hợp về nhận thức và niềm tin vào lí tưởng cách mạng, chung mục đích chiến đấu, đều xuất phát từ một lòng nồng nàn yêu nước, mang trong mình sứ mệnh đấu tranh và cùng đi theo ngọn đuốc cách mạng của Đảng. Từ những người xa lạ họ đã về đứng trong cùng hàng ngũ, cùng chung một kẻ thù chung mục đích chiến đấu, luôn sát cánh bên nhau, hỗ trợ cho nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ được giao:
"Súng bên súng, đầu sát bên đầu"
Cuối cùng, tình đồng chí ở những người lính có được sự thiêng liêng không gì sánh bằng chính nhờ sự keo sơn gắn bó trong suốt quá trình cùng nhau chiến đấu nơi chiến trường. "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ", không cùng nhau trải qua khó khăn gian khổ sao có thể thành đồng chí, họ luôn đoàn kết với nhau như một khối thống nhất, chia sẻ chan hòa mọi gian lao vất vả, vui buồn nơi chiến trường. Ở nơi chiến trường khắc nghiệt ấy, nơi thiếu thốn cả vật chất và tinh thần, nơi họ phải vô số lần đối mặt với cái chết tình đồng chí chính là điểm tựa tinh thần vững chắc nhất, xoa dịu mọi vết thương và nỗi đau. Cùng nhau trải qua vui buồn, gian khổ, tình đồng chí ở những người lính càng bền chặt, càng đáng tự hào để rồi nhà thơ phải cất lên tiếng vang "Đồng chí".
Hai từ "đồng chí" như một lời khẳng định chất chứa trong đó biết bao niềm xúc động về tình cảm gắn bó thiêng liêng, sâu nặng. Đọc hết đoạn thơ ta vẫn thấy lời thơ âm vang, tha thiết, chân thành mà cảm động, những hình ảnh về đồng chí cách mạng vẫn còn hiện lên với vẻ đẹp thật giản dị mà thiêng liêng.
Phân tích Đồng chí khổ 1 - mẫu 8
Trong thơ ca thời kháng chiến Việt Nam, vẻ đẹp của tình đồng chí là một đề tài vô cùng nổi bật. Khi viết về đề tài này, mỗi nhà thơ có riêng cho mình một cách khai thác góp phần làm mảng thơ ca này thêm phong phú. Nhắc đến đề tài này, chúng ta không thể bỏ qua bài thơ "Đồng chí" của nhà thơ Chính Hữu. Đây là một bài thơ được đánh giá là tiêu biểu cho thơ ca kháng chiến giai đoạn 1946 - 1954, thể hiện cái chất giản dị, mộc mạc trong thơ của ông. Bài thơ đã dẫn người đọc vào một bức tranh thực nơi núi rừng biên giới thấm đẫm tình đồng chí, đồng đội mộc mạc. Đặc biệt trong bảy câu thơ đầu, tác giả đã đưa vào một tình đồng chí tri kỉ, keo sơn và gắn bó, trở thành một âm vang bất diệt trong tâm hồn những người lính cũng như con người Việt Nam.
Trong những ngày kháng chiến chống thực dân Pháp đầy gian khổ, hình ảnh người lính, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ đã trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ, chỉ bằng hai câu thơ tác giả đã giới thiệu được quê hương và xuất thân của những người lính:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"
Được sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người nông dân chất phác, hiền lành. Khi đất nước bị kẻ thù xâm lược, họ đi theo tiếng gọi của Tổ quốc để ra trận, giành lại nền độc lập tự do cho đất nước, cho nhân dân. "Anh và tôi" là hai người bạn mới quen, đều có xuất thân từ những vùng quê nghèo khó. Hai câu thơ tưởng chừng đối nhau, nhưng lại song hành với nhau thể hiện lên tình cảm của những người lính. Họ từ những vùng quê nghèo khó ấy, họ rời xa người thân, rời xa xóm giềng, tạm biệt những cánh đồng quen thuộc, họ ra đi chiến đấu để giành lại linh hồn cho đất nước. Và những khó khăn, gian khổ ấy dường như chẳng thể cản bước chân đi của những người lính:
"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"
Họ đến với cách mạng cũng vì những khát vọng cống hiến, được dâng hiến cho đời. Những người lính ấy cùng chung một khát vọng, chung một lý tưởng sống, chung một niềm tin và họ kề vai sát cánh chung một chiến hào khi bước chân vào trận chiến... Phải chăng tình đồng chí, đồng đội của họ đã xuất phát từ những điều bình dị như vậy. Và tiếp sau đó, lời thơ như nhanh hơn, nhịp thơ trở nên dồn dập hơn:
"Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đên rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!"
Nhà thơ đã rất tài tình khi sử dụng một loạt những từ ngữ liệt kê, nghệ thuật điệp từ. Điều này không chỉ đưa bài thơ lên đỉnh điểm của sự tình cảm mà những sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm nhưng chính điều đó cũng làm cho tình đồng chí thêm đẹp hơn, thêm cao quý hơn. Câu thơ "Đồng chí" chỉ có hai tiếng ngắn ngủi nhưng nó đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong lòng của người đọc. Trong muôn vàn những cung bậc tình cảm của con người, phải chăng tình đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhát, lý tưởng nhất, nhịp thơ cũng như nhẹ nhàng hơn, mảnh mai hơn. Dường như nhà thơ Chính Hữu đã thổi vào bài thơ một tình đồng chí keo sơn, gắn bó, một âm vang bất diệt khiến cho bài thơ in sâu vào tâm trí người đọc.
Chỉ với bảy câu thơ đầu của bài thơ "Đồng chí", nhà thơ Chính Hữu đã sử dụng những hình ảnh chân thực, gợi tả và khái quát cao để thể hiện được một tình đồng chí mộc mạc mà giản dị, một tình đồng chí không hào nhoáng khoa trương nhưng lại vô cùng lãng mạn, đầy thi vị. Tình đồng chí ấy đã trở thành một âm vang bất diệt, trở thành một hình tượng tiêu biểu trong thơ văn Việt Nam.
Phân tích Đồng chí khổ 1 - mẫu 9
Nhà thơ Chính Hữu nổi tiếng bởi những tác phẩm viết về người lính trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ của dân tộc. Các tác phẩm của ông luôn đong đầy những nỗi niềm về tình đồng chí đồng đội và cả tình yêu quê hương đất nước. Bài thơ "Đồng chí" là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông được in trong tập "Đầu súng trăng trao". Bài thơ được đánh giá rất cao bởi giá trị nghệ thuật và ý nghĩa mà nó mang lại. Tình đồng chí, đồng đội được tác giả thể hiện ngay trong bảy câu thơ đầu của bài thơ này.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã tiết lộ cho người đọc biết về xuất thân của những người lính:
"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Những từ ngữ ấy thật bình dị, cũng thật chân thực để nói về xuất thân của những người lính. Họ là những người nông dân nghèo, bởi tình yêu quê hương đất nước đã thôi thúc họ rời bỏ quê hương để lên đường ra trận chiến đấu giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc. Ở đây, tác giả đã sử dụng kết cấu câu sóng đôi, đối ứng để tạo nên sự gần gũi "quê hương anh - làng tôi", "nước mặn đồng chua - đất cày lên sỏi đá". Hoá ra, những người lính ấy có hoàn cảnh xuất thân thật giống nhau, đều là những người ra đi từ những làng quê nghèo khó.
Việc nhà thơ sử dụng thành ngữ "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá" lại càng gợi ra trước mắt người đọc sự nghèo khói của những vùng quên nghèo ven biển đất quanh năm bị nhiễm mặn. Đó là sự cực khổ của những vùng quê miền núi, nơi đất đai khô cằn toàn những sỏi đá. Và cũng có lẽ bởi sự đồng cảm với cảnh ngộ giống nhau, nên vừa chỉ mới gặp nhau nhưng:
"Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"
Họ từ những con người xa lạ, từ nhiều vùng quê khác nhau về đây tụ họp, họ cùng đứng chung một hàng ngũ và mang trong mình những lý tưởng và mục đích chiến đấu giống nhau. Nhà thơ ở đây đã sử dụng từ "đôi" mà không dùng từ "hai" để gợi lên sự gần gũi, thân thiết ngay từ khi họ mới gặp mặt. Mặc dù là tự nhiên, họ "chẳng hẹn" thế nhưng cuộc gặp gỡ này lại như đã được sắp đặt từ trước đó rồi. Lời hẹn ấy chính là lời hẹn với quê hương đất nước, lời hẹn chiến đấu anh dũng để giành lại những ngày tháng tự do của Tổ quốc, của dân tộc.
Tình đồng chí của họ cũng được vun đắp thêm từng ngày, qua từng nhiệm vụ chiến đấu:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Hai câu thơ giống như một bức tranh chân thật về hình ảnh của người lính trong kháng chiến. Ở đây, nhà thơ vẫn sử dụng hình ảnh sóng đôi "dúng bên súng, đầu sát bên đầu" để miêu tả. Hình ảnh "súng bên súng" không chỉ là miêu tả hình ảnh người lính mà còn thể hiện cho những vất vả mà đời lính phải trải qua. Với người lính, cây súng là một vật vô cùng quan trọng, nó đại diện cho sự lý trí, cho sức chiến đấu của những chú bộ đội. Trên đường hành quân ấy, có những lúc thật mệt mỏi và những người lính đã ngồi lại bên nhau. Khi đó, tình đồng chí lại càng trở nên gắn bó, bền chặt hơn bao giờ hết.
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Câu thơ ấy vừa cho người đọc thấy được hiện thực nơi chiến khu Việt Bắc, cũng chính là những sự khó khăn mà người lính phải trải qua. Cái lạnh, cái giá buốt về đêm thật khắc nghiệt làm sao. Thế nhưng cho dù môi trường sinh hoạt có khó khăn đến đâu thì những người ính đã tự ủ ấm cho nhau bằng cách đắp chung với nhau tấm chăn mỏng. Cho dù thời tiết ngoài kia có lạnh giá đến đâu thì tình đồng chí, đồng đội cũng đã sưởi ấm cho họ để cùng nhau cảm nhận được những ấm áp từ trong lòng. Và rồi họ trở thành những "đôi tri kỷ", họ thân thiết, thấy hiểu nhau hơn. Câu thơ ấy nghe có vẻ giá lạnh, nhưng người đọc vẫn cảm nhận được những ấm áp toả ra từ tình đồng chí, đồng đội.
Câu thơ cuối giống như một sự đặc biệt, sự thiêng liêng cao cả được gói gọn trong hai tiếng "Đồng chí". Hai tiếng ngắn mà sao nghe thân thuộc đến như vậy. Dường như tình đồng chí, đồng đội chẳng có từ ngữ nào diễn tả được hết vẻ đẹp của tình cảm này. Đó là những tiếng gọi đầy xúc cảm từ con tim, phải trân trọng biết bao nhiêu mới thốt được lên hai tiếng ấy. "Đồng chí!" như một sự gắn kết và làm rõ thêm được sự trân trọng mà tác giả dành cho những người đồng chí. Hai từ ấy thật bình dị mà sao lại sâu sắc đến vậy. Câu thơ đã càng làm rõ thêm vẻ đẹp tinh thần, sức mạnh của những người lính cách mạng.
Bảy câu thơ đầu của bài thơ Đồng chí đã cho người đọc hiểu thêm về tình đồng chí. Tình cảm ấy đã tồn tại thật đẹp trong những trang thơ kháng chiến chống Pháp nói riêng và thời kì đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc nói chung. Sự cao đẹp của tình đồng chí, đồng đội đã và đang góp phần giúp bạn đọc hiểu thêm về tình cảm cao đẹp trong những tháng ngày chiến tranh khắc nghiệt.
Phân tích Đồng chí khổ 1 - mẫu 10
Việt Nam - một đất nước đã trải qua bao năm tháng khó khăn, gian khổ với những con người quyết chí hy sinh vì nền độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc của người thân, gia đình và mọi người. Chính vì lẽ ấy, chiến tranh, người lính và lòng yêu nước là đề tài lớn thường được đưa vào văn thơ đương đại. Bên cạnh những bài thơ nổi bật về người lính như Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Tây Tiến, Nhớ, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên... thì Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu cũng là tác phẩm tiêu biểu bộc lộ hình ảnh người lính cách mạng, tình đồng đội đã cùng trải qua gian khó của họ. Hình ảnh người lính trong thơ Chính Hữu không hoa mỹ mà được miêu tả bằng những vần thơ mộc mạc, giản dị, giàu sức biểu cảm.
Ngay từ phần mở đầu bài thơ Đồng chí, nhà thơ đã lý giải vì sao những người lính đến từ những nơi xa lạ lại trở thành bạn bè thân thiết, sâu nặng:
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau,
Súng bên súng, đầu sát bên đầu,
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!”
Với giọng điệu nhẹ nhàng, thủ thỉ như tâm sự, kể chuyện, cùng nghệ thuật và thẩm mỹ sóng đôi, tác giả đã cho thấy tình đồng chí của "anh" và "tôi" bắt nguồn từ việc họ có chung hoàn cảnh sống. Một người đến từ quê hương "nước mặn đồng chua", một người đến từ ngôi làng nghèo "đất cày lên sỏi đá" và đều là những người nông dân áo vải. Miền quê của họ nghèo khó, nhưng họ có cùng chung lý tưởng, cùng có lòng yêu nước. Do đó, họ để lại nhà tranh, để lại gia đình, lên đường chiến đấu, thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của một người dân khi đất nước lâm nguy. Bởi vậy mà từ những "phương trời" xa lạ "chẳng hẹn quen nhau", họ bắt đầu hiểu nhau và "thành đôi tri kỷ".
Những anh lính nông dân có sự chân chất tự nhiên có cùng chung hoàn cảnh sống, gặp nhau và sát cánh bên nhau chiến đấu, cùng sinh hoạt trong một tập thể, tình thân gia đình trở thành tình đồng chí đồng đội, khiến tình cảm giữa họ càng thêm gắn bó mật thiết. Sự xa lạ ban đầu nhanh chóng bị xóa nhòa, họ đứng cạnh nhau chiến đấu. Hình ảnh sóng đôi và điệp từ "súng" và "đầu" trong câu thơ "Súng bên súng, đầu sát bên đầu" như để nhấn mạnh sự tri kỉ của người lính. Lời thơ tha thiết nói lên quyết tâm của những người đồng đội, họ mạnh mẽ đồng lòng cùng nhau đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ trọn vẹn nền độc lập, tự do cho Tổ quốc, nhân dân, cũng là để bảo vệ những người thân yêu ở nhà. Và chính cái sự sống chết có nhau ấy càng khiến họ thêm gắn bó, biết chia ngọt sẻ bùi, chia sẻ mọi khó khăn, thiếu thốn với nhau: "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ".
Từ hiểm nguy, gian khó, tình cảm giữa những người đồng đội ngày càng trở nên thân thiết. Họ hiểu nhau hơn, gắn bó với nhau, hai tiếng "Đồng chí" kết thúc khổ 1 bài thơ chính là lời nhấn mạnh quan trọng, là nốt nhạc sâu lắng làm sáng bừng cả khổ thơ. Tiếng "Đồng chí" vang lên là điểm kết tinh của bao tình cảm đẹp thời chiến, đó là tình bạn bè, tình đồng đội, nghĩa tình giai cấp. Câu thơ thứ 7 của khổ thơ là câu thơ rất đặc biệt, nó vừa nhấn mạnh cho tình đồng đội giữa hai con người xa lạ, vừa là lối mở cho tác giả triển khai tiếp các ý trong khổ thơ sau.
Tình đồng chí là tình cảm cao đẹp, chân thực giữa những người lính thời chiến được đưa vào thơ ca với những hình ảnh cô đọng chân thực, có sức khái quát cao. Đó là tình cảm tiêu biểu thời chiến tranh oai hùng, vẫn mãi tỏa sáng cho đến thời đại ngày nay. Bài thơ nói chung và khổ thơ nói riêng đã rất thành công trong việc xây dựng hình ảnh người lính, những người chiến sĩ cách mạng trọng thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống giực dân Pháp gian nan mà cũng đầy vẻ vang.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Phân tích Đôi bàn tay của Tnú
- Phân tích Dục Thúy Sơn
- Phân tích Gió lạnh đầu mùa
- Phân tích giọt nước mắt của A phủ
- Phân tích giọt nước mắt của bà cụ Tứ
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

