10+ Phân tích Dục Thúy Sơn (điểm cao)

Phân tích Dục Thúy Sơn điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Phân tích Dục Thúy Sơn (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Phân tích Dục Thúy Sơn

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

2. Thân bài

a) Vẻ đẹp núi Dục Thúy

- "Tiên san": khẳng định núi Dục Thúy chính là ngọn núi tiên.

- Hình ảnh ẩn dụ "liên hoa phù thủy thượng" độc đáo: ví dáng núi ngọn núi giống như đóa hoa sen thanh cao nổi trên mặt nước.

- Từ "tiên cảnh": gợi tả vẻ đẹp huyền diệu, lung linh nơi cõi tiên, "trụy trần gian": rơi xuống dương thế.

=> Khéo léo nhấn mạnh cảnh sắc ở Dục Thúy giống như cõi tiên từ trời cao rơi xuống trần gian.

- "Tháp ảnh": bóng của ngọn tháp trên núi phản chiếu xuống mặt nước, "trâm thanh ngọc": chiếc trâm ngọc xanh.

=> So sánh bóng tháp soi xuống sóng nước giống như chiếc trâm cài tóc của người thiếu nữ, đây là cách liên tưởng mới lạ.

Quảng cáo

- "Ba quang": ánh sáng của dòng nước, "thúy hoàn": mái tóc xanh.

=> Ví hình ảnh phản chiếu của ngọn núi trên sóng nước như đang soi chiếu mái tóc biếc.

b) Vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi

- "Bi khắc": bia khắc văn thơ, "tiển hoa ban": lốm đốm rêu.

=> Nhìn tấm bia khắc chữ của người xưa nay đã lốm đốm rêu, thi sĩ lại bùi ngùi nhớ về vị danh sĩ đời Trần.

=> Tâm trạng hoài cổ cùng tấm lòng "uống nước nhớ nguồn" của thi nhân.

c) Đặc sắc nghệ thuật

- Sử dụng thành công các biện pháp tu từ: ẩn dụ, so sánh.

- Giọng thơ nhịp nhàng.

- Hình ảnh thơ mĩ lệ.

3. Kết bài

Quảng cáo

- Khẳng định giá trị bài thơ, vẻ đẹp tâm hồn và tài năng nghệ thuật của Nguyễn Trãi.

Phân tích Dục Thúy Sơn - mẫu 1

Tình yêu thiên nhiên là nguồn cảm hứng thường thấy trong các sáng tác của Nguyễn Trãi. Phía sau mỗi bức tranh thiên nhiên, thi sĩ thường khéo léo bày tỏ nỗi niềm suy tư, trăn trở về cuộc đời, thế sự. Điều này được thể hiện rõ nét qua tác phẩm "Dục Thúy sơn". Bài thơ được viết bằng chữ Hán, theo thể ngũ ngôn luật thi đã để lại nhiều ấn tượng sâu đậm cho bạn đọc bởi cảnh sắc nên thơ, trữ tình.

Trước hết, Nguyễn Trãi khéo léo nhắc tới vị trí tọa lạc của núi Dục Thúy:

"Hải khẩu hữu tiên san"
("Cửa biển có non tiên")

Cụm từ "tiên san" gợi ra hình ảnh ngọn núi tiên gần ngay cửa biển "hải khẩu". Dù đã ghé thăm nhiều lần "tiền niên lũ vãng hoàn" nhưng thi sĩ vẫn cảm thấy nơi đây đẹp như chốn bồng lai tiên cảnh. Vẻ đẹp ấy được tạo nên bởi những hình ảnh vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng.

Ngắm nhìn cảnh sắc tươi đẹp ở nơi đây, con người không khỏi say đắm:

"Liên hoa phù thủy thượng;
Tiên cảnh trụy trần gian."

Quảng cáo

Qua quan sát, cảm nhận, thi nhân tưởng tượng dáng núi giống như bông hoa sen thanh khiết đang nở rộ giữa dòng nước trong xanh. Hình ảnh ẩn dụ "liên hoa phù thủy thượng" đã cho thấy đây là một liên tưởng, so sánh thú vị và mới lạ. Sen tượng trưng cho vẻ đẹp giản dị, trong sáng. Ví dáng núi như hoa sen, Ức Trai muốn tô đậm sự thuần khiết, tươi đẹp của núi non, sông nước nơi đây. Đến với câu thơ tiếp theo, nhà thơ tiếp tục đưa ra lời khẳng định về cảnh sắc sơn thủy hữu tình. Chữ "tiên" một lần nữa được sử dụng nhằm nhấn mạnh vào vẻ đẹp huyền diệu, lung linh như chốn tiên cảnh của núi Dục Thúy. Đứng trước cảnh tượng ấy, con người cứ ngỡ đây là "cõi tiên rơi xuống trần gian".

Có thể thấy, bức tranh thiên nhiên trong bốn câu thơ đầu được thi sĩ miêu tả thông qua điểm nhìn từ xa, tầm bao quát rộng. Bức tranh ấy nhuốm màu sắc của tiên giới - huyền ảo, diệu kì.

Đến với những câu thơ tiếp theo, khung cảnh núi Dục Thúy hiện ra vô cùng chân thực, rõ nét:

"Tháp ảnh trâm thanh ngọc;
Ba quang kính thúy hoàn."

Trong bài thơ "Dục Thúy sơn", Trương Hán Siêu từng viết "Trung lưu quang tháp ảnh," ("Lòng sông in bóng tháp"). Nếu như Trương Hán Siêu chỉ đơn thuần miêu tả hình ảnh ngọn tháp in bóng lên dòng nước thì Nguyễn Trãi lại mang đến sự sáng tạo độc đáo. Ông ví bóng tháp trên mặt nước giống như chiếc trâm cài tóc của người thiếu nữ. Chiếc trâm ấy được làm từ ngọc và có màu xanh. Khi xưa, các thi nhân thường lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả nét đẹp của con người. Đến với "Dục Thúy sơn", Nguyễn Trãi lại lấy nét đẹp đằm thắm, duyên dáng của người con gái để hình dung dáng núi soi bóng trên sóng biếc. Đây quả là một hình ảnh so sánh rất hiện đại và đặc biệt. Sự liên tưởng và bút pháp mới lạ tiếp tục được thể hiện thông qua dòng thơ "Ba quang kính thúy hoàn". Giờ đây, ánh sáng dòng nước như đang soi chiếu mái tóc xanh biếc. Như vậy, thi sĩ không chỉ cảm nhận thiên nhiên qua đôi mắt tinh tường mà còn bằng trái tim, tấm lòng đong đầy tình yêu. Nhờ đó, cảnh vật càng trở nên có hồn.

Tương tự bao sáng tác khác, hai câu thơ cuối chính là dòng tâm trạng, những suy ngẫm của nhà thơ:

"Hữu hoài Trương Thiếu bảo;
Bi khắc tiển hoa ban."

Trong khoảnh khắc ngắm nhìn núi Dục Thúy, Nguyễn Trãi vẫn không quên hướng tấm lòng nhớ thương, hoài niệm tới cố nhân - Trương Thiếu bảo. Nhìn tấm bia khắc chữ của người xưa nay đã lốm đốm rêu, thi sĩ lại bùi ngùi nhớ về vị danh sĩ đời Trần, được nhiều vị vua trọng dụng. Lời thơ chậm rãi, ngôn ngữ cô đọng đã góp phần lột tả nỗi niềm nhớ tiếc sâu lắng mênh mông. Dù vật đổi sao trời, nước sông kia dâng rồi lại xuống, đất nước trải qua bao biến cố, thăng trầm nhưng dưới làn rêu xanh, những nét chữ trên bia đá vẫn vẹn nguyên giá trị. Qua hai câu thơ ngắn gọn, ta cảm nhận được tấm lòng "uống nước nhớ nguồn" cao đẹp của một con người có tâm hồn nhạy cảm, tinh tế như Nguyễn Trãi.

Bằng hình ảnh mỹ lệ, giàu sức gợi, giọng thơ nhịp nhàng cùng các biện pháp tu từ như so sánh "Tháp ảnh trâm thanh ngọc;/ Ba quang kính thúy hoàn.", ẩn dụ "liên hoa phù thủy thượng", nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh đẹp đẽ về núi Dục Thúy. Đồng thời, khéo léo bộc lộ suy tư về con người, lịch sử và dân tộc.

"Dục Thúy sơn" chính là một sáng tác tuyệt vời của Nguyễn Trãi - con người yêu thiên nhiên, yêu đất nước da diết. Bài thơ khiến chúng ta không quên hình ảnh núi Dục Thúy vừa kì vĩ, vừa thơ mộng cùng tấm lòng "uống nước nhớ nguồn" cao quý mà thi sĩ gửi tới người xưa.

Phân tích Dục Thúy Sơn - mẫu 2

Nguyễn Trãi viết: “Túi thơ chứa hết mọi giang san”. Quả thật Ức Trai đã đi nhiều nơi, thăm nhiều danh thắng. Với lòng yêu thiên nhiên say đắm, với hồn thơ rộng mở, nhạy cảm và tinh tế, tới đâu Nguyễn Trãi cũng có thơ về cảnh đẹp non sông đất nước. Người đọc ngày nay có thể tìm thấy một bộ sưu tập phong cảnh Việt Nam rất phong phú và đa dạng qua tập thơ chữ Hán – ức Trai thi tập: núi Côn Sơn, núi Yên Tử, cảng Vân Đồn, chùa Tiên Du, chùa Đông Sơn, núi Long Đại, núi Lam Sơn… Đặc biệt, Nguyễn Trãi có nhiều thơ về các địa danh ở Ninh Bình, tạo nên một quần thể danh thắng của vùng “vịnh Hạ Long cạn” này: núi Dục Thúy, cửa biển Thần Phù, trấn Vịnh Doanh.

Trong quần thể danh thắng đó, nổi bật lên là Dục Thúy sơn. Trước đây núi có tên là Sơn Thúy. Tên Dục Thúy là do Trương Hán Siêu đặt. Có người giải thích núi giống hình chim trả, lại ở trên bờ sông, nên gọi là Dục Thúy, với nghĩa là chim trả tắm (dục: tắm, thúy: chim trả). Không rõ Trương Thiếu bảo gọi là Dục Thúy sơn có phải vì lẽ đó không, hay chỉ đơn thuần là núi tắm trong xanh biếc (thúy. xanh biếc). Dù thế nào thì tên gọi Dục Thúy sơn cũng rất đẹp và thơ mộng, người chưa được đến thăm có thể qua tên mà hiểu cảnh.

Từ lâu Dục Thúy sơn đã là đề tài hấp dẫn của thi ca. Nhiều thi sĩ lừng danh đã có thơ về danh thắng này như Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh. Lê Thánh Tông, Tản Đà… Tuy nhiên tình của Nguyễn Trãi đối với Dục Thúy sơn thơ của Nguyễn Trãi về Dục Thúy sơn cần có những nét riêng.

Nguyễn Trãi viết Dục Thúy sơn với hai nguồn cảm hứng: cảm hứng thiên nhiên và cảm hứng hoài cổ. Ở nguồn cảm hứng nào người đọc cũng thấy những nét riêng, độc đáo của Ức Trai.

Trong dòng cảm hứng yêu thiên nhiên, yêu cảnh đẹp đất nước, tác giả đến với Dục Thúy sơn. Nhưng Dục Thúy sơn với Ức Trai dường như có mối duyên riêng, nhà thơ thường tới viếng thăm:

“Tiền niên lũ vãng hoàn”.

(Năm xưa (ta) từng lui tới đây nhiều lần)

Không rõ trong đời mình Ức Trai bao lần đặt chân lên núi Dục Thúy, nhưng ở thơ chữ Hán đã có lần ông nhắc tới:

“Dục Thúy vũ tình phong tự ngọc “
(Dục Thúy mưa tan non tự ngọc)

(Vọng Doanh)

Nhà thơ có một ấn tượng sâu sắc về danh thắng này, đó là “núi tiên”. “cảnh tiên”. Trong một đoạn thơ ngắn, thi sĩ hai lần dùng từ tiên làm định ngữ để nói về núi Dục Thúy, về cảnh Dục Thúy. Thơ Đường có phép kị trùng chữ. Nhưng ở đây để làm nổi bật vẻ đẹp thần diệu của Dục Thúy sơn. Nguyễn Trãi đã bất chấp luật kiêng kị đó để phóng bút dùng hai chữ tiên. Trong cảm nhận ngôn ngữ của người Việt, tiên thường gợi lên sự thần diệu, phi thường, thoát tục (phép tiên, cầu tiên ) sự sung sướng, hạnh phúc (sướng như tiên), vẻ đẹp (đẹp như tiên). Từ tiên trong “núi tiên”. “cảnh tiên” gây ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp huyền ảo của Dục Thúy sơn. Người không mang cảm quan tôn giáo, nước cảnh đẹp cũng như đang vào cõi mộng, cõi tiên. Cái hiện hữu được khẳng định (hữu tiên san) càng làm nổi bật cái hư ảo, kì diệu:

Tiên cảnh trụy trần gian

(Như cảnh tiên rơi xuống cõi trần)

Dục Thúy sơn là sáng tạo tuyệt vời của hóa công, không phải cho cõi trần, không phái từ cõi trần mà cho tiên giới, từ liên giới. Một chút “vô thức” (đánh rơi) đã tô điểm thêm vẻ đẹp hạ giới.

Tác giả dùng hình tượng hoa sen để gợi tả vẻ đẹp Dục Thúy sơn. Dù không bắt nguồn từ cảm hứng tôn giáo thì hình tượng đó vẫn mang đậm dấu ấn linh thiêng thoát tục của Phật giáo:

“Liên hóa phù thủy thượng”.

(Núi tựa (như) đóa hoa sen nổi trên mặt nước)

Về mặt liên tưởng, nhà thơ đã có liên tưởng khá xác thực – núi trên dòng sông với đóa sen trên mặt nước. Về mặt nội dung thẩm mĩ, hoa sen là biểu tượng của vẻ đẹp tinh khiết, rất phù hợp với cảnh tiên, non tiên.

Nhìn chung, trong bốn câu thơ đầu tác giả tập trung cảm hứng vào vẻ đẹp thần tiên, huyền ảo của Dục Thúy sơn. Nguồn cảm hứng đó bất chợt không liền mạch khi tác giả phát hiện ra một vẻ đẹp khác, không kém mĩ lệ mà lại có phần quyến rũ hơn, say người hơn:

Tháp bảo trâm thanh ngọc
Ba quang kính thúy hoàn.

(Bóng ngọn tháp (trên núi trông giống như cái) cái trâm bằng ngọc xanh Ánh sáng (lấp lánh trên) sóng nước tự như gương soi mái tóc xanh (biếc).

Khoan nói tới những nét đặc sắc đầy tính nhân văn trong hình tượng thơ Ức Trai. Hãy nói đến người đầu tiên, sáng tạo ra hình ảnh này – nhà thơ Trương Hán Siêu:

Trung lưu quang tháp ảnh

(Giữa dòng in bóng tháp)

(Bài Dục Thúy sơn của Trương Hán Siêu)

Thi sĩ lớn đời Trần chú ý đến vẻ đẹp của bóng tháp in trên dòng sông, kể cũng đã là người biết thưởng thức, biết phát hiện ra vẻ đẹp. Tuy nhiên, ngọn tháp trong thơ và trong văn Trương Hán Siêu vẫn là hình ảnh ngọn tháp thật, chưa thấm hồn người: “Tháp xây bốn tầng, đêm tỏa hào quang, kẻ xa người gần đều trông thấy rõ” (Bài kí Tháp Linh Tế ở núi Dục Thủy). Và nếu có cảm xúc thì đó là cảm xúc về vẻ đẹp kì vĩ của ngọn tháp: “Tháp cao sừng sững, thế chạm trời xanh, tô thêm vẻ đẹp của non sông, tranh công xây dựng cùng tạo hóa” (Bài kí Tháp Linh Tế ở núi Dục Thủy). Cảm xúc của Trương Hán Siêu là cảm xúc của người yêu thiên nhiên, có pha chút hứng khởi, tự hào, chưa có gì đặc biệt.

Hình tượng ngọn tháp trong thơ Nguyễn Trãi là một sự kế thừa nhưng đã nâng cao lên rất nhiều, đã thành một sáng tạo vô cùng độc đáo: bóng tháp in trên dòng sông như chiếc trâm ngọc bích cài trên mái tóc dài xanh mướt của người thiếu nữ. Một liên tưởng hết sức hợp lí nhưng cũng hết sức bất ngờ. Cảnh vật không chỉ nên thơ, nên họa mà còn mang cả hồn người. Nguyễn Trãi đem cả tình đời, tình yêu nhuốm vào cảnh vật. Ức Trai đã cảm xúc vẻ đẹp của ngọn tháp, của dòng sông không phải như đứng trước một cảnh tượng hùng vĩ mà như đứng trước một thiếu nữ. Chính chất đa tình này đã làm nên vẻ đẹp độc đáo và đầy tính chất nhân văn của thơ Nguyễn Trãi, đã làm nên cá tính sáng tạo của thi sĩ. Trong bài Cây chuối. Nguyễn Trãi đã nhìn đọt lá chuối non qua lăng kính tình yêu để có “Tình thư một bức phong còn kín” thì ở bài Dục Thúy sơn tác giả cũng nhìn bóng tháp, dòng sông với lăng kính ấy. Có điều cần nói thêm về bản dịch: “Bóng tháp hình trâm ngọc. Gương sông ánh tóc huyền” đã không lột tả được màu xanh trong của trâm ngọc (thanh ngọc), màu xanh biếc của tóc (thúy hoàn) nên làm mất đi cái nhìn rất trẻ, rác đa tình của tác giả.

Đọc những câu thơ tả cảnh Dục Thúy sơn của Ức Trai, ta tưởng chừng nhà thơ đã thả hết hồn mình vào cảnh vật, chỉ còn biết ngất ngây, say đắm trước thiên nhiên. Nhưng thật bất ngờ và kì lạ, mạch cảm hứng của thi nhân bỗng nhiên đột ngột chuyển hướng:

“Hữu hoài Trương Thiếu bảo.
Bi khắc tiển hoa ban “.

(Nhớ ông Thiếu bảo người họ Trương
Bia khắc (của ông) đã lốm đốm hoa rêu)

“Hữu hoài” dịch là “nhớ xưa”, chưa lột tả được cảm xúc hoài niệm về quá khứ có pha chút hoài cổ của nhà thơ. Nguyễn Trãi nhớ về Trương Hán Siêu và ngậm ngùi khi thấy bia khắc của ông đã lốm đốm hoa rêu phủ. Tâm trạng Ức Trai có phần giống tâm trạng Trương Hán Siêu thuở trước khi thấy cảnh Dục Thúy “sự hưng vong thành bại mới trải hai trăm mấy mươi năm mà đã trở thành dấu vết cũ kĩ” (Bài ký Tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy). Đó là cảm hứng hoài cổ bắt nguồn từ lẽ hưng vong của tạo hóa. Tuy nhiên, cảm hứng hoài cổ của Nguyễn Trãi khác cảm hứng hoài cổ mà ta thường gặp ở nhiều tác giả văn học trung đại. Trong thơ Ức Trai luôn có sự đối lập giữa tạo hóa vĩnh hằng và con người trong khoảnh khắc:

“Kim cổ vô cùng giang mạc mạc,
Anh hùng hữu luận, diệp tiêu tiêu

(Xua nay thời gian không cùng (như) dòng sông bát ngát,
Đời anh hùng mang mối hận (như) lá rụng veo veo).

(Vãng hứng)

Ở bài Dục Thúy sơn cũng có sự đối lập nói trên: cảnh vật còn đây, bia đá còn đây, những nét chữ đang mờ dần bởi rêu phủ và Trương Thiếu bảo không còn. Con người – một thực thể khát khao sống, khát khao yêu thì cuộc đời “hữu hạn”, còn tạo vật – thực thể vô tri lại tồn tại vĩnh hằng. Nguyễn Trãi buồn, xót xa, ngậm ngùi vì lẽ đó. Cũng chính vì vậy mà nỗi buồn hoài cổ của Nguyễn Trãi là nỗi buồn mang giá trị nhân bản sâu sắc.

Từ những điều phân tích ở trên, có thể nói bài thơ Dục Thúy sơn đã đem đến cho người đọc nguồn cảm xúc thẩm mĩ dồi dào: cảm xúc về vẻ đẹp của danh thắng, vẻ đẹp của hình tượng nghệ thuật và đặc biệt là vẻ đẹp của tâm hồn Ức Trai: yêu thiên nhiên, yêu đất nước, giàu chất nhân văn.

Phân tích Dục Thúy Sơn - mẫu 3

Tình yêu thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong những tác phẩm của Nguyễn Trãi. Sau mỗi bức tranh thiên nhiên sống động, nhà thơ tài hoa luôn khéo léo gửi gắm những suy tư, trăn trở về cuộc đời và thế sự. Điều này được thể hiện rõ nét qua tác phẩm "Dục Thúy sơn". Bài thơ, được viết bằng chữ Hán theo thể ngũ ngôn luật thi, đã để lại nhiều ấn tượng sâu đậm cho độc giả bởi cảnh sắc nên thơ và trữ tình.

Trước hết, Nguyễn Trãi khéo léo nhắc đến vị trí của núi Dục Thúy:

"Hải khẩu hữu tiên san" ("Cửa biển có non tiên")

Cụm từ "tiên san" gợi lên hình ảnh ngọn núi thần tiên ngay tại cửa biển "hải khẩu". Dù đã nhiều lần ghé thăm "tiền niên lũ vãng hoàn", nhưng thi sĩ vẫn luôn cảm nhận nơi đây đẹp tựa chốn bồng lai tiên cảnh. Vẻ đẹp ấy được tạo nên bởi những hình ảnh vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng.

Ngắm nhìn cảnh sắc tươi đẹp nơi đây, con người không khỏi say đắm:

"Liên hoa phù thủy thượng; Tiên cảnh trụy trần gian."

Qua quan sát và cảm nhận, thi nhân tưởng tượng hình dáng núi giống như bông hoa sen thanh khiết đang nở rộ giữa dòng nước trong xanh. Hình ảnh ẩn dụ "liên hoa phù thủy thượng" cho thấy sự liên tưởng thú vị và mới lạ của nhà thơ. Sen tượng trưng cho vẻ đẹp giản dị, trong sáng. Ví dáng núi như hoa sen, Nguyễn Trãi muốn nhấn mạnh sự thuần khiết và tươi đẹp của núi non, sông nước nơi đây. Đến câu thơ tiếp theo, nhà thơ tiếp tục khẳng định cảnh sắc sơn thủy hữu tình. Chữ "tiên" một lần nữa được sử dụng để nhấn mạnh vẻ đẹp huyền diệu, lung linh như chốn tiên cảnh của núi Dục Thúy. Đứng trước cảnh tượng ấy, con người cứ ngỡ đây là "cõi tiên rơi xuống trần gian".

Bức tranh thiên nhiên trong bốn câu thơ đầu được thi sĩ miêu tả từ điểm nhìn xa, với tầm bao quát rộng, mang màu sắc của tiên giới - huyền ảo và diệu kỳ.

Đến những câu thơ tiếp theo, khung cảnh núi Dục Thúy hiện ra vô cùng chân thực và rõ nét:

"Tháp ảnh trâm thanh ngọc; Ba quang kính thúy hoàn."

Trong bài thơ "Dục Thúy sơn", Trương Hán Siêu từng viết "Trung lưu quang tháp ảnh," ("Lòng sông in bóng tháp"). Nếu như Trương Hán Siêu chỉ đơn thuần miêu tả hình ảnh ngọn tháp in bóng lên dòng nước, thì Nguyễn Trãi lại mang đến một sự sáng tạo độc đáo. Ông ví bóng tháp trên mặt nước giống như chiếc trâm cài tóc của người thiếu nữ, được làm từ ngọc và có màu xanh. Xưa nay, các thi nhân thường lấy vẻ đẹp của thiên nhiên để gợi tả nét đẹp của con người. Trong "Dục Thúy sơn", Nguyễn Trãi lại dùng vẻ đẹp đằm thắm, duyên dáng của người con gái để hình dung dáng núi soi bóng trên sóng biếc. Đây quả là một hình ảnh so sánh hiện đại và đặc biệt. Sự liên tưởng và bút pháp mới lạ tiếp tục được thể hiện qua câu thơ "Ba quang kính thúy hoàn". Ánh sáng dòng nước như soi chiếu mái tóc xanh biếc. Thi sĩ không chỉ cảm nhận thiên nhiên qua đôi mắt tinh tường mà còn bằng trái tim đong đầy tình yêu. Nhờ đó, cảnh vật càng trở nên có hồn.

Như bao sáng tác khác, hai câu thơ cuối chính là những suy ngẫm và tâm trạng của nhà thơ:

"Hữu hoài Trương Thiếu bảo; Bi khắc tiển hoa ban."

Trong khoảnh khắc ngắm nhìn núi Dục Thúy, Nguyễn Trãi không quên gửi gắm nỗi nhớ thương, hoài niệm tới cố nhân - Trương Thiếu bảo. Nhìn tấm bia khắc chữ của người xưa nay đã lốm đốm rêu, thi sĩ bùi ngùi nhớ về vị danh sĩ đời Trần, được nhiều vị vua trọng dụng. Lời thơ chậm rãi, ngôn ngữ cô đọng góp phần lột tả nỗi niềm nhớ tiếc sâu lắng. Dù vật đổi sao dời, nước sông dâng rồi lại xuống, đất nước trải qua bao biến cố, thăng trầm nhưng dưới làn rêu xanh, những nét chữ trên bia đá vẫn vẹn nguyên giá trị. Qua hai câu thơ ngắn gọn, ta cảm nhận được tấm lòng "uống nước nhớ nguồn" cao đẹp của một người có tâm hồn nhạy cảm và tinh tế như Nguyễn Trãi.

Với hình ảnh mỹ lệ, giàu sức gợi, giọng thơ nhịp nhàng cùng các biện pháp tu từ như so sánh "Tháp ảnh trâm thanh ngọc;/ Ba quang kính thúy hoàn." và ẩn dụ "liên hoa phù thủy thượng", nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh đẹp đẽ về núi Dục Thúy, đồng thời khéo léo bộc lộ suy tư về con người, lịch sử và dân tộc.

"Dục Thúy sơn" là một tác phẩm tuyệt vời của Nguyễn Trãi - con người yêu thiên nhiên, yêu đất nước tha thiết. Bài thơ khiến chúng ta không quên hình ảnh núi Dục Thúy vừa kỳ vĩ, vừa thơ mộng cùng tấm lòng "uống nước nhớ nguồn" cao quý mà thi sĩ gửi tới người xưa.

Phân tích Dục Thúy Sơn - mẫu 4

Nguyễn Trãi đã từng viết: “Túi thơ chứa hết mọi giang san”. Thật vậy, Ức Trai đã đi qua nhiều miền, khám phá biết bao danh lam thắng cảnh. Với tình yêu thiên nhiên say đắm, cùng hồn thơ nhạy cảm và tinh tế, bất cứ nơi nào ông đến, Nguyễn Trãi đều có những vần thơ đẹp về cảnh sắc của đất nước. Ngày nay, độc giả có thể tìm thấy một bộ sưu tập phong cảnh Việt Nam phong phú và đa dạng qua tập thơ chữ Hán "Ức Trai thi tập": từ núi Côn Sơn, núi Yên Tử, cảng Vân Đồn, chùa Tiên Du, chùa Đông Sơn, núi Long Đại, đến núi Lam Sơn… Đặc biệt, Nguyễn Trãi có nhiều bài thơ về các địa danh ở Ninh Bình, tạo nên một quần thể danh thắng của vùng "vịnh Hạ Long cạn" này như núi Dục Thúy, cửa biển Thần Phù, và trấn Vịnh Doanh.

Trong số các danh thắng ấy, nổi bật nhất là núi Dục Thúy. Ban đầu, núi có tên là Sơn Thúy, sau này Trương Hán Siêu đã đổi tên thành Dục Thúy. Có người giải thích rằng núi có hình dáng giống chim trả, lại ở bên bờ sông, nên gọi là Dục Thúy, nghĩa là chim trả tắm (dục: tắm, thúy: chim trả). Tuy nhiên, không rõ Trương Thiếu bảo gọi núi là Dục Thúy sơn vì lý do này hay vì đơn giản là núi tắm trong sắc xanh biếc (thúy: xanh biếc). Dù sao đi nữa, tên gọi Dục Thúy sơn vẫn rất đẹp và thơ mộng, khiến người chưa từng đặt chân đến cũng có thể hình dung được cảnh sắc qua tên gọi ấy.

Từ lâu, Dục Thúy sơn đã là nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca. Nhiều thi sĩ lừng danh như Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Lê Thánh Tông, Tản Đà đã sáng tác thơ về danh thắng này. Tuy nhiên, tình cảm của Nguyễn Trãi đối với Dục Thúy sơn mang những nét riêng biệt. Ông viết về Dục Thúy sơn với hai nguồn cảm hứng chính: cảm hứng thiên nhiên và cảm hứng hoài cổ. Dù ở nguồn cảm hứng nào, người đọc cũng thấy rõ nét độc đáo của Ức Trai.

Trong cảm hứng thiên nhiên, tình yêu đối với cảnh đẹp đất nước, tác giả đã nhiều lần đến thăm Dục Thúy sơn:

“Tiền niên lũ vãng hoàn”.

(Năm xưa (ta) từng lui tới đây nhiều lần)

Không rõ trong đời mình, Ức Trai đã bao lần đặt chân lên núi Dục Thúy, nhưng trong thơ chữ Hán, ông từng nhắc đến:

“Dục Thúy vũ tình phong tự ngọc “ (Dục Thúy mưa tan non tự ngọc)

(Vọng Doanh)

Nhà thơ có ấn tượng sâu sắc về danh thắng này, gọi nó là “núi tiên” và “cảnh tiên”. Trong đoạn thơ ngắn, Nguyễn Trãi hai lần dùng từ tiên để mô tả vẻ đẹp thần diệu của Dục Thúy sơn. Thơ Đường kiêng kị việc trùng lặp từ ngữ, nhưng để tôn lên vẻ đẹp thần diệu của Dục Thúy sơn, Nguyễn Trãi đã phá vỡ quy tắc đó. Trong cảm nhận của người Việt, từ "tiên" gợi lên hình ảnh thần diệu, phi thường, thoát tục (phép tiên, cầu tiên), sự sung sướng, hạnh phúc (sướng như tiên) và vẻ đẹp (đẹp như tiên). Từ "tiên" trong "núi tiên" và "cảnh tiên" gây ấn tượng sâu sắc về vẻ đẹp huyền ảo của Dục Thúy sơn. Người không mang cảm quan tôn giáo cũng cảm thấy như đang bước vào cõi mộng, cõi tiên.

Cảnh đẹp ấy được Ức Trai mô tả bằng hình tượng hoa sen, tượng trưng cho sự tinh khiết và thanh cao:

“Liên hóa phù thủy thượng”.

(Núi tựa (như) đóa hoa sen nổi trên mặt nước)

Sự liên tưởng của nhà thơ rất tinh tế - núi trên dòng sông giống như đóa sen nổi trên mặt nước. Hình ảnh hoa sen, biểu tượng của vẻ đẹp tinh khiết, rất phù hợp với cảnh tiên, non tiên.

Trong những câu thơ đầu, tác giả tập trung vào vẻ đẹp thần tiên, huyền ảo của Dục Thúy sơn. Nhưng cảm hứng này bỗng chợt chuyển hướng khi ông phát hiện một vẻ đẹp khác, quyến rũ hơn:

Tháp bảo trâm thanh ngọc Ba quang kính thúy hoàn.

(Bóng ngọn tháp (trên núi trông giống như) cái trâm bằng ngọc xanh, Ánh sáng (lấp lánh trên) sóng nước tựa như gương soi mái tóc xanh biếc.)

Nguyễn Trãi đã kế thừa hình ảnh ngọn tháp từ Trương Hán Siêu, nhưng nâng cao lên thành một sáng tạo độc đáo. Bóng tháp in trên dòng sông như chiếc trâm ngọc bích cài trên mái tóc dài xanh mướt của người thiếu nữ. Một liên tưởng hợp lý nhưng cũng rất bất ngờ. Cảnh vật không chỉ nên thơ, nên họa mà còn mang cả hồn người. Nguyễn Trãi đem cả tình đời, tình yêu vào cảnh vật, tạo nên vẻ đẹp độc đáo và đầy nhân văn trong thơ ông.

Tuy nhiên, thơ Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại ở cảm hứng thiên nhiên mà còn chuyển hướng sang cảm hứng hoài cổ:

“Hữu hoài Trương Thiếu bảo. Bi khắc tiển hoa ban “.

(Nhớ ông Thiếu bảo họ Trương Bia khắc của ông đã lốm đốm hoa rêu)

Cảm xúc hoài cổ trong thơ Nguyễn Trãi không giống những tác giả khác. Trong thơ ông luôn có sự đối lập giữa tạo hóa vĩnh hằng và con người trong khoảnh khắc:

“Kim cổ vô cùng giang mạc mạc, Anh hùng hữu luận, diệp tiêu tiêu

(Xưa nay thời gian không cùng (như) dòng sông bát ngát, Đời anh hùng mang mối hận (như) lá rụng veo veo).

(Vãng hứng)

Ở bài Dục Thúy sơn, cảnh vật còn đây, bia đá còn đây, nhưng Trương Thiếu bảo không còn. Con người - một thực thể khát khao sống và yêu, lại có cuộc đời hữu hạn, trong khi tạo vật - vô tri, lại tồn tại vĩnh hằng. Nỗi buồn hoài cổ của Nguyễn Trãi là nỗi buồn mang giá trị nhân bản sâu sắc.

Từ những phân tích trên, có thể thấy bài thơ Dục Thúy sơn đã đem đến cho người đọc nguồn cảm xúc thẩm mỹ dồi dào: cảm xúc về vẻ đẹp của danh thắng, của hình tượng nghệ thuật và đặc biệt là vẻ đẹp của tâm hồn Ức Trai: yêu thiên nhiên, yêu đất nước, giàu chất nhân văn.

Phân tích Dục Thúy Sơn - mẫu 5

Dục Thúy Sơn là tên cũ của núi là Băng Sơn. Về đời Trần, Trương Hán Siêu lên chơi núi này, mới đổi thành Dục Thuý Sơn (núi tắm màu biếc); ngày nay gọi là núi Non Nước, thuộc thị xã Ninh Bình. Dục Thuý Sơn là một thắng cảnh, từng được nhiều tao nhân mặc khách đến thăm và làm thơ ca ngợi. Trên núi vốn có chùa và tháp rất đẹp; núi lại gần cửa biển, có sông Vân uốn quanh, Sông Vân núi Thuý là cảnh nên thơ, rất hữu tình. Sách Đại Nam nhất thống chí" có ghi: “phía hắc núi (Dục Thuý) có động, trong động có đền thờ Tam phủ, sườn núi có một tảngđá gần sông có khắc ba chữ “Hám Giao Đình ”, phía tây nam núi có đền thờ Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, trên đỉnh có chùa… ”

Biển dâu biến đổi, nay chùa xưa tháp cũ đã đổ nát, biển lùi xa hàng chục cây số. Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát, Tản Đà… đều làm thơ vịnh Dục Thuý Sơn – núi Non Nước. Bài thơ này rút trong "Ức Trai thi tập ” của Nguyễn Trãi.

Bài thơ nói về cảnh sắc thần tiên núi Dục Thuý và nỗi cảm hoài của Ức Trai.

Đọc “Ức Trai thi tập” và “Quốc âm thi tập”, ta thấy Nguyễn Trãi đã từng thăm thú nhiều nơi. Lúc thì “nhẹ cánh buồm thơ vượt Bạch Đằng”, lúc thì lên núi Long Đại, say mê ngắm hang động, ao hồ:

“Ngao đội núi lên thành động đấy

Kình bơi biển lấp hoá ao rồi

(Núi Long Đại)

Lúc thì hành hương về chùa Hoa Yên trên đỉnh núi Yên Tử cao xanh, gột rửa bụi trần, thảnh thơi giữa rừng trúc, hang đá:

“Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa,

Bao dãi tua châu đá rủ mành ”

(Đề chùa Hoa Yên núi Yên Tử)

Trong những năm tháng “hình Ngô“, Nguyễn Trãi đã từng mang gươm đi khắp mọi miền đất nước, sau này, đất nước thanh bình, ông lại mang bầu rượu túi thơ đi thăm cảnh núi sông tráng lệ. Riêng Dục Thuý Sơn đã nhiều lần in dấu ấn nhà thơ.

Có thể nói, 6 câu đầu bài thơ là bức tranh sơn thuỷ tuyệt vời về núi Dục Thuý, được vẽ bằng bút pháp vô cùng điêu luyện. Nhà thơ đã mấy lần đến chơi núi. Cảnh tuy đã quen, nhưng lần này đến không khỏi ngạc nhiên vẻ đẹp "non tiên ” hiện lên trước cửa biển. Đó là cảm hứng "Bồnglai lạc lối ” như Từ Thức trong cổ tích:

“Cửa biển có non tiên, .

Từng qua lại mấy phen ”

Người đọc như đang cùng thi nhân du mộng vào cõi thần tiên. Vừa ảo, vừa thực, hồn thơ kì thú, lâng lâng, ta như đang được “chiếm lĩnh " cõi tiên nơi trần gian. Câu 1 đã nói “non tiên” giữa cửa biển, câu 4 nói rõ thêm núi Dục Thuý "như cảnh tiên rơi xuống cõi trần gian ” (tiên cảnh truỵ trần gian). Hai hình ảnh “tiên san” và “tiên cảnh” hô ứng nhau, bổ trợ nhau, ý thơ và cảm xúc mở rộng, phát triển nhằm ca ngợi Dục Thuý sơn là một thắng cảnh, đẹp kì lạ, hiếm có trên đất nước ta.

Từ cảm nhận trực giác đến tưởng tượng, ngắm cảnh từ xa đến gần, thi sĩ tả núi như một bông sen khổng lồ xoè nở ra trên mặt nước. Hình ảnh ẩn dụ “Liên hoa phù thuỷ thượng ” tuyệt đẹp, đầy chất thơ. Hoa sen tượng trưng cho vẻ đẹp rực rỡ, sự thanh khiết thanh cao, là một biểu tượng cao quý của đạo Phật. Nhiều tượng Phật đều tọa lạc trên “đài sen Đài sen mang ý niệm tu tròn quả đức mà triết lí Phật giáo nói đến. Có tháp, có mái chùa hình hoa sen (Chùa Một Cột). Hoa sen là một mô tip khá tiêu biểu của nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc chùa chiền, tượng Phật ở nước ta. Trên núi Dục Thuý lại có chùa và tháp, Ức Trai ví núi Dục Thuý với bông sen nổi trên mặt nước thật là hay, gợi ra nhiều liên tưởng thú vị. Hai chữ “phủ ” (nổi lên) và “trụy” (rơi xuống) đối chọi nhau rất thần tình, gợi tả cảnh núi non, chùa chiền, sông nước vừa ảo vừa thực, cảm xúc chìm nổi, trầm bổng, lâng lâng:

“Liên hoa phù thuỷ thượng,

Tiên cảnh trụy trần gian ”

Để hiệp vần, Khương Hữu Dụng đã đảo lại vị trí 2 câu thơ 3, 4; chất thơ nhạt đi nhiều, cấu trúc nội tại của tứ thơ bị phá vỡ:

“Cảnh tiên rơi cõi tục,

Mặt nước nổi hoa sen ”

Học giả Đào Duy Anh đã dịch: “Hoa sen trôi mặt nước -Cõi tục nổi non bồng Hai câu luận (5, 6) tả tháp trên núi và ánh sáng trên mặt sông, vẫn là bút pháp tạo hình bằng hai hình ảnh ẩn dụ mĩ lệ. Bóng ngọn tháp trên núi tựa như cái trâm bằng ngọc xanh (trâm thanh ngọc). Ánh sáng lấp lánh trên sóng nước tựa như gương soi mái tóc xanh biếc (kính thuý hoàn). Trâm, tóc và gương ấy đều mang màu sắc rất đẹp (thanh ngọc, thuý hoàn), vì là của tiên nữ (nơi non tiên, cảnh tiên). Cảnh sắc rất ngoạn mục. Phép đối được sáng tạo qua vẩn thơ như hai bức tranh của trường phái “ấn tượng”:

"Tháp ảnh trâm thanh ngọc,

Ba quang kính thúy hoàn ”

(Bóng tháp hình trâm ngọc,

Gương sông ánh tóc huyền).

Núi Dục Thúy có sông Vân uốn quanh. Cách đây năm, sáu trăm năm, núi còn nằm trên cửa biển. Trên núi có chùa và tháp. Bàn tay của con người góp phần điểm tô cho cảnh núi non, sông biển thêm đẹp. Trương Hán Siêu từng ca ngợi: "Giữa dòng long lanh bóng tháp ” (Dục Thúy sơn khắc thạch); “Tháp gồm bốn tầng, đêm tỏa hào quang”, xa gần đều trôngthấy… cao sừng sững, thế chạm trời xanh, tô thêm vẻhùngvĩ cho non sông… ” (Dục Thúy SơnLinh Tế tháp kí)- Phát triển mạch cảm xúc của tiền nhân, trong bài thơ này, Ức Trai miêu tả cảnh sắc núi Dục Thúy bằng những nét vẽ tài hoa, với tất cả tâm hồn người nghệ sĩ: “một cái nhìn mới độc đáo, mang cốt cách phong tình, đầy tính chất nhân vân.

Thật vậy, Nguyễn Trãi đã liên tưởng và sáng tạo nên một loạt hình ảnh ẩn dụ có đường nét, màu sắc, ánh sáng đầy huyền áo để ca ngợi cảnh sắc thiên nhiên tuyệt trần của Dục Thúy Sơn. Nhà thơ đã đem đến cho ngọn núi như con chim trả tắm nước biếc này một tình yêu say đắm của người nghệ sĩ tài hoa.

Du khách đối cảnh sinh tình. Hai câu kết biểu lộ một nỗi cảm hoài man mác. Nhiều bài thơ của ức Trai đều có cấu tứ cảm xúc tương tự. Nhà thơ trực tiếp thổ lộ tình cảm:

"Dẽ cố ngu cầm đàn một tiếng

Dân giàu đủ khấp đòi phương"

(Bảo kính cảnh giới – 43)

“Việc cũ ngoảnh đầu ôi đã dứt

Dòng trôi tìm bóngdạ bâng khuâng’’

(Cửa biển Bạch Đằng)

Gần một thế kỉ sau lên chơi núi Dục Thúy, khi người xưa đã khuất từ lâu rồi, đọc bia tháp Linh Tế, nhà thơ xúc động nhìn nét chữ khắc đã mờ dưới làn rêu. Vật đổi sao dời. Bao nhiêu nước đã chảy qua cầu. Đất nước ta đã trải qua, bao biến cố, bao triều đại hưng vong, suy thịnh… ức Trai bồi hồi nhớ đến công đức người xưa:

“Nhớ xưa Trương Thiếu Bảo,

Bia khắc dấu rêu hoen”.

Trương Hán Siêu là bậc danh sĩ cao khiết, nhà thơ lỗi lạc đời Trần. Tên tuổi ông gắn liền với Dục Thúy Sơn, với những bài kí rất nổi tiếng. Ông đã được thờ ở Văn Miếu, Thăng Long. Thiếu bảo là danh vị cao quý vua Trần ban cho ông. Ức Trai không gọi tên mà chỉ nhắc đến họ, đến danh vị Trương Hán Siêu là một cách xưng hô đầy trọng vọng, cung kính. Đúng là trông núi, ngắm tháp mà bùi ngùi thương nhớ người xưa. Hình bóng Trương Thiếu bảo còn phảng phất đâu đây. Lời thơ hàm súc, nỗi cảm hoài sâu lắng mênh mông. Hình ảnh bia đã phủ đầy rêu gợi tả cảm xúc hoài cổ đậm đà tình nghĩa. Đến chơi núi, nhìn tháp và chùa mà nhớ đến người xưa. Tấm lòng "Uống nước nhớ nguồn” thấm đẫm qua một vần thơ đẹp. Hai chữ “nhớxưa ” (hữu hoài) biểu lộ cái tâm trong trẻo của Ức Trai.

"Dục Thúy Sơn ” là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Bài thơ ngũ ngôn bát cú bằng chữ Hán. Hình tượng thơ mĩ lệ, cảnh sắc đượm vẻ thần tiên. Trong phần luận,4 hình ảnh ẩn dụ sóng nhau, đối nhau, hình ảnh này làm đẹp thêm hình ảnh kia, thể hiện cách cảm, cách tả của nhà thơ mang tâm hồn thơ mộng, tài hoa. Ức Trai, trong cảm nhận cái đẹp của thiên nhiên, sông núi, ngòi bút tài hoa của ông rất tinh tế và nhạy cảm trong gợi tả và biểu cảm.

"Dục Thúy Sơn ” phản ánh một tài năng lớn, một nhân cách văn hóa cao đẹp của Đại Việt trong thế kỉ XV. Ức Trai đã để lại khá nhiều bài thơ giàu tình yêu thiên nhiên, đất nước. Đọc bài thơ này, ta cảm nhận úc Trai là “ôngtiên ngồi trong lầu ngọc" như bạn ông đã nói. Ông đến thăm núi Dục Thúy mà nhớ Trương Hán Siêu; chúng ta đọc thơ ông mà nhớ đến người anh hùng đã cùng Lê Lợi “bình Ngô“ và thảo “Bình Ngô đại cáo Nói rằng thơ ca mang nặng tình người và tình đời là như vậy. Bốn chữ "Vũ trụ di lai ” vuông vắn, to và đẹp khắc trên tấm đá phủ đầy rêu xanh trên đỉnh núi Dục Thúy, đó là dấu tích của Trương Hán Siêu để lại cho đời. Ai đã một lần lên thăm núi chắc sẽ bồi hồi nhìn thấy "Bia khắc dấu rêu hoen ”…

Phân tích Dục Thúy Sơn - mẫu 6

Tình yêu với thiên nhiên là nguồn cảm hứng phong phú trong sáng tác của Nguyễn Trãi. Tác giả thông qua bức tranh của mình không chỉ thể hiện vẻ đẹp tự nhiên mà còn lồng ghép những suy tư sâu sắc về cuộc sống và thế giới xung quanh. 'Dục Thúy sơn', một tác phẩm viết bằng chữ Hán theo thể ngũ ngôn luật thi, ghi điểm với độc giả bởi cảnh đẹp thơ mộng và sự tình cảm chân thành.

Đầu tiên, Nguyễn Trãi tinh tế nhắc đến vị trí quan trọng của núi Dục Thúy:

'Hải khẩu hữu tiên san'

('Cửa biển bao quanh bởi vẻ đẹp của núi tiên')

Từ cụm từ 'tiên san', hình ảnh của ngọn núi tiên gần cửa biển 'hải khẩu' hiện lên. Mặc dù đã trải qua nhiều chuyến thăm 'tiền niên lũ vãng hoàn', nhưng lòng thi sĩ vẫn cảm thấy nơi đây đẹp như thiên đàng tiên cảnh. Vẻ đẹp này được tạo nên bởi những hình ảnh hùng vĩ và thơ mộng.

Nhìn ngắm cảnh đẹp tươi mới ở đây, con người không thể không say mê:

 'Liên hoa phù thủy thượng;

Cảnh tiên diệu kỳ, trải rộng giữa thế gian.'

Nhìn nhận và cảm nhận, thi nhân mơ hình ảnh núi như bông hoa sen tinh khiết đang nở giữa dòng nước trong lành. Hình ảnh ẩn dụ 'liên hoa phù thủy thượng' giới thiệu một sự kết hợp so sánh độc đáo và sáng tạo. Sen tượng trưng cho vẻ đẹp giản dị, trong trắng. Núi như bông sen, Ức Trai muốn thể hiện sự thuần khiết, vẻ đẹp tươi mới của núi non và dòng sông ở đây. Sang câu thơ tiếp theo, nhà thơ khẳng định về vẻ đẹp tự nhiên hữu tình của cảnh sơn thủy. Chữ 'tiên' lần nữa xuất hiện để nhấn mạnh vẻ đẹp huyền bí, lôi cuốn như thiên đàng ẩn chứa trong núi Dục Thúy. Trước hình ảnh này, người đọc cảm giác như đang đứng trước 'cõi tiên đổ xuống giữa thế gian'.

Bức tranh thiên nhiên trong bốn câu thơ đầu được miêu tả từ góc độ rộng lớn, nhìn xa và tổng thể. Bức tranh đó chứa đựng sự kỳ diệu và màu sắc của thế giới tiên giới.

Đến với những câu thơ sau đó, hình ảnh núi Dục Thúy hiện lên vô cùng sống động, rõ ràng:

'Tháp ảnh như trâm ngọc thanh tao;

Ba quang chiếu sáng như ngọc thủy.'

Trong bài thơ 'Dục Thúy sơn', Trương Hán Siêu từng viết 'Trung lưu quang tháp ảnh,' ('Lòng sông in bóng tháp'). Khác với Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi tạo điểm nhấn độc đáo khi so sánh bóng tháp trên mặt nước với chiếc trâm cài tóc của người con gái. Chiếc trâm được chế tác từ ngọc và sáng bóng với màu xanh biếc. Thời xưa, thi nhân thường sử dụng vẻ đẹp của thiên nhiên để diễn đạt nét đẹp của con người. 'Dục Thúy sơn' lại là ví dụ hiện đại và độc đáo khi áp dụng sự duyên dáng của người con gái để mô tả vẻ đẹp của núi soi bóng trên sóng biếc. Hình ảnh này không chỉ là sự so sánh mà còn chứa đựng tình yêu thắm thiết. Cuối cùng, bài thơ kết thúc với những dòng tâm trạng, những suy ngẫm của nhà thơ.

Tương tự những tác phẩm khác, hai câu thơ cuối cùng là lời thoại của tâm hồn, những suy tư sâu sắc của Nguyễn Trãi:

'Tâm hồn hoài niệm Trương Thiếu bảo;

Bia khắc vẻ đẹp thiền hoa ban.'

Khi đắm chìm trong vẻ đẹp của núi Dục Thúy, Nguyễn Trãi không quên hướng tình cảm nhớ thương về cố nhân - Trương Thiếu bảo. Nhìn những dòng chữ trên bảng đá, nơi mà rêu phủ lấp những hồi niềm, thi sĩ ôm lấy tâm hồn buồn bã, nhưng sâu lắng nhớ về danh nhân của đời Trần. Dù thời gian trôi qua, biến động cuộc sống có thay đổi nhưng giá trị của những dòng chữ ấy vẫn giữ nguyên. Với hai câu thơ ngắn, Nguyễn Trãi truyền đạt tâm hồn 'uống nước nhớ nguồn' cao quý của mình.

Sử dụng hình ảnh mĩ lệ, lời thơ như nhịp nhàng, cùng các biện pháp tu từ như so sánh 'Tháp ảnh như trâm ngọc thanh tao;/ Ba quang chiếu sáng như ngọc thủy.', ẩn dụ 'liên hoa phù thủy thượng', nhà thơ đã sáng tạo nên một bức tranh tuyệt vời về núi Dục Thúy. Đồng thời, tinh tế làm lộ suy tư về con người, lịch sử và dân tộc.

'Dục Thúy sơn' là tác phẩm tuyệt vời của Nguyễn Trãi - người có trái tim đam mê thiên nhiên và đất nước. Bài thơ đưa ta đến với hình ảnh hùng vĩ và thơ mộng của núi Dục Thúy, kèm theo tâm hồn cao quý 'uống nước nhớ nguồn' mà thi sĩ truyền đạt.

Phân tích Dục Thúy Sơn - mẫu 7

Thiên nhiên luôn là đề tài ưa thích của Nguyễn Trãi, nguồn cảm hứng dồi dào cho tác phẩm sáng tạo. 'Dục Thúy sơn' không ngoại lệ, là bức tranh thiên nhiên được vẽ bằng trái tim yêu mến và trí tưởng tượng cao đẹp của thi nhân.

Nguyễn Trãi diễn đạt về vẻ đẹp của núi Dục Thúy như một kỳ quan tiên cảnh:

'Hải khẩu hữu tiên san;

Tiền niên lũ vãng hoàn.'

Câu đầu tiên đã tạo ra cái nhìn rõ nét về vị trí đặc biệt của núi Dục Thúy, nơi mà ngón tay của biển sông vuốt nhẹ. Mặc dù đã thăm nhiều lần, nhưng trước vẻ đẹp huyền bí này, thi nhân vẫn trầm trồ:

'Bông hoa phép thuật độc đáo;

Khu vườn thần bí kết nối trời đất.'

Một lần nữa, Nguyễn Trãi tôn vinh vẻ đẹp, nhấn mạnh vẻ huyền bí của núi Phong Hoa qua từ 'khu vườn thần bí'. Đối với nhà thơ, thiên nhiên ở đây là một bức tranh tuyệt vời, lôi cuốn và đầy ma lực. Đỉnh núi tựa như viên ngọc lấp lánh, toả sáng như chiếc vòng thủy tinh quý giá. Trong tâm hồn ấy, Ức Trai đã sử dụng những hình ảnh tinh tế để diễn đạt lòng kính trọng đối với vẻ đẹp tự nhiên tại quê hương. Khung cảnh này khiến người ta say đắm và đặt nghi vấn rằng 'như là thiên đàng đã gửi đến thế gian'.

Ngày càng gần, hình ảnh núi Phong Hoa trở nên rõ ràng và sống động hơn:

'Tháp hình ảnh như linh thạch quý;

Ba vòng quang lấp lánh như viên ngọc thạch.'

Nếu Nguyễn Du đã dùng hình ảnh thiên nhiên để tả vẻ đẹp của con người: 'Ánh thu thủy, nét xuân sơn/Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh', thì ở đây, Nguyễn Trãi đã ngược lại. Ông vận dụng vẻ đẹp của nàng thiếu nữ để làm nổi bật hơn cảnh sắc thiên nhiên. Ngọn tháp trên đỉnh núi phản ánh xuống mặt hồ như một viên ngọc xanh biếc. Mặt nước trong veo giống như chiếc gương phản ánh ánh sáng tuyệt vời, trong khi hình bóng của núi trên mặt sông giống như đang soi bóng mái tóc mềm mại. Sự so sánh này tạo ra một ấn tượng sâu sắc trong tâm trí người đọc.

Trong khung cảnh thiên nhiên kỳ diệu và hùng vĩ đó, người thi sĩ hiện lên với biết bao nỗi niềm hoài cổ:

'Hữu hoài Trương Thiếu thỉnh cầu;

Biến khắc hoa tiền trao ban.'

Ở đây, Nguyễn Trãi đề cập đến Trương Hán Siêu - một học giả tài ba trong thời kỳ Trần, được nhiều vị vua trọng dụng. Bức bia chạm khắc bài thơ của danh sĩ Trương có một chút rêu phủ, nhưng vẫn giữ nguyên giá trị ban đầu. Điều này làm nổi bật thêm sự 'còn người giữa cảnh đẹp đã mất'. Điều này như một nốt trầm, làm cho tâm hồn của Ức Trai trở nên buồn bã và xúc động. Ông hồi tưởng và tiếc thương về một nhân tài, một 'công thần' mà đất nước đã từng có. Qua đó, người đọc cảm nhận được rõ hơn tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của tác giả.

Những hình ảnh thơ tuyệt vời được xây dựng bởi từ ngữ đơn giản nhưng tràn đầy tinh tế. Sự kết hợp khéo léo của các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp siêu hình của núi Dục Thúy mà còn làm say đắm độc giả. Nguyễn Trãi với bút pháp tài năng, mà không có ai có thể so sánh kịp, đã thành công tạo ra một bức tranh 'sơn thủy hữu tình'. Đồng thời, ông truyền đạt cái nhìn chất chứa niềm nhớ nhung về quá khứ.

Qua 'Dục Thúy sơn', độc giả như đang trực tiếp trải nghiệm vẻ đẹp tuyệt vời của 'tiên cảnh' được Nguyễn Trãi tôn vinh. Bài thơ không chỉ là minh chứng cho tài năng nghệ thuật mà còn là biểu tượng của tâm hồn cao quý và đức độ cao quý của nhà thơ tài ba.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học