10+ Phân tích khổ 6 bài Bếp lửa (điểm cao)

Phân tích khổ 6 bài Bếp lửa điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Phân tích khổ 6 bài Bếp lửa (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Phân tích khổ 6 bài Bếp lửa

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

- Dẫn dắt vào khổ thơ thứ 6.

2. Thân bài

* Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc

- Tình cảm của bà cháu rất sâu đậm, gắn liền với hình ảnh bếp lửa

- Hình ảnh bếp lửa rất gần gũi, quen thuộc và thân thương

- Người bà đã chắc chiu tình cảm của mình qua bếp lửa.

* Cảm nghĩ về bà và về bếp lửa

- Hồi tưởng về những kỉ niệm đẹp bên bà: Thời thơ ấu luôn lẻo đẽo theo bà, Người luôn mùi khóc, Nhem nhuốc vì than củi, Cuộc sống nghèo khó những không bao giờ quên.

Quảng cáo

- Hồi tưởng những kỉ niềm bên bà: Hình ảnh cứ quấn quýt bên bà, Tám năm hít khói bếp, Tình cảm bà cháu rất quấn quýt, Sự hi sinh vô bờ của bà dành cho người cháu thân yêu.

- Cảm nghĩ về cuộc đời bà: Cuộc đời vất vả, khó khăn, Yêu bà hơn.

- Nỗi niềm thương nhớ bà: Tình yêu và nhớ bà mãnh liệt trong tâm hồn cháu, Dù đi xa những cháu vẫn hướng về bà.

3. Kết bài

- Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ bếp lửa.

Phân tích khổ 6 bài Bếp lửa - mẫu 1

Khổ thơ thứ 6 trong bài thơ “Bếp lửa” là khổ thơ hay nói lên suy nghĩ của người cháu về bà và hình ảnh bếp lửa. Tuổi thơ dài gắn bó với bà, người cháu hiểu rõ những khó khăn, gian khổ trong cuộc sống của bà. Bà đã phải trải qua bao năm tháng nắng mưa. Trong suốt thời gian đó, bà không quản ngại khó khăn, nhọc nhằn để bươn trải nuôi dạy các cháu thành người tốt. Cho đến bây giờ, vẫn theo thói quen cũ, ngày nào bà cũng dậy sớm nhóm lửa để mưu sinh.

Quảng cáo

Trong trí nhớ của người cháu, hình ảnh đó vô cùng đẹp đẽ và trong sáng. Bà chính là người đã nhóm lên ngọn lửa yêu thương và là một phần kí ức đẹp của tuổi thơ cháu. Điệp từ “nhóm” được nhắc lại 4 lần nhấn mạnh rằng bà chính là người đã nhóm lửa, người truyền lửa và giữ lửa thắp sáng cho tâm hồn cháu. Đó là ngọn lửa của sự cố gắng, nỗ lực, của tinh yêu thương vô bờ bến.

Thông qua hình ảnh bình dị thân thương của bếp lửa, người cháu đã nhận ra những điều vô cùng thiêng liêng. Ngọn lửa được thắp lên bởi chính đôi bàn tay của người bà đã nuôi dưỡng tuổi thơ của mình. Một loạt ký ức về bà, về những kỷ niệm xưa cứ ùa về, khiến nhà thơ phải thốt lên: “Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – Bếp lửa!”. Chữ “ôi” mang trong mình biết bao tình cảm trìu mến, thiêng liêng, tha thiết. Chắc chắn rằng Bằng Việt đã có những năm tháng tuổi thơ đáng nhớ, đáng trân trọng bên bà.

Qua những câu thơ ngắn gọn nhưng chất chứa cảm xúc, Bằng Việt đã bày tỏ tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc đối với bà. Đó cũng chính là biểu hiện cụ thể của tình yêu quê hương, đất nước khi xa cách.

Quảng cáo

Phân tích khổ 6 bài Bếp lửa - mẫu 2

Bằng Việt là nhà thơ tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Năm 1963, Bằng Việt sáng tác bài thơ Bếp lửa, một bài thơ ngắn gọn nhưng sâu bên trong ẩn chứa nhiều giá trị nghệ thuật và nội dung độc đáo. Đặc biệt, qua bài thơ tác giả đã gợi lên những kỷ niệm đẹp về người bà, tình cảm sâu sắc và dịu dàng giữa bà và cháu.

Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà chính bà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin cho các thế hệ sau. Ở khổ thơ thứ sáu, lòng tự hào và biết ơn đối với công lao, hy sinh của người bà kính yêu được thể hiện rõ ràng nhất:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,

Nhóm nồi xôi gạo mới, sẻ chung vui,

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Những suy nghĩ và kỉ niệm về bà hiện lên thật chân thực, rõ nét. Bà là người nhóm lửa suốt cuộc đời, kể cả nắng mưa vẫn không quản ngại khó khăn với công việc của mình. Bà thắp sáng ngọn lửa không chỉ bằng đôi bàn tay gầy guộc mà còn bằng cả tấm lòng chân thành mà bà giành cháu và tất cả mọi người. Sự lặp lại của từ “nhóm” và câu thơ cảm thán đã khắc sâu hình ảnh bà trong tâm trí của cháu. Bà đại diện cho phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam, tần tảo, nhẫn nại và đầy ắp tình yêu thương.

Không chỉ đơn giản là nhóm bếp lửa, mà bàn tay bà cũng nhóm lên niềm vui, niềm hạnh phúc và sự sống. Chính vì thế mà nhà thơ cảm nhận được trong hình ảnh ngọn lửa giản dị, quen thuộc, nhưng cũng vô cùng thiêng liêng. Bếp lửa là thứ giản dị và gần gũi, phổ biến trong mỗi gia đình Việt Nam, nhưng qua những vần thơ sâu sắc của tác giả, ta thấy được bếp lửa thật cao quý và thiêng liêng, bởi nó gắn liền với hình ảnh người bà, gắn liền với kỉ niệm thời thơ ấu của cháu.

Như vậy qua bài thơ “Bếp lửa” đã đánh thức trong mỗi chúng ta tình cảm cao quý đối với quê hương, gia đình và xã hội. Càng đọc, ngẫm từng câu, từng chữ trong bài thơ chúng ta càng hiểu thế nào là nhớ nhà, nhớ quê hương, nhớ hình ảnh thân thuộc gắn liền với bếp lửa và bà.

Qua khổ thơ thứ 6, tác giả muốn truyền tải đến thế hệ chúng ta cần nhớ về cội nguồn, nhớ về nơi mình sinh ra và lớn lên, nhớ về hình ảnh thiêng liêng bên bếp lửa để cuộc sống thêm ý nghĩa.

Phân tích khổ 6 bài Bếp lửa - mẫu 3

Bằng Việt có một tuổi thơ đầy hoài niệm về hình ảnh người bà kính yêu. Tình cảm ấm áp, yêu thương giữa bà và cháu đã đan xen thành một bài thơ giàu cảm xúc và gợi lên nhiều ý nghĩa. Đó là bài thơ “Bếp lửa”.

Hình ảnh người bà hiện lên thật hiền hậu và bếp lửa quê hương là hình ảnh trung tâm của nỗi buồn hoài niệm, lan tỏa và vương vấn trong suy nghĩ của người cháu. Trong khổ thơ thứ 6, tác giả đã thể hiện rất chi tiết sự cần cù, tần tảo và đức tính cao đẹp, hy sinh của người bà để chăm sóc cháu.

Hình ảnh người bà cũng là hình ảnh đại diện cho người phụ nữ Việt Nam giàu lòng hy sinh, dù gian khổ, khó khăn vẫn luôn tỏa sáng tình yêu thương. Tình thương dành cho người bà được thể hiện qua từng câu chữ. Tình cảm đó giản dị, chân thành nhưng rất sâu sắc và nồng nàn.

Trong cuộc sống, người bà luôn chăm lo cho cháu cả về vật chất lẫn tinh thần để cháu có thể trưởng thành. Bà là người thắp lên ngọn lửa, và cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa ấm áp và tỏa sáng trong gia đình. Để khắc họa những hình ảnh sắc nét, điệp từ “nhóm” trong khổ thơ thứ sáu được lặp lại bốn lần và mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Nó làm tăng thêm sự kỳ lạ và thiêng liêng của bếp lửa thân thương. Bà không chỉ là người truyền hơi ấm tình thương mà còn là người khơi dậy trong tâm hồn cháu tình cảm ruột thịt, dạy cháu biết cách sẻ chia, biết đoàn kết và gắn bó với hàng xóm và rộng hơn là tình yêu quê hương đất nước.

Và cũng từ hình ảnh bếp lửa, bà khơi dậy trong cháu những kỷ niệm, những ký ức đẹp đẽ của tuổi thơ để cháu luôn nhớ về nó, cũng có nghĩa là nhớ về cội nguồn, nhớ về quê hương, nhớ về dân tộc mình. Và như vậy, tuy hình ảnh bếp lửa hiện lên giản dị, mộc mạc nhưng mang ý nghĩa vô cùng to lớn, trở thành ngọn lửa trong tim – ngọn lửa chứa đựng niềm tin và sức sống của con người.

Trong tâm trí của người cháu, bếp lửa và bà là những thứ tuy rất giản dị nhưng ẩn chứa điều gì đó cao quý và đáng trân trọng. Cảm xúc thôi thúc, tác giả phải thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Hình ảnh người bà và hình ảnh bếp lửa luôn tươi sáng và đẹp đẽ trong tâm hồn nhà thơ. Câu thơ giàu cảm xúc với cấu trúc đảo cho thấy sự ngạc nhiên, ngỡ ngang của người cháu khi khám phá ra một điều thiêng liêng giữa cuộc sống bình dị.  .

Chắc chắn, người cháu sẽ không bao giờ quên và không thể quên được hình ảnh của bà và bếp lửa thân thương, vì đó là cội nguồn, là nơi nuôi dưỡng tuổi thơ và chính nơi đó người cháu đã lớn lên. Người bà và quê hương yêu dấu là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho đứa cháu trên mỗi bước đường đời.

Khổ thơ thứ 6 trong “Bếp lửa” của Bằng Việt là những vần thơ đẹp về hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu khi đã lớn lên, gợi lại những kỷ niệm đầy cảm xúc của người bà và mối quan hệ giữa bà và cháu. Qua đó, thể hiện tình cảm sâu sắc đối với gia đình, quê hương, đất nước.

Phân tích khổ 6 bài Bếp lửa - mẫu 4

Bằng Việt có tên thật là Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941. Ông quê ở Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, Hà Nội. Nhà thơ Bằng Việt là tác giả trưởng thành trong cuộc kháng chiến Mĩ cứu nước. Bằng Việt làm thơ từ rất sớm, từ năm ông 13 tuổi. Bài thơ đầu tiên của ông được công bố là “Qua Trường Sa”. Năm 1968, tập thơ đầu tay của ông và nhà thơ, nhà văn Lưu Quang Vũ là Hương cây – Bếp lửa được xuất bản và được tái bản gần đây. Bằng Việt từng là Chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn Việt Nam và Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Điểm nổi bật của thơ Bằng Việt là giọng điệu tâm tình, cảm xúc tinh tế và trầm lắng, giúp tạo sức lôi cuốn với người đọc. Bài thơ “Bếp lửa” được Bằng Việt viết năm 1963, khi ông đang học ngành Luật ở nước ngoài. Bài thơ là câu chuyện cảm động về tình cảm bà cháu. Khổ cuối bài thơ thể hiện dòng hồi tưởng chân thành của giả về người bà của mình.

Con người khi lớn lên thường hoài niệm về những kỉ niệm tuổi thơ. Đó là kỉ niệm với cha mẹ, với ông bà. Trong bài thơ “Bếp lửa”, Bằng Việt hồi tưởng về kỉ niệm tuổi thơ với hình ảnh người bà tần tảo, hiền hậu. Và hình ảnh luôn diện diện cùng ba là bếp lửa. Bếp lửa đã khơi nguồn cảm xúc để tác giả thể hiện nỗi nhớ qua bài thơ. Xuyên suốt tác phẩm thơ, Bằng Việt khắc họa chân thật và rõ nét hình cảnh người, qua đó thể hiện niềm nhớ và tình yêu thương, cảm phục đối với người bà thân yêu của mình.

Kỷ niệm tuổi thơ bên bà là được bà chăm dạy, cùng bà lớn lên mỗi ngày. Lúc này, khi ở xa quê hương, mọi ký ức ùa về trong tâm trí tác giả, khiến ông xúc động. Và tác giả viết nên những dòng thơ tâm tình  ẩn chứa triết lí sâu xa mà ta sẽ thấy khi phân tích khổ 6 bài bếp lửa:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm.

Ở khổ đầu bài thơ, hình ảnh người bà “biết mấy nắng mưa”. Sự xuất hiện thêm lần nữa ở khổ thơ cuối như một sự nhấn mạnh cuộc đời cơ cực của bà. Hai chữ “lận đận” là gói gọn cuộc đời bà. Bà âm thầm chịu đựng bao vất vả, khó khăn, gian nan, nguy hiểm để chăm sóc cháu, để con cái yên tâm chiến đấu ở mặt trận kháng chiến.

Sau này, dù chiến tranh đã qua, nhưng nhọc nhằn chưa từng vơi bớt, thói quen dậy sớm bà vẫn giữ. Những gian nan, vất vả trong đời bà dường như không bao giờ dứt. Phân tích khổ 6 bài bếp lửa, ta thấy người bà luôn thức khuya dậy sớm, chăm sóc, vun vén cửa nhà, dù vất vả nhất bà vẫn luôn là người nhóm lên ngọn lửa yêu thương ấm áp trong gia đình:

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Trong đoạn thơ này, từ “nhóm” được lặp lại nhiều lần nhằm khẳng định, không ai khác chính là bà đã làm nhen và thổi bùng ngọn lửa tình yêu thương trong lòng cháu. Khi “nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm”, là bà đang dạy cháu về tình yêu thương ruột thịt, tình yêu thương trong gia đình. Khi nhóm “khoai sắn ngọt bùi” là giúp cháu hiểu về tình nghĩa làng xóm, về tình yêu hương dù là mảnh đất nghèo. Khi bà “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui”, cháu học được từ bà tấm lòng rộng mở, luôn biết chia sẻ với mọi người xung quanh.

Qua phân tích khổ 6 bài bếp lửa thấy người bà cũng nhắn nhủ cháu rằng, không được quên những năm tháng gian khó mà đầy nghĩa tình mà hai bà cháu đã cùng nhau trải qua. Bà không chỉ nhóm lên ngọn lửa ấm nồng và sáng mãi trong lòng mọi người, bà còn chăm sóc, dạy dỗ, bồi đắp ở cháu một tấm lòng nhân hậu và ước mơ, lẽ sống.

Bằng bếp lửa khó khăn, nhọc nhằn, bà đã nuôn cháu lớn khôn. Giờ đây, cháu bay xa với ước mơ, du học tận nước Nga xa xôi, cháu phải xa bà, xa quê hương. Trong cuộc đời cổ tích của cháu, bà là bà tiên hiền hậu, luôn nâng cháu tiến lên từng bước. Từ cuộc đời nghèo khổ bên bếp lửa ấm nồng tình yêu thương của bà, bà đã ươm mầm ước mơ, hoài bão nơi cháu. Những gì cháu đạt được, thành công cháu có được hôm nay là nhờ có ngọn lửa ấm của bà mỗi sáng chiều.

Cháu dù trưởng thành về thể xác, nhưng nếu không được nuôi dưỡng bằng ngọn lửa của bà, bằng tấm lòng yêu thương của bà, tâm hồn cháu có lẽ không thể lễ nghĩa ở đời. Phân tích khổ 6 bài bếp lửa ta thấy, người bà mang một sức mạnh kì diệu, đã nuôi lớn tâm hồn cháu với biết bao tình cảm, nghĩa tình cao đẹp, ươm mầm và chắp cánh cho người mơ bay cao, bay xa của cháu.

Và lúc này, cảm xúc của tác giả dâng trào, thể hiện qua âm điệu dạt dào của câu thơ:

“Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Câu thơ ngắn nhưng đã khái quát những suy nghĩ và tình cảm của nhà thơ Bằng Việt dành cho bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà. Bà là người giữ lửa, nhóm lửa, truyền lửa và cũng là người bồi đắp yêu thương, hoài bão cho cháu. Cháu đã trưởng thành, đã bay xa, đã không còn được bên cạnh bà nhưng bà và bếp lửa mãi mãi là một mảnh tâm hồn, một phần không thể thiếu và mất đi trong cuộc đời cháu.

Con người ta thường nhớ về những ký ức bên người thân, gia đình khi phải sống xa nhau. Và Bằng Việt cũng vậy. Nhưng giờ đây, dù không được ở gần bên bà, ở xa quê hương nhưng cháu vẫn luôn hướng về quê hương, vẫn da diết nhớ bếp lửa, nơi có bà ngồi đó cô đơn, lặng lẽ:

Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhớ:

– Sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa?…

Ngày tháng dài trôi qua, đứa cháu bé nhỏ vẫn bên bà năm xưa nay đã lớn khôn, đang dang cánh với ước mơ nơi phương trời xa, được đi nhiều nơi, trải nghiệm nhiều thứ mới mẻ, hạnh phúc. Nhưng cháu vẫn không nguôi nỗi nhớ bà, nỗi nhớ quê hương, nhớ ngọn lửa ấm nồng năm xưa. Câu thơ cuối của bài là một câu hỏi tu từ, cũng như một lời độc thoại, lời tự hỏi mang nỗi nhớ khắc khoải:

– Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?…

Câu thơ, câu hỏi tu từ ấy cũng khép lại bài thơ một cách khéo léo, gợi lên trong người đọc những day dứt khôn nguôi. Người cháu luôn tự nhắc nhở luôn phải nhớ về bếp lửa, về bà, điểm tựa tinh thần vững vàng cho cháu nơi đất khách quê người. Như vậy, phân tích khổ 6 bài bếp lửa ta thấy, bếp lửa vừa là một hình ảnh vật lý, vừa mang ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu thương, nguồn cuội gia đình, quê hương.

Nhưng câu cuối ấy chưa phải phải là kết thúc bài thơ, mà dấu chấm lửng ở cuối bài cũng để lại những nhiều suy ngẫm. Dấu câu gợi ra bài học đạo lý sống nhân nghĩa, chung thủy, phải biết ơn, nhớ về gia đình, hàng xóm, gia đình, nguồn cội.

Quả thực, “bếp lửa” là một hình ảnh gần gũi nhưng được Bằng Việt sáng tạo thành một hình tưởng mang ý nghĩa tượng trưng điển hình. Bài thơ vì thế mang triết lí sâu sắc. Phân tích khổ 6 bài bếp lửa ta thấy rõ nhất triết lí ấy. Đó là ký ức tuổi thơ tươi đẹp, đầy tình yêu thương sẽ là sức mạnh nâng đỡ con người, giúp mỗi người kiên trì, tỏa sáng trong hành trình cuộc đời riêng mình. Và chính từ thân, tình hàng xóm bình dị sẽ khởi nguồn cho tình yêu quê hương đất nước.

Phân tích khổ 6 bài Bếp lửa - mẫu 5

Tình cảm gia đình là một nguồn cảm hứng bất tận đối với các thi sĩ, đã có rất nhiều tác phẩm làm xúc động lòng người khi viết về đề tài thiêng liêng này. Bài thơ “Bếp lửa” của tác giả Bằng Việt cũng viết về đề tài này, thắp sáng tình cảm gia đình bằng hơi ấm thấm đượm tình bà cháu nồng nàn. Bằng những vầng thơ theo dòng hồi tưởng, gợi nhớ về tuổi thơ của đứa cháu xa nhà, bài thơ “Bếp lửa” đã ca ngợi đức hi sinh, sự tần tảo và tình thương bao la của bà, đồng thời thể hiện sự kính yêu và lòng biết tha thiết của cháu đối với bà.

Bà đã chịu đựng tất cả nhọc nhăn, khôn khổ, mất mát, hi sinh. Bà đã góp gom, ấp ủ, chắt chiu, nhen nhóm. Những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa dã man, kì lạ thay, lại được hồi sinh trong ngọn lửa của bà! Cứ thế cuộc đời bà cháu được chở che, duy trì qua bao năm tháng. Cứ thế sự sống muôn đời được giữ gìn nuôi dưỡng, trường tồn. Chính ngọn lửa của lòng bà đã nhen lên ngọn lửa bền bỉ trong bếp lửa kia! Vừa kể lại, vừa tỏ lòng thương nhớ, biết ơn, vừa suy tư. Đến đây nhà thơ mới đúc kết về sự kì lạ và linh thiêng bếp lửa của bà:

Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp ỉu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

Ôi kì lạ và thiêng liêng bếp lứa

Và đứa cháu hiếu thảo ấy giờ đây đã lớn, đã đi rất xa nơi bếp lửa của bà, đã biết đến khói trăm miền, đã vui với ngọn lửa trăm nhà. Cháu đã đi ra với đất rộng trời cao, đến với những chân trời hạnh phúc. Nhưng trong lòng cháu vẫn chỉ nhớ về ngọn khói đã làm nhèm mắt cháu thuở lên bốn, chỉ nhớ về ngọn lửa tảo tần nắng mưa nơi góc bếp của bà. Cháu chẳng bao giờ quên bếp lửa bởi đó là cội nguồn, bởi cuộc đời cháu đã được nhen lên từ trong ngọn lửa ấy:

Giờ cháu đã đi xa.

Có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chắc lúc nào quên nhắc nhở:

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?...

Lời nhắc ấy là lời nhắc của ngọn lửa mà cháu đã mang theo từ bếp lửa của bà? Thế là ngọn lửa của bà giờ đây đã cháy trong lòng cháu! Một bếp lửa của cuộc đời mới được nhen lên! Cứ thế, ngọn lửa của sự sống truyền đời bất diệt!
“Bếp lửa” là bài thơ cảm động! Tình cảm dạt dào trong lòng đã tìm đến một giọng điệu, một nhịp điệu thật phù hợp, ấy là nhịp bập bùng của lửa! Giọng kể lể và bộc bạch cứ tràn ra, cứ dâng lên, mỗi ngày một nồng nàn, ấm nóng. Đâu phải ngẫu nhiên bài thơ bắt đầu bằng một đoạn ba câu, rồi càng những đoạn sau, số câu trong từng đoạn nhiều mãi. Khi số lượng không nhiều, thì giọng thơ lại cuộn lên. Lối trùng điệp được sử dụng hết sức biến hóa. Những kiểu câu lặp lại, những vế câu láy lại, những lời nhấn nhá thật nhiều. Tất cả phối hợp với nhau góp phần tạo nên sự dạt dào xáo động của tâm tình, tất cả góp phần tạo nên cái nhịp chờn vờn, bập bùng, dai dẳng của ngọn lửa. Vì lối viết như vậy mà người đọc bị cuốn vào âm điệu thật đặc biệt. Đọc “Bếp lửa” chẳng những thấy được một dòng tâm tư sâu nặng dạt dào của một đứa cháu nghĩa tình hiếu thảo, mà còn như thấy rõ ngọn lửa cứ chờn vờn, bập bùng suốt cả âm điệu nồng hậu của bài thơ.

Phân tích khổ 6 bài Bếp lửa - mẫu 6

 Hình ảnh người bà hiền hậu và bếp lửa quê hương là hình ảnh trung tâm của nỗi nhớ, có sức lan tỏa và đọng lại trong những suy ngẫm của người cháu trong bài thơ. Chính hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà

Có thể thấy, từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp. Sự tần tảo và đức hy sinh chăm lo cho người của bà được tác giả thể hiện trong một chi tiết rất tiêu biểu:

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”.

Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “mấy chục năm”, từ láy tượng hình “lận đận”, hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” diễn tả cảm nhận của nhà thơ về cuộc đời gian nan, vất vả và sự tần tảo, đức hi sinh, chịu thương, chịu khó của bà. Cuộc đời bà là một cuộc đời đầy gian truân, vất vả, nhiều lận đận, trải qua nhiều nắng mưa tưởng như không bao giờ dứt. Hình ảnh của bà cũng là hình ảnh của bao người phụ nữ Việt Nam giàu đức hy sinh dù gian truân vất vả vẫn sáng lên tình yêu thương. Tình thương yêu tác giả dành cho bà được thể hiện trong từng câu chữ. Tình cảm ấy giản dị, chân thành mà thật sâu nặng thiết tha.

Suốt cuộc đời, bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật chất và tinh thần để cháu lớn lên. Bà là người nhóm lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình. Để khắc họa đậm nét hình ảnh ấy, trong khổ thơ thứ sáu, điệp từ “nhóm” được nhắc đi nhắc lại tới bốn lần và mang những ý nghĩa khác nhau. Nó cứ bồi đắp cao dần những nét kỳ lạ và thiêng liêng của bếp lửa.

Từ “nhóm” đầu tiên: “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm” nhóm là động từ thể hiện một hành động làm cho lửa bén, cháy lên ngọn lửa và một bếp lửa hoàn toàn có thật có thể cảm nhận bằng mắt thường để xua tan đi cái giá lạnh của mùa đông khắc nghiệt để nấu chín thức ăn và đó là một bếp lửa rất bình dị có ở mọi gian bếp của làng quê Việt Nam. Thế nhưng từ “nhóm” trong những câu thơ sau : “Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi – Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui – Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” thì từ nhóm lại mang ý nghĩa ẩn dụ. Có nghĩa là bà đã “nhóm” lên, đã khơi dậy niềm yêu thương, những ký ức đẹp, có giá trị trong cuộc đời mỗi con người. Bà đã truyền hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn cháu tình yêu thương ruột thịt, tình cảm sẻ chia tình đoàn kết với hàng xóm láng giềng và rộng ra nữa là tình yêu quê hương đất nước.

Nhờ ngọn lửa mà bà “ủ”, bà “nhen”, bà “giữ”, cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với xóm làng. Người cháu yêu bà, nhờ hiểu bà mà thêm hiểu, thêm yêu dân tộc mình, nhân dân mình.

Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà khơi dậy cả những ký ức, kỷ niệm tuổi ấu thơ trong cháu để cháu luôn nhớ về nó cũng có nghĩa là nhớ về cội nguồn, nhớ về đất nước quê hương, nhớ về dân tộc mình. Và như vậy hình ảnh bếp lửa đơn sơ giản dị đã mang ý nghĩa khái quát trở thành ngọn lửa trong trái tim – một ngọn lửa ẩn chứa niềm tin và sức sống của con người.

 Trong tâm trí nhà thơ, bếp lửa và bà là những gì tuy thật bình dị, song ẩn giấu điều cao quý thiêng liêng. Cảm xúc dâng trào, tác giả đã phải thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Hình ảnh bà và hình ảnh bếp lửa lúc nào cũng sáng đẹp lung linh trong tâm hồn nhà thơ. Câu thơ cảm thán với cấu trúc đảo thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như một khám phá ra một điều kỳ diệu giữa cuộc đời bình dị. Từ ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một niềm tin dai dẳng về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa.

Chắc chắn, cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội, là nơi mà tuổi thơ của cháu được nuôi dưỡng để lớn lên từ đó. Bà và quê hương yêu dấu là điểm tựa, là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu trên mỗi bước đường đời.

“Bếp lửa” của Bằng Việt là những hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, nhớ lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu. Qua đó, bộc lộ những tình cảm sâu nặng đối với gia đình, quê hương, đất nước. Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất.

Phân tích khổ 6 bài Bếp lửa - mẫu 7

Đoạn thơ thứ 6 trong bài thơ “Bếp lửa” là một đoạn thơ hay nói về những suy ngẫm của người cháu về người bà và hình ảnh bếp lửa. Suốt một tuổi thơ dài gắn bó bên bà, người cháu hiểu rất rõ cái khó khăn và sự lận đận của cuộc đời bà.

Bà đã phải trải qua biết bao năm tháng nắng mưa. Trong quãng thời gian ấy, bà không quản ngại khó khăn,nhọc nhằn để bươn trải và nuôi dạy con cháu nên người. Cho tận bây giờ, vẫn thói quen xưa cũ ấy, hàng ngày bà vẫn dạy sớm nhóm bếp lửa để mưu sinh. Trong tiềm thức của người cháu, hình ảnh ấy đẹp đẽ và thiêng liêng vô cùng. Chính bà là người đã nhóm lên ngọn lửa yêu thương, nhóm lên biết bao tình yêu thương và làm trỗi dạy trong kí ức người cháu những kỉ niệm xưa cũ thật tuyệt vời. Điệp từ “nhóm” được lặp lại 4 lần đã nhấn mạnh bà chính là người nhóm lửa, người truyền lửa và giữ lửa cho cháu. Bà đã thắp lên trong lòng người cháu ngọn lửa của sự cố gắng, ngọn lửa của tình yêu thương và lòng nhiệt huyết tràn đầy. Qua hành động nhóm lửa, bà muốn truyền lại cho người cháu hơi ấm của tình yêu, sự sẻ chia với mọi người làng xóm xung quanh. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà đã gợi dậy cả những kí ức tuổi thơ trong lòng của người cháu để cháu luôn nhớ về nó và đó cũng chính là luôn khắc ghi nhớ tới cội nguồn quê hương, đất nước của dân tộc mình.

Từ đó bếp lửa trở nên kì lạ, thiêng liêng "Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!". Từ cảm thán "Ôi" kết hợp với nghệ thuật đảo ngữ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như phát hiện ra chân lí, điều kì diệu giữ cuộc đời bình dị. Cũng từ đó, đối với người cháu, hình ảnh bà và bếp lửa quả thực đã trở nên bất tử, thiêng liêng.

Phân tích khổ 6 bài Bếp lửa - mẫu 8

Ba câu thơ tựa như một bản tình ca về bà và cháu thật ấm áp, thiêng liêng. Hình ảnh bếp lửa lại một lần nữa được hiện ra mang theo hương vị thân thương, mang theo nét đơn sơ, và sự tinh tế. Hình ảnh của ba câu thơ trên không còn là hình ảnh sợ hãi từ nạn đói, không phải là chiến tranh đẫm máu mà là hình ảnh bình yên, tràn ngập yêu thương bên ngọn lửa rực rỡ ánh hồng. Ngọn lửa được thắp lên sau khi đã trải qua nạn đói, chiến tranh, sau khi bà đã dựng lại túp lều tranh rồi bên ngọn lửa bà và cháu mang trong lòng một niềm tin kháng chiến, niềm tin vào hạnh phúc mai này.

“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm”

Cụm từ “biết mấy nắng mưa” được lặp lại một lần nữa từ khổ 1 có ý nhấn mạnh thêm vất vả của bà, rất nhiều “lận đận” nhiều “nắng mưa” của đời bà. Dù đã trải qua mấy chục năm, nhưng bà vẫn giữ cho mình thói quen dậy sớm, vẫn mang những gian lao nhọc nhằn trên đôi vai như không bao giờ có kết thúc. Và cháu thương mãi những thói quen của bà, thói quen nhóm lên bếp lửa yêu thương, bếp lửa sáng soi con đường cháu đi.

“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,

Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…

Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”

Điệp từ “nhóm” bốn lần, nhưng mỗi một lần lại mang một ý nghĩa khác nhau, một cung bậc cảm xúc kỳ diệu, thiêng liêng, một khung cảnh trữ tình bên bếp lửa yêu thương. Đó cũng là lời khẳng định cho đức hi sinh cao cả, to lớn của bà, bà đã thắp lên ngọn lửa niềm tin cho cháu, bà thắp lên ngọn lửa xua tan khổ cực cuộc đời, bà thắp lên một con đường rộng mở cho cháu, bà mang gánh nhọc nhằn trên vai, dẫu thế bà vẫn âm thầm truyền cho cháu ngọn lửa ấm nồng chan chứa tình thương, từ củ khoai, củ sắn, từ túp lều tranh, từ giọt mồ hôi bà rơi vì cháu. Để rồi khi mai này, khi cháu đã trưởng thành vẫn mãi không quên:

“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:

– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”

Đoạn kết được đúc kết, rèn giũa từ tất cả niềm thương nhớ, tất cả sự kính yêu, biết ơn với bà. Bao năm trôi qua, khi cháu đã khôn lớn trong một khung cảnh mới, một nơi rất xa nơi bà cháu vẫn chưa bao giờ một lần quên đi hình dáng bà bên bếp lửa thân thương. Đặc biệt, câu hỏi “Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?” đọng lại trong người đọc một cảm giác lâng lâng khó tả, một cảm xúc mang tên xúc động, câu hỏi mang theo một vùng trời thương nhớ, một khung hình kỉ niệm tuổi thơ có bà có bếp lửa, có chim tu hú, có những cánh đồng, có cả túp lều, và những gian khổ cháu cùng bà trải qua.

Câu hỏi kết thúc bài thơ đọng lại trong ta là những cung bậc cảm xúc, như nhắc nhở người cháu luôn phải nhớ về bà, về miền ký ức tuổi thơ. Bài thơ với những hình ảnh ẩn dụ, miêu tả, biểu cảm được kết hợp nhuần nhuyễn mang đậm chất trữ tình sâu lắng, bên hình ảnh bếp lửa với ý nghĩa sâu xa thầm kín. Những gì gắn bó với tuổi thơ là những điều nâng đỡ ta lớn lên, trưởng thành, những con cùng ta trải qua tuổi thơ khi nhớ về họ cũng sẽ là khởi đầu cho bước tiếp theo của cuộc đời. Bài thơ nhắc nhở ta phải luôn nhớ về cội nguồn, yêu thương quê hương gắn bó với ta, đừng bỏ quên những người đã cùng ta trưởng thành, cùng ta trải qua khó khăn nhọc nhằn của cuộc đời làm tiền đề cho sự phát triển của bản thân ta.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học