10+ Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang (điểm cao)

Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang

1. Mở bài

- Giới thiệu khổ thơ cuối của bài thơ Tràng giang.

2. Thân bài

a) Hai câu đầu: màu sắc cổ điển của các hình ảnh thiên nhiên

- Các hình ảnh mây, núi, gió được thể hiện rất rõ và nổi bật qua đoạn thơ.

- Hình ảnh lớp mây thể hiện nỗi buồn của tác giả vô bờ.

- Hình ảnh cánh chim lẻ loi, thể hiện nỗi buồn của tác giả thêm sâu nặng.

- Hình ảnh cánh chim không chỉ báo hiệu hoàng hôn mà còn chỉ cái tôi nhỏ nhoi, cô đọng của tác giả.

b) Hai câu cuối

- Nhà thơ có cảm giác nhớ quê hương khi đứng trước cảnh thiên nhiên.

Quảng cáo

- Nỗi buồn của Huy Cận được thể hiện rất sâu sắc và nổi bật.

- Khát vọng sự đẹp đẽ, tươi đẹp về quê hương đất nước, góp sức mình cho quê hương, đất nước.

3. Kết bài

- Nêu cảm nhận của em về khổ thơ cuối của bài Tràng giang.

Ví dụ: Khổ thơ cuối bài thơ Tràng giang thể hiện cảnh núi non hùng vĩ của sông nước. bên cạnh đó còn thể hiện cái tôi nhỏ nhoi của tác giả.

Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang - mẫu 1

Huy Cận là một nhà thơ tiêu biểu trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Trong số những tác phẩm mà ông để lại cho đời thì nổi bật nhất có lẽ là "Tràng giang". Tác phẩm đã tái hiện lại xuất sắc vẻ đẹp của thiên nhiên khi hoàng hôn buông xuống cũng như tâm trạng buồn mênh mang của nhân vật trữ tình. Điều này được tác giả thể hiện rõ nét qua những câu thơ "Lớp lớp mây cao ... cũng nhớ nhà".

Quảng cáo

Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn nhưng tác giả đã gợi cho người đọc biết bao cảm xúc.

Mở đầu đoạn cuối là hình ảnh những đám mây từng lớp đùn lên thành những dãy núi bạc. có lần, Huy Cận từng tâm sự, ông học được chữ “đùn” trong thơ Đỗ Phủ:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”

Nhưng đến với thơ Huy Cận nỗi sầu trong ông đã thấm sâu vào cảnh vật, nó chất chứa trong tâm hồn để vào trong thơ lại là “đùn” thành núi bạc.

Một cánh chim chiều sa xuống gợi sự lẻ loi, cô đơn giữa bao la vũ trụ, bóng chiều tà như đang đổ ập xuống và cánh chim ấy không biết về đâu. Vẫn là thủ pháp trong thơ cổ: cái lẻ loi, đơn độc đối lập với sự rộng lớn bao la và hình ảnh cánh chim quen thuộc thơ xưa gợi buổi chiều nhưng vẫn không khỏi làm ta xao xuyến khi đến với thơ ông.

Trong không gian ấy, người lữ khách nhớ về quê hương, nỗi nhơ ấy dợn dợn trong tâm hồn nhà thơ thật man mác, thấm đượm nỗi buồn. Bởi thế mới có “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Khác với Thôi Hiệu nhìn khói sóng mà nhớ quê hương:

Quảng cáo

“Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”

Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, Huy Cận đã trải lòng mình trên từng trang thơ để thể hiện tình yêu quê hương, đất nước tha thiết.

Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang - mẫu 2

Ai đó đã từng nhận xét như này về thơ Huy Cận: rằng, thơ ông không phải là rượu đã rót vào chén mà là men được lên, không phải là hoa trên cành, mà là dòng nhựa đương chuyển. Phải chăng muốn nói đến sức sống cũng như sức gợi của sự hàm súc, cô đọng trong cách dùng từ đặt câu của thi nhân. Khổ thơ 4 bài Tràng Giang có thể xem là chuẩn mực cho nhận định ấy.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc...

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Thế giới thiên nhiên được Huy Cận tạo ra bao giờ cũng là một không gian hùng vĩ rợn ngợp và gợi buồn. Mà như Hoài Thanh đã nói, rằng "tưởng như Huy Cận đã lượm lặt hết những chút buồn rơi rải rác để viết nên những vần thơ âu sầu ảo não như thế". Vừa bước vào thế giới thơ, ta đã bắt gặp ngay hình ảnh thiên nhiên hùng vĩ mà thấm màu buồn đã được phác lên làm toàn bộ bức phông nền cho cảnh vật. Lớp lớp, mây cao và núi bạc. Những chất liệu rất quen thuộc trong thơ cổ điển, được Huy Cận sử dụng, nhưng cái mới ở đây chính là cách nhà thơ kết hợp, nhào nặn chúng bằng tư duy thơ hiện đại của mình. Vậy cho nên, Huy Cận tập cổ mà không nệ cổ. Hình ảnh trong câu thơ này gợi cho ta nhớ đến dáng dấp của một câu thơ trong thơ Đỗ Phủ:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa”

Đều là cách diễn đạt gợi nên không gian buổi chiều, buổi hoàng hôn đẹp mà buồn nhưng diễm lệ, mờ ảo. Cũng đồng thời, gợi nên chất hùng vĩ nét khoáng đạt của cảnh vật. Để tiếp tục câu thơ sau, là nghệ thuật đối rất chỉnh của thi nhân:

“Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa”

Cánh chim nghiêng như đã đỡ cả buổi hoàng hôn rực rỡ trên đôi cánh nhỏ bé của mình, như đang mang trong nó cả cái lồng lộng hùng vĩ của dáng chiều. Vẫn là sự thủ pháp đối lập quen thuộc trong thơ cổ, cánh chim nhỏ nhoi, đơn độc giữa chân trời của nó và đối lập là hình ảnh thiên nhiên, là bóng chiều rợn ngợp, rộng lớn, mênh mông. Điều đó tạo cảm giác mới mẻ trong cảm nhận cho người đọc. Dấu hai chấm chính là dụng ý nghệ thuật mà Huy Cận đặt vào dòng thơ. Tưởng như không chỉ trong cảm giác, mà cả trong dòng chảy của nghệ thuật đang tiếp diễn trên trang giấy, thì cánh chim đơn côi và cô đơn ấy cũng đang gồng gánh và mang trong nó cả bóng chiều lồng lộng.

Đứng trước không gian rộng lớn ấy, nhân vật trữ tình chảy tràn những xúc cảm bồi hồi về quê hương:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Từ "dợn dợn" thực sự là điểm mấu chốt để ta thấy bút thơ tài hoa của Huy Cận, vừa gợi được cái cồn cào khắc khoải trong lòng người, vừa cho thấy sự day dứt khôn nguôi trong tâm can, sự khắc khoải, đau đáu của một kẻ đứng trên quê hương mà vẫn cảm thấy thiếu quê hương. Câu thơ cuối, là một chỉ dấu để ta hiểu hơn về cảm giác của nhân vật trữ tình. Rằng dẫu không cần một điểm tựa, điểm gợi đến từ khói trắng của chiều tà, của hoàng hôn thì trong lòng nhân vật trữ tình vẫn dấy lên nỗi niềm tha thiết với quê hương. Đây là cảm giác trống vắng, thiếu thốn bất định của cái tôi thơ Mới thời kì bấy giờ. Nhưng đồng thời cũng đặt ra cho ta một câu hỏi, phải chăng giữa con người và cảnh vật, con người và con người nơi đây không còn sự gắn kết, cho nên tôi mới cảm thấy bơ vơ, cô quạnh và lạc lõng đến vậy. Nó phải chăng là một sự đứt gãy có tính phổ quát và sự gắn kết trong xã hội, cũng đồng thời là sự biến mất của những giá trị truyền thống và thay vào đó là sự chuyển mình của dòng chảy hiện đại.

Khổ 4 cuối là khổ thơ đặc sắc, nắm giữ hồn cốt thơ Huy Cận, và cho ta hay, nỗi buồn sầu ảo não trong thơ ông, còn là nỗi buồn của một hồn thơ luôn tha thiết, vọng ngưỡng về quê hương của mình.

Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang - mẫu 3

"Huy Cận nhặt những chút buồn rơi rắc để rồi sáng tạo nên những vần thơ ảo não. Người đời sẽ ngạc nhiên vì không ngờ với một ít cát bụi tầm thường thì người lại có thể đúc thành bao châu ngọc. Ai có ngờ những bước chân đã tan trên đường kia còn ghi lại trong văn thơ. Những dấu tích không bao giờ tan được". Quả thực là như vậy trong tác phẩm Tràng Giang khi đứng trước thiên nhiên rộng lớn ông đã bày tỏ cái tôi nhỏ bé cô đơn những nỗi buồn man mác.

Huy Cận quê ở Hà Tĩnh, đây là một trong những đại diện tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới. Nếu như thơ của Xuân Diệu thể hiện sự trẻ trung sáng tạo, thì Huy Cận với những tiếng thơ trầm ngâm sâu sắc, mang nhiều nỗi niềm bâng khuâng vui buồn của một hồn thơ đa cảm của diễn đàn văn học Việt Nam. Huy Cận được mệnh danh là một nhà thơ đa tài. Giáo sư Hà Minh Đức nhận xét: "Huy Cận không chỉ là một nhà thơ, ông còn là một nhà văn hóa, nhà hoạt động chính trị, xã hội với những dấu ấn quan trọng trong suốt cuộc đời sự nghiệp của mình". Nhà thơ đã trực tiếp góp mặt trong nhiều sự kiện trọng đại của đất nước, đồng hành cùng nhiều bước ngoặt quan trọng của lịch sử dân tộc với những cống hiến to lớn cho sự nghiệp cách mạng và thơ ca Việt Nam. Huy Cận đã được Đảng Nhà nước trao tặng huân chương Sao vàng, huân chương Hồ Chí Minh, giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Bên cạnh vai trò là một nhà thơ, nhà văn hóa Huy Cận còn là một nhà hoạt động chính trị xã hội với nhiều dấu ấn quan trọng Ông tham gia cách mạng từ rất sớm, tham gia mặt trận Việt Minh hoà mình vào đời sống đấu tranh của quần chúng nhân dân. Ông từng đảm nhận nhiều trọng trách quan trọng trong bộ máy của Đảng và nhà nước.

Tràng Giang được viết vào mùa thu năm 1939 với cảm hứng được khơi gợi từ hình ảnh sông Hồng mênh mông sóng nước bốn bể bao la vắng lặng. Bài thơ là nỗi buồn của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, bao la trong đó thấm đẫm tình người, tình đời lòng yêu nước thầm kín và thiết tha.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc...

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Khổ thơ cuối của Tràng Giang vẽ lên khung cảnh thiên nhiên với không gian hùng vĩ, choáng ngợp nhưng cũng đượm buồn. "Lớp lớp", "mây cao", "núi bạc". Đây là những hình ảnh chúng ta thường thấy trong thơ cổ điển, nhưng trong thơ Huy Cận nó trở nên thật mới mẻ. Điểm đặc biệt của Huy Cận đó là kết hợp cái cổ điển và cái hiện đại đưa cái cũ biến hóa chúng bằng tư duy thơ hiện đại của mình. Hình ảnh mây và núi gợi nhớ cho ta đến câu thơ trong thơ của Đỗ Phủ

Mặt đất mây đùn cửa ải xa

Hai câu thơ của hai nhà thơ cách nhau nhiều thế kỷ nhưng đều có một điểm chung đó là gợi nên không gian buổi chiều, một buổi hoàng hôn đẹp nhưng buồn. Đồng thời gợi lên chất hùng vĩ, khoáng đạt của cảnh vật. "Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa", cánh chim nghiêng như đỡ cả buổi hoàng hôn trên đôi cánh bé nhỏ của mình. Với thủ pháp đối lập cánh chim nhỏ nhoi đơn độc giữa chân trời với hình ảnh thiên nhiên bóng chiều rộng lớn mênh mông. Dấu hai chấm chính là dụng ý nghệ thuật mà Huy Cận đặt vào dòng thơ, dấu hai chấm không chỉ thể hiện cảm giác cô đơn trong tâm hồn mà ngay cả trên trang giấy cánh chim ấy vẫn đơn côi, đang gồng gánh mang trong mình cả bóng chiều. Khi đứng trước không gian rộng lớn nhân vật trữ tình bồi hồi

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Từ "dợn dợn" gợi nỗi nhớ cồn cào khắc khoải trong lòng người, vừa cho thấy sự day dứt trong thâm tâm của một kẻ đang đứng trên quê hương mà vẫn cảm thấy thiếu quê hương. Câu thơ cuối giúp ta hiểu hơn về cảm giác của nhân vật trữ tình. Nếu như Nguyễn Du viết tâm trạng con người buồn sẽ ảnh hưởng tới cảnh vật:

"Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ"

Còn trong thơ Huy Cận không cần một sự gợi tả từ cảnh mà nhân vật trữ tình vẫn có thể nhớ quê hương tha thiết. Đó là cảm giác trống vắng thiếu thốn của cái tôi trong thơ mới thời kỳ lúc ấy. Phải chăng giữa thiên nhiên và con người không có sự gắn kết nên nhân vật trữ tình cảm thấy bơ vơ cô quạnh và lạc lõng. Nỗi nhớ quê hương trong thơ Huy Cận giống với hai câu thơ của Tô Hiệu thời Đường:

Quê Hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

Đây cũng là tâm trạng của Huy Cận với nỗi nhớ quê sâu sắc, nhớ nhà, nhớ những người ruột thịt.

Thơ Huy Cận hàm xúc cổ điển và thấm đẫm màu sắc triết lý tư tưởng. Với một hồn thơ bơ vơ, sầu não luôn hướng tới sự giao hòa giữa con người và tạo hóa trên một không gian mênh mông, phẳng lặng. Trong tràng giang cảnh sắc tươi đẹp mà buồn. Đó là những vần thơ mãi mãi vấn vương lòng người. Với thể thơ thất ngôn, tràng giang mang vẻ đẹp cổ kính trang trọng thể hiện sâu sắc những cảm hứng và tác giả đã viết. Cảnh sắc hoàng hôn và lòng quê được nói đến trong đoạn thơ mãi khơi gợi trong ta hình bóng quê hương yêu dấu. Sự kết hợp hài hòa giữa nét cổ điển và hiện đại vẽ lên bức tranh thiên nhiên mênh mông, quạnh hiu, hoang vắng ở đó ta thấy một cái tôi bơ vơ lạc lõng giữa đất trời bao la. Ẩn sâu trong đó là tình yêu quê hương đất nước kín đáo sâu lắng.

Đọc xong khổ thơ cuối cùng của Tràng Giang có hai thứ ấn tượng để lại trong lòng người đọc đó là: không gian rộng lớn và nỗi buồn cô đơn của lòng người. Vượt lên trên hết bút pháp đặc trưng, giữa chất cổ điển và hiện đại đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên tốt đẹp có buồn nhưng người đọc vẫn nhìn thấy một tình yêu quê hương đất nước thầm kín hiện diện trong Tràng Giang.

Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang - mẫu 4

Nhà thơ Huy Cận có nhiều tác phẩm hay tả cảnh thiên nhiên, nhớ về quê hương đất nước, trong đó nổi bật là bài thơ “Tràng Giang” là nỗi lòng chung của cái tôi cá nhân trong phong trào thơ Mới. Đặc biệt khổ thơ cuối của “Tràng Giang” đã nói lên tâm trạng cô đơn, buồn bã của tác giả khi nhớ nhà:

Huy Cận đã vẽ nên vẻ đẹp vừa hoài cổ vừa mang tinh thần hiện đại:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc...

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Tác giả đã sử dụng tính từ “lớp lớp” miêu tả rõ hình ảnh từng lớp mây như đang dát bạc cả bầu trời. Câu thơ sử dụng phép so sánh hình ảnh ẩn dụ và lối ngắt câu với “mây cao đùn núi bạc” tạo thành “lớp lớp” khiến ta hình dung những đám mây dưới nắng như dát bạc. Hình ảnh cổ điển và càng thi vị được lấy cảm hứng từ một tác phẩm Đường cổ của nhà thơ Đỗ Phủ:

Để tô điểm cho vẻ đẹp thiên nhiên, tác giả đã so sánh mây trắng như “bạc”, từ “đùn” khiến mây chuyển động bằng nội lực hình thành lên núi bạc. Và tính thời đại càng thể hiện rõ ràng hơn qua dấu hai chấm ở câu thơ sau gợi nên mối quan hệ giữa cánh chim và bóng chiều.

Mây trời bao la, cùng tiếng chim nghiêng, mà nghiêng không phải là nghiêng bình thường mà lại là “chim nghiêng cánh nhỏ” trong bóng hoàng hôn. Bóng chiều đè nặng xuống cánh chim nhỏ, in bóng lê mặt nước khiến tất cả cùng nghiêng đi. “Cánh chim” và “bóng chiều” là những hình ảnh trong thơ cổ điển.

Nếu như những lời thơ của Bà Huyện Thanh Quan, và Lí Bạch … thì cánh chim là chỉ là sự báo hiệu về hoàng hôn thì trong thơ Huy Cận là cảm xúc đơn độc trước cuộc sống.

Thi nhân cho thấy gốc nhìn mới trong hai câu kết :

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Hai câu thơ xuất phát từ thơ của Thôi Hiệu trong tác phẩm “ Hoàng Hạc Lâu ” :

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu ”

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)

Thôi Hiệu nhìn khói mà nhớ quá khứ, nhớ miền quê, nơi chôn rau cắt rốn. Nỗi sầu đậm sắc tố cổ xưa. Còn Huy Cận, đang ở quê nhà mình nhưng vẫn dâng lên nỗi nhớ nhà. Nhớ nhà có thể hiểu là nỗi nhớ về quốc gia đang mất chủ quyền, nỗi buồn mang tầm thời đại. Lòng quê ở đây nói lên nỗi nhớ quê hương với hai từ “gợn” cho ta bóng hình sóng đang ở bên cạnh, sóng cũng biết cũng nhớ hay tác giả đang nhớ về quê hương? Sự lên xuống của con sóng hay nỗi nhớ da diết của nhà thơ không chỉ một lần mà liên tục. Câu thơ muốn nói lên nỗi nhớ về quê hương tự do thanh bình của tác giả khi sống trong cảnh sông nước.

“Hoàng hôn không khói cũng nhớ nhà”

Nhà thơ mượn từ “khói” trong thơ Thôi Hiệu để nói lên cảm xúc của mình, nếu nhà thơ nhìn khói mà nhớ nhà thì nhà thơ Huy Cận không có “khói” nhưng vẫn nhớ về mái ấm nơi chôn rau cắt rốn đã nuôi tôi khôn lớn. Huy Cận lại buồn trước cảnh vắng vẻ, những con sóng “gợn sóng” gợi nhớ quê hương nhưng lại chỉ thấy hư vô, Huy Cận một mình đối diện với cảnh trống vắng. Chính vì thế mà khát vọng được yêu thương và được gắn bó với đời là nguyện vọng của tác giả.

Bằng biện pháp so sánh tài tình và miêu tả khéo léo, nhà thơ Huy Cận đã thể hiện rõ nỗi buồn về quê hương da diết của tác giả. Nỗi nhớ, nỗi buồn càng da diết khi đứng ngay trên quê hương, nhưng quê hương không còn nữa mà trong cảnh nước mất nhà tan.

Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang - mẫu 5

Thơ của Huy Cận mang nhiều nỗi buồn về cảnh vật và thế sự. Nỗi buồn của con người về quê hương đất nước. Bài thơ Tràng Giang là nơi tác giả bày tỏ nhiều tình cảm với quê hương đất nước. Khổ thơ cuối trong bài đã thể hiện được nỗi sầu của thi nhân và nhân thế.

Ba khổ đầu nhà thơ đã sử dụng phép tả cảnh ngụ tình. Nói về những con người thấp cổ bé họng. Trong khổ cuối ông hòa vào đó sự cô đơn của bản thân và nỗi nhớ quê hương lên tầng thiên nhiên cao hơn.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc...

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” câu thơ tưởng chừng như đơn giản nhưng lại khiến người đọc choáng ngợp. Họ choáng ngợp bởi hình ảnh núi mây ở đây. “Lớp lớp” là từ láy thể hiện được cảm giác mây như dày thêm, màu của núi mây có màu bạc huyền ảo. Trong câu thơ này tác giả cũng lấy cảm hứng từ thơ của Đỗ Phủ.

“Đùn” và “lớp lớp” là những cụm từ khiến cho không gian trở nên rộng hơn. Điều này khiến cho nhân vật trữ tình đã cô độc nay còn nhỏ nhoi hơn trước thiên nhiên rộng lớn. Hình ảnh trên còn khối cho người đọc liên tưởng đến nỗi buồn trong lòng tác giả. Từng chồng từng chồng xếp lên nhau.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Giữa không gian bao la rộng lớn của thiên nhiên. Hình ảnh cánh chim nhỏ bé đang đập cánh cho nghiêng hiện lên. Hai câu thơ cuối nói lên được nỗi nhớ da diết của nhà thơ. “Dợn dợn” là từ láy được ông sáng tạo riêng. Hai thanh nặng xuất hiện như nỗi buồn của nhà thơ đang vào hố sâu tuyệt vọng. Nó như cơn sóng gợn buồn trong lòng tác giả.

Câu thơ cuối trong bài Tràng Giang được lấy cảm hứng từ thơ của Thôi Hiệu. Đối với tác giả tình yêu quê hương đất nước trong ông lúc nào cũng sẵn có. Không cần bất cứ một thứ xúc tác nào tác động.

Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang - mẫu 6

Đọc những vần thơ, những bài thơ của Tố Hữu, chúng ta như cảm nhận được một tâm hồn thơ dạt dào cảm xúc, một trái tim nhân hậu, một tấm lòng trung trinh với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân và tình cảm gắn bó thân thiết keo sơn với đồng bào, đồng chí.

“Dù ai thay ngựa giữa dòng

Đời ta vẫn ngọn cờ hồng cứ đi

Vẫn là ta đó những khi

Đầu voi ra trận cứu nguy giống nòi”

Bao trùm lên toàn bộ sáng tác thơ của Tố Hữu là vì lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì lương tâm, chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên đời.. Và một trong những giá trị tiêu biểu của thơ Tố Hữu là tính hướng thiện được biểu lộ vừa thầm kín, tinh tế, vừa sâu sắc, đậm đà qua các tập thơ nổi tiếng: Từ ấy, Việt Bắc, Ra trận, Gió lộng,…

Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu sáng tác vào tháng 7/1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của ông. Có thể nói “ Từ ấy” là tiếng hát của người thanh niên yêu nước Việt Nam giác ngộ lí tưởng Mác Lênin trong ngày hội lớn của cách mạng:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

“Từ ấy” là một thời điểm lịch sử đã trực tiếp tác động đến cuộc đời nhà thơ khi được giác ngộ chủ nghĩa Mác – Lênin, một kỷ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng. Trong buổi ban đầu ấy, những người thanh niên như Tố Hữu dù có nhiệt huyết nhưng vẫn chưa tìm được đường đi trong kiếp sống nô lệ, họ bị ngột thở dưới ách thống trị của thực dân phong kiến “băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. Chính trong hoàn cảnh đó lí tưởng cộng sản như nắng hạ , như mặt trời xua tan đi những u ám, buồn đau, quét sạch mây mù và đen tối hướng đến cho thanh niên một lẽ sống cao đẹp vì một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Người thanh niên học sinh Tố Hữu đã đón nhận lí tưởng ấy không chỉ bằng khối óc mà bằng cả con tim, không chỉ bằng nhận thức lí trí mà xuất phát từ tình cảm:

“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim”

Từ ấy đã làm cho tâm hồn Tố Hữu“ bừng nắng hạ” đó là một luồng ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng vàng chứa chan hạnh phúc ấm no.Soi tỏ vào những bài thơ sau này ta mới thấy hết được niềm vui sướng của Tố Hữu trước ánh sáng huy hoàng của chân lí.

“Đời đen tối ta phải tìm ánh sáng

Ta đi tới chỉ một đường cách mạng”

Và đó mới là bản chất của lí tưởng cộng sản đã làm người thanh niên 18 tuổi ấy say mê, ngây ngất trước một điều kì diệu:

“Mặt trời chân lí chói qua tim”

Mặt trời chân lí là một hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lí tưởng của Đảng,của cách mạng , mặt trời của chủ nghĩa xã hội. Tố Hữu với tấm lòng nhiệt thành của mình đã tự hào đón lấy ánh sáng của mặt trời, sẵn sàng hành động cho lí tưởng cách mạng cao đẹp. Bởi lí tưởng đã “chói” vào tim- chính là nơi kết tụ của tình cảm, là nơi kết hợp hài hòa giữa tâm lí và ý thức trí tuệ chỉ thực sự hành động đúng khi có lí tưởng cách mạng, khi có ánh sáng rực rỡ của mặt trời chân lí chiếu vào.

Lý tưởng Cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự biến đổi kì diệu mà lí tưởng Cách mạng đem lại:

Hồn tôi là một vườn hoa lá,

Rất đậm hương và rộn tiếng chim.

Cái giọng điệu rất tỉnh và rất say rạo rực và ngọt lịm hồn ta chủ yếu là cái say người và lịm ngọt của lí tưởng, của niềm hạnh phúc mà lí tưởng đem lại :“hồn” người đã trở thành “vườn hoa”, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Ở đây hiện thực và lãng mạn đã hòa quyện vào nhau tạo nên cái gợi cảm, cái sức sống cho câu thơ.

Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang - mẫu 7

Nhắc đến Huy Cận là nhắc đến hồn thơ u sầu, trong thơ ông luôn chất chứa những nỗi niềm của một kẻ sĩ vương nỗi sầu nhân thế. Một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách ấy của ông là “Tràng giang”, tác phẩm được viết vào mùa thu năm 1939. Khổ thơ cuối bài “Tràng giang” là những khổ hay nhất bài thơ, diễn tả nỗi buồn lữ thứ trước cảnh hoàng hôn rợn ngợp của thi nhân.

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Giữa trời đất rộng lớn, mênh mông nhưng nhà thơ Huy Cận lại không tìm được một tiếng nói đồng cảm, tri âm, không có một ai có thể thấu hiểu được tâm trạng và những nỗi buồn đang giăng kín trong tâm hồn nhà thơ. Nỗi phiền muộn, u sầu không thể giãi bày, chỉ có thể tự mình giữ lấy nên nó càng nhức nhối, khắc khoải.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.”

Những hình ảnh cổ điển “mây”, “cánh chim” được tác giả sử dụng kết hợp với các động từ “đùn”, “nghiêng”, “sa” đã diễn tả được cái hùng vĩ và sức sống tràn đầy của thiên nhiên. Những tầng mây “lớp lớp” chất chồng lên nhau tạo nên những dãy núi bạc khổng lồ, lơ lửng trên nền trời xanh ngắt. Một cảnh tượng thật hùng vĩ biết bao! Thiên nhiên lúc này không còn trong trạng thái tĩnh mịch nữa mà nét động dần thay thế. Mây đùn núi bạc trong ánh chiều, chim nghiêng cánh nhỏ mơ màng trong bóng hoàng hôn, tất cả tạo nên một không gian đẹp đẽ, rực rỡ và sống động. Tuy nhiên, trong khung cảnh ấy, ta vẫn thấy nét buồn, cô đơn của tâm hồn thi nhân khi bắt gặp hình ảnh “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Cánh chim nhỏ bé, mỏng manh bay giữa mây cao, núi bạc, cô đơn giữa đất trời mênh mông, hùng vĩ tựa như hình ảnh thi nhân đang bơ vơ, chán ngán giữa dòng đời. Bởi thế mà nỗi buồn cứ thế trào dâng, miên man bất tận, thấm đượm trong cảnh, chất chứa trong tình.

Có thể nói, tình quê là một tình cảm đáng trân trọng của các thi nhân dành cho quê hương, đất nước. Thôi Hiệu từng nhìn khói sóng trên sông mà nhớ nhà:

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.”

Hay Lí Bạch từng nhìn trăng mà nhớ quê hương da diết:

“Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương.”

Người ta xa quê thì nhớ quê, nhưng với Huy Cận thì khác, tác giả đang đứng trên quê hương mà lại nhớ quê hương da diết:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Từ láy “dợn dợn” gợi tả nét chuyển động diễn ra liên tục trong tâm khảm nhà thơ, một nỗi nhớ luôn thường trực khôn nguôi, đầy sâu sắc và ám ảnh. Dường như, không giây phút nào là thi nhân không nhớ đến quê hương, đất nước mình, đặc biệt là trong cảnh tổ quốc đang bị xâm lăng, giày xéo bởi quân thù.

Có thể nói, khổ cuối bài thơ đã vẽ nên một bức tranh đẹp nhưng buồn sầu. Ẩn sâu trong từng con chữ là cái tôi thi sĩ cô đơn song lại chất chứa tình cảm sâu nặng, tha thiết với quê hương, đất nước.

Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang - mẫu 8

Trong số các nhà thơ mới trước Cách mạng, Huy Cận là một nhà thơ có chất thơ ảo não nhất. Thơ ông luôn chất chứa một nỗi sầu nhân thế. “Tràng Giang” là một bài thơ gắn liền với tên tuổi của Huy Cận với những nỗi niềm yêu nước thiết tha. Đặc biệt, nỗi niềm thương nhớ ấy càng được thấy rõ trong khổ thơ cuối bài Tràng giang.

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc...

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”

Không nhìn dòng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói về buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này không có tác dụng hô ứng cho nhau như trong thơ cổ, mà chúng còn có ý nghĩa trái ngược nhau. Trong buổi chiều muộn, nhưng từng lớp, từng lớp mây trên cao kia vẫn chất chồng nên nhau, tạo thành những núi bạc, nổi bật trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Đó không phải đám mây cô đơn lững lờ trôi giữa tầng không khi chiều về như trong thơ của Hồ Chí Minh. Mây ở đây chất chồng, ánh lên trong nắng chiều, làm cho cả bầu trời trở nên đẹp đẽ và rực rỡ. Giữa khung cảnh ấy, một cánh chim nhỏ nhoi xuất hiện. Cánh chim bay giữa những lớp mây cao đẹp đẽ, hùng vĩ như càng làm nổi bật lên cái nhỏ bé của nó. Nó đơn côi giữa trời đất bao la, tựa như tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa đất trời này.

Đặt cánh chim và những núi mây bạc ở thế đối lập, đã tô đậm thêm nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả không gian:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Tầm mắt trở lại trên dòng nước. Từng đợt sóng nước dập dềnh, nhẹ nhàng uốn lượn nhưng cũng tồn tại rất lâu, lan tỏa rất xa. Đó là hình ảnh miêu tả, nhưng cũng chính là tâm trạng của tác giả – một cảm giác cô đơn,

Người xưa nhìn khói sóng trên dòng sông khi chiều tà mà cảm thấy nhớ nhà. Còn Huy Cận không cần thấy khói hoàng hôn nhưng trong lòng vẫn dâng lên một nỗi nhớ quê hương da diết. Đó như một thứ tình cảm thường trực vẫn luôn chất chứa trong lòng người con xa quê, mà không cần một tác động nào từ bên ngoài, vẫn thấy nhớ quê, thương quê.

Phân tích khổ cuối bài Tràng giang càng thấy rõ hơn bức tranh quê hương đẹp đẽ, nên thơ với những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam như bờ sông, cánh bèo, củi khô, áng mây. Đó là tình yêu quê hương đất nước sâu nặng, đã thấm vào từng con chữ. Đồng thời trong đó cũng thể hiện khát khao tìm được sự đồng điệu trong thế giới bao la của một tâm hồn thi sĩ luôn băn khoăn một “nỗi sầu nhân thế”.

Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang - mẫu 9

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ mới. Thơ ông chịu ảnh hưởng của thơ Đường, thơ Pháp, giọng thơ ảo não. Thơ Huy Cận trước cách mạng tháng 8 thường mang tâm trạng buồn, u uất. Đó cũng là một tâm trạng chung của cả thế hệ một dân tộc.

Bài thơ "Tràng giang" được trích từ tập "Lửa Thiêng" thể hiện một nỗi buồn cô đơn, một nỗi buồn nhớ nhà, nhớ quê hương trong cảnh hoàng hôn trước tràng giang.

Khổ thơ cuối là nỗi nhớ trào dâng của tác giả, một nỗi nhớ quê hương da diết khi đứng trước hoàng hôn, nơi sông dài trời rộng:

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
....
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"

Đây là khổ thơ kết tinh của làng quê "dợn dợn vời con nước" của Huy Cận, của một tấm lòng sâu lắng thiết tha với quê hương, đất nước.

Hai câu đầu là một bức tranh nhiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ:

"Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa"

Cách cảm nhận của nhà thơ hết sức tinh tế tạo nên những nét vẽ hoành tráng của thiên nhiên buổi chiều: "lớp lớp mây" chồng xếp lên nhau thành núi mây trắng trông như được dát bạc. Từ "đùn" rất giàu giá trị tạo hình gợi nhớ đến hai câu thơ của Đỗ Phủ:

"Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm

Mặt đất mây đùn cửa ải xa"

Một cánh chim nhỏ xuất hiện trong câu thơ gợi ấn tượng về sự cô đơn, bơ vơ, nhỏ nhoi đến tội nghiệp khiến cho không gian càng thêm rộng lớn. Một cách cảm nhận vừa gần gũi, vừa tinh tế. Hình ảnh bóng chiều như thu lại sa xuống từ cánh chim:

"Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa"

Trước không gian vô tận ấy, tâm trạng nhà thơ là nỗi nhớ nhà:

"Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà"

Tư thế ấy có khiến ta liên tưởng đến Lý Bạch:"Cửa đầu vọng minh nguyệt - Đê đầu tư cố hương"?

Âm hưởng hai câu thơ Đường thi tuyệt tác của Thôi Hiệu phảng phất ở đây:

Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

Thế nhưng Thôi Hiệu phải có "khói sóng" mới "buồn lòng ai". Còn nhà thơ của chúng ta "không khói hoàng hôn" mà "lòng quê" vẫn "dợn dợn vời con nước"! Từ láy "dợn dợn" và từ "vời" khiến nỗi buồn triền miên, xa xôi, dàn trải mãi đến vô tận, đến khôn cùng!

Chỉ với 4 câu thơ ngắn gọn, Huy Cận đã trải lòng mình trên từng trang thơ để thể hiện tình yêu quê hương , đất nước tha thiết.

Huy Cận vốn là một trong những nhà thơ nổi tiếng của phong trào thơ mới. Thơ ông vốn đặc biệt vì trong hồn thơ luôn ẩn chứa một nét hoài cổ buồn và sầu. Đặc biệt là bài thơ Tràng Giang với khổ thơ thứ tư đã cho ta thấy rõ điều đó.

Đó là một khổ thơ rất đẹp trong bài, tuy mang một chút buồn. Một vẻ đẹp của một buổi chiều trên sông nước, gợi một nỗi buồn sầu nhân thế:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Đây là một bức tranh thiên nhiên tả cảnh buổi chiều, rất sinh động. Đọc câu thơ đầu, ta tự hỏi. Phải chăng đây còn là câu thơ nổi bật một nỗi sầu trong thi sĩ, nỗi sầu này đang dâng lên trùng trùng lớp lớp, như dồn nén và ứ đọng lại trong mảnh hồn của thi nhân, đến tràn ngập cả bầu trời. Đặc biệt trong thơ Huy Cận luôn ẩn chứa những hình ảnh cánh chim, một trong những hình ảnh thường xuất hiện trong thơ ca cổ. Nét cổ điển một cánh chim nhỏ chấm phá trên nền trời khi chiều bắt đầu buông, thể hiện rõ nét sự nhỏ bé, đơn côi trong lòng thi sĩ và càng khiến bài thơ trở nên mông lung, vắng lặng, buồn hiu hơn nữa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

Đây là hai câu thơ đã diễn tả được hết nỗi nhớ quê hương và tình yêu với tổ quốc trong lòng thi sĩ. Thơ Huy Cận mang nặng ý vị cổ điển là đây. Trời rộng, sông dài, một người đứng đơn côi giữa mênh mông rộng lớn, khiến ta liên tưởng một ý thơ toát ra từ thơ Đường:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai

Người xưa nhìn sóng trên sông nên nỗi nhớ nhà càng thấm thía. Thì Huy Cận không cần điều đó, cái hồn sầu trong lòng đã như ngấm vào máu, thấm vào từng tế bào của nhà thơ mất rồi. Thể hiện một sự mến thương cao độ, một tấm lòng yêu nước thiết tha của Huy Cận, và còn thường trực hơn nhiều. Và đây cũng là một nét tâm trạng của thanh niên tiểu tư sản lúc bấy giờ.

Tố Hữu đã nói “sống giữa quê hương mà bơ vơ như kiếp đi đày” quả thực nói rất đúng về tâm trạng thanh niên nói chung và tâm trạng riêng của Huy Cận trong khổ thơ này. Và càng cho ta hiểu nỗi buồn thấm thía của một thời đất nước ta lúc bấy giờ.

Là khổ thơ xuất sắc nhất trong tác phẩm, và cũng là khổ thơ thể hiện rõ nhất nét tâm trạng của một chàng trai trí thức tiểu tư sản lúc bấy giờ. Thế mới hiểu vì sao người ta nói Huy Cận là cái mảnh hồn thiêng sông núi, và là nỗi sầu của nhân thế. Nhờ kết hợp những biện pháp nghệ thuật tài hoa đã làm nổi bật giá trị nội dung, tư tưởng của một phong cách thơ mới tài năng. Và Huy Cận mãi về sau khi nhắc đến vẫn sẽ luôn là một mảnh hồn không thể tách rời với văn học Việt Nam.

Phân tích khổ cuối bài thơ Tràng giang - mẫu 10

Trong bài thơ Tràng giang của nhà thơ Huy Cận, khổ thơ cuối là một trong những khổ thơ cô đọng, giàu hình tượng và nghệ thuật nhất, cũng là khổ thơ thể hiện rõ nhất tâm trạng của chủ thể trữ tình. Qua khổ thơ, người đọc có thể thấy được những nét hiện đại pha lẫn với yếu tố cổ điển đã làm nổi bật nên nỗi nhớ nhà và tâm trạng lo lắng trước thời cuộc, vận mệnh đất nước của người thanh niên.

Thiên nhiên trong đoạn thơ này có sự vận động dữ dội, những đám mây trắng từ đâu đùn về tạo thành những dãy núi bạc trên bầu trời in bóng dưới dòng sông, câu thơ như một bức tranh sơn thủy, hữu tình. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc” câu thơ cũng gợi lên vẻ đẹp hùng vĩ tráng lệ của non sông mà qua đó ta cảm nhận được tình cảm của thi nhân đối với quê hương đất nước.

Câu thơ thứ 2 là hình ảnh của một cánh chim chiều nhưng được miêu tả rất đặc biệt, bóng chiều như có cả hình khối và sức nặng đang đè lên cánh chim nhỏ nhoi. Con chim thì như đang vội vã chạy trốn bóng chiều đang sa xuống. Hình ảnh thơ như nói hộ nỗi bơ vơ, sự lạc loài của chính nhà thơ bởi giờ đây ông cảm thấy mình cũng như cánh chim nhỏ nhoi kia, muốn chạy trốn cuộc đời nhưng không biết đi về phương nào.

Câu thơ thứ 3 “Lòng quê dợn dợn vời con nước” sử dụng cách nói kiệm lời. Lòng quê tức là nỗi lòng cứ từng đợt, từng đợt trào dâng (dợn dợn), nó cũng giống như những con sóng bên sông cứ tiếp nối nhau về chân trời xa vời vợi.

Nỗi buồn nhớ quê như mênh mang vô tận bao trùm cả không gian. Theo Huy Cận thì thời kì này ông đang sống ở xa quê hương mà như không có quê hương. Trước sông nước mênh mông càng thấy trống vắng lạc loài, càng khao khát sự đoàn tụ, sum vầy.

Câu thơ kết “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” gợi nhớ câu thơ của Thôi Hiệu song ý thơ lại có những nét khác. Thôi Hiệu nhìn khói sóng trên sông rồi liên tưởng đến những ngọn khói lam chiều mà lòng trào dâng nỗi nhớ quê hương. Còn ở đây dù không có khói mà cứ chiều xuống nỗi nhớ nhà lại cồn cào đau đầu trong lòng thi nhân. Hình như so với Thôi Hiệu thì nỗi nhớ trong Huy Cận nó canh cánh, da diết, chảy bỏng hơn.

Cả bài thơ Tràng giang vốn đã đượm một nỗi buồn man mác thì đến khổ thơ cuối cùng này, nỗi buồn ấy lại càng như trở nên sâu đậm hơn. Tác giả đã sử dụng hàng loạt từ “cánh nhỏ”, “chiều sa”, “dợn dợn”, “vời”, “nhớ” càng tô đậm thêm nỗi buồn man mác của nhà thơ. Khổ thơ này nhà thơ cũng nhắc đến quê hương và nhà của mình. Dường như sau hàng loạt khung cảnh mênh mang sóng nước, sự trĩu nặng của tâm trạng khi cảnh vật về chiều thì cuối cùng tác giả cũng phải bật thốt lên về nỗi nhớ thương của mình trong khổ thơ cuối cùng này. Phải dồn nén thế nào, nỗi nhớ chan chứa và sâu lắng ấy mới được nhà thơ gói gọn trong hai dòng thơ cuối.

Bài thơ Tràng giang, đặc biệt là khổ thơ cuối cùng, là sự kết tinh của những hình ảnh thơ hiện đại và cổ điển. Cách vận dụng sáng tạo thơ xưa của Thôi Hiệu với sự diễn đạt của riêng nhà thơ đã tạo nên một phong cách rất Huy Cận. Qua đây, người đọc có thể thấy được cảnh đẹp kì vĩ của non sông đất nước và sự cô đơn, lạc lõng của người thanh niên đứng trước trời đất mà bất lực về bản thân.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học