10+ Phân tích lòng hiếu thảo của Vũ Nương (điểm cao)

Phân tích lòng hiếu thảo của Vũ Nương điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Phân tích lòng hiếu thảo của Vũ Nương (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Phân tích lòng hiếu thảo của Vũ Nương

1. Mở bài

- Giới thiệu qua về tác phẩm và nhân vật Vũ Nương.

2. Thân bài

- Vũ Nương là người con hiếu thảo:

+ Khi chồng đi lính ở nhà bầu bạn với mẹ chồng.

+ Mẹ chồng ốm nàng hết mực chạy chữa thuốc thang, lễ bái thần phật và dùng cả lời lẽ ngon ngọt để khuyên răn mẹ.

+ Lời trăn trối của mẹ chồng trước khi mất đã khẳng định sự hiếu thảo của Vũ Nương.

+ Nàng lo ma chay, cúng bái mẹ chồng như cha mẹ đẻ.

- Vũ nương là người vợ thủy chung, son sắt:

+ Một mình nuôi con, chăm con, mẹ chồng, thay chồng làm cha và làm tròn đạo hiếu.

+ Ngày đêm mong nhớ Trương Sinh về, không mong chồng về với chiến công hiển hách, chỉ mong chồng bình an quay về.

+ Thương con nên chỉ bóng mình trên tường là cha => Khi Trương Sinh đi lính về, vì thế mà gây ra hiểu nhầm, nghĩ Vũ Nương phản bội mình; mặc nàng giải thích vẫn đuổi nàng đi.

Quảng cáo

+ Vũ Nương vì muốn chứng minh lòng thủy chung của mình, chỉ có thể nhảy Hoàng Giang tự vẫn.

+ Câu thề trước khi chết của Vũ Nương đã một lần nữa khẳng định lòng thủy chung của nàng.

3. Kết bài

Khẳng định lòng hiếu thảo, thủy chung của Vũ Nương, lên án xã hội phong kiến xưa.

Phân tích lòng hiếu thảo của Vũ Nương - mẫu 1

“Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Dữ. Ra đời vào thời kì đất nước loạn lạc với những cuộc nội chiến, tác phẩm khắc họa sâu sắc hiện thực xã hội và chân dung đáng thương của con người. Nguyễn Dữ tập trung làm nổi bật vẻ đẹp của Vũ Nương trên nền lịch sử tàn khốc. Ở Vũ Nương hội tụ nhiều nét tính cách cao đẹp, trong đó có lòng hiếu thảo.

Quảng cáo

Vũ Nương đẹp người đẹp nết, hội tụ đầy đủ công – dung – ngôn – hạnh. Nàng có tư dung tốt đẹp nên Trương Sinh đã xin mẹ trăm lạng vào cưới về. Với chồng, nàng là một người vợ thủy chung, biết giữ gìn khuôn phép. Sự lễ độ đó của Vũ Nương đã góp phần nhiều vào không khí yên ấm của gia đình. Khi tiễn chồng đi, Vũ Nương không cầu vinh hiển mà chỉ hy vọng chồng được bình yên trở về. Vũ Nương hết mực chung thủy: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. Nàng quả thật là một người vợ hiền hậu và tần tảo. Điều này cũng ngầm cho thấy Vũ Nương là một nàng dâu tốt.

Cụ thể, đối với mẹ chồng, Vũ Nương đã làm tròn bổn phận của một người con hiếu thảo. Khi bà đau ốm vì mong nhớ con trai, nàng “hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào, khôn khéo khuyên lơn”. Nàng thấu hiểu nỗi lòng người mẹ, dùng hết sức mình để chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần cho bà. Có thể thấy, sự săn sóc mà Vũ Nương dành cho mẹ chồng không chỉ đơn thuần là trách nhiệm mà còn xuất phát trực tiếp từ trái tim nhân hậu, đầy yêu thương và tinh tế của nàng. Lời trăng trối của mẹ chồng trước khi qua đời đã chứng giám cho tấm lòng đáng trọng ấy: “Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Mối quan hệ mẹ chồng – nàng dâu thường dễ xảy ra hiềm khích, nhất là trong xã hội xưa. Nhiều nàng dâu có số phận đau thương vì sự cay nghiệt từ mẹ chồng. Sự hòa thuận giữa Vũ Nương và mẹ chồng đã cho thấy vẻ đẹp phẩm chất của Vũ Nương. Nàng đoan chính, hiếu thảo, khéo léo, dịu dàng khiến mẹ chồng không thể không cảm động. Vì thế, bà mong muốn con dâu mình sẽ được hạnh phúc về sau để xứng với những gì nàng đã cống hiến.

Quảng cáo

Không dừng lại ở đó, khi mẹ chồng qua đời, Vũ Nương đã một thân một mình lo liệu ma chay, tế lễ chu đáo như với cha mẹ đẻ. Chi tiết này một lần nữa khắc sâu sự thuần khiết, nhân hậu của Vũ Nương. Mọi việc nàng làm đều xuất phát từ trái tim chân thành mà không đòi hỏi đền đáp vật chất.

Tình yêu dành cho quê nhà cũng phần nào cho thấy sự hiếu thảo, không quên đi nguồn cội của Vũ Nương. Bị chồng hàm oan rồi gieo mình xuống dòng sông, may mắn nàng được thần tiên thương xót. Sống an nhàn nhưng Vũ Nương vẫn canh cánh nỗi nhớ nhà. Khi gặp chàng Phan, nghe anh ta kể cảnh nhà cây cối mọc thành rừng, phần mộ tổ tiên cỏ gai rợp mắt thì Vũ Nương đau xót đến mức ứa nước mắt. Nàng khẳng định ắt có ngày tìm về quê cũ. Chi tiết nhỏ nhưng có giá trị cao trong việc biểu đạt tấm lòng trung hiếu vẹn tròn của người phụ nữ.

Như vậy, phẩm chất hiếu thảo của Vũ Nương đã được Nguyễn Dữ thể hiện một cách chân thực, tài tình qua ngôn ngữ, hành động, suy nghĩ của nhân vật. Tác ggiả sử dụng những yếu tố hoang đường kì ảo, tình tiết truyện hấp dẫn và éo le để thử thách nhân vật. Từ đó, ta thấy Vũ Nương hội tụ đầy đủ vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống.

Phân tích lòng hiếu thảo của Vũ Nương - mẫu 2

Phụ nữ là một nửa của thế giới này, là những người xứng đáng được yêu thương và trân trọng nhất. Vậy nhưng trong xã hội phong kiến xưa, số phận của những người phụ nữ lại như bài thơ Bánh trôi nước của bà chúa thơ nôm Hồ Xuân Hương:

“Thân em thời trắng phận em tròn,

Bảy nổi ba chìm mấy nước non.

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,

Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son.”

Những người phụ nữ khi đó dù có xinh đẹp, tài sắc vẹn toàn đến đâu vẫn gánh chịu những bất công, áp bức của xã hội phong kiến trọng nam khinh nhữ, cổ hủ và lạc hậu. Có rất nhiều nhà thơ, nhà văn đồng cảm với số phận của họ đã sáng tác các tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của những người phụ nữ và vạch mặt xã hội phong kiến tàn ác. Nổi bật trong số đó không thể không kể đến tác phẩm chuyện người con gái Nam Xương, một trong hai mươi truyện của Truyền kì mạn lục do tác giả Nguyễn Dữ sáng tác. Nhân vật chính của truyện là nàng Vũ Nương, hay còn gọi là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương. Nàng là một người phụ nữ vô cùng tốt đẹp với tấm lòng thủy chung và hiếu thảo.

Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp nết, đẹp người nên được Trương Sinh cảm mến và dùng sính lễ lớn đến hỏi cưới. Chưa ở bên nhau được bao lâu thì đất nước xảy ra chiến tranh, Trương Sinh phải đi lính, nàng Vũ Nương khi đó đã mang thai sắp sinh cùng mẹ chồng ở nhà chờ đợi. Lúc này, lòng hiếu thảo của Vũ Nương mới sáng tỏ hơn bao giờ hết. Nàng một mình sinh con, hằng ngày ở bên bầu bạn, chăm sóc mẹ chồng, cùng mẹ đợi chồng bình an quay về. Nhưng bà cụ do nhớ thương con trai quá mà sinh tâm bệnh, ốm nặng. Vũ Nương đã hết mực chạy chữa thuốc thang cho mẹ chồng, nàng còn thành tâm lễ bái thần phật để mong bà cụ được phù hộ độ trì. Nhưng hơn cả, nàng biết tâm bệnh của mẹ không thể chỉ có dùng thuốc thang hay lễ bái mà có thể khỏi được, nên Vũ Nương còn dùng những lời lẽ ngọt ngào an ủi bà cụ. Vũ Nương yêu thương mẹ chồng xuất phát từ tình cảm tận đáy lòng, nên nàng mới để ý từng chút, chăm sóc không chỉ sức khỏe mà còn tâm hồn cho bà cụ một cách khéo léo và ân cần đến thế. Nhưng không trụ được lâu, mẹ chồng nàng đã qua đời, trước khi mất, những lời trăn chối của bà đã khẳng định được rõ nhất lòng hiếu thảo của Vũ Nương. Bà được Vũ Nương thương yêu, săn sóc nên cũng yêu thương Vũ Nương không kém, bà dành những lời cuối để an ủi Vũ Nương, mong nàng không đau xót cho mình quá và mong “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.” Đây là câu nói đắt giá, thể hiện tình cảm của mẹ chồng dành cho nàng và chứng nhận lòng hiếu thảo của nàng. Vũ Nương đã được mẹ chồng cầu phúc cho, khẳng định nàng sẽ được nhận những điều tốt đẹp, cuộc đời sẽ không phụ nàng như nàng không phụ mẹ chồng mình. Nàng còn lo chu đáo hậu sự cho bà cụ, không khác nào lo cho cha mẹ đẻ của mình. Tấm lòng hiếu thảo của Vũ Nương thật đáng giá và sâu sắc làm sao.

Không chỉ hiếu thảo, Vũ Nương còn là người có lòng thủy chung sâu sắc. Khi chồng đi lính, nàng không mong chồng mang “ấn phong hầu trở về quê”, mà chỉ mong sao Trương Sinh có thể bình an quay về. Nàng một mình sinh con, chăm sóc con và mẹ chồng, yêu thương mẹ chồng như mẹ đẻ của mình, điều này cũng chính là sự yêu thương, thủy chung của Vũ Nương dành cho chồng mình, nàng muốn thay chồng gánh vác trách nhiệm, làm tròn đạo hiếu. Từ sau khi mẹ chồng mất nàng cùng con nhỏ ngày ngày đợi chồng trở về. Thương con không có cha ở bên, Vũ Nương mỗi tối đã chỉ vào bóng mình trên tường bảo đó là cha của Đản. Nàng luôn giữ tiết hạnh, làm một người vợ đảm đang, thủy chung, chiếc bóng mỗi tối có lẽ chính là nhân chứng rõ nhất cho lòng thủy chung của Vũ Nương với chồng mình. Nhưng cuộc đời thật bất công với nàng, Trương Sinh quay về, với tính tình hay ghen tuông, bị lời nói của con làm cho hiểu nhầm chiếc bóng là người đàn ông gian díu với Vũ nương, nghĩ nàng không đứng đắn, thủy chung nên đã đuổi nàng đi. Vũ Nương hết mực thanh minh, lại còn được họ hàng, làng xóm chứng minh cho lòng thủy chung nhưng vẫn không lay chuyển được Trương Sinh tính tình cục cằn, nóng giận. Cuối cùng, với tiếng oan không thể rửa sạch ngay, Vũ Nương đã lựa chọn tự vẫn để chứng minh lòng thủy chung của mình, trước khi nhảy xuống sông Hoàng Giang, nàng đã thề rằng: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.” Câu thề của nàng đã thể hiện lòng thủy chung, một lòng với chồng, dám lấy cái chết để chứng minh, cũng ẩn chứa trong đó, người đọc chúng ta có thể thấy được sự bất lực, đau khổ tột cùng của Vũ Nương.

Vũ Nương quả là một người phụ nữ có tấm lòng thủy chung và hiếu thảo, nhưng tiếc thay, nàng lại là hồng nhan bạc mệnh. Sống trong xã hội phong kiến xưa, Vũ Nương cũng chính là đại diện cho những người phụ nữ khi đó, dù họ có tài sắc vẹn toàn như thế nào đều không tránh khỏi được số phận lênh đênh, bất công, giống như câu nói “Thân em như tấm lụa đào, phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”. Nhà văn Nguyễn Dữ đã khắc họa thật thành công Vũ Nương, người con gái hiếu thảo và có lòng thủy chung sâu sắc. Qua đó chúng ta còn thấy được sự phê phán xã hội phong kiến, trọng nam khinh nữ và những người đàn ông có tính gia trưởng như Trương Sinh đã đẩy cuộc sống của Vũ Nương hay những người phụ nữ vào bước đường cùng.

Phân tích lòng hiếu thảo của Vũ Nương - mẫu 3

Nguyễn Dữ là một tác giả tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam. ”Truyền kỳ mạn lục”của ông là một tác phẩm đỉnh cao của thể loại truyện truyền kì. Tác phẩm gồm 20 thiên truyện, trong đó ”Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện ngắn xuất sắc viết về số phận người phụ nữ Việt Nam lúc bấy giờ. Đọc truyện, em vô cùng cảm phục trước lòng hiếu thảo của Vũ Nương.

Nguyễn Dữ sống ở thế kỉ XVI, đây là thời kì xã hội phong kiến suy tàn, các tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh - Mạc tranh giành quyền binh gây ra các cuộc nội chiến kéo dài. Cuộc sống của nhân dân vô cùng lầm than, cực khổ. Quyền sống của con người, nhất là người phụ nữ bị chà đạp, bị coi rẻ, coi khinh. Nguyễn Dữ đã gửi gắm tinh thần nhân đạo vào tác phẩm mình viết. Một trong số đó là “Chuyện người con gái Nam Xương”. Tác phẩm đã thể hiện được lòng hiếu thảo của Vũ Nương như sau:

Chuyện kể về người con gái xinh đẹp, nết na tên là Vũ Thị Thiết. Nàng lấy chồng là Trương Sinh, người cùng làng. Trương Sinh đi lính, để lại Vũ Nương ở nhà. Nàng một mình sinh con, nuôi con, chăm sóc mẹ già khi bà bị ốm, lấy lời ngọt ngào khuyên lơn mong bà sớm khỏi bệnh và lo ma chay chu tất khi bà cụ qua đời.

Qua chuyện, ta có thể thấy Vũ Nương là một người con vô cùng hiếu thảo. Nàng hết sức hiếu thảo với mẹ chồng. Nàng chăm sóc bà rất chu đáo, nhất là khi bà ốm, nàng “hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và láy lời ngọt ngào, không khéo khuyên lơn. Với người ốm đau bệnh tật, chăm lo thuốc thang là việc làm quan trọng đầu tiên phải có. Khi mẹ chồng ốm, Vũ Nương đã lo lắng thuốc thang hết sức mình chăm sóc mẹ chồng. Nàng cầu cúng mong cho mẹ chồng khỏi bệnh. Hành động lễ bái thần phật là hành động an ủi tâm linh cho mẹ chồng. Nàng dùng “lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”, đó là lời của tình cảm chân thành, ân cần, động viên, an ủi người ốm. Khi mẹ chồng ốm, Vũ Nương đã chăm sóc cả về mặt vật chất, tinh thần, tình cảm. Nàng thấu hiểu bệnh của mẹ chồng chủ yếu là do tâm bệnh, do thương nhớ và lo lắng cho con trai. Do đó cách chăm sóc của nàng chủ yếu hướng tới chăm sóc tinh thần cho bà cụ. Trước khi mất, lời trăng trối của mẹ chồng càng khắc sâu lòng hiếu thảo của nàng: “Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Lời trăng trối của mẹ chồng đã khách quan ghi nhận lòng hiếu thảo của Vun Nương. Bà cầu phúc cho con dâu với ý niệm: con dâu bà hiếu thảo, sống tốt thì nhân nào quả nấy. Bà tin rằng sau này trời sẽ cho con dâu được hưởng phúc đức. Mối quan hệ mẹ chồng làng dâu trong xã hội phong kiến thường nặng nề, căng thẳng. Mẹ chồng thường rất cay nghiệt với nàng dâu. Chúng ta chắc chưa quên sự cay nghiệt của Sùng bà đối với con dâu trong vở chèo “Quan âm Thị Kính”. Chỉ vì gia đình Thị Kính không môn đăng hộ đối mà Sùng bà đuổi Thị Kính ra khỏi nhà. Còn mẹ chồng Vũ Nương trong truyện cầu phúc cho con dâu như thế chứng tỏ bà cụ không hề cay nghiệt mà cảm nhận được lòng hiếu thảo của con dâu. Vũ Nương rất chân thành với mẹ chòng ngay cả khi bà mất, nàng”hết lời thương xót”và đã báo hiếu rất chu toàn “lo ma chay, tế lễ như đối với cha mẹ đẻ mình”. Nàng báo hiếu mẹ chồng như đối với đấng sinh thành ra mình vậy. Đó là tình cảm rất đáng nể trọng. Khi ở dưới thủy cung nghe lời Phan Lang kể về cảnh nhà cây cối mọc thành rừng, phần mộ tổ tiên cỏ gai rợp mắt thì Vũ Nương đã ứa nước mắt, quả quyết ”tôi tất phải tìm về có ngày để khỏi mang tiếng xấu xa”. Dù sống bình yên ở cõi khác, nàng vẫn quan tâm lo lắng về nhà cửa, phần mộ tổ tiên. Tất cả mọi hành động, cử chỉ, lời nói của Vũ Nương đã thể hiện tình cảm nàng dành cho mẹ chồng là vô cùng chân thành. Nàng thật sự là một người con dâu hiếu thảo.

Nguyễn Dữ đã xây dựng nhân vật Vũ Nương điển hình cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Nguyễn Dữ đã có sáng tạo so với cổ tích, thêm, bớt, thay đổi tình tiết để nhấn mạnh, làm nổi bật lòng hiểu thảo, vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ. Nhà văn đã thành công trong việc miêu tả tâm lí nhân vật qua củ chỉ, hành động, lời nói. Qua hình tượng nhân vật, tác giả đã thể hiện tinh thần nhan đạo cao cả, đó chính là trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp lòng hiếu thảo của Vũ Nương. Từ đó, người đọc có thể cảm nhận và nhận biết rằng mình nên hiếu thảo với cha mẹ.

Sau khi đọc “Chuyện người con gái Nam Xương”, em càng thêm trân trọng và cảm phục Nguyễn Dữ và nhận ra rằng bản thân mình nên biết sống tốt và hiếu thảo hơn với cha mẹ, ông bà.

Phân tích lòng hiếu thảo của Vũ Nương - mẫu 4

Vũ Nương, nhân vật chính trong truyện "Người Con Gái Nam Xương," là một hình ảnh đẹp, hiếu thảo và chất phát triển bậc nhất của người phụ nữ phong kiến. Những tình huống khó khăn, áp bức từ xã hội, và số phận nặng nề đã làm nổi bật tình cảm hiếu thảo và lòng chung thủy của cô. Bức tranh về sự hiếu thảo của Vũ Nương bắt đầu từ thời điểm cô mang thai và phải chăm sóc mẹ chồng khi Trương Sinh, chồng của cô, phải đi lính. Trong những thời điểm khó khăn, cô không chỉ chạy chữa thuốc thang cho mẹ chồng mà còn tỏ ra quan tâm và thấu hiểu tâm tình của người già. Sự lo lắng và sự chăm sóc của Vũ Nương không chỉ giới hạn ở cảm xúc mà còn thể hiện qua những hành động hết sức con người và tận tâm.

Câu chuyện tiếp tục mở ra khía cạnh mới của lòng hiếu thảo khi mẹ chồng của Vũ Nương qua đời. Sự mất mát này khiến cô phải đối mặt với nỗi đau không lẽ và đồng thời tăng cường thêm trách nhiệm của mình trong gia đình. Mặc dù bị đối diện với sự hiểu lầm và đánh mất lòng tin từ chồng, nhưng Vũ Nương vẫn giữ vững lòng hiếu thảo, không trách móc hay oan trái.

Bằng những hành động như thể hiện lòng lo lắng cho mẹ chồng, thân thiện với người xung quanh và sự chấp nhận với số phận, Vũ Nương trở thành một biểu tượng của tình thương và lòng hiếu thảo trong xã hội phong kiến. Cô là nguồn động viên cho những người phụ nữ khác đang phải đối mặt với những thách thức khó khăn và bất công từ xã hội. Sự hiếu thảo và lòng chung thủy của Vũ Nương không chỉ là tấm gương mà còn là thông điệp về sức mạnh của người phụ nữ trong việc vượt qua mọi khó khăn. Bức tranh về lòng thủy chung và hiếu thảo của Vũ Nương không chỉ dừng lại ở việc chăm sóc mẹ chồng và con cái, mà còn nét đẹp trong tình yêu vợ chồng và lòng nhân ái trong đau khổ và thất bại.

Vũ Nương không mơ về phú quý hay danh vọng cho chồng mình. Trái lại, khi Trương Sinh đi lính, người phụ nữ này chỉ mong chồng an lành trở về, không ao ước hình ảnh sang trọng hay địa vị cao quý. Điều này thể hiện tình yêu sâu sắc của Vũ Nương, nơi niềm vui không nằm ở vật chất mà ở sự bình an và hạnh phúc gia đình. Khi mẹ chồng qua đời, lòng hiếu thảo và tình cảm của Vũ Nương lại được khẳng định một cách rõ ràng. Nàng không chỉ là người chăm sóc sức khỏe mà còn là nguồn động viên tinh thần. Mẫu câu cuối cùng của mẹ chồng, dành tặng cho Vũ Nương, không chỉ là lời cầu nguyện cho cuộc sống sau này mà còn là sự công nhận chân thành đối với lòng hiếu thảo của nàng.

Lòng thủy chung của Vũ Nương còn được thể hiện qua việc chờ đợi chồng trở về, ngay cả khi bị hiểu lầm và bị đuổi đi. Câu chuyện về việc chỉ vào bóng trên tường mỗi tối để làm cha cho đứa con nhỏ của mình không chỉ là một hình ảnh bi đạo với cuộc sống, mà còn là biểu tượng cho lòng chung thủy không mệt mỏi của Vũ Nương. Cuối cùng, quyết định tự vẫn của Vũ Nương không chỉ là sự chấm dứt cuộc sống mà còn là một cách để nàng bảo vệ lòng chất phác và thủy chung của mình. Sự chết của Vũ Nương không chỉ là kết cục của cuộc đời không công bằng mà còn là biểu hiện cho tình yêu và lòng thủy chung không có điểm đổ vỡ.

Với những tình tiết đắng cay trong cuộc sống của Vũ Nương, nhà văn Nguyễn Dữ đã tạo ra một nhân vật mà trong đó đong đầy những đặc điểm nữ tính, làm cho độc giả không chỉ cảm thấy tiếc nuối mà còn đánh giá cao về lòng chung thủy và lòng nhân ái trong cuộc sống phong kiến đầy khắc nghiệt.

Phân tích lòng hiếu thảo của Vũ Nương - mẫu 5

Nguyễn Dữ, một tác giả lớn của nền văn hóa trung đại Việt Nam, được biết đến đặc biệt qua tác phẩm "Truyền kỳ mạn lục". Trong số 20 thiên truyện của tác phẩm này, "Chuyện người con gái Nam Xương" nổi bật với sự xuất sắc trong việc miêu tả số phận và lòng hiếu thảo của Vũ Nương, một người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ xã hội phong kiến suy tàn. Nguyễn Dữ sống vào thế kỷ XVI, một thời kỳ đầy biến động và xao lạc của lịch sử Việt Nam. Xã hội đang chìm đắm trong những cuộc nội chiến giữa các tập đoàn phong kiến như Lê, Trịnh, và Mạc. Cuộc sống của nhân dân đầy lầm than, cực khổ, và quan trọng nhất là quyền sống của người phụ nữ bị đặt ở vị trí thấp kém. Nguyễn Dữ đã lồng ghép tinh thần nhân đạo vào tác phẩm của mình, đặc biệt là "Chuyện người con gái Nam Xương."

Truyện kể về Vũ Nương, một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, làm vợ của Trương Sinh, người cùng làng. Trương Sinh phải rời nhà để tham gia chiến trận, để lại Vũ Nương ở nhà một mình. Vũ Nương đã đối mặt với những khó khăn, nhưng cô vẫn tỏ ra hiếu thảo đối với mẹ chồng và gia đình. Vũ Nương không chỉ làm vợ hiền mà còn là người con hiếu thảo. Khi mẹ chồng ốm, nàng không chỉ chăm sóc vật chất mà còn đặc biệt chăm sóc tinh thần, bày tỏ lòng hiếu thảo và tôn trọng đối với người già. Hành động chăm sóc tận tâm, lời nói ngọt ngào và sự quan tâm tới tâm linh của mẹ chồng là những biểu hiện rõ ràng của lòng hiếu thảo của Vũ Nương.

Khi mẹ chồng qua đời, lòng hiếu thảo của Vũ Nương được thể hiện qua việc "hết lời thương xót" và báo hiếu một cách chu đáo. Nguyễn Dữ thông qua nhân vật Vũ Nương đã truyền đạt một thông điệp rõ ràng về lòng hiếu thảo, sự quan tâm và tôn trọng đối với người già, đặc biệt là trong môi trường gia đình phong kiến đầy áp lực. Với những gì đã đọc, bạn cảm thấy trân trọng và cảm phục trước tác phẩm của Nguyễn Dữ, và nhận ra tầm quan trọng của việc sống tốt và hiếu thảo với cha mẹ, ông bà. Tác phẩm không chỉ là một bức tranh chân thực về xã hội phong kiến Việt Nam, mà còn là nguồn cảm hứng cho những giá trị nhân văn sâu sắc.

Phân tích lòng hiếu thảo của Vũ Nương - mẫu 6

"Tâm huyết với vẻ đẹp và hiếu thảo" - đó có lẽ là tóm tắt chính xác về tác phẩm "Chuyện Người Con Gái Nam Xương" của Nguyễn Dữ. Bên cạnh bức tranh chân thực về cuộc sống trong giai đoạn loạn lạc của đất nước, tác phẩm này tập trung vào nhân vật chính, Vũ Nương, với sự đẹp đẽ của cả vẻ ngoại hình và tâm hồn. Tác phẩm ra đời trong bối cảnh nước nhà đang chìm đắm trong những cuộc nội chiến, khiến xã hội rơi vào tình trạng hỗn loạn và khó khăn. Thông qua những đau thương và thách thức này, Nguyễn Dữ vẽ lên bức tranh xã hội khắc nghiệt, nơi con người phải đối mặt với những khó khăn và thách thức khó lường.

Vũ Nương, như một bức tranh sống, được mô tả với vẻ đẹp ngoại hình và tâm hồn. Đẹp người, đẹp nết, nàng là hòa quyện của công - dung - ngôn - hạnh. Tư dung của Vũ Nương khiến Trương Sinh mê đắm và dành trăm lạng để cầu hôn. Tính cách của Vũ Nương không chỉ là vẻ đẹp bề ngoài mà còn là lòng hiếu thảo và sự thủy chung. Trong khi chồng phải đi lính, nàng không mơ ước về sự vinh quang hay địa vị cao cấp, chỉ mong chồng trở về bình an. Sự hiếu thảo của Vũ Nương được thể hiện qua việc chăm sóc mẹ chồng ốm đau và lòng chung thủy không đổi qua thời gian. Vũ Nương không chỉ là một người vợ thủy chung mà còn là hình mẫu của người dâu hiền hậu. Tác giả chú trọng vào đạo đức và phẩm chất gia đình, nơi Vũ Nương là nguồn động viên tinh thần và niềm hạnh phúc của gia đình. Cuộc đời Vũ Nương tràn ngập bi kịch khi bị hiểu lầm và đuổi đi bởi chồng. Dù được xã hội chứng minh về lòng chung thủy, nhưng cô không thể lấy lại tình cảm và bị đẩy đến quyết định tự vẫn để chứng minh lòng trung kiên và thuần khiết của mình.

Tác phẩm không chỉ là một câu chuyện về một người phụ nữ đẹp và hiếu thảo trong thời loạn, mà còn là một lời nói về những giá trị về đạo đức và lòng nhân ái trong xã hội. Vũ Nương là biểu tượng của sự hi sinh và lòng chung thủy, nhấn mạnh rằng những giá trị này vẫn còn tồn tại và giữ giá trị ngay cả trong những thời kì khó khăn nhất. Với mẹ chồng, Vũ Nương không chỉ làm tròn bổn phận của một người con hiếu thảo mà còn thể hiện sự tinh tế và tận tâm. Khi mẹ chồng ốm đau vì nhớ con trai, Vũ Nương không chỉ hết sức thuốc thang và lễ bái thần phật mà còn sử dụng lời ngọt ngào, khôn khéo khuyên bảo, thấu hiểu nỗi lòng của người mẹ. Hành động này không chỉ là trách nhiệm mà còn là sự chân thành, yêu thương mà Vũ Nương dành cho mẹ chồng.

Lời cuối cùng của mẹ chồng trước khi qua đời chứng minh cho tấm lòng đáng trọng của Vũ Nương. "Sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ." Đây không chỉ là một lời chúc phúc, mà còn là sự thừa nhận và tôn trọng sâu sắc về lòng hiếu thảo của Vũ Nương. Mối quan hệ mẹ chồng - nàng dâu thường gặp nhiều hiềm khích, nhưng sự hòa thuận giữa Vũ Nương và mẹ chồng thể hiện vẻ đẹp của phẩm chất con người. Sự đoan chính, hiếu thảo, khéo léo và dịu dàng của Vũ Nương đã làm cho mẹ chồng không thể không cảm động và tôn trọng. Điều này làm nổi bật tính nhân ái và lòng trung hiếu của Vũ Nương.

Không chỉ giới hạn ở mối quan hệ gia đình, khi mẹ chồng qua đời, Vũ Nương đã một mình lo liệu ma chay và tế lễ như với cha mẹ đẻ. Hành động này một lần nữa làm nổi bật sự thuần khiết và nhân hậu của Vũ Nương. Mọi việc nàng làm đều xuất phát từ trái tim chân thành mà không đòi hỏi đền đáp vật chất. Tình yêu dành cho quê nhà là một khía cạnh khác của lòng hiếu thảo của Vũ Nương. Bị chồng hàm oan rồi gieo mình xuống dòng sông, may mắn Vũ Nương được thần tiên thương xót. Sống an nhàn nhưng nàng vẫn canh cánh nỗi nhớ nhà, điều này chứng tỏ tình yêu và lòng trung hiếu vẹn tròn của người phụ nữ này.

Như vậy, thông qua các chi tiết nhỏ, Nguyễn Dữ đã thành công trong việc thể hiện phẩm chất hiếu thảo của Vũ Nương một cách chân thực và tinh tế. Tác giả không chỉ sử dụng những yếu tố truyền thống mà còn kết hợp với các tình tiết đầy tính huyền bí để thử thách nhân vật. Qua đó, chúng ta thấy Vũ Nương không chỉ là người phụ nữ truyền thống đẹp người, hiếu thảo mà còn là biểu tượng của lòng nhân ái và lòng trung hiếu vẹn tròn.

Phân tích lòng hiếu thảo của Vũ Nương - mẫu 7

Vũ Nương, nhân vật trung tâm của câu chuyện 'Người Con Gái Nam Xương,' là hình mẫu hiếu thảo và chân thành của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Những thử thách, áp bức từ xã hội và số phận khắc nghiệt đã làm nổi bật lòng hiếu thảo và sự chung thủy của cô. Từ khi mang thai và phải chăm sóc mẹ chồng khi chồng cô, Trương Sinh, vắng mặt vì đi lính, Vũ Nương không chỉ chăm sóc sức khỏe mẹ chồng mà còn thể hiện sự thấu hiểu và chăm sóc tận tình. Sự quan tâm của cô không chỉ là cảm xúc mà còn là hành động chân thành và tận tụy.

Câu chuyện tiếp tục làm sáng tỏ lòng hiếu thảo của Vũ Nương qua việc mẹ chồng cô qua đời. Sự mất mát này khiến cô phải đối mặt với nỗi đau và đồng thời gánh vác thêm trách nhiệm trong gia đình. Dù phải đối diện với sự hiểu lầm và mất lòng tin từ chồng, Vũ Nương vẫn kiên định giữ vững lòng hiếu thảo mà không trách móc hay oán hận.

Thông qua những hành động như chăm sóc mẹ chồng tận tâm, đối xử hòa nhã với mọi người và chấp nhận số phận, Vũ Nương đã trở thành biểu tượng của tình yêu và lòng hiếu thảo trong xã hội phong kiến. Cô là nguồn cảm hứng cho những người phụ nữ đối mặt với thử thách và bất công. Lòng hiếu thảo và sự chung thủy của Vũ Nương không chỉ là tấm gương mà còn truyền đạt thông điệp về sức mạnh của phụ nữ trong việc vượt qua khó khăn. Hình ảnh Vũ Nương thể hiện lòng chung thủy và hiếu thảo không chỉ qua việc chăm sóc mẹ chồng và con cái, mà còn trong tình yêu vợ chồng và lòng nhân ái trong những lúc đau khổ.

Vũ Nương không khao khát quyền lực hay vinh quang cho chồng. Khi Trương Sinh đi lính, cô chỉ mong chồng trở về bình an, không mơ ước về danh vọng hay địa vị. Điều này thể hiện tình yêu sâu sắc của Vũ Nương, nơi niềm vui không nằm ở vật chất mà ở sự bình yên và hạnh phúc gia đình. Khi mẹ chồng qua đời, lòng hiếu thảo và tình cảm của Vũ Nương càng được thể hiện rõ ràng. Cô không chỉ chăm sóc sức khỏe mà còn là nguồn động viên tinh thần. Những lời cuối cùng của mẹ chồng dành cho Vũ Nương không chỉ là lời cầu nguyện cho cuộc sống sau này mà còn công nhận sự hiếu thảo của cô.

Lòng chung thủy của Vũ Nương còn bộc lộ qua việc chờ đợi chồng dù bị hiểu lầm và đuổi đi. Hình ảnh Vũ Nương chỉ vào bóng trên tường mỗi tối để làm cha cho đứa con nhỏ không chỉ là biểu tượng của sự hi sinh mà còn là minh chứng cho lòng chung thủy không mệt mỏi của cô. Quyết định tự vẫn của Vũ Nương không chỉ là sự kết thúc cuộc đời đầy bất công mà còn là cách cô bảo vệ lòng chất phác và trung thành của mình. Cái chết của Vũ Nương không chỉ kết thúc cuộc đời mà còn thể hiện tình yêu và lòng trung thành không bao giờ thay đổi.

Với những khó khăn trong cuộc sống của Vũ Nương, nhà văn Nguyễn Dữ đã xây dựng một nhân vật với đầy đủ những phẩm chất nữ tính, khiến độc giả không chỉ cảm thấy tiếc nuối mà còn trân trọng lòng chung thủy và sự nhân ái trong xã hội phong kiến khắc nghiệt.

Phân tích lòng hiếu thảo của Vũ Nương - mẫu 8

Nguyễn Dữ, một tác giả nổi bật của văn học trung đại Việt Nam, đặc biệt được biết đến qua tác phẩm 'Truyền kỳ mạn lục.' Trong số 20 câu chuyện của tác phẩm này, 'Chuyện người con gái Nam Xương' nổi bật với sự khắc họa số phận và lòng hiếu thảo của Vũ Nương, một phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ phong kiến suy tàn. Nguyễn Dữ sống vào thế kỷ XVI, một thời kỳ đầy biến động của lịch sử Việt Nam với những cuộc nội chiến giữa các tập đoàn phong kiến như Lê, Trịnh, và Mạc. Xã hội thời đó đầy lầm than và quyền sống của phụ nữ bị xem nhẹ. Nguyễn Dữ đã khéo léo lồng ghép tinh thần nhân đạo vào tác phẩm của mình, đặc biệt là 'Chuyện người con gái Nam Xương.'

Truyện kể về Vũ Nương, một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, là vợ của Trương Sinh, người cùng làng. Khi Trương Sinh phải đi chiến đấu, Vũ Nương ở nhà một mình và phải đối mặt với nhiều thử thách. Dù vậy, cô vẫn thể hiện lòng hiếu thảo đối với mẹ chồng và gia đình. Vũ Nương không chỉ là một người vợ hiền mà còn là một con dâu hiếu thảo. Khi mẹ chồng ốm, nàng không chỉ chăm sóc về mặt vật chất mà còn đặc biệt quan tâm đến tinh thần, thể hiện lòng hiếu thảo và tôn trọng đối với người già qua những hành động và lời nói ân cần.

Khi mẹ chồng qua đời, lòng hiếu thảo của Vũ Nương được thể hiện qua việc 'hết lòng thương xót' và báo hiếu một cách chu đáo. Nguyễn Dữ qua nhân vật Vũ Nương đã truyền tải thông điệp rõ ràng về lòng hiếu thảo, sự quan tâm và tôn trọng đối với người già, đặc biệt trong bối cảnh gia đình phong kiến đầy áp lực. Đọc tác phẩm, bạn sẽ cảm thấy trân trọng và cảm phục trước tác phẩm của Nguyễn Dữ, và nhận thức được giá trị của việc sống tốt và hiếu thảo với cha mẹ, ông bà. Tác phẩm không chỉ phản ánh xã hội phong kiến Việt Nam mà còn là nguồn cảm hứng về các giá trị nhân văn sâu sắc.

Phân tích lòng hiếu thảo của Vũ Nương - mẫu 9

'Tinh thần và lòng hiếu thảo' có thể xem là nội dung cốt lõi của tác phẩm 'Chuyện Người Con Gái Nam Xương' của Nguyễn Dữ. Bên cạnh việc miêu tả chân thực cuộc sống trong thời kỳ loạn lạc, tác phẩm tập trung vào nhân vật Vũ Nương, thể hiện sự đẹp đẽ cả về hình thức lẫn nội tâm. Tác phẩm được viết trong bối cảnh đất nước đang rơi vào tình trạng chiến tranh, xã hội rối ren và khó khăn. Qua những thử thách và đau thương, Nguyễn Dữ khắc họa một xã hội khắc nghiệt, nơi con người phải đối mặt với những thử thách không lường trước được.

Vũ Nương hiện lên như một tác phẩm nghệ thuật sống động, với vẻ đẹp toàn diện từ ngoại hình đến tâm hồn. Nàng vừa xinh đẹp, vừa hiền hòa, kết hợp hoàn hảo giữa công, dung, ngôn, hạnh. Sự quyến rũ của Vũ Nương khiến Trương Sinh say đắm, sẵn sàng chi cả trăm lạng để cầu hôn. Nhưng phẩm hạnh của Vũ Nương không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp bên ngoài mà còn ở lòng hiếu thảo và sự chung thủy. Khi chồng ra trận, nàng không mong cầu vinh quang hay địa vị cao, chỉ ước chồng trở về bình an. Sự chăm sóc tận tình của Vũ Nương dành cho mẹ chồng khi bà ốm đau và lòng trung thành của nàng không bao giờ thay đổi. Vũ Nương không chỉ là một người vợ thủy chung mà còn là hình mẫu của một dâu hiền. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh đạo đức và phẩm chất gia đình, nơi Vũ Nương là nguồn động viên và hạnh phúc của gia đình. Cuộc đời nàng đẫm bi kịch khi bị hiểu lầm và bị đuổi đi bởi chồng. Dù xã hội đã chứng minh lòng chung thủy của nàng, nhưng nàng không thể cứu vãn tình cảm và bị đẩy đến quyết định tự vẫn để khẳng định sự trung kiên và thuần khiết của mình.

Tác phẩm không chỉ kể về một người phụ nữ đẹp và hiếu thảo trong thời kỳ loạn lạc mà còn phản ánh những giá trị đạo đức và lòng nhân ái trong xã hội. Vũ Nương trở thành biểu tượng của sự hi sinh và lòng chung thủy, khẳng định rằng những giá trị này vẫn tồn tại và giữ nguyên giá trị ngay cả trong những thời kỳ khó khăn nhất. Đối với mẹ chồng, Vũ Nương không chỉ hoàn thành bổn phận của một con dâu hiếu thảo mà còn thể hiện sự tinh tế và tận tâm. Khi mẹ chồng đau yếu vì nhớ con trai, Vũ Nương không chỉ chăm sóc về mặt vật chất mà còn dùng lời nói dịu dàng, khéo léo khuyên nhủ, thấu hiểu nỗi lòng của người mẹ. Hành động này không chỉ là trách nhiệm mà còn là sự chân thành và tình yêu mà Vũ Nương dành cho mẹ chồng.

Lời cuối cùng của mẹ chồng trước khi qua đời là minh chứng rõ ràng cho tấm lòng đáng quý của Vũ Nương. 'Sau này trời xét lòng lành, ban phúc đức, con cháu đông đúc, xanh kia quyết không phụ con, như con đã không phụ mẹ.' Đây không chỉ là lời chúc phúc mà còn là sự công nhận sâu sắc về lòng hiếu thảo của Vũ Nương. Mối quan hệ mẹ chồng - nàng dâu thường gặp nhiều rắc rối, nhưng sự hòa thuận giữa Vũ Nương và mẹ chồng cho thấy phẩm chất con người đáng quý. Sự đoan chính, hiếu thảo, khéo léo và dịu dàng của Vũ Nương đã làm cảm động và tôn trọng mẹ chồng. Điều này làm nổi bật tính nhân ái và lòng trung hiếu của Vũ Nương.

Vũ Nương không chỉ đảm nhận vai trò trong gia đình mà khi mẹ chồng qua đời, nàng tự mình lo liệu ma chay và tế lễ như với cha mẹ đẻ. Hành động này thêm một lần nữa làm nổi bật sự thuần khiết và lòng nhân hậu của Vũ Nương. Mọi việc nàng làm đều xuất phát từ trái tim chân thành, không mong đợi đền đáp vật chất. Tình yêu của Vũ Nương đối với quê hương là một khía cạnh khác của lòng hiếu thảo. Bị chồng hàm oan và gieo mình xuống sông, may mắn thay, nàng được thần tiên thương xót. Mặc dù sống an nhàn, nàng vẫn mang nỗi nhớ quê, chứng tỏ tình yêu và lòng trung hiếu vẹn toàn của nàng.

Thông qua những chi tiết nhỏ, Nguyễn Dữ đã thành công trong việc thể hiện phẩm chất hiếu thảo của Vũ Nương một cách chân thực và tinh tế. Tác giả không chỉ sử dụng các yếu tố truyền thống mà còn kết hợp với các tình tiết huyền bí để thử thách nhân vật. Qua đó, Vũ Nương không chỉ là người phụ nữ truyền thống đẹp đẽ và hiếu thảo mà còn là biểu tượng của lòng nhân ái và lòng trung hiếu vẹn toàn.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học