10+ Phân tích mình đi có nhớ những ngày (điểm cao)
Phân tích mình đi có nhớ những ngày điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Phân tích mình đi có nhớ những ngày
- Phân tích mình đi có nhớ những ngày (mẫu 1)
- Phân tích mình đi có nhớ những ngày (mẫu 2)
- Phân tích mình đi có nhớ những ngày (mẫu 3)
- Phân tích mình đi có nhớ những ngày (mẫu 4)
- Phân tích mình đi có nhớ những ngày (mẫu 5)
- Phân tích mình đi có nhớ những ngày (mẫu 6)
- Phân tích mình đi có nhớ những ngày (mẫu 7)
- Phân tích mình đi có nhớ những ngày (mẫu 8)
10+ Phân tích mình đi có nhớ những ngày (điểm cao)
Dàn ý Phân tích mình đi có nhớ những ngày
1. Mở bài:
Giới thiệu về bài thơ "Việt Bắc" và nhắc đến sự xuất hiện của 12 câu thơ đầy ý nghĩa trong bài thơ.
2. Thân bài:
* Phân tích 4 câu đầu đoạn
+ Trình bày cảm xúc thăng hoa của tác giả qua việc sử dụng tiếng "mình" để thể hiện sự gần gũi, thân thuộc với đề tài và nhân dân Việt Bắc.
+ Nhấn mạnh tính đa chiều của các câu hỏi trong bài thơ, chúng vừa trách móc vừa thể hiện tâm trạng lo lắng và buồn bã của tác giả đối với cuộc sống của nhân dân Việt Bắc.
+ Phân tích nhịp thơ 2/4; 2/2/4 và nhấn mạnh rằng những nhịp này tạo nên sự đều đặn, thể hiện sự thiết tha và đoàn kết trong lòng người ở lại.
* Phân tích 6 câu tiếp theo
+ Đặc điểm độc đáo của lối xưng hô "mình" và "ta" trong bài thơ, với ý chỉ rằng hai thực thể này thực ra chỉ là một, tạo nên hình ảnh những người cách mạng đã về xuôi với sự đoàn kết mạnh mẽ.
+ Giải thích ý nghĩa của từ "Rừng núi" trong bài thơ, biểu hiện tình yêu và sự kính trọng của tác giả đối với những người dân tại chiến khu Việt Bắc.
+ Thảo luận về việc người cách mạng ra đi không chỉ để lại kí ức đọng mãi trong tâm hồn người ở lại mà cảnh vật xung quanh cũng chứng kiến sự buồn bã và quyến luyến qua việc miêu tả trám bùi rụng và măng mai già.
+ Nêu rõ tình cảm sâu sắc của nhân dân Việt Bắc đối với cách mạng và cán bộ miền xa, thông qua việc tôn vinh "lòng son" của họ.
* Phân tích 2 câu cuối đoạn
+ Đánh giá tầm quan trọng của việc sử dụng ba từ "mình" trong hai câu thơ cuối, thể hiện sự hiệp nhất và thấu hiểu giữa nhân dân và cách mạng.
+ Nhấn mạnh thông điệp về sự hài hoà và thâm hiểu lẫn nhau giữa nhân dân và cách mạng.
+ Trình bày ý nghĩa của việc gợi nhắc đến những địa điểm lịch sử như Tân Trào và Hồng Thái, nhấn mạnh sự quyết tâm sống thủy chung với quá khứ của nhân dân Việt Bắc.
3. Kết bài:
Tóm tắt lại giá trị của đoạn trích trong bài thơ "Việt Bắc" và sự tài năng của tác giả trong việc diễn đạt tình cảm và tương tác giữa nhân dân và cách mạng qua lời thơ.
Phân tích mình đi có nhớ những ngày - mẫu 1
Tố Hữu, một nhà thơ vĩ đại của dân tộc, đã dành cả cuộc đời của mình cho cách mạng. Thơ của ông luôn kết nối mạch lịch sử hào hùng của cuộc kháng chiến. Vì vậy, khi nhắc đến Tố Hữu, chúng ta thường nghĩ đến một nhà thơ đầy tình yêu quê hương, đam mê và lý tưởng. Điểm đặc biệt trong sáng tạo thơ của ông chính là việc ông kết hợp giữa tình cảm trữ tình và tinh thần chính trị.
Bài thơ "Việt Bắc" được xem là một trong những tác phẩm nổi bật trong hành trình sáng tác vì nước của Tố Hữu. Nó ra đời vào năm 1954, sau khi miền Bắc giải phóng và hòa bình được thiết lập, khi nhà thơ và cả Trung ương Đảng và Chính phủ quay trở lại miền Nam, để lại nơi đại ngàn rừng núi. Bằng thể thơ dân tộc và lối viết nhẹ nhàng mà đầy nét ân tình, "Việt Bắc" trở thành một bản nhạc tình ca chất chứa những ký ức và nỗi nhớ của người cách mạng đối với con người và cảnh vật tại Việt Bắc. Tình cảm sâu đậm mà nhân dân dành cho cán bộ, và của cán bộ dành cho nhân dân, tương hòa quyện vào từng lời thơ. Nhất là 12 câu thơ đầu tiên của khổ thơ thứ 3, chúng thể hiện một cách sâu sắc nhất tình yêu thương ấy.
"Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ,những mây cùng mưa
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai"
Lối xưng hô "mình- ta" thường được sử dụng rộng rãi trong ca dao và dân ca Việt để thể hiện sự thân thuộc và thắm thiết trong tình cảm con người. Trong bài thơ này, tác giả cũng đã khéo léo áp dụng lối xưng hô này để tạo sự gần gũi, đậm đà ân tình giữa người ra đi và người ở lại. Tiếng "mình" trong bài thơ này truyền tải một tâm hồn đong đầy tình yêu thương, nó thật quen thuộc, thân thuộc đến mức khiến người đọc không thể không cảm nhận được.
Những câu hỏi được đặt ra, mặc dù có vẻ như có chút trách móc, nhưng thực chất chúng mang đậm màu sắc của tình yêu và phân vân, lo lắng: "Không biết mình đi rồi có còn nhớ những ngày xưa? Mình có nhớ chăng những ngày cùng nhân dân trải qua những khó khăn, gian khổ do thời tiết và thiên nhiên gây ra để chiến đấu? Mình có nhớ nơi chiến khu yêu dấu, nơi mà bóng dáng con người vẫn còn đọng mãi, đợi chờ và quyến luyến, hay những bữa cơm đơn sơ mà chúng ta cùng nhau chấm muối trong bao gian khó?" Nhịp điệu của bài thơ, với sự thay đổi giữa nhịp 2/4 và 2/2/4, mang lại một cảm giác êm đềm và đều đặn, thể hiện một sự thiết tha đặc biệt trong lòng những người ở lại.
Nỗi nhớ thương đối với những người cách mạng ngày xưa càng tràn đầy khi những kí ức về những thời kỳ đầy khó khăn lại được lôi cuốn bằng cách liệt kê những câu chuyện về hành trình cùng nhân dân Việt Bắc. Đó là những tháng ngày tại tiền tuyến mây mù và suối lũ, đầy những thách thức và nguy hiểm, nhưng nhân dân và người chiến đấu không từ bỏ, không sợ hãi, và không chùn chân. Đó là những bữa cơm đơn sơ mà họ cùng nhau san sẻ, và miếng cơm ấy có hương vị ấm áp và đậm đà tình thương. Đó cũng chính là mối thù chung của nhân dân và cán bộ, là mối thù chung của dân tộc khi mà lũ giặc tàn bạo xâm lấn đến đáng sợ. Gánh nặng cộng đồng đè lên vai họ, bao gồm gánh nặng của quân thù, của cách mạng và của nhân dân, tất cả đều gắn kết trong tinh thần đoàn kết và dũng cảm, khi họ bước vào cuộc chiến đấu để đánh bại quân thù, giành lại hòa bình và tự do cho dân tộc. Trong từng lời thơ, ta không cảm nhận sự than vãn hay sự mệt mỏi trước khó khăn và gian khổ, mà thay vào đó, ta thấy sự tự hào rực rỡ của những người ở lại. Họ tự hào về những ngày chiến đấu dũng cảm, về những hành trình vượt qua khó khăn, và về sự đoàn kết mạnh mẽ khi "mình và ta" đồng lòng bên nhau, chiến thắng kẻ thù, và mang lại hòa bình, tự do cho dân tộc.
Sau khi gợi lại những kỉ niệm ngày nào, nhân dân tiếp tục bày tỏ những tình cảm chân thành và nỗi lưu luyến với người đi:
"Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già"
Lối xưng hô "mình" và "ai" thật sự đặc biệt, chỉ bằng hai từ nhưng nó đã tạo nên hình ảnh rõ ràng của những người cách mạng đã trở về miền xuôi. "Rừng núi" ở đây là một biện pháp ẩn dụ để chỉ những người dân tại chiến khu Việt Bắc. Các cán bộ đã trở về nơi thủ đô phồn hoa, vậy mà liệu họ còn nhớ những khoảnh khắc trong núi rừng, nắng gió không? Nhưng với những người ở lại, nỗi "nhớ" ấy vẫn còn đọng mãi, nó chạm vào từng chi tiết trong cảnh vật xung quanh: rừng núi, trám bùi, măng mai... Cảm xúc buồn bã bởi việc phải xa nhau mà nhân dân dành cho chiến sĩ thật chân thành, thấm thiết và đầy xúc động.
Nỗi nhớ này càng dâng trào khi họ nghĩ về những người đã ra đi, và nhân dân không thể nào khỏi lo sợ rằng ai đó sẽ quên đi "người ở lại." Chính vì vậy, họ luôn đặt ra những câu hỏi, không biết liệu có ai đó sẽ quên đi, và bằng cách nào đó, họ cất lên những câu hỏi đó để tìm kiếm câu trả lời, để chắc chắn rằng tình cảm và sự hy sinh của họ sẽ được ghi nhớ và trân trọng.
"Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh."
Tác giả lựa chọn hình ảnh của những cánh lau xám hắt hiu, như một đặc điểm độc đáo của thiên nhiên tại Việt Bắc, để đặt câu hỏi về tình cảm mà những người cách mạng dành cho quê hương của họ. Những người đã ra đi, liệu họ còn nhớ không những ngôi nhà xuất hiện mong manh sau những tán lau, những ngôi nhà giữa vùng núi rừng hùng vĩ. Còn liệu họ có nhớ đến những tình cảm ấm áp và đậm đà của những người ở lại? Nhưng đối với nhân dân Việt Bắc, tình cảm của họ với cách mạng và với các cán bộ miền xa vẫn mãi mãi thắm thiết, một mối tình son sắt không bao giờ phai nhạt.
Đoạn thơ kết thúc bằng việc gợi lại những sự kiện lịch sử đáng tự hào của cán bộ và nhân dân:
"Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa."
Hai câu thơ có chỉ 14 tiếng, nhưng "mình" xuất hiện đến 3 lần, đã thể hiện rõ sự hoà quyện và đoàn kết giữa nhân dân và cán bộ. Dường như đã không còn sự phân biệt rạch ròi giữa "mình" và "ta," mà thay vào đó là sự thấu hiểu và hài hoà. "Mình" - người ra đi và "mình" - người ở lại, liệu có còn nhớ những nơi họ đã cùng nhau chiến đấu, liệu có còn nhớ những địa danh quan trọng như "Tân Trào" và "Hồng Thái"? Đó là một câu hỏi, nhưng cũng mang trong đó một lời nhắc nhở về tình cảm đoàn kết, đừng bao giờ quên quá khứ đầy ý nghĩa, những tình cảm thân thuộc đã từng đọng mãi. Đừng bao giờ phản bội sự hy sinh và mất mát của quá khứ, mà hãy sống với trách nhiệm và tôn trọng hôm nay, không ngủ quên trên những chiến tích đã đạt được. Hãy tiếp tục bảo vệ đất nước và xây dựng tương lai.
Mặc dù chỉ có 12 câu thơ lục bát, nhưng chúng ghi lại những tình cảm đẹp đẽ và đáng trân trọng giữa người chiến sĩ cách mạng và nhân dân Việt Bắc. Đó không chỉ là mối tình quân dân, mà còn là mối quan hệ thân thiết và gắn kết, đáng quý trọng.
Phân tích mình đi có nhớ những ngày - mẫu 2
Kháng chiến đã đi qua, hòa bình đã lập lại. Tuy nhiên những kí ức về kháng chiến vẫn còn đó. Đối với thế hệ học sinh chúng ta, hình ảnh cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ trường kì của dân tộc chỉ được thể hiện qua trang sách, bài văn, bài thơ. Dẫu vậy, chúng ta cũng cảm thấy vô cùng xúc động, biết ơn những dòng văn, dòng thơ ấy, nhờ đó mà chúng ta mới biết đến cội nguồn của dân tộc, biết đến những năm tháng trường kì kháng chiến. Và ấn tượng hơn cả chính là tác phẩm Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu, một tác phẩm xuất sắc đã tái hiện lại những hình ảnh gian khó của cuộc kháng chiến chống Pháp, ẩn trong đó là tình đồng đội, đồng bào sâu sắc. Đặc biệt trong khổ 3 của tác phẩm, đây là khổ thơ vô cùng ấn tượng , mang nhiều giá trị nội dung, tư tưởng, nghệ thuật đặc sắc, lưu nhiều dấu ấn xúc động trong trái tim người đọc.
Tố Hữu là nhà thơ Cách mạng, trưởng thành theo cách mạng. Ông cũng là nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca Việt Nam với rất nhiều tác phẩm viết về cách mạng, kháng chiến đồ sộ. Trong lời giới thiệu tập thơ của Tố Hữu xuất bản năm 1946 đã viết: “Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song song với lịch trình tiến triển về tư tưởng và trình độ giác ngộ, về sức hoạt động của Tố Hữu. Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí cụ đấu tranh, một công tác vận động của người Cách mạng. Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng ta đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ”. Thơ cách mạng chính là tiếng nói không chỉ của nhà thơ mà còn của đồng bào, của dân tộc, của các chiến sĩ. Nó chính là vũ khí để cổ vũ tinh thần đấu tranh mạnh mẽ dân tộc.
Trong tuyển tập thơ ca năm 1938 – 1963 còn có đoạn ghi: “Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích…Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính…Anh là một con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp”. Qua đây cho thấy, những tác phẩm thơ ca mà Tố Hữu đã viết để lại ấn tượng rất lớn trong diễn đàn văn học nói riêng và trong trái tim người đọc nói chung. Ấn tượng hơn cả chính là bài thơ Việt Bắc được viết trong bối cảnh vô cùng đặc biệt. Đó là khi các cán bộ đầu não trung ương phải rời Việt Bắc để trở về xuôi tiếp tục nhiệm vụ. Bài thơ viết trong hoàn cảnh chia ly nên thấm đẫm tình cảm sự thương nhớ và không nỡ rời xa. Điều đó được thể hiện rất mạnh trong khổ thơ thứ 3 của tác phẩm.
Nếu khổ đầu và khổ 2 bài thơ nói lên tâm trạng lưu luyến bịn rịn chia tay của kẻ ở và người đi, thì sang khổ thứ 3, tâm trạng ấy càng được thể hiện rõ ràng hơn, ẩn sau đó là câu hỏi tu từ:
Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Thiên nhiên và con người được tác giả khéo léo sử dụng trong từng câu thơ. Có lẽ, chỉ khi con người được gắn liền với thiên nhiên thì hình tượng mới trở nên đẹp và ấn tượng hơn. Một thực tế cho thấy con người không thể tách rời thiên nhiên. Chính thiên nhiên xung quanh ta mỗi ngày lại là những kỉ niệm không thể quên, luôn tồn tại trong tâm trí ta. Nỗi nhớ mà ta nhắc đến luôn có những cảnh sắc thiên nhiên mà chúng ta đã trải qua. Có con người, có thiên nhiên nên kỉ niệm càng nhớ, càng da diết. Trong hai câu thơ trên, tác giả hỏi: “Mình đi có nhớ những ngày/ Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?”
Đây chính là câu hỏi tu từ, hỏi nhưng đã trả lời. Mình ở đây chính là các chiến sĩ, bộ đội cụ hồ đang được đồng bào Việt Bắc hỏi. Đồng bào hỏi các đồng chí khi rời xa Việt Bắc có nhớ những người bên nhau gian khó, vượt núi băng rừng, dầm mưa lội suối, sớm hôm bên nhau? Đây là những kỉ niệm gắn bó bên nhau những tháng ngày gian khó không thể nào quên. Đồng bào vẫn luôn nhớ những tháng ngày đó, cảm thấy lưu luyến khi phải rời xa cán bộ, vậy hỏi cán bộ có nhớ hay không?
Qua câu thơ không chỉ cảm nhận được tình cảm của người đi và người ở lại thắm thiết nghĩa tình thế nào, họ đã trải qua bao gian khó thế nào. Chỉ có khi cùng nhau vượt qua gian khó mới có thể trân trọng, thương yêu nhau da diết thật lòng như thế. Ngoài ra, câu thơ cũng tái hiện hình ảnh thiên nhiên khắc nghiệt sông núi hiểm trở, mây mù. Cho thấy cuộc sống của cán bộ cũng như đồng bào nơi đây rất vất vả.
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Câu thơ rất thực và đời. Nó thực vì cuộc sống của đồng bào cùng cán bộ ở đây rất gian khó, ăn cơm chấm muối nhưng vẫn luôn một lòng vì tổ quốc quyết sinh, sẵn sàng chiến đấu, chung thủy sắt son với đảng, với cách mạng. Tố Hữu không cần phải ví von những hình ảnh cao siêu gì cả, tất cả vô cùng dung dị, gần gũi thực tế. Đó là cuộc sống mà ông cũng như đồng đội, đồng bào Việt Bắc đã trải qua và nó đã ghi dấu ấn vô cùng ấn tượng trong trái tim. Cuộc sống gian khó đến như thế, chỉ có cơm và muối nhưng không bao giờ chùn bước trước kẻ thù, mối thù dân tộc luôn đè lên vai, trái tim luôn căng tràn ý chí chiến đấu, lúc nào cũng kề vai sát cánh bên nhau một lòng căm thù giặc sâu sắc.
Cách dùng từ của Tố Hữu thật hay, mang tính trừu tượng “mối thù nặng vai” nhưng lại thể hiện được sức nặng của sự căm thù, sức nặng của tội ác của giặc, đây chính là mối thù không đội trời chung.
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Trám và măng là hai “đặc sản” của núi rừng Việt bắc chiêu đãi các chiến sĩ, các cán bộ. Hai món ăn thường xuất hiện trong bữa cơm của họ, vậy mà giờ đây khi cán bộ đã về xuôi, trám đành để rụng, măng đành để già. Câu thơ nghe mới buồn da diết không nỡ rời xa biết bao. Đồng bào nhìn cảnh vật thiên nhiên lại nhớ đến cán bộ, nhớ những tháng ngày gian khổ cùng nhau. Bởi mới có câu: “Khi ta đến chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”. Có lẽ đây không chỉ là tâm trạng lưu luyến của người dân Việt Bắc mà cũng là sự lưu luyến của những người chiến sĩ sắp rời xa quê hương thứ 2. Hình ảnh trám bùi, măng mai có lẽ là hình ảnh họ cũng không bao giờ quên được. Hình ảnh núi rừng Việt Bắc đã gắn bó 10 năm sẽ mãi lưu trong trái tim họ.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Câu thơ thể hiện cuộc sống người dân Việt bắc rất vất vả, đơn sơ, hắt hiu. Cuộc sống của họ là thế nhưng tấm lòng của họ thì “đậm đà lòng son”. Họ yêu quý cán bộ như yêu quý người thân trong gia đình, các mẹ yêu quý cán bộ như chính con đẻ của mình: “Bao bà cụ từ tâm như mẹ/ Yêu quý con như đẻ con ra”. Được sống và bao bọc trong tình yêu thương như thế, thì khi rời xa những chiến sĩ của chúng ta sao không khỏi day dứt nhớ thương. Có lẽ, những người “mẹ Việt Bắc” cũng đang lưu luyến, nhớ thương những đứa con mình đã yêu thương, cưu mang suốt 10 năm qua.
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Bốn câu thơ cho thấy vai trò to lớn của Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp. Và trong cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng 8 trước đó. Việt Bắc là nơi đã diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng, tuy lực lượng cách mạng khi đó còn non trẻ nhưng với tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, một lòng chống giặc đã tạo nên những kì tích, thắng lợi vẻ vang và góp phần to lớn và cuộc kháng chiến cả nước. Những địa danh mà Tố Hữu liệt kê trong bài như: Tân Trào, Hồng Thái chính là những trận chiến lịch sử oanh liệt, hào hùng và rất đáng tự hào.
Khi mà thời đó, các chiến sĩ, đồng bào ta còn rất gian khổ trong cuộc sống vậy mà tinh thần chiến đấu chưa bao giờ nguôi. Kẻ thù thua chúng ta chính là thua về cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Chúng thua chúng ta trên mọi mặt trận. Cuộc kháng chiến của chúng là là chính nghĩa còn chúng là phi nghĩa. Chúng ta chiến thắng về tinh thần, đoàn kết, nhất trí một lòng. Dù gian khó, vất vả thế nào nhưng cũng không thể nào dập tắt ý chí chống giặc của nhân dân ta.
Khổ 3 chỉ với 12 câu thơ lục bát nhưng đã tái hiện được những gian khó vất vả mà cán bộ, chiến sĩ cũng như đồng bào Việt Bắc đã trải qua. Đồng thời cũng thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó, yêu thương một nhà, ý chí quyết tâm chống giặc cao độ. Và thành quả vẻ vang chính là những chiến thắng trên mọi mặt trận. Rời xa Việt Bắc chính là rời xa quê hương thứ 2 mà 10 năm gắn bó, có lẽ cả đồng bào, đồng chí không thể quên những tháng ngày gian khó bên nhau. Nhưng chắc chắn họ sẽ luôn tự hào vì được sống và cống hiến, chiến đấu hi sinh vì sự nghiệp vẻ vang của dân tộc. Thật tự hào thay và cảm ơn nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại những bằng chính lịch sử hào hùng, để thế hệ sau có thể hiểu và luôn cố gắng học tập, góp phần nhỏ công sức vào công cuộc thay đổi, phát triển đất nước.
Phân tích mình đi có nhớ những ngày - mẫu 3
Có thể nói bài thơ Việt Bắc là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất khẳng định vị trí của Tố Hữu trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Việt Bắc không chỉ là bản hùng ca về cuộc kháng chiến vĩ đại, gian khổ và anh dũng của cả dân tộc mà còn là bản tình ca ngợi ca tình cảm sâu nặng giữa cán bộ với quần chúng nhân dân, giữa đồng bào hai miền. với miền khác. người miền xuôi. Nỗi niềm sâu lắng ấy được thể hiện rất cụ thể và sinh động trong khổ thơ thứ ba.
Cả khổ thơ là lời của người ở lại, những câu thơ chứa đựng tình cảm, nỗi nhớ của người ở lại với người ra đi hay của nhân dân Việt Bắc với người cán bộ cách mạng. Trong bốn dòng đầu của bài thơ, người ở lại tái hiện những kỷ niệm của quá khứ, những kỷ niệm của một thời đã qua:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Những người ở lại kể về những tháng ngày gian khổ khi phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt của núi rừng Việt Bắc. “Mưa nguồn, lũ về” là hiện tượng thiên nhiên đặc trưng của miền núi, mưa xối xả, mưa bất chợt ở thượng nguồn thường gây ra lũ quét, lũ ống, lũ ống. Hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt này chỉ có ở vùng núi cao, nó giống như một tai họa luôn rình rập, đe dọa tính mạng con người. Ngoài ra, ở đây có “mây”, người dân miền núi sống ở độ cao nên mây và sương mù dày đặc tạo nên không gian lạnh lẽo và cản trở nhiều hoạt động, cản trở tầm nhìn của người dân. Cả hai hiện tượng trên đều là những trở ngại lớn đối với đồng bào miền núi cũng như đồng bào miền xuôi. Để vượt qua và thích nghi, các cán bộ đã được đồng bào trong chiến khu đùm bọc, chia sẻ. Nó trở thành kỷ niệm đẹp của họ. Những người ở lại cũng bồi hồi nhớ lại những ký ức về một thời chiến tranh khốc liệt, đau thương, sự đối lập giữa hoàn cảnh và ý chí: “miếng cơm manh áo” và “mối thù sâu nặng”. Trong hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn, điều kiện đấu tranh đầy thử thách, thiếu thốn về vật chất, nhưng tình quân dân vẫn ý chí, đồng lòng, đoàn kết. Kẻ thù đó là giặc ngoại xâm, là nhiệm vụ cách mạng cao cả mà Đảng giao phó, không chỉ là kẻ thù của cán bộ cách mạng, mà còn là sự chung tay, đoàn kết của đồng bào các dân tộc vùng cao. quyền lực sinh ra sự thù địch. Sau khi nhắc lại những kỷ niệm mà người ở lại luôn trân quý và nhớ mãi, người ở lại bày tỏ nỗi nhớ nhung, tình cảm sâu nặng đối với người ra đi:
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Ở hai câu đầu, ta thấy nỗi nhớ của người ở lại được miêu tả bằng phép hoán dụ “rừng nhớ người” tức là không chỉ người mà cây cối, núi sâu, rừng thẳm đều có chung một sự vật. nỗi nhớ của con người. “Bùi trám” và “măng” là thức ăn quen thuộc của người miền núi, nhưng theo nỗi nhớ đó, trám rụng đi, măng già đi. Bài thơ “Ba cành mai rụng, cành mai già” hiện lên nỗi nhớ nhung, trống trải, hụt hẫng, lan tỏa khắp núi rừng, ảnh hưởng đến sinh hoạt đời thường của con người. Ngoài ra, nỗi buồn còn được thể hiện qua sự đối lập của “đôi mắt xám xịt” và “sâu thẳm trong lòng người”, là sự đối lập giữa điều kiện vật chất và tình cảm, trái tim con người. Những mái tranh, vật chất sơ sài, dột nát, hiu quạnh nhưng lòng người không hề sơ sài, “phú quý” là từ lóng khẳng định sự sâu sắc, nồng nàn của tình yêu. Những hình ảnh tương phản ấy đã nhấn mạnh con người Việt Bắc tuy nghèo về vật chất, giản dị nhưng không nghèo về tình cảm, luôn dành cho người cán bộ một tình cảm sâu nặng, một lòng thủy chung. Qua những câu chuyện của những người ở lại, ta thấy được nỗi nhớ da diết, tình cảm của người dân chiến khu đối với người cán bộ cách mạng trở về là một tình cảm lớn thể hiện nội dung yêu nước trong thơ Tố Hữu. Cuối cùng, ở bốn câu thơ cuối, đó là một lời khuyên nhủ, nhắc nhở đối với những người đã khuất:
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Người ở lại căn dặn những người cách mạng phải luôn nhớ về cội nguồn, “nhớ núi” là nhớ về mảnh đất gắn liền với một thời gian khổ và anh dũng, “Nhớ thời kháng Nhật, chống Việt Minh” là nhớ về . . Buổi đầu của cuộc cách mạng đầy gian khổ, hy sinh. Có hòa bình phải mất tháng, có khó khăn mới giành được độc lập, hòa bình, người cán bộ phải luôn ghi nhớ điều đó, nhớ cội nguồn thành quả cách mạng. Đại từ “ta” được dùng ba lần trong câu thơ để chỉ người đã ra đi, có ý nhắc nhở người cán bộ phải nhìn lại mình, biết giữ gìn bản chất cách mạng trong con người mình. Chữ địa danh là tên những vùng đất bất tử, Tân Trào, Hồng Thái đều gắn liền với những sự kiện trọng đại, nơi sinh thành, nuôi dưỡng các tổ chức cách mạng và khả năng cán bộ. Bây giờ cuộc sống đổi thay, vị thế cũng đổi thay, nhưng thực tế cách mạng không bao giờ thay đổi, qua những lời căn dặn, nhắc nhở mà người ở lại muốn người ra đi luôn khắc sâu lòng biết ơn cội nguồn chỉ đường. định mệnh. Đọc xong khổ thơ thứ ba, em cảm nhận được sức dân tộc chủ nghĩa. Thể thơ lục bát với nhịp điệu đều đặn góp phần thể hiện nỗi nhớ tha thiết, sự liên kết giữa vần – vần, các vần liền nhau góp phần trình bày nỗi nhớ bất tận, bộc lộ tình cảm thiết tha không dễ. tách biệt. Tác giả dùng đại từ “tôi” để chỉ cả hai nhân vật, có khi “tôi” là từ chỉ người ở lại, có khi là lời gọi người ra đi, cách dùng đó nhấn mạnh sự liên kết bền chặt. giữa những người ở lại và những người đi. Tuy nhiên, tác giả cũng liên kết nhiều giải pháp tu từ, phúng dụ “anh đi rồi”, “anh về rồi” nhấn mạnh sự thật về một cuộc chia ly, “anh nhớ” và “nhớ” nhấn mạnh sự lo lắng, mức độ lo lắng. sự day dứt của nỗi nhớ. Những từ ngữ giúp khắc sâu cảm xúc, những từ ngữ hoán dụ, tương phản giúp nhấn mạnh những kỉ niệm, kỉ niệm được người ở lại lưu giữ, nâng niu và cuối cùng là từ ngữ chỉ địa danh giúp người đọc khắc sâu nguồn cội. nguồn cách mạng.
Chính nội dung cách mạng và hình thức, tiếng nói của thể thơ dân tộc đã làm cho khổ thơ thứ ba nói riêng và bài thơ Việt Bắc nói chung của Tố Hữu có tác dụng và sâu sắc. đến suy nghĩ và cảm xúc của người đọc. Nhắc về tình hữu nghị mười lăm năm của dân tộc, hướng tới tương lai tươi sáng, gợi về khát vọng chung thủy.
Phân tích mình đi có nhớ những ngày - mẫu 4
Có thể nói, bài thơ Việt Bắc là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất khẳng định vị trí của Tố Hữu trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Việt Bắc không chỉ là một khúc hùng ca về cuộc kháng chiến vĩ đại, gian khổ và hào hùng của toàn dân tộc mà còn là khúc tình ca ca ngợi tình cảm sâu nặng giữa người cán bộ với quần chúng, giữa người miền ngược với người miền xuôi. Nghĩa tình sâu nặng ấy được thể hiện rất cụ thể, sinh động trong khổ thơ thứ ba.
Toàn bộ khổ thơ là lời của người ở lại, những câu thơ là chứa đựng tình cảm, nỗi nhớ của người ở lại với người ra đi hay chính là của người dân Việt Bắc với người cán bộ cách mạng. Trong bốn câu thơ đầu, người ở lại tái hiện về những kỉ niệm ngày xưa, kỉ niệm của một thời gian khổ đã qua:
"Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?"
Người ở lại đang nhắc về những ngày tháng gian khổ khi phải chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt của vùng núi Việt Bắc. "Mưa nguồn, suối lũ" là hiện tượng tự nhiên đặc trưng của miền núi, mưa nguồn là những cơn mưa vùng thượng nguồn xối xả, bất chợt, hiện tượng đó thường gây nên tình trạng lũ quét, lũ ống, lũ suối. Hiện tượng tự nhiên khắc nghiệt này chỉ ở vùng núi cao mới có, nó như một thảm họa luôn rình rập, đe dọa cuộc sống của con người. Bên cạnh đó còn có "mây mù", người dân miền núi sống ở độ cao nên mây và sương mù dày đặc tạo nên một không gian giá buốt và cản trở nhiều hoạt động, che khuất tầm nhìn của con người. Cả hai hiện tượng trên đều là khó khăn lớn đối với người miền núi cũng như người miền xuôi, để khắc phục và thích nghi được, người cán bộ đã được người dân vùng chiến khu giúp đỡ, chia sẻ, vì thế những ngày tháng đó trở thành kỉ niệm đẹp của họ. Người ở lại còn nhắc về những kỉ niệm của một thời chiến khu đồng cam cộng khổ, phép tương phản giữa hoàn cảnh và ý chí: "miếng cơm chấm muối" với "mối thù nặng vai". Giữa hoàn cảnh gian khó, thiếu thốn, điều kiện chiến đấu đầy thử thách và vật chất nghèo nàn nhưng quân và dân vẫn vững vàng ý chí, sự đồng lòng, đoàn kết. Mối thù ấy chính là mối thù giặc ngoại xâm, là nhiệm vụ cách mạng lớn lao mà Đảng giao phó, không chỉ là mối thù của cán bộ cách mạng mà đã được nhân dân vùng cao chia sẻ, chung sức, luôn đồng lòng hợp sức nuôi dấu mối thù. Sau khi nhắc lại những kỉ niệm mà người ở lại luôn khắc ghi và nhớ mãi, người ở lại đã bày tỏ nỗi nhớ và tình cảm sâu nặng đối với người ra đi:
"Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son"
Trong hai câu đầu tiên, ta thấy được nỗi nhớ của người ở lại được diễn tả bằng phép hoán dụ, nói "rừng núi nhớ ai" là muốn nói không chỉ con người mà cả cây cỏ, cả núi cao rừng sâu cũng có chung nỗi nhớ với con người. "Trám bùi" và "măng mai" là những thức ăn quen thuộc của người dân miền núi nhưng theo nỗi nhớ ấy trám đã bị để mặc cho tự rụng, măng cũng tự mọc cho đến già. Câu thơ "Trám bùi để rụng, măng mai để già" diễn tả nỗi nhớ, sự trống vắng, hẫng hụt, lan tỏa khắp núi rừng, chi phối hoạt động sống của con người, nhớ đến mức ngẩn ngơ, thẫn thờ. Bên cạnh đó nỗi còn được thể hiện bằng phép tương phản "hắt hiu lau xám" và "đậm đà lòng son", đó là sự tương phản giữa điều kiện vật chất với tình cảm, tấm lòng con người. Những mái nhà rạ, vật chất sơ sài, xiêu vẹo, hiu hắt nhưng tấm lòng của con người thì không sơ sài, "đậm đà" là một từ láy khẳng định độ sâu sắc, mặn nồng của tình cảm. Hình ảnh tương phản đã nhấn mạnh rằng, người dân Việt Bắc có vật chất nghèo nàn, đơn sơ nhưng không nghèo tình cảm, họ luôn dành cho người cán bộ một ân tình sâu nặng, một tấm lòng thủy chung. Qua lời bày tỏ của người ở lại, ta thấy được nỗi nhớ và tình cảm sâu sắc của người dân chiến khu dành cho cán bộ cách mạng về xuôi, đó là tình cảm lớn thể hiện nội dung yêu nước trong thơ của Tố Hữu. Cuối cùng, trong bốn câu thơ cuối, đó là lời dặn dò, nhắc nhở dành cho người ra đi:
"Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?"
Người ở lại dặn dò người cách mạng phải luôn nhớ về cội nguồn, "nhớ núi non" chính là nhớ tới vùng đất gắn liền với một thời khổ mà hào hùng, "Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh" là nhớ về buổi đầu của cách mạng đầy gian khổ, hy sinh. Phải có những ngày tháng ấy mới có được nền hòa bình, phải có giai đoạn gian khổ mới có được những độc lập, hòa bình, người cán bộ phải luôn nhớ về điều đó, nhớ về cội nguồn của thành quả cách mạng. Đại từ "mình" được dùng ba lần trong câu thơ đều chỉ người ra đi, ý muốn nhắc nhở người cán bộ hãy biết tự nhìn lại mình, phải biết giữ gìn bản chất cách mạng trong con người mình. Những từ chỉ địa danh là đang gọi tên những vùng đất bất tử, Tân Trào, Hồng Thái đều gắn liền với những sự kiện trọng đại, là cái nôi sản sinh và nuôi dưỡng các tổ chức cách mạng và bản lĩnh người cán bộ. Giờ đây cuộc sống đổi thay, cương vị đổi thay nhưng bản chất cách mạng sẽ không bao giờ thay đổi, qua lời dặn dò và nhắc nhở người ở lại muốn người ra đi luôn khắc sâu ân tình với cội nguồn cách mạng. Đọc hết đoạn thơ thứ ba ta cảm nhận được tính dân tộc đậm đà. Thể thơ lục bát với nhịp đều đặn góp phần diễn tả nỗi nhớ thiết tha, cách gieo vần kết hợp vần chân - vần lưng, vần liên tiếp góp phần diễn tả nỗi nhớ miên man không dứt, thể hiện tình cảm tha thiết không dễ chia xa. Tác giả sử dụng đại từ "mình" để chỉ cả hai đối tượng, có khi "mình" là lời xưng với người ở lại, có khi lại là lời gọi người ra đi, cách sử dụng đó nhấn mạnh sự gắn kết bền chặt giữa kẻ ở và người đi. Bên cạnh tác giả còn kết hợp nhiều biện pháp tu từ, điệp từ "mình đi", "mình về" nhấn mạnh sự thật về một cuộc chia ly, "có nhớ" và "còn nhớ" nhấn mạnh độ khắc khoải, độ day dứt của nỗi nhớ. Những từ láy giúp khắc sâu cảm xúc, những phép hoán dụ, tương phản giúp nhấn mạnh những kỉ niệm, kí ức được người ở lại giữ gìn, trân trọng, và cuối cùng là những từ chỉ địa danh giúp người đọc khắc sâu cội nguồn cách mạng.
Chính nội dung cách mạng và hình thức thơ mang tính dân tộc, ngôn ngữ đậm sắc thái dân gian đã làm cho khổ thơ thứ ba nói riêng và bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu nói chung có hiệu quả to lớn, tác động sâu sắc vào tư tưởng, tình cảm của người đọc. Nhắc nhớ về ân tình chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước, hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhở tâm nguyện thủy chung.
Phân tích mình đi có nhớ những ngày - mẫu 5
Nhắc đến Tố Hữu thì ai cũng biết ông là một trong những nhà thơ trữ tình cách mạng hàng đầu của nền văn học Việt Nam. Thơ Tố Hữu là tiếng thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng và cuộc sống cách mạng. Bài Việt Bắc là đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của Tố Hữu nói riêng, của thơ kháng chiến chống Pháp nói chung. Có thể nói, Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca, thể hiện ân tình sâu nặng, thủy chung của nhà thơ đối với căn cứ địa cách mạng cả nước. Điều này càng được khắc họa rõ nét hơn trong khổ thơ:
Mình đi, có nhớ những ngày
...
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?
Việt Bắc là tác phẩm trường thiên, dài 150 dòng, được Tố Hữu viết vào tháng 10/1954 khi Trung ương Đảng và chính phủ, Bác Hồ và cán bộ từ giã Thủ đô gió ngàn để về với Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình. Bao trùm đoạn thơ là một niềm hoài niệm nhớ thương về những năm tháng ở chiến khu Việt Bắc, là nỗi nhớ da diết, tâm trạng bâng khuâng, lưu luyến của kẻ ở người đi người miền ngược và người đi kháng chiến.
Mở đầu đoạn thơ thứ ba là hàng loạt câu hỏi rất ngọt ngào:
"Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?"
Ở khổ thơ, xuất hiện một loạt cụm từ có nhớ, điều này gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng của người ở lại một tâm trạng quan tâm, lo lắng không biết: cán bộ về xuôi, cán bộ có còn nhớ chiến khu Việt Bắc nữa không? Để cho Việt Bắc hỏi là vì nhà thơ muốn khơi gợi lại những ngày kháng chiến gian khổ. Nhớ thiên nhiên Việt Bắc mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù, câu thơ đã đặc tả được cảnh thiên nhiên hoang sơ, thời tiết khắc nghiệt nơi núi rừng Việt Bắc, tuy khung cảnh có chút ảm đạm nhưng vẫn mang đậm chất trữ tình, thơ mộng, phóng khoáng và hùng vĩ. Ngoài việc phải đối mặt với sự khắc nghiệt, khó khăn của thiên nhiên, mình và ta còn phải đối diện với cuộc sống thiếu thốn, đầy gian khổ miếng cơm chấm muối. Hình ảnh hoán dụ mối thù nặng vai, gợi liên tưởng đến mối thù sâu nặng của nhân dân đối với những kẻ cướp nước, những kẻ đan tâm bán nước ta cho giặc. Đồng thời còn là lời nhắc nhở kín đáo của người ở lại về một thời rất đỗi tự hào, mình và ta đã cùng sát cánh bên nhau, cùng nhau tiêu diệt kẻ thù chung, giành lại độc lập tự do và đem đến cho nhân dân cuộc sống hạnh phúc, ấm no. Nghệ thuật tiểu đối kết hợp với cách ngắt nhịp 2/2/2 - 4/4 đều đặn khiến cho câu thơ trở nên nhịp nhàng, cân đối, lời thơ càng thêm tha thiết.
Tiếp mạch cảm xúc, vẫn là những lời hỏi của Việt Bắc nhưng ẩn chứa trong vần thơ lại là lời bộc bạch tâm sự của người ở lại, bày tỏ tình cảm lưu luyến với cán bộ về xuôi:
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Tố Hữu đã sử dụng biện pháp hoán dụ rừng núi nhớ ai rừng núi chính là hình ảnh người ở lại, còn đại từ ai là chỉ người cán bộ về xuôi nhằm nhấn mạnh tình cảm thắm thiết và nỗi nhớ da diết của nhân dân Việt Bắc đối với những người kháng chiến, với Đảng và chính phủ Thiên nhiên và con người Việt Bắc nhớ cán bộ về xuôi nhiều đến mức trám bùi để rụng, măng mai để già. Trám bùi và măng mai là hai món ăn thường nhật của bộ đội, của cán bộ kháng chiến; đồng thời cũng là đặc sản của thiên nhiên Việt Bắc. Mình về khiến núi rừng Việt Bắc bỗng trở nên trống vắng, buồn bã đến lạ thường, ngay cả khi trám bùi, măng mai mà cũng không ai thu hái. Người ở lại đã bộc lộ tình cảm của mình thật chân thành và tha thiết.
Nhân dân Việt Bắc vẫn tiếp tục hỏi, nhưng ở đoạn thơ này lời hỏi được nhấn mạnh hơn, thể hiện cụ thể và rõ ràng hơn: cán bộ về xuôi có nhớ cảnh vật Việt Bắc, con người Việt Bắc, nhớ những năm tháng cùng nhau kháng chiến hay không?
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh.
Cụm từ nhớ những nhà biện pháp hoán dụ - gợi cho ta cảm nhận được tâm trạng lo lắng không biết rằng: Cán bộ có nhớ những người dân Việt Bắc hay không? Chứ nhân dân Việt Bắc nhớ cán bộ nhiều lắm, nhớ đến nỗi hắt hiu lau xám. Từ láy hắt hiu kết hợp với hình ảnh đặc trưng của thiên nhiên Việt Bắc lau xám càng làm nổi bật hơn khung cảnh hoang vắng, đơn sơ, im lặng nơi núi rừng. Nhưng đối lập với khung cảnh ấy là tấm lòng son, tấm lòng ấm áp và chân thành của con người Việt Bắc. Ngoài ra, nhân dân Việt Bắc còn muốn biết thêm rằng: Cán bộ về xuôi có nhớ núi non, nhớ thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ hay không? Có nhớ khoảng thời gian cùng nhau kháng Nhật, thuở còn làm Việt Minh hay không? Chính nghĩa tình của đồng bào Việt Bắc đối với bộ đội, với cách mạng; sự đồng cảm cùng san sẻ mọi gian khổ, niềm vui, cùng gánh vác nhiệm vụ nặng nề, khó khăn làm cho Việt Bắc quê hương của Cách Mạng, cội nguồn nuôi dưỡng cho Cách Mạng càng thêm ngời sáng trong tâm trí nhà thơ nói riêng và trong lòng người đọc nói chung.
Kết lại đoạn thơ là nỗi nhớ về những địa danh lịch sử:
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.
Chỉ với hai câu thơ, nhưng tác giả đã gửi gắm rất nhiều tình cảm, ẩn chứa rất nhiều điều; đặc biệt là ở câu thơ sáu chữ có đến ba từ mình quyện vào nhau nghe thật tha thiết và chân thành. Từ mình thứ nhất và thứ hai được dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, còn từ mình thứ ba ta có thể hiểu theo nhiều cách. Nếu hiểu theo nghĩa rộng, mình là Việt Bắc đại từ nhân xưng ngôi thứ hai thì câu thơ mang hàm ý: Cán bộ về xuôi, về Hà Nội không biết cán bộ có còn nhớ đến nhân dân Việt Bắc, nhớ đến người ở lại không ? Ở nghĩa hẹp hơn, mình chính là cán bộ về xuôi đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất khiến cho câu thơ được hiểu theo một nghĩa khác: Cán bộ về xuôi, cán bộ có nhớ chính mình hay không? Có còn nhớ đến quá khứ của bản thân, nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lí tưởng cao đẹp, vì độc lập tự do của dân tộc hay không? Với cách hiểu thứ hai này, người ở lại đã đặt ra một vấn đề có tính thời sự, sợ rằng mọi người sẽ ngủ quên trên chiến thắng, quên đi quá khứ hào hùng của mình, thậm chí sẽ phản bội lại lí tưởng cao đẹp của bản thân. Nhà thơ Tố Hữu đã hình dung trước được diễn biến tâm lý của con người sau chiến thắng, đây quả là câu thơ mang tính trừu tượng và triết lý sâu sắc.
Ở câu thơ cuối trong khổ ba, người ở lại nhắc đến hai địa danh nổi tiếng gắn liền với hai sự kiện quan trọng đã từng diễn ra ở Việt Bắc. Địa điểm thứ nhất: sự kiện cây đa Tân Trào (12/1944), đây là nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm lễ xuất phát, lúc đầu chỉ với mấy chục thành viên nhưng sau đó trở thành đội quân Việt Nam, lực lượng chủ chốt đã làm nên chiến thắng ngày hôm nay. Còn địa điểm thứ hai là tại đình Hồng Thái, nơi Bác đã chủ trì cuộc họp (8/1945) quyết định làm cuộc Cách mạng Tháng Tám; chính nhờ quyết định sáng suốt này mà cuộc kháng chiến chống Pháp đã thành công vang dội, có thể giành lại độc lập tự do cho nước nhà. Tố Hữu lồng hai địa danh lịch sử vào trong câu thơ nhằm nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại, đồng thời còn là lời nhắc nhở nhẹ nhàng: Không biết rằng cán bộ về xuôi có còn nhớ rằng Việt Bắc chính là cái nôi của Cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng Cách Mạng hay không? Và liệu rằng cán bộ về xuôi có còn thủy chung, gắn bó với Việt Bắc như xưa không hay là đã thay lòng đổi dạ?
Chỉ với mười hai câu thơ trong khổ ba của bài Việt Bắc, Tố Hữu đã đưa ta vào thế giới của hoài niệm và kỉ niệm, vào một thế giới êm ái, ngọt ngào, du dương của tình nghĩa cách mạng. Cái hay nhất trong khổ thơ chính là Tố Hữu đã sử dụng rất khéo léo và đặc sắc hai cụm từ đối lập mình đi mình về. Thông thường, đi và về là chỉ hai hướng trái ngược nhau, nhưng ở trong khổ thơ này thì mình đi mình về đều chỉ một hướng là về xuôi, về Hà Nội. Với lối điệp cấu trúc kết hợp nhịp thơ 2/2/2 - 4/4 đều đặn, khiến cho âm điệu thơ trở nên nhịp nhàng, cân xứng giống như nhịp chao của võng đong đưa, rất phù hợp với phong cách thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu.
Giọng thơ tâm tình ngọt ngào tha thiết và nghệ thuật biểu hiện giàu tính dân tộc của Tố Hữu đã góp phần tạo nên sự thành công cho bài Việt Bắc. Những chi tiết về ánh sáng và tình người, từ miếng cơm chấm muối, trám bùi, măng mai, mái nhà hắt hiu lau xám đến mối thù hai vai chung gánh, những tấm lòng son sẽ không bao giờ phai nhạt, sẽ sống mãi trong lòng nhà thơ và trong tâm trí của người dân Việt Bắc, của những cán bộ về xuôi.
Phân tích mình đi có nhớ những ngày - mẫu 6
Xuân Diệu từng tâm sự khi đọc thơ Tố Hữu: “Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ”. Cuộc đời Tố Hữu là cuộc đời dân tộc, lẽ sống Tố Hữu là lẽ sống của đồng bào. Câu thơ Tố Hữu cũng thế, câu thơ của những cuộc kháng chiến:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Tháng 7 năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp quay trở lại nước ta đã kết thúc thắng lợi. Hòa bình được lặp lại, nửa đất nước được giải phóng. Tháng 10 năm 1954, Hà Nội được giải phóng, trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Lịch sử dân tộc bước sang một trang mới. Ở thời khắc này, người ta có nhu cầu nhìn lại chặng đường vừa qua, đồng thời hướng về con đường tương lai để bước tiếp. Bài thơ “Việt Bắc” ra đời để đáp ứng nhu cầu ấy của xã hội, là tiếng lòng của đồng bào mọi người. “Việt Bắc” là bản trường ca đầy ân tình – tình quê hương, tình đất nước, nghĩa tình giữa con người. Vì thế bài thơ là một bản tổng kết lịch sử bằng tâm tình. Bởi là một chặng đường dài nên từ những câu thơ này đến dòng thơ sau đều có sự phát triển và vận động, mang ý nghĩa riêng của nó.
Những câu thơ đầu là khúc dạo đầu của bản trường ca, tái hiện lại những ngày tháng gian khổ khó khăn mà thấm đượm ân tình, ân nghĩa:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”
Đoạn thơ là một loạt những câu hỏi được điệp lại: “Mình đi, có nhớ…”, “mình về, có nhớ…” như lời nhắc nhở nhẹ nhàng, ân tình. Cách xưng hô “mình – ta” cùng với kết cấu đối đáp quen thuộc gợi nhớ về lối đối đáp quen thuộc trong những câu hát giao duyên, những điệu hát huê tình của chàng trai và cô gái, giữa mận và đào, của mai và trúc. Mượn tình đôi lứa cá nhân để biểu đạt một tình cảm lớn hơn: tình yêu đồng bào khiến câu thơ từ chính trị khô khan trở nên rất đỗi trữ tình. Trong những câu thơ sau, tác giả đã vận dụng sáng tạo cách ăn nói, lối diễn đạt dân gian: “mưa nguồn suối lũ”, “mây cùng mù” để tái hiện hình ảnh của thiên nhiên nơi rừng núi. Nếu thiên nhiên miền Tây Bắc hiện lên thơ mộng, lãng mạn trong cái nhìn của Quang Dũng: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa” thì thiên nhiên đối với những con người nơi đầu nguồn chớp bể thực sự không dễ dàng: “mưa nguồn suối lũ” tưởng như có thể đánh bại và làm con người biến mất bất cứ lúc nào. Sau này, hình ảnh mưa ấy cũng vào trong trang thơ của Phạm Tiến Duật, trên con đường tiến tới lí tưởng: “Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”. Hơn nữa, lại thêm “những mây cùng mù”- trên mây, dưới mù gợi lên cái gì hoang vu, u lạnh của một vùng thâm sơn cùng cốc nào đó. Biện pháp đối lập: “Miếng cơm chấm muối” – “mối thù nặng vai” không chỉ nói lên những gian khổ khó khăn mà con người ở đây phải gánh chịu mà qua đó còn khẳng định lòng quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của con người. Điều kiện càng khó khăn, gian khổ càng nhắc nhở con người về mối thù không còn vô hình mà đã hữu hình, có sức nặng và cảm nhận được.
Tiếp nối mạch cảm xúc ấy nhưng những câu thơ lại chở chút luyến lưu, xao xuyến và cả những băn khoăn:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Một loạt những cụm từ “Trám bùi để rụng”, “măng mai để già”, “hắt hiu lau xám” như những nỗi băn khoăn về sự thay đổi, phai nhạt của lòng người theo thời gian để rồi mọi thứ cũng héo úa, tàn lụi dần. Nhưng kết thúc lại là hình ảnh tươi rói, ấm áp bao nhiêu: “đậm đà lòng son” nổi lên giữa sự mờ nhạt xung quanh. Câu thơ kết lại chắc nịch về mối tình ân nghĩa, thủy chung không thể đổi thay.
Cuối cùng là lời trao gửi của người ở lại để nhắc nhớ về hành trình kháng chiến của toàn dân tộc với những chặng đường đáng nhớ:
“Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Trong câu hỏi cuối: có đến ba từ “mình”. “Mình” thứ nhất và thứ hai để chỉ người ra đi. Vậy còn từ “Mình” thứ ba? Vẫn là người ra đi? Hay đó là người ở lại? Không thể phân biệt được! Có lẽ là cả hai. Mình và ta giờ đã không còn phân biệt được nữa rồi. Mình là ta, ta và mình hòa quyện trong nhau, cùng sống, cùng lí tưởng, cùng chiến đấu để cùng tận hưởng niềm vui chiến thắng. Những tình cảm đó, sẽ là “ta” đi theo mình đến mọi chặng đường, dù khi ấy “mình” có đi đâu chăng nữa.
Đoạn thơ gợi nhắc về những tháng năm kháng chiến, những ân tình cách mạng mà không hề khô khan, giáo điều mà rất nhẹ nhàng, tự nhiên đi vào lòng người đọc bởi thể thơ lục bát quen thuộc, kết cấu của những câu hát yêu thương tình nghĩa với giọng điệu thiết tha, da diết. Hình ảnh thơ giản dị, quen thuộc mà có sức gợi đến bất ngờ. Chính những năm tháng ấy, những con người ấy là điểm tựa, là động lực để làm nên những chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Nếu nói văn học chính là “tấm gương lớn di chuyển trên đường cái”, là “phong vũ biểu của thời đại” thì “Việt Bắc” của Tố Hữu chính là tác phẩm như thế. Nó đã làm trọn trách nhiệm của mình, của văn học: phục vụ cách mạng, cổ vũ chiến đấu.
Xin mượn lời của nhà thơ Chế Lan Viên thay cho lời kết: “Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích. Vậy thì ai kia còn phung phí đời mình, làm gì cũng được, sống sao cũng xong, trong khi đọc thơ này hãy bắt đầu thử dừng lại mà biết quý lấy đời mình, mà đem xây dựng nó.”
Phân tích mình đi có nhớ những ngày - mẫu 7
Trong cuốn “Nhà văn nói về tác phẩm”, nói về tác phẩm “Việt Bắc”, Tố Hữu từng chia sẻ: “Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi”. Có lẽ chính bởi điều đó mà “Việt Bắc” được coi như “đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên”. Đoạn thơ thứ ba trong tác phẩm mang nhiều giá trị nội dung, nghệ thuật đặc sắc, lưu lại nhiều dấu ấn trong trái tim, cảm xúc người đọc.
Tố Hữu là một nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Trong lời giới thiệu tập Thơ của Tố Hữu xuất bản năm 1946 có viết: “Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song song với lịch trình tiến triển về tư tưởng và trình độ giác ngộ, về sức hoạt động của Tố Hữu. Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí cụ đấu tranh, một công tác vận động của người Cách mạng. Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng ta đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ”. Còn trong lời nói đầu cho tuyển tập 1938 – 1963 có đoạn: “Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích…Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính…Anh là một con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp”. “Việt Bắc” được sáng tác năm 1954 là một bài thơ tiêu biểu trên chặng đường thơ Tố Hữu. Đoạn thơ thứ ba trong bài với nhiều tâm tư, tình cảm nhà thơ Tố Hữu gửi vào đã thực sự làm lay động nhiều tâm hồn, trái tim bạn đọc khiến họ thêm yêu tác phẩm và trân trọng hồn thơ Tố Hữu.
Tiếp nối tám câu thơ đầu nói về tâm trạng lưu luyến, bịn rịn trong buổi chia tay giữa người đi kẻ ở là những dòng thơ tiếp theo trong khổ thơ thứ ba với ý nghĩa là những lời nhắn nhủ dưới hình thức là một loạt các câu hỏi tu từ:
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù?
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”
Ý thơ Tố Hữu ở đây gợi nhắc ta nghĩ đến lời thơ Quang Dũng trong “Tràng Giang”: “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Tố Hữu tả thực để từ đó khắc họa thiên nhiên dữ dội, sự vất vả gian lao của con người còn Quang Dũng lại lựa chọn cách nói sự lãng mạn để từ đó thể hiện cái đẹp. Dẫu có những cách thể hiện khác nhau nhưng cả hai nhà thơ đều khắc họa thành công và cảm động cái gian khó, nhọc nhằn của người Cách mạng ở buổi chiều kháng chiến.Nhân vật trữ tình nhớ về thiên nhiên, nhớ đến khung cảnh núi rừng Việt Bắc trong những ngày kháng chiến gian lao với “mưa nguồn”, “suối lũ”, “mây mù”, “trám bùi”, “măng mai”. Bên cạnh đó, trong tâm trí nhân vật trữ tình còn nhắc nhớ về những ân tình đậm đà trong khó khăn gian khổ, nhớ đến quãng thời gian hoạt động.
Những tình cảm nhớ thương da diết, sự trân trọng nồng nàn người cán bộ Cách mạng hay cũng chính là nhà thơ Tố Hữu dành cho đồng bào Việt Bắc thân thương đã từng một thời gắn bó, sẻ chia gian khổ đã được nhà thơ thể hiện rất khéo léo và tinh tế trong từng câu thơ, hình ảnh của đoạn thơ thứ ba của tác phẩm “Việt Bắc”.
Phân tích mình đi có nhớ những ngày - mẫu 8
Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu nhất của nền thơ cách mạng Việt Nam thế kỉ 20. Không những nhiều về số lượng bài viết mà Tố Hữu còn có những bài thơ xuất sắc, bám sát và kịp thời phản ánh các sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước. Bài thơ Việt Bắc là tác phẩm xuất sắc làm tròn nhiệm vụ ấy. Tình cảm luyến lưu, bịn rịn của người đi, kẻ ở thắm thiết qua lời dặn dò thiết tha ở khổ thơ 3 của bài thơ.
Nếu ở khổ 1 và 2 là lời của người đi thì khổ thơ 3 là lời dặn dò của người ở lại. Nhân dân Việt Bắc vẫn một lòng sắt son với cách mạng, thiết tha gửi lời đinh ninh:
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi có nhớ những nhà
Mắt hiu lau xám đậm đà lòng son”.
Ở khổ thơ này, người ở lại nhắc lại những kỉ niệm về thiên nhiên con người và cuộc kháng chiến nơi rừng núi Việt Bắc. Cụm từ “mình đi, mình về” và điệp từ “nhớ” được lập lại nhiều lần tại nên âm hưởng thơ trùng điệp, khắc sâu thêm những kỉ niệm không thể nào quên. Hàng loạt những câu hỏi tu từ trong đoạn thơ đã diễn tả tình cảm tha thiết của người Việt Bắc dành cho cán bộ về xuôi:
“Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù”.
Người ở lại nhắc tới những ngày kháng chiến đấu ở Việt Bắc là những ngày biết bao gian lao vất vả. Hình ảnh “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” vừa nói lên những cái thiên nhiên khắc nghiệt mang nét đặc trưng riêng của Việt Bắc, vừa nói lên giai đoạn kháng chiến phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Đó là những gian truân của người ở lại và những người ra đi đã từng trải qua, từng thấm thía trên mảnh đất Việt Bắc suốt cuộc trường kì kháng chiến.
Câu thơ “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối tạo nên một cấu trúc hài hoà. Ý thơ diễn tả cuộc sống kháng chiến vô cùng gian khổ và thiếu thốn. Thế nhưng, giữa cái nghèo khổ và cơ cực ấy, nhân dân Việt Bắc vẫn một lòng thủy chung, lúc nào cũng kề vai sát cánh cùng cán bộ cách mạnh chiến đấu với một lòng căm thù giặc sâu sắc.
Hình ảnh thơ như một biểu tượng về sự đồng lòng, đoàn kết và tinh thần đồng cam cộng khổ giữa quần chúng kháng chiến với cán bộ cách mạng. Cụm từ “mối thù nặng vai” thể hiện cách dùng từ độc đáo của Tố Hữu. Tác giả đã biến cái cảm xúc vốn trừu tượng thành cái cụ thể có thể cân đo bằng sức nặng để biểu đạt lòng căm thù rất lớn với kẻ thù xâm lược.
Trong tâm trạng lưu luyến khi chia xa, người ở lại tiếp tục gợi nhắc những kỉ niệm một thời đã từng gắn bó, đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi:
“Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”
Câu thơ miêu tả tình cảm chân thành, mộc mạc của nhân dân Việt Bắc với cách mạng qua hai vế tiểu đối hắt hiu lau xám và “đậm đà lòng son”. Cuộc sống càng gian khổ khó nhọc bao nhiêu thì nhân dân Việt Bắc lại hết lòng thủy chung bấy nhiêu. Vì ân tình quá sâu nặng cho nên khi người cán bộ kháng chiến về xuôi, dường như cả núi rừng Việt Bắc cũng trở nên hoang vắng, hiu quạnh. Núi rừng cũng hụt hẫng một nỗi nhớ khôn nguôi:
“Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Trám và măng là những món ăn thường nhật của bộ đội ở chiến khu. Đó cũng là đặc sản của núi rừng Việt Bắc. Phép hoán dụ trong câu thơ “mình về, rừng núi nhớ ai” gợi nhiều cảm xúc động. Cán bộ về xuôi rồi, trám không ai hái để rụng khắp rừng, măng không ai ăn để già khắp núi. Đại từ phiếm chỉ “ai” trong “nhớ ai” làm cho nỗi nhớ của người Việt Bắc càng thêm tha thiết.
Người ở lại tiếp tục gợi nhắc kỷ niệm về cuộc kháng chiến. Đó là nhắc tới chiến khu Việt Bắc gắn liền với những sự kiện trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
“Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân trào, hồng thái, mái đình, cây đa”
Việt Bắc không chỉ có vai trò quan trọng kháng chiến chống Pháp mà cả trong cuộc tổng khởi nghĩa cách mạng tháng Tám trước đó. Việt Bắc từng là nơi diễn ra những sự kiện chính trị qua trọng khi lực lượng cách mạng còn non trẻ nhưng lại có tính chất quyết định mọi thắng lợi cho cuộc cách mạnh trên cả nước. Địa danh “Tân Trào”, “Hồng Thái”, “mái đình”, “cây đa” đã trở thành nhân chứng lịch sử cho thời kỳ vất vả nhưng hào hùng của cách mạng Việt Nam.
Ở câu thơ “mình đi, mình có nhớ mình” có đến ba từ “mình” quyện vào nhau trong câu thơ 6 chữ. Từ “mình” thứ nhất và thứ hai dùng để chỉ người cán bộ về xuôi, từ “mình” thứ ba là một từ đa nghĩa.
Nếu hiểu “mình” là người Việt Bắc – đại từ nhân xưng ngôi thứ hai – thì câu thơ mang hàm ý: cán bộ về xuôi, về Hà Nội không biết cán bộ có còn nhớ đến nhân dân Việt Bắc còn nhớ người ở lại hay không?
Nếu hiểu “mình” chính là cán bộ kháng chiến – đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất – thì câu thơ lại có ý nghĩa: cán bộ về xui cán bộ còn nhớ về chính mình hay không? Có còn nhớ đến quá khứ của bản thân nhớ những năm tháng chiến đấu gian khổ vì lý tưởng cao đẹp và độc lập, tự do của dân tộc hay không? Với cách hiểu thứ hai này người ở lại đã đặt ra một vấn đề mang tính thời sự: đừng ngủ quên trên chiến thắng; đừng quên đi quá khứ hào hùng của dân tộc suốt một thời kỳ kháng chiến gian khổ, hào hùng.
Chữ “mình” ở đây còn được hiểu theo nghĩa bao hàm cả người Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến. Ý thơ nhắc nhở người ra đi đừng quên những ân tình sâu nặng, đã từng gắn bó keo sơn trong quá khứ. Mỗi kỉ niệm được nhắc lại đều mang ý nghĩa lịch sử rất sâu sắc mà cốt lõi là: Việt Bắc là cội nguồn, là quê hương của cách mạng; Việt Bắc là nơi sinh ra lực lượng cách mạng và nơi bắc đầu của mọi thắng lợi. Ý thơ thể hiện lòng biết ơn của tác giả và hình ảnh thủy chung với cách mạng.
Đoạn thơ ngắn chỉ với mười hai câu thơ lục bát, nhưng nhà thơ đã sử dụng tới tám từ “mình”, bảy từ “nhớ” và hai cập từ “mình đi, mình về” lặp đi lặp lại nhiều lần như một điệp khúc. Đoạn thơ sử dụng ngôn ngữ mộc mạc giản dị, ý thơ cân xứng, hài hòa. Cộng với giọng điệu thơ du dương, ngọt ngào, tâm tình như lời ca dao, bộc lộ chân thành tình cảm sâu nặng của người ở lại và người ra đi. Đoạn thơ đã cho thấy “Việt Bắc” chính là khúc tình ca về cách mạng về cuộc sống và con người kháng chiến.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Phân tích một bữa no
- Phân tích muối của rừng
- Phân tích ngôn chí bài 10
- Phân tích người con gái Nam Xương
- Phân tích người đàn bà ở tòa án huyện
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

