10+ Phân tích ngôn chí bài 10 (điểm cao)

Phân tích ngôn chí bài 10 điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Phân tích ngôn chí bài 10 (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Phân tích ngôn chí bài 10

a) Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề cần nghị luận

b) Thân bài:

* Hai câu đề

- Câu thơ đầu : “Cảnh tựa chùa chiền, lòng tựa thầy” gợi thiên nhiên thanh tĩnh như cảnh chùa, tương đồng với đó là tâm hồn con người trong sạch như bậc chân tu.

=> Thiên nhiên và con người có sự hòa hợp, giao hòa, lòng người thanh tĩnh, trong sạch.

- Câu thơ tiếp theo khẳng định “Có thân chở phải lợi danh vây” phủ định sức hút của lợi danh đối với nhân vật trữ tình.

=> Lánh đời, muốn xa rời danh lợi bon chen của cuộc sống.

* Hai câu thực

Quảng cáo

Câu thơ “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” được hiểu là nghiêng chén uống rượu mà như uống cả ánh trăng trong chén. Câu thơ thể hiện được cả hai thú vui tao nhã của người xưa: ngắm trăng và uống rượu

- Câu thơ: “Ngày vắng xem hoa bợ cây” thể hiện sự tình yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp.

- Hai câu thơ sử dụng nghệ thuật đối khẳng định lối sống thanh cao của tao nhân mặc khách chốn thôn dã với trăng gió, cây cối...

* Hai câu luận

Hai câu luận cũng là bức tranh thiên nhiên, nhưng sinh động hơn, có sự chuyển động của cá, chim, tạo nên bức tranh ấm áp, tràn đầy sự sống.

* Hai câu kết

- Hai câu cuối thể hiện những suy ngẫm, chiêm nghiệm về bản thân, mong muốn thoát tục – dù chỉ là “ít nhiều” – chút ít trước cảnh thiên nhiên đẹp đẽ thanh tịnh mà sinh động này.

Quảng cáo

- Tuy nhiên, cũng thể hiện tâm trạng thống nhất của Nguyễn Trãi kể cả có những giây phút thân nhàn nhưng tâm không nhàn, vẫn cứ không thoát tục hoàn toàn, không thể dứt bỏ hoàn toàn những ưu tư về cuộc đời.

* Đánh giá:

- Nội dung: Bài thơ cho thấy vẻ đẹp tư tưởng, tâm hồn của tác giả Nguyễn Trãi. Đó là tình yêu thiên nhiên sâu sắc và cốt cách cao đẹp.

- Nghệ thuật:

+ Câu thơ thất ngôn xen lục ngôn

+ Hình ảnh thơ ước lệ, giản dị, gần gũi.

+ Ngôn ngữ mộc mạc, mang giọng điệu của lời ăn tiếng nói hàng ngày.

c) Kết bài:

Khẳng định giá trị của tác phẩm.

Quảng cáo

Phân tích ngôn chí bài 10 - mẫu 1

Bài thơ Ngôn chí 10 của Nguyễn Trãi thể hiện sâu sắc nhân cách cao đẹp, ý chí và tâm tư của một bậc hiền nhân luôn trăn trở với cuộc đời, với nhân dân. Qua bài thơ, Nguyễn Trãi không chỉ bày tỏ quan niệm sống thanh cao mà còn thể hiện nỗi niềm cô đơn giữa thời cuộc nhiễu nhương.

Trước hết, bài thơ khắc họa một con người có chí hướng lớn lao nhưng lại chọn lối sống thanh bạch, không màng danh lợi. Nguyễn Trãi quan niệm rằng bậc quân tử phải giữ gìn phẩm hạnh, sống chính trực, không chạy theo danh vọng hay của cải. Ông đề cao lối sống giản dị, lấy đạo nghĩa làm trọng, xem thường vinh hoa phú quý chốn quan trường. Đây là một quan điểm mang đậm tư tưởng Nho giáo nhưng cũng thể hiện rõ tâm hồn thanh cao của Nguyễn Trãi.

Bên cạnh đó, bài thơ còn phản ánh tâm trạng trăn trở, cô đơn của tác giả. Dù có tài năng, tâm huyết giúp đời nhưng ông lại sống trong cảnh bị nghi kỵ, không tìm được tri kỷ. Sự cô đơn ấy càng khiến ông thêm khao khát một cuộc sống bình dị, hòa mình với thiên nhiên, tránh xa chốn quan trường đầy hiểm nguy. Tuy nhiên, dù chọn lánh đời, Nguyễn Trãi vẫn luôn mang trong lòng nỗi lo cho nhân dân, cho vận mệnh đất nước.

Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, giàu hình ảnh, thể hiện rõ tư tưởng và tâm trạng của tác giả. Giọng thơ trầm lắng, suy tư nhưng vẫn toát lên khí phách của một con người kiên định với lý tưởng.

Như vậy, Ngôn chí 10 không chỉ là một bài thơ trữ tình mà còn là bức chân dung tinh thần của Nguyễn Trãi – một con người suốt đời tận tụy vì dân, vì nước nhưng lại chịu nhiều oan khuất. Bài thơ thể hiện sâu sắc nhân cách cao đẹp, ý chí kiên trung và nỗi niềm của một bậc hiền triết trước thời cuộc đầy biến động.

Phân tích ngôn chí bài 10 - mẫu 2

Trong lịch sử văn học Việt Nam, nếu như Nguyễn Du với những tác phẩm khắc họa người phụ nữ đương thời, thì Nguyễn Trãi cũng là một vị thi nhân với thú vui tiên cảnh, hòa mình vào thiên nhiên, vào dân tộc. Nói đến Nguyễn Trãi - ông không chỉ là nhà văn hóa lớn vĩ đại của dân tộc mà ông còn là nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông là danh nhân văn hóa thế giới được UNESCO vinh danh. Những tác phẩm của ông đóng góp vào nền văn học nước nhà. Đặc biệt là tập thơ “Quốc âm thi tập" được ông sáng tác bằng chữ Nôm, trong đó bài thơ Ngôn chí (bài 10) có thể nói là tiêu biểu nhất trong tập thơ này. Là tác phẩm có ý nghĩa lớn, thể hiện tâm hồn và niềm yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của tác giả.

"Cảnh tựa chùa chiền, lòng tựa thầy.

Có thân chớ phải lợi danh vây.

Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén,

Ngày vắng xem hoa bẻ cây.

Cây rợp chồi cành chim kết tổ,

Áo quang mấu ấu cá nên bầy.

Ít nhiều tiêu sái lòng ngoài thế,

Năng một ông này đẹp thú này."

Mỗi tác phẩm của nhà thơ Nguyễn Trãi luôn để lại những giá trị nhân văn cho đời, những tâm tư, nguyện vọng và một tư tưởng lớn của một vị danh nhân, cáo quan về quê ở ẩn, một tâm hồn thi sĩ đầy lắng đọng và yêu thương. Đến với bài thơ Ngôn chí bài 10 cũng là một tác phẩm như thế, khái quát bài thơ là hình ảnh thiên nhiên bao quát toàn bài, một khung cảnh chùa chiền, những âm thanh của thiên nhiên đã thôi thúc nỗi lòng của ông viết nên bài thơ.

Có thể nói tác phẩm Ngôn chí bài 10 thể hiện tư tưởng của tác giả, viết bằng chữ Nôm, thể thơ Đường quen thuộc Thất ngôn xen lục ngôn nhưng được nhà thơ sáng tác một cách rất mới mẻ và độc đáo, Nguyễn Trãi là vậy, ông luôn sáng tạo ưu tiên sự mới mẻ nhưng cũng cần hợp lí hóa những gì đã có. Bài thơ được sáng tác trong một hoàn cảnh chắc hẳn là ngã dẽ trong cuộc đời của Nguyễn Trãi, ông cáo quan về quê ở ẩn, vứt bỏ danh lợi, về vui với chốn thôn quê dân dã mà yên bình.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã khắc họa một bức tranh thiên nhiên với khung cảnh yên bình của hình ảnh những ngôi chùa, nơi mà chúng ta thả hồn, quên hết những âu lo mệt mỏi và tịnh tâm khi bước đến, chính bởi vẻ yên tĩnh đó tác giả đã khắc họa cảnh vật nơi thôn quê bình yên, lòng người cũng trở nên thanh thản, yên bình thanh cao hơn, tâm hướng về Phật, hướng thiện. Tác giả cũng đưa ra một tư tưởng lớn, con người sống ở trên đời không bị phụ thuộc vào danh lợi xô bồ, những cao sang ngoài kia chỉ là phù phiếm, tâm hồn trong sạch, làm việc thiện mới là điều đáng quý. Sự lựa chọn của ông được khắc họa, ông đã lựa chọn cuộc sống yên bình tránh xa những xa hoa của công việc làm quan.

Xuyên suốt tác phẩm là hình ảnh thiên nhiên và nghệ thuật tác giả sử dụng phép đối khá độc đáo thể hiện cái tôi sáng tác của tác giả. Câu đối và câu thực trong bài thơ đã trình bày khái quát lần lượt những thời điểm khác nhau, nhưng tựu chung lại vẫn là khắc họa tình yêu thiên nhiên, cảnh vật nơi thôn quê bình yên của tác giả Nguyễn Trãi, về một cuộc sống đơn giản, thanh nhàn, có hoa có trăng, có thiên nhiên cây cỏ, có đàn cá lội dưới nước. Tất cả là đủ với Nguyễn Trãi bởi ông chỉ cần được sống an nhàn, thanh cảnh để tận hưởng cuộc sống nơi quê hương xinh đẹp.

Những hình ảnh đẹp đó cho mỗi độc giả chúng ta thấy được Nguyễn Trãi là một vị thi nhân với tình yêu thiên nhiên sâu sắc, yêu quê hương đất nước qua những hình ảnh giản dị mà ấm áp. Ông là tấm gương cho biết bao thế hệ về tấm lòng nhân hậu, thanh cao, không ham danh lợi. Một tâm hồn đẹp, cao cả đáng quý.

Phân tích ngôn chí bài 10 - mẫu 3

“Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo” – Nguyễn Trãi là ngôi sao Khuê lấp lánh trên bầu trời Đại Việt đúng như bảy chữ vàng mà vua Lê Thánh Tông ưu ái dành cho người. Đọc thơ văn Nguyễn Trãi, ta bắt gặp trong đó một trí tuệ lớn, một nhân cách lớn, một bản lĩnh lớn,.. “Ngôn chí 10” là bài thơ tiêu biểu góp phần tỏa sáng vẻ đẹp của con người vĩ đại ấy.

“Quốc âm thi tập” là tập thơ Nôm ra đời sớm nhất gồm 254 bài thơ – như ánh hào quang của ngôi sao Khuê xuyên suốt hành trình thiên niên kỷ của dân tộc. Đây là bài thơ số 10 trong chùm “Ngôn chí” 21 bài của phần “Vô đề”. Bài thơ ra đời trong hoàn cảnh Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn, hòa mình với thiên nhiên, vui với thú điền viên thôn dã chốn quê nhà.

Hai câu thơ đầu cho ta thấy sự lựa chọn của Nguyễn Trãi:

Cảnh tựa chùa chiền, lòng tựa thầy.

Có thân chớ phải lợi danh vây.

Với quân niệm “Có thân chớ để lợi danh vây”, Nguyễn Trãi đã cáo quan về ở ẩn, rời xa chốn quan trường nhiều danh lợi nhưng cũng lắm thị phi, bon chen, sát phạt. Đây là sự lựa chọn đúng đắn, bởi thời thế nhiễu nhương, gian thần lộng hành, nếu cứ 1 mực cầu danh lợi, có khi con người sẽ thiệt thân hoặc đánh mất chính mình.

Lựa chọn của Nguyễn Trãi cũng là lựa chọn của các bậc hiền nhân như Nguyễn Bỉnh Khiêm hay Nguyễn Khuyến sau này. Chọn về nhàn để di dưỡng tinh thần, để giữ gìn nhân cách. Cuộc sống của Nguyễn Trãi khi về nhàn thật thảnh thơi, thoát tục:

“Cảnh tựa chùa chiền, lòng tựa thầy”

Thiên nhiên, cuộc sống nơi Côn Sơn với trùng trùng thông, trúc, bình yên, đẹp như cõi cửa Phật. Lòng người vì thế cũng thanh tịnh, thoát tục như thầy chùa – người nương tựa cửa Phật. Cảnh đẹp, lòng người cũng đẹp. Hai câu thơ đầu với giọng điệu khoan thai, nhẹ nhàng khiến ta hình dung cuộc sống của Nguyễn Trãi chốn thôn quê thật an nhiên, thảnh thơi, thật đáng sống.

Bốn câu thơ tiếp theo miêu tả cụ thể hơn cuộc sống thanh nhàn ấy:

Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén,

Ngày vắng xem hoa bẻ cây.

Cây rợp chồi cành chim kết tổ,

Áo quang mấu ấu cá nên bầy.

Nhân vật trữ tình hiện lên với những thú vui thanh cao, tao nhã chốn quê nhà: Uống rượu, thưởng trăng, ngắm họa, chăm cây, vui với chim với cá.

Thời gian được nhắc đến qua hai thời điểm “đêm”, “ngày”, vậy là lúc nào, dù đêm hay ngày Nguyễn Trãi cũng có những niềm vui riêng. Hai câu thực viết bằng thể thơ sáu chữ, ngắt nhịp 2/2/2 tạo giọng điệu khoan thai, nhịp nhàng, kết hợp với phép đối “đêm thanh” – “ngày vắng”, “nguyệt” – “hoa”, “nghiêng chén” – “bợ cây”,… vừa tạo nên bức tranh thôn quê đẹp, yên bình, vừa tạo ấn tượng về niềm vui say của Nguyễn Trãi với cảnh.

Đêm trăng thanh uống rượu dưới ánh trăng. Yêu trăng ngắm trăng là sự thường, nhưng yêu đến “uống” cả trăng hẳn phải là yêu đến say đắm. Thiên nhiên và con người như giao hòa làm một. Đêm có thú của đêm, ngày có thú của ngày. Cái vắng vẻ của ban ngày không làm Nguyễn Trãi buồn chán. Người tìm đến những công việc yêu thích và say sừa ngắm hoa, tỉa cảnh. Bởi “non nước cùng ta đã có duyên”, nên được trở về với thiên nhiên thơ mộng, yên bình, Nguyễn Trãi như cá về với nước, đắm mình trong niềm vui bình dị mà thanh tao.

Với lòng yêu say cảnh đẹp, nhà thơ nhìn cảnh vật đâu đâu cũng đẹp, cũng đáng yêu cũng căng tràn sức sống: Cây thì rợp mát, chim ríu rít kết tổ trên cành. Đầm ao trong xanh, cá vui bầy bên mầm ấu. Nhà thơ đã đưa vào bức tranh của mình những hình ảnh vô cùng quen thuộc, gần gũi nhưng lại không đi theo khuôn sáo, lối mòn nào.

Hình ảnh câu thơ trên, câu thơ dưới nhịp nhàng trong phép đối như phụ họa cho nhau tạo nên bức tranh thôn quê nhiều tầng bậc, có cây cối, chim chóc trên cao và cá lội từng đàn dưới nước. Cảnh động chứ không tĩnh, đó là hình ảnh của cuộc sống đấy inh động chốn quê nhà. Đọc những câu thơ này, ta lại nhớ đến những vần thơ thật đẹp trong Gương báu khuyên răn số 43:

Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.

Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,

Hồng liên trì đã tịn mùi hương.

Ý thơ nào cũng gợi lên cái sinh khí căng tràn trong cảnh vật và niềm vui say sưa trong lòng người ngắm cảnh. Phải chăng chính nhà thơ đã mở rộng tâm hồn mình để cảm nhận cuộc sống, để phát hiện ra cái thế giới bên trong đang tuôn tràn của thiên nhiên, và cái vận động không ngừng trong tự nhiên. Nhà thơ không hề thoát tục, không hề xa dời cuộc sống mà là đang hướng lòng mình về với cuộc sống bình dị từ những gì bình dị nhất.

Hai câu cuối, chủ thể trữ tình xuất hiện trực tiếp qua từ “ông”, khẳng định lối sống, con đường của bản thân: Nhàn thân, không cưỡng cầu danh lợi, chọn lối đi riêng:

Ít nhiều tiêu sái lòng ngoài thế,

Năng một ông này đẹp thú này.

Hai câu kết cho ta thấy vẻ đẹp tâm hồn Nguyễn Trãi: Một con người lựa chọn về với thôn quê, xa lánh danh lợi (ngoài thế) để tìm sự thảnh thơi, an lạc trong tâm hồn (tiêu sái). Với Nguyễn Trãi đó là thú “đẹp” mà dường như chỉ có mình ông (một ông này) có được.

Nguyễn Trãi là người có tâm hồn thanh cao, không màng danh lợi, và cũng rất bản lĩnh trong sự lựa chọn lối sống nhàn. Đến đây, ta chợt nhớ đến lựa chọn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ “Nhàn”:

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao.

Quan niệm nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm có nét tương đồng với quan niệm của Nguyễn Trãi: Sống thuận theo lẽ tự nhiên, cuộc sống bình dị, lánh đục về trong, xem nhẹ vinh hoa phú quý, sống trong sạch.

Qua bài thơ “Ngôn chí 10”, ta không chỉ ngưỡng mộ tài năng của một nhà thơ lớn mà còn nghe được tiếng lòng của một con người thiết tha với thiên nhiên, với cuộc sống, với đất nước, quê hương, và thấy được một Nguyễn Trãi thanh cao, liêm khiết, vượt lên trên vòng cương tỏa của xã hội phong kiến.

Phân tích ngôn chí bài 10 - mẫu 4

Bài thơ Ngôn chí – bài 10 là một trong những sáng tác thơ Nôm của đại thi hào Nguyễn Trãi. Căn cứ vào số chữ và số câu của bài thơ cũng như đặc điểm các thể thơ thường xuất hiện. Ta thấy văn bản trên thuộc thể thơ thất ngôn bát cú  xen lục ngôn vì có 7 dòng, mỗi dòng có 8 hoặc 6 chữ.

Ta đi sâu vào nhìn nhận và phân tích bài thơ để thấy được đặc điểm thiên nhiên trong bài thơ hiện lên rất đa dạng, sinh động, có sức sống riêng: từ khung cảnh yên bình, thanh tịnh chốn chùa chiền cho đến ánh trăng tròn buổi đêm, cây cối đâm chồi nảy lộc,..

Câu thơ “Cảnh tựa chùa chiền, lòng  thựa thầy” tức là nói về quang cảnh tĩnh mịc như cảnh chùa chiền, lòng người trong trẻo, đẹp đẽ, sach như lòng thầy chùa chân tu.

Hai câu thực của bài thơ là:

Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén,

Ngày vắng xem hoa bẻ cây.

Hai câu thơ sử dụng nghệ thuật đối – chính đối đặc sắc. Tuy mỗi câu trình bày sự việc ở hai thời điểm khác nhau “Đêm – ngày” nhưng lại cùng mang hàm ý chỉ lối sống tao nhã, thanh cao của vị cao nhân diễn ra trong cuộc sống tại quê nhà với trăng, với gió, cây và hoa.

Qua nghệ thuật đối, vẻ đẹp tâm hồn của thi nhân được nổi bật lên với nét thư thái, ung dung, yên bình. Thi nhân thong thả ngồi nhâm nhi chén rượu thưởng trăng, nghiêng chén uống cả ánh trăng. Ánh trăng soi bóng chén, hòa vào tâm hồn thi nhân. Ngày thảnh thơi ngắm hoa, chăm chút hoa, tỉa tót cành.

Cây rợp chồi cành chim kết tổ,

Áo quang mấu ấu cá nên bầy.

Hai câu thơ trên miêu tả hình ảnh “cây rợp chồi”, “chim kết tổ”, “cá nên bầy” thể hiện sự sinh sôi nảy nở, phát triển mãnh liệt của tạo hóa. Thiên nhiên lột da, thêm sức sống mới, cũng chính là sức sống mãnh liệt nơi làng quê.

Ta có thể thấy cuộc sống yên bình, khăng khít nơi thôn quê dân giã, tình cảm yêu thương và hòa hợp với thiên nhiên chính là nét đẹp ẩn chứa nhân vật trữ tình. Qua đó, bài thơ Ngôn chí- bài 10 đã thể hiện tình yêu thiên nhiên say đắm, nồng nàn của bậc hiền nhân.

Phân tích ngôn chí bài 10 - mẫu 5

Nguyễn Trãi – nhà thơ với những tác phẩm để lại cho đời còn nguyên giá trị. Mỗi tác phẩm của ông đều gửi gắm những tình cảm, tâm tình của ông. Trong đó có Ngôn chí bài 10 của ông là một tác phẩm như thế.

Ngôn chí bài 10 được viết theo thể thơ Nôm Đường luật thất ngôn xen lục ngôn. Bài thơ được sáng tác khi Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn tại quê nhà “Tâm thế dứt bỏ danh lợi, vui với cảnh diền viên thôn dã”.

Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ được mở ra với hình ảnh chùa chiền, nơi yên tĩnh đến kì lạ. Cảnh vật nơi thôn quê đẹp, bình yên như chốn cửa Phật, lòng người cũng thanh cao, hướng thiện như lòng thầy chùa. Con người chớ bị phụ thuộc bởi danh lợi bon chen. Hai câu thơ nói lên sự lựa chọn của Nguyễn Trãi; về với chốn bình yên quê nhà, giữ tâm hồn trong sạch, xa lánh lợi danh.

Tác giả Nguyễn Trãi sử dụng phép đối trong hai câu đối và hai câu thực. Mỗi câu trình bày một sự việc thời điểm khác nhau nhưng cùng nói lên tình yêu thiên nhiên, cuộc sống và lối sống giản dị, thanh bạch nơi thôn quê với trăng gió, cỏ cây, hoa lá, cá chim.. của Nguyễn Trãi.

Bức tranh phong cảnh được miêu tả trong bài thơ rất gần gũi và nên thơ có trăng, có hoa; cây cối; chim chóc làm tổ trên cây, cá bơi từng đàn dưới nước.

Qua bức tranh ta thấy được Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống; gắn bó với cảnh vật giản dị, quen thuộc chốn quê nhà; đó cúng là tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng. Và nổi bật lên là người có tấm lòng thanh cao, bình dị, không ham danh lợi, lánh đục khơi trong. Đó là vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, đáng trân trọng.

Phân tích ngôn chí bài 10 - mẫu 6

Nguyễn Trãi được biết đến không chỉ là một nhà văn lớn mà còn là một nhà chính trị lỗi lạc. Các tác phẩm của ông thường chứa đựng những tư tưởng triết học sâu sắc về cuộc sống, con người và xã hội. Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác nhà thơ là bài thơ Ngôn chí bài 10.

"Cảnh tựa chùa chiền, lòng tựa thầy.

Có thân chớ phải lợi danh vây"

    Mở đầu bài thơ tác giả đã miêu tả cảnh đẹp với không gian chùa chiền, một không gian thánh thiện và tĩnh lặng. "Cảnh tựa chùa chiền, lòng tựa thầy" nhấn mạnh vào sự thanh tịnh và tinh thần trong tâm hồn, một cảm giác yên bình và bình an như khi ta đến một nơi thiêng liêng là chùa chiền. Từ "lòng tựa thầy" đề cập đến sự thanh cao và tinh tế trong lòng người, như một thầy tu sĩ với tâm hồn thanh cao và tịnh tâm. "Có thân chớ phải lợi danh vây" cảnh báo về sự mê muội và ham muốn về danh vọng và giàu có. Tác giả muốn nhắc nhở con người về đạo đức làm người quan trọng nhất là lòng tự trọng và chân thành. Điều này thể hiện tinh thần về việc trân trọng giá trị tinh thần và nội tâm hơn là những thứ vật chất và danh vọng bên ngoài.

"Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén,Ngày vắng xem hoa bẻ cây"

Trong đoạn thơ này, hình ảnh của đêm thanh với ánh trăng nghiêng chén và ngày tĩnh lặng với việc nhìn cây bẻ hoa tạo ra một không gian tĩnh lặng và thanh tịnh. Đêm thanh với ánh trăng nghiêng chén có thể tượng trưng cho sự yên bình và tâm hồn sáng ngời trong bóng tối của cuộc sống. Việc nhìn hoa bẻ cây vào ban ngày có thể thể hiện sự tận hưởng vẻ đẹp tự nhiên và tình yêu đối với thiên nhiên. Đối với tác giả, cảm nhận về đêm thanh có thể là khi tác giả lui về ở ẩn để tìm kiếm một tâm hồn trong sạch, bình an và sự tĩnh lặng trong đêm, khi mọi thứ trở nên yên bình và tâm trạng dễ dàng thư thái hơn. Đoạn thơ này tạo ra một bức tranh về sự hòa mình của tác giả vào vẻ đẹp tự nhiên và tìm kiếm sự tĩnh lặng và bình an trong cuộc sống. Đó là đièu ông đã lựa chọn để tránh xa những xa hoa của công việc làm quan.

“Cây rợp chồi cành chim kết tổ,

Áo quang mấu ấu cá nên bầy.’’

Hình ảnh cây rợp chồi cành và chim kết tổ tạo ra một bức tranh về sự sống động và hài hòa trong tự nhiên. Cây rợp chồi cành biểu hiện sự mạnh mẽ và sự phát triển của thiên nhiên, trong khi chim kết tổ trên cây thể hiện sự hòa mình tạo nên một không gian ấm áp. Màu sắc và ánh sáng của cá nổi bật trong áo quang mấu, tạo nên một hình ảnh rực rỡ và phong cách. Bầy cá được hình thành từ sự đoàn kết cũng giống như con người gắn kết với nhau mới tạo nên một đất nước phát triển.

‘’Ít nhiều tiêu sái lòng ngoài thế,

Năng một ông này đẹp thú này.’’

Trong đoạn thơ này, tác giả có vẻ miêu tả một thế giới ngoài hiện thực, nơi mà sự tiêu sái và vẻ đẹp của mọi vật đều được đánh giá cao. "Năng một ông này đẹp thú này" có thể ám chỉ rằng mỗi cá nhân hoặc đối tượng đều có một sức hấp dẫn và vẻ đẹp riêng biệt, và mỗi người đều đặc biệt theo cách của mình. Tuy nhiên, với "lòng ngoài thế", có thể ngụ ý rằng mọi thứ chỉ là hình ảnh, không thực sự tồn tại trong thế giới thực. Điều này có thể là sự giả tưởng về một thế giới lý tưởng, nơi mọi vật đều hoàn hảo và đẹp mắt. Và trong mắt của tác giả, ông đã lựa chọn nơi lý tưởng với mình nhất đó là tránh xa công việc làm quan để lui về quê ở ẩn.

Bằng ngôn từ sắc bén, uyển chuyển Nguyễn Trãi đã giúp người đọc hiểu thêm về bức tranh cuộc sống lúc bấy giờ. Qua đó, ta cảm nhận được tình yêu thiên nhiên sâu sắc, yêu quê hương đất nước qua tác phẩm văn chương đặc sắc của ông.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học