10+ Phân tích người lái đò sông Đà trữ tình (điểm cao)

Phân tích người lái đò sông Đà trữ tình điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Phân tích người lái đò sông Đà trữ tình (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Phân tích người lái đò sông Đà trữ tình

a) Mở bài:

- “Người lái đò sông Đà” là một tùy bút rất đặc sắc của Nguyễn Tuân rút từ tập Sông Đà.

- Hình ảnh con sông Đà với hai đặc tính nổi bật là hung bạo và trữ tình được tác giả khắc họa đậm nét trong tùy bút. Nổi bật lên là vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của con sông Đà.

b) Thân bài:

* Vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con sông Đà

- Thác ghềnh lúc này chỉ còn lại trong nỗi nhớ. “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” - câu văn mở đầu đoạn hoàn toàn là thanh bằng gợi cảm giác lâng lâng, mơ màng; ý lặng tờ nhắc lại trùng điệp tạo chất thơ.

- Thiên nhiên hài hòa mang vẻ trong trẻo nguyên sơ, kỳ thú: Cỏ gianh đồi núi đang ra những búp non, đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương.

Quảng cáo

- So sánh bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa mở ra những liên tưởng về sự bát ngát, lãng mạn, hư hư thực thực của dòng sông.

- Người với cảnh có sự tương giao, hư thực đan xen: Tiếng còi, con hươu ngộ ngẩng đầu nhìn và hỏi ông khách sông Đà. Cảnh làm cho vị tình nhân non nước sông Đà xúc động trong thực và mơ.

* Nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn tài hoa, tinh tế. Nhà văn hiến cho độc giả hình ảnh sống động, ấn tượng sâu sắc:

- Lấy động tả tĩnh: Cá quẫy đủ khiến ta giật mình.

- Cái tĩnh hàm chứa sự bất ngờ bởi sự biến hóa liên tiếp: thuyền thả trôi, con hươu thơ ngộ vểnh tai, áng cỏ sương, tiếng còi sương, đàn cá dầm xanh quẫy vọt. Cảnh và vật đều ở trạng thái động, không chịu ép mình và đều mang hơi thở vận động của cuộc sống nhiều chiều

* Nhà văn đã trải lòng mình với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp sống cuộc đời mới, để nhớ, để thương cho dòng sông, cho quê hương đất nước:

Quảng cáo

- Thưởng ngoạn vẻ đẹp sông Đà, lòng ông dậy lên cảm giác liên tưởng về lịch sử, về tình cảm đối với cố nhân: nhắc tới đời Lí đời Trần.

- Trước vẻ đẹp hoang dại nhà văn suy nghĩ về về tiếng còi tàu, cuộc sống hiện đại.

- Trải lòng, hóa thân vào dòng sông trong đắm đuối của tình non sông đất nước: Nhớ thương hòn đá thác, lắng nghe giọng nói, trôi những con đò mình nở.

c) Kết bài:

Qua đoạn trích thấy cảnh vật và con người gắn quyện với nhau chặt chẽ; thấy những đặc sắc của văn Nguyễn Tuân. Đọc “Sông Đà” người đọc càng thêm quý trọng tài năng và tấm lòng của con người suốt đời đi tìm cái đẹp, làm giàu có đời sống tinh thần của tất cả độc giả chúng ta.

Phân tích người lái đò sông Đà trữ tình - mẫu 1

Nguyễn Tuân là nhà văn yêu thiên nhiên, cái đẹp. Các tác phẩm của ông chứa đầy những hình ảnh sống động về con người và thiên nhiên, với trọng tâm là ca ngợi cái trước. Một trong những sáng tác nổi tiếng nhất của Nguyễn Tuân phải kể đến là tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Trong tác phẩm này, con sông Đà được nhìn lên vừa dữ dội vừa hiền hòa, hệt như một dòng sông Tây Bắc xinh đẹp.

Quảng cáo

Nguyễn Tuân đã quan sát sông Đà ở nhiều thời điểm, nhiều góc độ khác nhau nên có rất nhiều cách cảm nhận về hình dáng con sông này. Khi ngồi trên máy bay nhìn xuống, nhà văn nhận thấy dòng sông như một cái dây thừng ngoằn ngoèo trải ra trên một đại dương núi đá. Hình ảnh này giúp người đọc hình dung được toàn cảnh về độ lớn, độ hoành tráng của dòng sông, nó uốn lượn trải dài gần như toàn bộ vùng Tây Bắc. 

Nếu vẻ đẹp của sông Đà chỉ dừng lại ở sự hung bạo thì không có gì xứng đáng với tình yêu của tác giả, chính dòng sông này lại mang trong mình một vẻ đẹp khác, vô cùng thơ mộng, trữ tình làm xao xuyến lòng người: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân". Câu văn dài chỉ một dấu ngắt tay duy nhất kết hợp với điệp từ "tuôn dài" khiến Sông Đà hiện lên như một người thiếu nữ Tây Bắc với vẻ đẹp trữ tình, trẻ trung, duyên dáng, bồng bềnh giữa núi rừng. 

Nếu ở trên thượng nguồn, dòng sông hung bạo bao nhiêu thì về đến hạ nguồn dòng sông lại trở nên đằm thắm, dịu dàng bấy nhiêu. Bản thân dòng sông đã mang vẻ đẹp quyến rũ nhưng tác giả còn tô điểm thêm màu sắc, đường nét cảnh vật xung quanh. Sắc xanh của dòng sông càng trở nên nổi bật giữa sắc trắng tinh khôi của hoa ban và sắc đỏ đến nao lòng người của hoa gạo, bức tranh đó lại được ẩn hiện trong lớp sương khói núi Mèo càng tạo nên vẻ đẹp mơ màng, huyền áo, đầy bí ẩn. Đoạn văn còn thể hiện tài hoa của nhà văn trong việc sử dụng ngôn ngữ giữa hai chữ "tuôn dài" thường sẽ có một dấu phẩy nhưng tác giả cố tình phá vỡ cấu trúc ngữ pháp để tô đậm ấn tượng về cái mênh mang, trải dài, mềm mại, duyên dáng của dòng sông. Câu văn còn sử dụng nhiều thanh bằng tạo nên ấn tượng về một dòng chảy êm đềm, nhẹ nhàng. Chính những nét phá vỡ đấy đã cho người đọc thấy được sự say mê của người nghệ sĩ trước vẻ đẹp của đất nước. Câu văn này của Nguyễn Tuân xứng đáng được xếp vào những câu văn đẹp nhất được coi là "tờ hoa" trong nền văn học Việt Nam.

Nếu Hoàng Phủ Ngọc Tường phát hiện nước Sông Hương thay đổi theo thời gian trong ngày "Sớm xanh trưa vàng chiều tím" thì Nguyễn Tuân lại nhìn thấy nước Sông Đà thay đổi theo mùa trong năm. Mùa xuân "Sông Đà mang sắc xanh ngọc bích". Ẩn đằng sau hình ảnh miêu tả tưởng chừng như đơn giản ấy là vẻ đẹp của nước, về độ trong cũng như ánh sáng trên dòng sông. Bởi để có thể tạo nên sắc xanh đẹp đẽ như sắc ngõ thì đòi hỏi dòng nước phải đạt đến độ trong vắt, dòng chảy êm đềm, ngoài ra còn có ánh sáng chan hòa rực rỡ. Bằng sự từng trải của một người ham mê phong cách xê dịch, nhà văn đã nhận thấy cùng là sắc xanh nhưng chỉ nước sông Đà về mùa xuân mới đạt đến độ trong trẻo và đẹp như thế, còn các dòng sông khác như sông Lô, sông Gâm lại mang màu xanh cánh hến. 

Về mùa thu nước sông Đà lại biến đổi hoàn toàn, không còn là màu xanh mà chuyển sang "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu, "lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về". Câu văn gợi ra một dòng sông chảy chậm, nhẹ nhàng với màu đỏ của phù sa nặng trĩu. Sắc đỏ của dòng sông được miêu tả không chỉ ở bề mặt mà còn ở sâu trong tâm trạng, ở sự bất mãn, bực bội mà phải cảm nhận bằng tâm hồn mới hiểu được. "Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo" vì thế mà Nguyễn Tuân đã có một phép so sánh trường nghĩa đầy táo bạo màu sắc sông giống với màu bệnh lý của khuôn mặt người. Bằng tình yêu của một người say mê nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã thẳng thắn phản bác cái tên mà thực dân Pháp đã gọi sông Đà là sông Đen. Nhà văn đã trực tiếp bày tỏ tình cảm yêu mến với sông Đà, niềm tự hào về vẻ đẹp của con sông xứ sở và niềm tự tôn dân tộc sâu sắc.

Nguyễn Tuân với dòng sông Đà không đơn thuần chỉ là quan hệ giữa nhà văn với đối tượng được miêu tả mà còn là giữa những người bạn tri ân, tri kỷ. Tác giả đã dùng một từ rất thiêng liêng và ý nghĩa để gọi sông Đà, đó chính là "cố nhân". Khác hẳn với con thủy quái hung dữ luôn tìm cách đe dọa, tiêu diệt con người ở nơi thượng nguồn. Về đến thượng nguồn sông Đà bỗng trở nên dịu dàng, đằm thắm, trở thành một người bạn luôn chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với mọi người. Bởi vậy, khi xa dòng sông nhà văn nhớ nó như một người bạn thân thiết. Tác giả dành cho dòng sông một nỗi nhớ da diết, mãnh liệt nên khi gặp lại con sông yêu thương, niềm vui đã vỡ òa tràn ra bề mặt câu chữ.

Nắng chiếu trên dòng sông Đà đẹp đến mê hồn. Nguyễn Tuân đã tạo ra một kết hợp từ độc đáo "Nắng tháng ba Đường thi", trong câu văn có cả màu sắc, thời gian và thi ca. Căn văn đưa người đọc trở về với vẻ đẹp lãng mạn trong thơ Đường " Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu". Ấn tượng để lại trong lòng người đọc là hình ảnh dòng sông phẳng lặng, yên bình, trong sáng và đầy sắc xuân. Cảm xúc được bộc lộ trực tiếp bằng hình ảnh so sánh độc đáo "vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng". Đây là hai hình ảnh so sánh rất lạ vì những đối tượng được đem ra so sánh có sự đối lập nhau. "Nắng giòn tan" là hình ảnh ẩn dụ gợi ra cái nắng trong trẻo, nhẹ nhàng hoàn toàn tương phản với cái u ám trĩu nặng của bầu trời ngày mưa dầm. Đặc biệt "nối lại chiêm bao đứt quãng" là việc gần như không thể có trong đời và nó hi hữu, hiếm hoi bao nhiêu thì đem lại cảm giác sung sướng bấy nhiêu. Cuối cùng, Nguyễn Tuân nhấn mạnh lại một lần nữa cảm giác gặp lại sông Đà bằng hình ảnh so sánh "nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân". Hai từ láy liên tiếp gợi cảm giác ấm áp, trìu mến. Sông Đà trở thành người bạn cũ với bao kỉ niệm, tình yêu thương và nhớ nhung. Hình ảnh dòng sông mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thành, vừa mãnh liệt, vừa hết sức nhân văn đó là tính trữ tình toát lên từ tâm hồn, tính cách của dòng sông hạ nguồn.

Từ điểm nhìn của mình, nhà văn đã quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ cảnh vật ven sông. Một vẻ đẹp tĩnh lặng, yên ả, thanh bình như còn đó dấu tích lịch sử của ông cha ta để lại "cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến như thế". Hai hình ảnh so sánh độc đáo đặt cạnh nhau "Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích xưa" gợi ra vẻ đẹp nguyên sơ, trong trẻo và tĩnh lặng đến tuyệt đối của dòng sông Đà. Chất trữ tình còn được thể hiện rõ nét qua cảnh vật như "nương ngô nhú lên mấy lá non, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp, con hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh". Chỉ vài chi tiết nhỏ nhưng tạo ra ấn tượng về sự tràn đầy sức sống của những bờ đê dọc con sông Đà. Cảnh vật nối tiếp nhau tạo nên một bức tranh thơ mộng, trữ tình bình yên. Biện pháp nghệ thuật lấy động tả tĩnh "đàn cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt bụng trắng như bạc rơi thoi. Tiếng cá đập nước sông đuổi mất đàn hươu vụt biến" đã khẳng định không gian thanh bình vắng vẻ nơi đây. Tác giả đã chứng minh được vẻ đẹp trữ tình lãng mạn của dòng sông đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca.

Nguyễn Tuân đã tạo nên một bức tranh sông Đà tuyệt đẹp bằng cách sử dụng cảm nhận tinh tế, giác quan nhạy bén, ngôn từ độc lạ và một lối viết tài hoa. Ông đã biến hình ảnh dòng sông trở thành một biểu tượng thể hiện niềm tự hào về thiên nhiên cây cỏ, sông núi và khát khao tìm thấy cái đẹp. Bài tùy bút "Người lái đò sông Đà" là một câu chuyện hiện thực về thiên nhiên và nguồn cảm hứng mãnh liệt say mê với nó của Nguyễn Tuân. Đặc sắc nghệ thuật của nó với nhiều biện pháp tu từ và kho ngôn ngữ phong phú đã làm cho sông Đà trong văn học mãi mãi trở thành một địa danh nghệ thuật. 

Phân tích người lái đò sông Đà trữ tình - mẫu 2

Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác, tài hoa. Trong các tác phẩm của ông, Người lái đò sông Đà đã để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc. Tác phẩm đã ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhiên, và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Nổi bật nhất là hình tượng con sông Đà với vẻ thơ mộng, trữ tình.

Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà một cách bao quát qua câu văn: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban gạo tháng hai là cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Nhà văn tinh tế sử dụng biện pháp tu từ so sánh kết hợp với điệp ngữ “tuôn dài” để khắc họa hình ảnh con sông dài vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh của núi rừng. Từ “áng” thường được sử dụng để nói về áng thơ, áng văn. Ở đây, tác giả lại sử dụng là “áng tóc trữ tình”. Cách kết hợp từ độc đáo, thú vị đã gợi ra hình ảnh dòng sông như một người thiếu nữ trẻ trung với mái tóc dài thật đẹp đẽ. Và không chỉ có vậy, điểm lên “áng tóc” là những bông hoa gạo đỏ rực hai bên bờ sông - khiến ta hình dung rằng mái tóc như được trang trí với hoa ban trắng tinh, họa gạo đỏ rực.

Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân miêu tả qua màu sắc của nước sông: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Nhà văn kiên nhẫn quan sát, khéo léo trong cách miêu tả sự thay đổi của màu nước sông Đà trong từng khoảng thời gian. Mùa xuân, nước sông mang màu “xanh ngọc bích” - vừa có sắc xanh lại vừa có ánh xanh lung linh, lấp lánh tràn ngập khắp không gian khiến sông Đà bỗng trở thành một khối ngọc bích khổng lồ. Đến mùa thu thì nước sông Đà màu đỏ giống như “da mặt một người bầm đi vì rượu bữa” gợi cho ta cảm giác nước sông Đà đậm phù sa đem màu mỡ đến cho bao cánh đồng phì nhiêu trù phú gọi bao yêu thương tự hào. Nhưng nước sông Đà không có màu đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ” - câu văn không chỉ nói về màu nước sông mà còn kín đáo gửi gắm tấm lòng tự yêu nước của nhà văn.

Tiếp đến, Nguyễn Tuân ví con sông giống như “một cố nhân” - người bạn cũ, từng rất thân thiết đã lâu không gặp, nay được gặp lại cảm thấy vui mừng khôn xiết. Khi bắt gặp ánh nắng, nhà văn cảm nhận được vẻ đẹp mang đậm dấu ấn cổ điển của Đường thi: “Yên ba tam nguyệt há dương châu”. Đặc biệt là những câu văn diễn tả được niềm vui của tác giả khi gặp lại sông Đà: “Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Câu văn diễn tả tâm trạng vui mừng, sung sướng của nhân vật trữ tình.

Nguyễn Tuân còn so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn khéo léo dùng không gian để gợi mở thời gian. Hình ảnh “một bờ tiền sử” hay “một nỗi niềm cổ tích thời xưa” nhằm thể hiện vẻ đẹp hoang sơ của con sông. Thiên nhiên hai bên bờ sông Đà tràn đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Cùng với “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”.

Sông Đà qua cái nhìn của Nguyễn Tuân không chỉ là một con sông hung bạo, dữ dội. Mà nó còn mang nét đẹp đầy thơ mộng, nhẹ nhàng.

Phân tích người lái đò sông Đà trữ tình - mẫu 3

Nguyễn Tuân là nhà văn duy mỹ – “suốt đời tôn thờ và phụng sự cái đẹp” (Nguyễn Đăng Mạnh). Tác phẩm của ông là những trang viết sống động về con người và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút của ông, sông Đà hiện lên hung bạo như một “loài thủy quái nham hiểm và độc dữ” nhưng cũng rất dịu dàng và say đắm như một mỹ nhân Tây Bắc. Đoạn văn ta sắp phân tích sau đây là đoạn văn tiêu biểu cho vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng đó của Đà giang.

Đoạn trích “Người lái đò sông Đà” được trích trong tùy bút sông Đà (1960). Tác phẩm này là kết quả của chuyến đi dài 8 tháng mà Nguyễn Tuân đã đến với Tây Bắc. Tây Bắc hùng vĩ mà dạt dào chất thơ đã tạo ấn tượng cho nhà văn, nhất là con sông Đà. Nguyễn Tuân sau khi trở về Hà Nội đã bắt tay vào sáng tác tùy bút Sông Đà. Tác phẩm nhanh chóng đến với bạn đọc và được đón nhận nồng nhiệt. Tùy bút đã thật sự gây ấn tượng mạnh cho người đọc bởi chất liệu ngôn từ phong phú và đa dạng. Nhà văn đã huy động cả kho tàng tiếng Việt, cả nhiều ngành nghề, lĩnh vực để tái hiện một sông Đà hung bạo, trữ tình và một người lái đò mang cốt cách nghệ sĩ.

Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh… Cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của dòng sông.

Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều góc độ. Góc độ thứ nhất là từ trên cao nhìn xuống. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sông Đà giống như một người đàn bà kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.” Điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của dòng sông; mái tóc của Đà giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho người đọc một sự xuýt xoa trước vẻ đẹp diễm tuyệt của sông Đà. Sông Đà giống như một kiệt tác của trời đất. Chữ “áng” thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ Nguyễn gắn với “tóc” thành “áng tóc trữ tình”. Nguyên cả cụm từ ấy đã nói lên hết cái chất thơ, chất trẻ trung và đẹp đẽ, thơ mộng của dòng sông. Cảnh vì thế mà vừa thực lại vừa mộng. Hai chữ “ẩn hiện” càng tăng lên sự bí ẩn và trữ tình của dòng sông. Sắc đẹp diễm tuyệt của sông Đà – của người đàn bà kiều diễm còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ “bung nở” và từ láy “cuồn cuộn” kết hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm người đọc liên tưởng mái tóc như được trang điểm bởi mây trời, như cài thêm hoa ban hoa gạo và đẹp mơ màng như sương khói mùa xuân. Sự nhân cách hóa đó làm sông Đà gợi cảm biết bao!

Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Câu văn thể hiện sự say sưa và mê đắm của Nguyễn Tuân về con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”. Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy sông Hương có màu xanh thẫm và ánh nắng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” do sự phản quang của mây trời và đẹp như một đoá hoa phù dung; thì Nguyễn Tuân lại phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc – một sắc màu gợi cảm, trong lành. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà. Đồng thời qua câu văn, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật được trong cái trữ tình thơ mộng của dòng nước còn có cái dữ dội ngàn đời của con sông Tây Bắc.

Quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn Tuân đã để cho ngòi bút của mình lai láng về Đà giang. Tác giả ví sông Đà như một cố nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Khi bắt gặp ánh nắng chiếu vào mắt, trong sự hướng ngoại, nhà văn đã phát hiện ra nắng sông Đà đẹp đến mê hồn trong ánh sáng “lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” – Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình.

Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, gặp lại sông Đà nhận ra con “sông vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Cách so sánh độc đáo, nhân cách hoá, sông Đà hiện lên đẹp bởi chiều sâu: thân thiện, dễ mến, phảng phất hơi ấm tình người của dòng sông. Nó trở thành người bạn hiền chung thuỷ, điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở về.

Tác giả miêu tả cảnh đôi bờ sông thật ấn tượng. Người đọc như lạc vào thế giới cổ tích, thế giới của tiền sử. Câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” toàn vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Tác giả hướng đến lịch sử của những buổi đầu dựng nước và giữ nước: “Hình như từ đời Trần, đời Lý, đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Sự hướng nội này càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Phép so sánh độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, mở rộng biên độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thuỷ của buổi sơ khai.

Bờ sông ở đây còn nổi lên vẻ đẹp của thảm thực vật và muông thú. Trong cảnh lặng như tờ của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết, nhà văn đã nhìn thấy một vẻ đẹp đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh tượng đó còn ấn tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp ấy thật đầy chất thơ, chất hoạ. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy. Điều ấy khiến ta liên tưởng đến cảnh trong giả sử Trung Hoa có một ngư dân một hôm chèo thuyền ngược dòng sông rồi lạc vào một chốn thần tiên, một chốn Đào nguyên. Chất thơ trong đoạn văn viết về sông Đà của Nguyễn Tuân có lẽ cũng toát lên từ điển tích ấy gợi lên trong tâm trí của người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc – nơi khởi nguồn cho tình yêu đất nước.

Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh đênh…bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.

Đoạn văn đã sử dụng nhiều hình ảnh so sánh, bút pháp nhân cách hóa miêu tả, liên tưởng bất ngờ thú vị. Từ ngữ chọn lọc, độc đáo. Hình ảnh lãng mạn. Sử dụng kiến thức hội hoạ, thơ ca để miêu tả. Tất cả đã giúp Nguyễn Tuân tái hiện được sức sống mãnh liệt của mỹ nhân sông Đà thơ mộng và trữ tình.

Sông Đà là dòng sông của Tây Bắc, dòng sông với trữ lượng thủy điện lớn nhất cả nước. Đó cũng là một dòng sông hiểm nguy rình rập với “ trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh “. Nhưng đó cũng là một dòng sông lai láng chất thơ trong cảm nhận của Nguyễn Tuân. Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông như một công trình nghệ thuật, một tác phẩm hội hoạ mà tạo hoá ban tặng tô điểm cho đất nước; ông khám phá dòng sông ở phương diện thẩm mỹ nên nên thể hiện phong cách tài hoa. Trang sách khép lại rồi mà dường như tâm hồn của bạn đọc vẫn đang trôi mênh mang trên một dòng sông “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

Phân tích người lái đò sông Đà trữ tình - mẫu 4

Trong nền văn học Việt Nam, Nguyễn Tuân là cây bút nổi bật với phong cách tài hoa, uyên bác và có quan niệm độc đáo về cái đẹp tuyệt đỉnh. Tác phẩm "Người lái đò sông Đà" là bài bút kí thể hiện rõ điều này. Cảm hứng về dòng sông Đà với hai nét tính cách hung bạo và trữ tình chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân đã tạo nên một hình tượng độc đáo về thiên nhiên Tây Bắc. Đặc biệt, vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của Đà giang đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.

Trước hết, vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông Đà được thể hiện qua dáng vẻ của dòng sông. Dòng sông không chỉ nổi bật với vẻ đẹp hung bạo, dữ dội của những "dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông" mà còn để lại ấn tượng sâu sắc qua những nét vẽ thơ mộng, trữ tình. Từ trên cao nhìn xuống, dòng sông mang vẻ đẹp dịu dàng như một người đàn bà kiều diễm: "Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân".

Bằng sự quan sát tinh tế, tác giả Nguyễn Tuân còn phát hiện sắc màu đa dạng, tươi đẹp của màu nước sông Đà: "Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về". Sự thay đổi về sắc màu dựa trên quy luật vận động theo mùa, qua nhiều điểm nhìn từ làn mây mùa xuân, ánh nắng mùa thu,... đã tái hiện một dòng sông hiền hòa, trong sáng, quyến rũ và tình tứ. Cảnh đẹp hai bên bờ Đà giang cũng được miêu tả trong không gian thơ mộng, trữ tình: đôi bờ dòng sông mang vẻ đẹp "hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa...", lặng tờ "như từ đời Lí, đời Trần, đời Lê". Vẻ đẹp huyền ảo, lung linh đó còn được khắc họa qua những nét vẽ về cảnh sắc: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương". Trên mặt nước sông Đà, những đàn cá quẫy vọt lên dòng sông như đàn thoi đang rơi. Tất cả những hình ảnh, chi tiết đều thấm đượm vẻ đẹp nhẹ nhàng để làm nổi bật sự thơ mộng, trữ tình của sông Đà. Qua đó, chúng ta có thể thấy được những cảm nhận tinh tế, sâu sắc của tác giả Nguyễn Tuân đối với cảnh sắc thiên nhiên Tây Bắc.

Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông còn được thể hiện qua tâm hồn. Qua cách nhìn độc đáo của tác giả, sông Đà hiện lên như một cố nhân - người bạn thân thiết từ xưa. Cái chất "đằm đằm ấm ấm" thân quen của con sông như thấm sâu vào cảnh sắc thiên nhiên và trở nên thân thiết: "... trông con sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng".

Như vậy, qua vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà, chúng ta có thể thấy được trái tim say mê vẻ đẹp thiên nhiên của tác giả. Nguyễn Tuân mê đắm trước cảnh đẹp của quê hương, đất nước. Lòng ngưỡng mộ, sự trân trọng, niềm tự hào về một dòng sông đã tạo nên những trang tùy bút hiếm có. Đồng thời, qua đó, chúng ta có thể thấy được phong cách nghệ thuật và quan điểm sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân - một nghệ sĩ luôn say mê tìm kiếm cái đẹp toàn bích, tuyệt mĩ. Ông luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa và thẩm mĩ, đi tìm và sáng tạo cái đẹp. Vẻ đẹp của dòng sông Đà còn tạo nên một bối cảnh đặc biệt góp phần làm nổi bật hình tượng người lái đò - người lao động bình dị với vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ.

Bằng những cảm nhận tinh tế, sự sắc nhọn của giác quan người nghệ sĩ, cách sử dụng ngôn từ độc đáo, lối văn rất mực tài hoa, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng sông Đà. Từ đó, hình ảnh dòng sông đã trở thành biểu tượng thể hiện niềm yêu mến tự hào về cỏ cây, sông núi quê hương cùng khát khao đi tìm cái đẹp, hướng tới và sáng tạo cái đẹp của tác giả.

Phân tích người lái đò sông Đà trữ tình - mẫu 5

Nguyễn Đăng Mạnh khi đánh giá về nhà văn Nguyễn Tuân đã khẳng định rằng: “Nguyễn Tuân là cái định nghĩa về người nghệ sĩ”. “Người lái đò sông Đà” rất tiêu biểu cho phong cách sáng tác nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Nổi bật trong tác phẩm là hình tượng con sông Đà với nét đẹp thơ mộng, trữ tình.

Trước hết, Nguyễn Tuân miêu tả sông Đà một cách bao quát qua câu văn: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban gạo tháng hai là cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Hình ảnh so sánh độc đáo kết hợp với điệp ngữ “tuôn dài” mở ra trước mắt người đọc một con sông dài vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh của núi rừng. Đặc biệt là cách kết hợp từ rất độc đáo, từ “áng” thường được sử dụng để nói về áng thơ, áng văn. Nhưng ở đây, Nguyễn Tuân lại sử dụng là “áng tóc trữ tình” - sông Đà giống như một người thiếu nữ trẻ trung với mái tóc dài thật đẹp đẽ. Điểm lên đó là những bông hoa gạo đỏ rực hai bên bờ sông - khiến ta hình dung rằng mái tóc như được trang trí với hoa ban trắng tinh, họa gạo đỏ rực. Một vẻ đẹp tràn đầy sức sống.

Không chỉ vậy, vẻ đẹp trữ tình của sông Đà còn được Nguyễn Tuân miêu tả qua màu sắc của nước sông: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà. Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô.

Mùa thu nước Sông đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”. Nguyễn Tuân giống như một người họa sĩ, đang kiên nhẫn ngắm nhìn sự thay đổi từ dòng nước sông Đà để vẽ nên tác phẩm nghệ thuật của mình. Cách miêu tả dòng nước sông Đà của nhà văn đầy sáng tạo. Vào mùa xuân, nước sông mang màu “xanh ngọc bích” - vừa có sắc xanh lại vừa có ánh xanh lung linh, lấp lánh tràn ngập khắp không gian khiến sông Đà bỗng trở thành một khối ngọc bích khổng lồ. Đến mùa thu thì nước sông Đà màu đỏ giống như “da mặt một người bầm đi vì rượu bữa” gợi cho ta cảm giác nước sông Đà đậm phù sa đem màu mỡ đến cho bao cánh đồng phì nhiêu trù phú gọi bao yêu thương tự hào. Nhưng nước sông Đà không có màu đen như “thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ thế mà phiết vào bản đồ lai chữ” - câu văn không chỉ nói về màu nước sông mà còn kín đáo gửi gắm tấm lòng tự yêu nước của nhà văn.

Từ không gian bao quát - trên cao nhìn xuống, Nguyễn Tuân đưa người đọc ngắm nhìn sông Đà ở không gian cụ thể - nhìn gần trực diện. Tác giả ví con sông giống như “một cố nhân” - người bạn cũ, từng rất thân thiết đã lâu không gặp, nay được gặp lại cảm thấy vui mừng khôn xiết. Để rồi, khi bắt gặp ánh nắng, nhà văn cảm nhận được vẻ đẹp mang đậm dấu ấn cổ điển của Đường thi: “Yên ba tam nguyệt há dương châu”. Đặc biệt là những câu văn diễn tả được niềm vui của tác giả khi gặp lại sông Đà: “Bờ sông Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Cách so sánh độc đáo cùng với điệp ngữ “sông Đà” bộc lộ niềm vui khôn xiết - có cái hạnh phúc nào bằng sau những ngày mưa dầm được nhìn thấy ánh nắng ấm áo, có cái hạnh phúc nào bằng được mơ lại giấc mơ đẹp đứt quãng. Niềm hạnh phúc khi bắt gặp sông Đà cũng giống như vậy. Và dòng sông thì vẫn đang chờ đợi người bạn tri kỷ đi xa trở về.

Đoạn văn tiếp theo tiếp tục khắc họa vẻ đẹp trữ tình của con sông: Với câu thơ “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” - câu văn toàn thanh bằng đọc lên nghe thật nhẹ nhàng, gợi sự thanh bình, sự tĩnh lặng. Nguyễn Tuân tiếp tục so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Nhà văn khéo léo dùng không gian để gợi mở thời gian. Hình ảnh “một bờ tiền sử” hay “một nỗi niềm cổ tích thời xưa” nhằm thể hiện vẻ đẹp hoang sơ của con sông.

Cùng với đó, Nguyễn Tuân còn khắc họa bức tranh thiên nhiên hai bên bờ sông Đà. Nhà văn đã vẽ lên một khung cảnh đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Cùng với “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Bức tranh thiên nhiên lúc này giống như một bức tranh thủy mặc tuyệt đẹp. “Thỉnh thoảng, con hươu thơ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương chăm chăm nhìn ông khách sông Đà mà như muốn hỏi rằng: Có phải ông cũng vừa nghe thấy một tiếng cói sương. Dưới lòng sông, những đàn cá đầm xanh thi thoảng quẫy vọt lên bụng trắng như bạc rơi thoi”. Dòng sông hiện lên thật nhẹ nhàng, quyến rũ.

Con sông Đà qua cái nhìn của Nguyễn Tuân không chỉ là một con sông hung bạo, dữ dội. Mà nó còn mang nét đẹp đầy thơ mộng, nhẹ nhàng. Hình ảnh sông Đà là một trong những sáng tạo thể hiện phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân.

Phân tích người lái đò sông Đà trữ tình - mẫu 6

Nguyễn Tuân được biết đến là nhà văn đi theo chủ nghĩa xê dịch. Ở những tác phẩm của ông ta nhận thấy rõ sự thay đổi trong phong cách văn chương qua từng giai đoạn, đặc biệt là tác phẩm Người lái đò sông Đà. Tác phẩm không chỉ mang đến cho bạn đọc vẻ đẹp hung bạo, dữ dội của con sông Đà mà còn nêu lên vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của nó.

Nguyễn Tuân quan sát sông Đà với nhiều góc độ. Đầu tiên là góc từ trên cao nhìn xuống, con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo. Phép so sánh giàu chất thơ, chất họa đã phô ra vẻ dịu dàng, duyên dáng kiêu sa, kiều diễm của sông Đà và bộ lộ chất phong tình, lãng mạn của người nghệ sĩ. Sông Đà mang dáng vẻ của thiếu nữ, một nữ nhân xuân sắc đang buông hờ mái tóc làm duyên, làm dáng giữa cánh rừng hoa, hoa gạo và vẻ bồng bềnh mây khói. Mùa xuân màu nước xanh màu ngọc bích, khác với sông Gâm, sông Lô màu xanh canh hến. Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa"

Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương" Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa. Người với cảnh có sự tương giao, hư thực đan xen: Tiếng còi, con hươu ngộ ngẩng đầu nhìn và hỏi ông khách sông Đà. Cảnh làm cho vị tình nhân non nước sông Đà xúc động trong thực và mơ.

Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có. Nghệ thuật của ngòi bút lãng mạn tài hoa, tinh tế. Nhà văn đã trải lòng mình với dòng sông, hóa thân vào nó để lắng nghe nhịp sống cuộc đời mới, để nhớ, để thương cho dòng sông, cho quê hương đất nước.

Tác phẩm là một áng văn tiêu biểu của Nguyễn Tuân. Qua ngòi bút tài tình của ông, dòng sông Đà hiện lên mang vẻ đẹp thơ mộng trữ tình vô cùng đáng yêu, dịu dàng và cũng rất xinh đẹp. Tác phẩm đã góp phần làm cho kho tàng văn học Việt Nam thêm giàu đẹp, phong phú hơn và để lại nhiều giá trị, bài học cho thế hệ mai sau.

Phân tích người lái đò sông Đà trữ tình - mẫu 7

Dòng sông gợi cảm, trữ tình và nên thơ sau khi đã đi qua thác ghềnh. Sông Đà tạo thành chất men say cho cuộc sống của con người Tây Bắc. Từ nhiều góc nhìn khác nhau, Nguyễn Tuân đã có những phát hiện mới mẻ về vẻ thi vị, yên ả của con sông này. Qua bao thác ghềnh, con sông trở nên hiền hòa, mềm mại, uyển chuyển hơn bao giờ hết.

Từ trên tàu bay nhìn xuống, Tây Bắc như người thiếu nữ duyên dáng, yêu kiều mà sông Đà chính là áng tóc mềm mượt của người con gái khao khát thanh xuân này. Nguyễn Tuân nhìn thấy dòng chảy uốn lượn của con sông Đà tựa như áng tóc buông dài vắt ngang qua núi rừng hùng vĩ. Nhà văn đã dùng câu văn dài hơi, hạn chế ngắt quãng để gợi tả độ dài của sông Đà, của mái tóc thiếu nữ. Đồng thời, sử dụng từ ngữ mượt mà cũng là cách để nhà văn gợi tả cái dòng chảy êm đềm của con sông mang linh hồn Tây Bắc: “Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân.”. Hai từ “tuôn dài” được đặt kề nhau không phải là lỗi lặp từ của Nguyễn Tuân, đó là là cách để dòng sông trong đôi mắt của ông “tuôn dài” giữa núi rừng, giữa lòng người lao động. Nhà văn khéo léo gợi lại thần sắc mây trời Tây Bắc, màu hoa hoa trắng xóa, hoa gạo đỏ tươi đặc trưng cho miền núi rừng hùng vĩ này. Khói núi Mèo mà người đồng bào đốt nương mỗi khi Tết đến cũng khiến lòng người nao lòng đến lạ. Tây Bắc muôn đời vẫn đẹp, sông Đà dẫu hung hãn đến đâu cũng có đoạn yêu kiều, diễm lệ như cô gái cháy bùng sức trẻ trong khoảnh khắc thanh xuân.

Nhìn sông Đà từ nhiều thời điểm khác nhau, nhà văn phát hiện màu nước sông Đà thay đổi theo mùa, mỗi mùa lại mang một vẻ đẹp riêng. Nguyễn Tuân đặc biệt chú trọng sắc nước sông Đà ở hai mùa: xuân và thu. Hai mùa để thương để nhớ, để nhà văn ngắm nhìn và gợi tả cái dòng nước u huyền, ngọt ngào mang đặc trưng riêng biệt: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà.” Tây Bắc vào xuân, sự biến ảo của đất trời, thiên nhiên khiến sắc nước sông Đà cũng xanh trong kì lạ: “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm, Sông Lô”. Màu xanh “ngọc bích” khiến dòng nước không chỉ xanh mà còn trong vắt, long lanh như tấm gương phản chiếu vẻ đẹp của đất trời nơi đây. Đến khi Tây Bắc vào thu, vẻ trầm mặc của thiên nhiên khiến dòng nước sông đỏ hẳn đi: “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì ruợu bữa, lù lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mổi độ thu về”. Cách so sánh màu nước sông Đà mùa thu với màu da của một người nghiện rượu khiến dòng sông có sắc thái, có linh hồn, có xúc cảm hơn. Màu nước này cũng giống như cái màu đỏ giận dỗi, hờn trách “của một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về”. Nhà văn khéo léo khi so sánh dòng sông với con người, khéo léo trao thần sắc, tâm trạng của con người vào dòng sông vô tri, vô giác.

Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một “cố nhân”. Nhà văn kể lại nỗi thèm thuồng khoảng không gian thoáng đãng trên sông Đà khi ông lạc vào rừng sâu Tây Bắc. Nhớ sông Đà, Nguyễn Tuân lặn lội đi tìm con sông như tìm một người bạn. Và rồi sông Đà hiện hình trước mắt ông mà dấu hiệu nhận biết chính là “cái miếng sáng lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Cảm xúc của người lâu ngày gặp lại sông Đà “vui như thấy giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Rõ ràng, sông Đà chính là người bạn của Nguyễn Tuân.

Nguyễn Tuân lại thay đổi điểm nhìn của mình, đặt mình trong vị trí của người khách hải hồ đi thuyền trên sông Đà, từ đó có những phát hiện độc đáo về cảnh vật hai bên bờ sông. “Thuyền tôi trôi trên sông Đà”, sáu thanh bằng trong một câu văn khiến nó mượt mà hẳn đi như đích thị chiếc thuyền chở người du khách đang trôi trên dòng nước êm ái. Trước mắt nhà văn, cảnh vật ven sông “lặng tờ”. Dường như nhà văn đang sống ở một thời đại nào đó xa xôi lắm, xưa cổ lắm, không có tiếng âm thanh của cộ xe, của súng đạn. Một nỗi hồ nghi gợn lên trong lòng người nghệ sĩ: “Hình như từ đời Lí đời Trần đời Lên, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi”. Bao thời đại trôi qua dòng sông Đà vẫn lặng tờ, lim dim mơ màng giữa núi rừng Tây Bắc. Hai bên bờ sông, cảnh vật yên ả, thanh bình, tràn trề nhựa sống như đang bắt đầu vào mùa sinh sôi nảy lộc. Một nương ngô hiện ra trước mắt nhà văn, ngô chưa ra trái, ngô chỉ mới “nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa”. Trên đồi, cỏ gianh xanh mơn mởn đang phun trào những lộc búp: “cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Có một đàn hươu thơ ngộ đang “cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Ôi khung cảnh an yên quá đỗi. Ngay cả cử chỉ cúi đầu nhai cỏ của đàn hươu cũng thật nhẹ nhàng, trầm lắng. Chữ “ngốn” gợi tả sự non tơ của cỏ gianh, sự hiền lành đến dễ thương của đàn hươu nào đó sống bên bờ sông Đà, bãi sông Đà. Cảnh vật hai bên bờ sông hiện lên như một bức tranh rất đỗi thần tiên “không một bóng người”. Chưa dừng lại ở đó, nhà văn còn miêu tả sự hoang sơ, cổ kính của quãng sông này. Bờ sông Đà nguyên sơ như chưa có đôi bàn tay nào đến đây khai phá, để rồi: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

Đúng rồi, đây là một bờ sông trong câu chuyện cổ tích năm nào ta nghe kể. Tĩnh vắng như vậy, hoang sơ như vậy thì còn gì mà không phải nữa chứ? Đoạn văn miêu tả cảnh hai bên bờ sông Đà có lẽ là đoạn văn mượt mà, ngọt ngào và thơ mộng nhất trong tác phẩm. Câu văn mang dáng dấp mềm mại, êm trôi, không khí mơ màng khiến người đọc đắm say ngây ngất.

Phân tích người lái đò sông Đà trữ tình - mẫu 8

Nguyễn Tuân là “suốt đời đi tìm cái đẹp”. Những tác phẩm của ông là những trang viết sống động về con người và thiên nhiên với cảm hứng ngợi ca. “Người lái đò sông Đà” là tác phẩm tiêu biểu cho khuynh hướng thẩm mĩ đó của nhà văn. Dưới ngòi bút của ông, sông Đà hiện lên không chỉ hung bạo như một “loài thủy quái nham hiểm và độc dữ” mà còn dịu dàng và say đắm như một mỹ nhân Tây Bắc.

“Người lái đò sông Đà” được sáng tác trong chuyến đi thực tế của nhà văn lên vùng núi Tây Bắc. Tác phẩm được sáng tác trong thời kì xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đặc biệt là trong chuyến đi vào năm 1958, Nguyễn Tuân được sống hòa mình với thiên nhiên và con người Tây Bắc. Điều này đã trở thành nguồn cảm hứng lớn để ông sáng tác.

Phần đầu của đoạn trích, tác giả chủ yếu miêu tả sự hung bạo, hùng vĩ, hiểm nguy của một dòng sông lắm thác nhiều ghềnh. Đó là sự dữ dội của cảnh đá dựng bờ sông, cảnh ghềnh Hát Loóng “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”, cảnh những hút nước rùng rợn; cảnh thác đá gào thét; dòng sông với biết bao cửa tử cửa sinh… Đến cuối đoạn trích tác giả chủ yếu bàn về vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà.

Nguyễn Tuân quan sát sông Đà ở nhiều điểm nhìn. Đầu tiên là từ trên cao nhìn xuống - với điểm nhìn bao quát. Ở điểm nhìn ấy tác giả đã hình dung con sông Đà giống như một người đàn bà kiều diễm với áng tóc trữ tình đằm thắm: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”. Hình ảnh so sánh “sông Đà như một áng tóc” kết hợp với điệp ngữ “tuôn dài, tuôn dài” như mở ra trước mắt của người đọc độ dài vô tận của dòng sông; mái tóc của Đà giang như nối dài đến vô tận, trùng điệp giữa bạt ngàn màu xanh lặng lẽ của núi rừng. Phép so sánh “như một áng tóc trữ tình” tạo cho người đọc một sự xuýt xoa trước vẻ đẹp diễm tuyệt của sông Đà. Sông Đà giống như một kiệt tác của trời đất. Chữ “áng” thường gắn với áng thơ, áng văn, nay được họ Nguyễn gắn với “tóc” thành “áng tóc trữ tình”. Hai chữ “ẩn hiện” càng tăng lên sự bí ẩn và trữ tình của dòng sông. Sắc đẹp diễm tuyệt của sông Đà - của người thiếu nữ còn được tác giả nhấn mạnh qua động từ “bung nở” và từ láy “cuồn cuộn” kết hợp với hoa ban nở trắng rừng, hoa gạo đỏ rực hai bên bờ làm người đọc liên tưởng mái tóc như được trang điểm bởi mây trời, như cài thêm hoa ban hoa gạo và đẹp mơ màng như sương khói mùa xuân.

Không dừng lại ở đó, vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà còn được Nguyễn Tuân thể hiện qua việc miêu tả sắc nước. Câu văn thể hiện sự say sưa và mê đắm của Nguyễn Tuân về con sông Tây Bắc thật bay bổng và lãng mạn: “Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước sông Đà”. Chính vẻ đẹp của mây trời đã tạo cho con sông Đà một vẻ đẹp riêng không trộn lẫn. Nếu như Hoàng Phủ Ngọc Tường nhìn thấy sông Hương có màu xanh thẫm và ánh nắng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” do sự phản quang của mây trời và đẹp như một đoá hoa phù dung; thì Nguyễn Tuân lại phát hiện ra vẻ đẹp của sắc nước sông Đà thay đổi theo mùa. Mùa xuân, nước sông Đà xanh ngọc bích “chứ không xanh màu xanh canh hến của nước sông Gâm, sông Lô”. Xanh ngọc bích là xanh trong, xanh sáng, xanh biếc - một sắc màu gợi cảm, trong lành. Đó là sắc màu của nước, của núi, của da trời. Mùa thu, nước sông Đà “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội độ thu về”. Câu văn sử dụng phép so sánh “lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa” khiến người đọc hình dung được vẻ đẹp đa dạng của sắc nước sông Đà. Đồng thời qua câu văn, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật được trong cái trữ tình thơ mộng của dòng nước còn có cái dữ dội ngàn đời của con sông Tây Bắc.

Tác giả đã quan sát ở điểm nhìn gần, bằng những câu văn đầy chất thơ, Nguyễn Tuân đã để cho ngòi bút của mình lai láng về Đà giang. Tác giả ví sông Đà như một cố nhân đi xa thì nhớ, gặp lại thì mừng vui khôn xiết. Khi bắt gặp ánh nắng chiếu vào mắt, trong sự hướng ngoại, nhà văn đã phát hiện ra nắng sông Đà đẹp đến mê hồn trong ánh sáng “lóe lên một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Mượn một câu thơ trong bài thơ Đường nổi tiếng “Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng” - Nguyễn Tuân dường như đã ngầm khẳng định vẻ đẹp cổ thi của dòng sông Tây Bắc. Dòng sông ấy trong sự liên tưởng đến thơ Đường đã gợi tả được vẻ đẹp phẳng lặng, trong sáng, lấp lánh, hồn nhiên thanh bình. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, gặp lại sông Đà nhận ra con “sông vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Cách so sánh độc đáo, nhân cách hoá, sông Đà hiện lên đẹp bởi chiều sâu: thân thiện, dễ mến, phảng phất hơi ấm tình người của dòng sông. Nó trở thành người bạn hiền chung thuỷ, điềm tĩnh chờ đợi người đi xa trở về. Tác giả miêu tả cảnh đôi bờ sông thật ấn tượng. Người đọc như lạc vào thế giới cổ tích, thế giới của tiền sử. Câu văn “Thuyền tôi trôi trên sông Đà” toàn vần bằng tạo cảm giác yên ả, thanh bình, sự tĩnh lặng. Sự hướng nội này càng làm nổi bật vẻ đẹp nguyên sơ và hồng hoang của đôi bờ sông Đà. Đúng như tác giả đã so sánh “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Phép so sánh độc đáo, dùng không gian để gợi mở thời gian, mở rộng biên độ làm nổi bật vẻ đẹp hồn nhiên, trong sáng, nguyên thuỷ của buổi sơ khai.

Cảnh vật hai bên bờ sông được Nguyễn Tuân miêu tả chi tiết. Trong cảnh lặng như tờ của thiên nhiên, trong cảnh sương đêm chưa tan hết, nhà văn đã nhìn thấy một vẻ đẹp đầy sức sống “một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa mà tịnh không một bóng người, cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp”. Cảnh tượng đó còn ấn tượng bởi một “đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Vẻ đẹp ấy thật đầy chất thơ, chất hoạ. Thiên nhiên giống như một bức tranh thủy mặc lộng lẫy. Điều ấy khiến ta liên tưởng đến cảnh trong giả sử Trung Hoa có một ngư dân một hôm chèo thuyền ngược dòng sông rồi lạc vào một chốn thần tiên. Chất thơ trong đoạn văn viết về sông Đà của Nguyễn Tuân có lẽ cũng toát lên từ điển tích ấy gợi lên trong tâm trí của người đọc về vẻ đẹp của dòng sông Tây Bắc - nơi khởi nguồn cho tình yêu đất nước.

Đoạn trích được khép lại bằng hình ảnh “tiếng cá quẫy… đuổi đàn hươu vụt biến” và con sông Đà trong sự liên tưởng đến thơ Tản Đà “bọt nước lênh đênh… bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình của một người tình nhân chưa quen biết” càng làm cho hình ảnh dòng sông trở nên quyến rũ, có linh hồn, giàu sức hút.

Tóm lại, Nguyễn Tuân đã miêu tả con sông như một công trình nghệ thuật, một tác phẩm hội hoạ mà tạo hoá ban tặng tô điểm cho đất nước; ông khám phá dòng sông ở phương diện thẩm mỹ nên nên thể hiện phong cách tài hoa. Trang sách khép lại rồi mà dường như tâm hồn của bạn đọc vẫn đang trôi mênh mang trên một dòng sông “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học