10+ Phân tích Nguyễn Khuyến (điểm cao)
Phân tích Nguyễn Khuyến điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
10+ Phân tích Nguyễn Khuyến (điểm cao)
Dàn ý Phân tích Nguyễn Khuyến
a) Mở bài: Giới thiệu chung về tác giả Nguyễn Khuyến
b) Thân bài:
+ Tiểu sử Nguyễn Khuyến
+ Cuộc đời của Nguyễn Khuyến
+ Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Khuyến
c) Kết bài: Nhận định chung về tác giả Nguyễn Khuyến
Phân tích Nguyễn Khuyến - mẫu 1
Cha Nguyễn Khuyến là Nguyễn Liễn (1796–1853), thường gọi là Mền Khởi, đỗ ba khóa tú tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan (1799 – 1874), nguyên là con của Trần Công Trạc, từng đỗ tú tài thời Lê Mạc.
Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864 – 1865) ở trường Hoàng giáp cùng bạn học Phạm Văn Nghị. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội.
Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên tu chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám và đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến, với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa (chữ Thắng có chữ lực nhỏ, chữ Khuyến có chữ lực lớn hơn).
Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ.
Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây.
Nguyễn Khuyến là một người tài năng, yêu nước thương dân, bên cạnh đó ông cũng là một nhà thơ nôm xuất sắc, nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Thơ của Nguyễn Khuyến luôn giàu cảm xúc với thiên nhiên, với con người và với quê hương.
Ông ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan. Ông quyết định về quê ở ẩn. Ở thời bấy giờ Nguyễn Khuyến không chỉ được coi là nhân cách tiêu biểu Việt Nam thời bấy giờ, mà ông còn là một nhà thơ đau với nỗi đau của nhân dân, ông buồn cho cái sự nghèo đói, ông đau đớn khi nhìn thấy cảnh nước mất nhà tan.
Thơ Nguyễn Khuyến nói lên tình yêu quê hương đất nước, gia đình, bạn bè; phản ánh cuộc sống của những con người khổ cực, thuần hậu, chất phác; châm biếm, đả kích thực dân xâm lược, tầng lớp thống trị, đồng thời bộc lộ tấm lòng ưu ái đối với dân, với nước.
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn cuối cùng của thời trung đại. Ông được mệnh danh là nhà thơ của dân tình và làng cảnh Việt Nam. Sáng tác của Nguyễn Khuyến gồm cả chữ Hán và chữ Nôm với số lượng lớn, hiện còn trên 800 bài gồm thơ, văn, câu đối nhưng chủ yếu là thơ.
Đóng góp nổi bật của Nguyễn Khuyến cho nền văn học dân tộc là ở mảng thơ Nôm, thơ viết về làng quê, thơ trào phúng.
Trong sự nghiệp thơ ca, nhà thơ Nguyễn Khuyến có nhiều sáng tác mang tính trào phúng, nhưng đa số là trữ tình. Thơ ông xoay quanh các vấn đề chính như: về con người quê hương, kích bọn người xấu trong chiến tranh, nửa thực dân, nửa phong kiến đồng thơi bộc bạch tâm sự của mình.
Tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của ông có tác phẩm “Thu điếu” (Câu cá mùa thu) nằm trong chùm ba bài thơ thu của Nguyễn Khuyến, tác phẩm được ra đời khi ông về sống ẩn dật tại quê nhà. Bài thơ mang màu sắc mùa thu ở đồng bằng Bắc Bộ, qua những hình ảnh, câu từ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước của tác giả. Thu điếu là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc, được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ giàu tính biểu cảm.
Những tác phẩm của nhà thơ đã khiến cho người đọc của bao nhiêu thế hệ xúc động và đang phải suy ngẫm. Những câu thơ là những băn khoăn day dứt, với nước mắt và nụ cười của nhà thơ. Chúng ta, nên tự hào vì nên văn học Việt Nam đã có một nhà thơ như thế.
Năm 1987, Ủy Ban Nhân dân tỉnh Hà Nam Ninh đã quyết định thành lập Giải thưởng Văn học - Nghệ thuật Nguyễn Khuyến với chu ky tổ chức 5 năm 1 lần để vinh danh các tác giả, nghệ sĩ có nhiều thành tích xuất sắc trong hoạt động văn học, nghệ thuật trong và ngoài tỉnh. Từ năm 1997, khi tỉnh Hà Nam được tái lập, Ủy ban Nhân dan tỉnh Hà Nam tiếp nhận việc tổ chức giải thưởng này trong kỳ trao giải lần thứ III và đã tổ chức tới kỳ trao giải thứ VII năm 2017.
Tên ông được đặt cho một con phố có nhiều di tích và danh thắng tại quận Đống Đa, bên cạnh Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội: Phố Nguyễn Khuyến có tên cũ phố Sinh Từ (trước năm 1945) và Bùi Huy Bích (trước năm 1964). Ngày nay, tên phố Bùi Huy Bích được đặt cho một con đường ở phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Các thành phố Hải Phòng, Nam Định, Hải Dương, Phủ Lý đều có các con phố và con đường mang tên Nguyễn Khuyến.
Riêng Hà Nội còn có thêm đường Nguyễn Khuyến thuộc phường Văn Quán, quận Hà Đông. Tên đường Nguyễn Khuyến được đặt khi Hà Đông còn là thành phố thủ phủ tỉnh Hà Tây trước khi sáp nhập vào Hà Nội.
Phân tích Nguyễn Khuyến - mẫu 2
Nguyễn Khuyến sinh năm 1835 mất năm 1909, lúc nhỏ tên là Thắng, sau khi thi hội không đỗ đổi thành Khuyến, hiệu là Quế Sơn, quê làng Và, xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Ông xuất thân trong gia đình có nhiều người đỗ đạt. Nguyễn Khuyến là người có tài những thi cử lận đận.
Năm 1871, ông thi đỗ cả Hội nguyên và Đình nguyên. Vì ba lần đỗ đầu nên ông được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Sau khi đỗ đạt ông đã ra làm quan với triều đình nhà Nguyễn. Sau đó, cảm thấy bất lực trước cảnh đất nước bị xâm lược, đạo đức xã hội suy đồi, chốn quan trường đen tối, ông đã cáo quan về ở ẩn tại làng quê. Trong thời gian đó, ông tiếp tục làm thơ để bộc lộ tâm sự và thể hiện tấm lòng với dân tộc. Nguyễn Khuyến đã sống vào thời kì xã hội Việt Nam có rất nhiều biến động. Các nhà nho không có nhiều sự chọn lựa. Và ông đã chọn cho mình một cách sống theo đạo thông thường của những nhà Nho có nhân cách: bất hợp tác với cường quyền về sống cuộc sống nghèo khổ nhưng thanh bạch chốn làng quê.
Nguyễn Khuyến sáng tác thơ, câu đối, văn bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Những sáng tác của ông tập trung thể hiện tình cảm của một nhà nho đối với quê hương đất nước, người thân. Sáng tác của ông có thể chia thành các mảng sau:
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều biến đổi rất mạnh mẽ. Dưới con mắt của các nhà Nho, đó chủ yếu là những biến đổi tiêu cực. Đạo đức xã hội thay đổi và khác rất nhiều so với những chuẩn mực đạo đức phong kiến. Giống như nhiều nhà Nho khác, Nguyễn Khuyến cảm thấy vô cùng đau xót trước hiện thực ấy. Và ông đã viết rất nhiều bài thơ thể hiện nỗi niềm u hoài của mình về vận mệnh dân tộc.
Nguyễn Khuyến được coi là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Ông viết rất thành công ở đề tài thơ về làng quê. Trong đó nổi tiếng nhất là chùm thơ thu. Để tránh những bon chen điên đảo của chốn quan trường, ông đã lui về quê dạy học, làm thơ. Không khí thanh bình nơi thôn xóm đã khơi nguồn cảm hứng để ông gưỉ gắm tâm sự. Bức tranh làng cảnh trong thơ ông luôn đẹo vẻ đẹp của sự bình yên, thanh sang, nhưng buồn và cô đơn.
Thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến mang giọng điệu thâm thuý vơi snôj dung trào phúng rất sâu cay. Ông thường phê phán nhữung biểu hiện suy đồi của đạo đức xã hội, nhất là chuyện khoa cử, quan tước. Đồng thời, với tâm trạng của một nhà nho bất lực trước thời cuộc ông đã viết những vần thơ tự trào để vừa tự trách mình, vừa bộc bạch tâm sự về thế cuộc.
Ở cả ba mảng thơ trên, Nguyễn Khuyến đều để lại những sáng tác có giá trị cả về nội dung và nghệ thuật.
Nguyễn Khuyến thành công hơn cả là ở thơ văn viết bằng chữ Nôm. Phân lớn những tác phẩm xuất sắc của ông đều được sáng tác trong thời kì ông đã cáo quan về ở ẩn.
Điểm nổi bật trong nghệ thuật thơ Nguyễn Khuyến là ông đã “đưa tiếng nói sinh hoạt dân dã, bình dị vào thơ một cách tinh tế, sâu sắc, nhiều khi hóm hỉnh, tự nhiên mà thành thơ”. Dù viết thể thơ cổ điển những thơ ông vẫn luôn rất thoải mái, không có cảm giác gò bó. Ông vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật của thơ ca dân gian và ngôn ngữ giàu chất tạo hình. Nguyễn Khuyến đã đưa thơ Nôm, ngôn ngữ thơ đến một trình độ mới, tinh tế và rất hiện đại.
Phân tích Nguyễn Khuyến - mẫu 3
Nguyễn Khuyến sinh ra trong gia đình có truyền thống học vấn. Cha ông là Nguyễn Tông Khởi, từng đỗ ba khóa tú tài và làm nghề dạy học, còn mẹ ông là Trần Thị Thoan, con gái một tú tài thời Lê Mạc.
Thuở nhỏ, ông nổi tiếng thông minh và ham học. Năm 1864, ông đỗ đầu cử nhân (Giải nguyên) tại trường Hà Nội. Sau khi trượt thi Hội năm 1865, ông đổi tên thành Nguyễn Khuyến, với ý nghĩa khuyến khích bản thân nỗ lực hơn.
Đến năm 1871, ông đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên, được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trước khi từ quan và qua đời tại quê nhà Yên Đổ vào năm 1884.
Khi tìm hiểu về tác giả Nguyễn Khuyến bạn sẽ phải bất ngờ vì số lượng tác phẩm đồ sộ được viết bằng cả chữ Hán và chữ Nôm của ông.
Dù đỗ đạt cao nhưng Khuyến Khuyến chỉ làm quan hơn 10 năm và dành phần lớn cuộc đời để dạy học, sáng tác. Ông để lại hơn 800 tác phẩm gồm thơ, văn, câu đối. Trong đó thơ chiếm phần nhiều.
Nguyễn Khuyến sáng tác đa dạng thể loại gồm thơ, văn và câu đối. Các tác phẩm tiêu biểu của ông gồm: Quế Sơn thi tập: 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng chữ Nôm; Yên Đổ thi tập; Bách Liêu thi văn tập và nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng khác.
Nguyễn Khuyến được mệnh danh là “Nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” bởi thơ ca ông luôn đậm đà phong vị quê hương đất nước. Từ người, cảnh đến vật qua thơ Nguyễn Khuyến đều mang đến cho người đọc cảm giác bình yên, thân thuộc.
Thông qua những câu từ tinh tế, ông thể hiện tình yêu quê hương đất nước, châm biếm tầng lớp thống trị, phản ánh cuộc sống của những người dân thấp cổ bé họng khổ cực.
Tài năng của Nguyễn Khuyến được công nhận bởi mọi thế hệ nhà thơ lẫn độc giả Việt, có thể kể đến như sau: Xuân Diệu từng nhận định rằng: Nguyễn Khuyến là nhà thơ tiêu biểu cho làng quê Việt Nam, với những hình ảnh làng cảnh gắn liền với đời sống mộc mạc, giản dị. Lê Trí Viễn đánh giá rằng thơ Nguyễn Khuyến không chỉ mang khí vị thanh đạm mà còn thấm đượm sự đồng cảm sâu sắc với đời sống của người nông dân. Nguyễn Đức Quyền cho rằng làng quê Việt Nam trong thơ Nguyễn Khuyến hiện lên tươi sáng, thanh đạm và đầy hồn hậu. Ông nhấn mạnh tình yêu sâu đậm của nhà thơ với quê hương và tài năng xuất sắc trong việc ghi lại vẻ đẹp ấy, đặc biệt qua sắc thu và tâm hồn của chính tác giả.
Thơ Nguyễn Khuyến vừa đậm chất trữ tình, vừa thể hiện nỗi lòng yêu nước, yêu quê hương, phản ánh cuộc sống người nông dân trong giai đoạn khó khăn của đất nước. Ông mất tại quê nhà vào năm 1909.
Phân tích Nguyễn Khuyến - mẫu 4
Nhà thơ Nguyễn Khuyến sinh ngày 15-2-1835 tại Tỉnh Hà Nam, nước Việt Nam. Ông sống và làm việc chủ yếu ở Tỉnh Thái Nguyên, nước Việt Nam. Ông sinh thuộc cung Bảo Bình, cầm tinh con (giáp) dê (Ất Mùi 1835). Nguyễn Khuyến xếp hạng nổi tiếng thứ 47095 trên thế giới và thứ 215 trong danh sách Nhà thơ nổi tiếng.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến có tên là Nguyễn Văn Thắng, tự Miễn Chi, hiệu Quế Sơn. Ông là một nhà thơ nổi tiếng với các tác phẩm viết theo thể thơ Nôm thất ngôn bát cú đến Đường luật.
Thuở nhỏ, ông theo học ở trường Hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, ham học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân trường Hà Nội.
Năm 1865, ông trượt thi Hội nên ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám và đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến, nhằm tự nhủ phải luôn cố gắng hơn nữa.
Năm 1871, ông thi đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp).
Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, sau đó được thăng lên làm Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, Nguyễn Khuyến được thăng chức lên làm Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến qua đời ngày 05/02/1909, hưởng thọ 75 tuổi.
Nguyễn Khuyến là người tài năng, có cốt cách thanh cao, có tấm lòng yêu nước thương dân, từng bày tỏ thái độ kiên quyết không hợp tác với chính quyền thực dân Pháp.
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn cuối cùng của thời trung đại. Ông được mệnh danh là nhà thơ của dân tình và làng cảnh Việt Nam. Sáng tác của Nguyễn Khuyến gồm cả chữ Hán và chữ Nôm với số lượng lớn, hiện còn trên 800 bài gồm thơ, văn, câu đối nhưng chủ yếu là thơ.
Thơ Nguyễn Khuyến nói lên tình yêu quê hương đất nước, gia đình, bạn bè; phản ánh cuộc sống của những con người khổ cực, thuần hậu, chất phác; châm biếm, đả kích thực dân xâm lược, tầng lớp thống trị, đồng thời bộc lộ tấm lòng ưu ái đối với dân, với nước.
Đóng góp nổi bật của Nguyễn Khuyến cho nền văn học dân tộc là ở mảng thơ Nôm, thơ viết về làng quê, thơ trào phúng.
Trong sự nghiệp thơ ca, nhà thơ Nguyễn Khuyến có nhiều sáng tác mang tính trào phúng, nhưng đa số là trữ tình. Thơ ông xoay quanh các vấn đề chính như: về con người quê hương, kích bọn người xấu trong chiến tranh, nửa thực dân, nửa phong kiến đồng thơi bộc bạch tâm sự của mình.
Tác phẩm "Quế sơn thi tập" gồm 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng chữ nôm với nhiều thể thơ khác nhau, được xem là một tác phẩm gắn liền với tên tuổi của nhà thơ Nguyễn Khuyến.
Một số tác phẩm khác của nhà thơ Nguyễn Khuyến như: Yên Đổ thi tập, Cẩm Ngữ, Bách Liêu thi văn tập, "Bạn đến chơi nhà"... đặc biệt là ba bài thơ về mùa thu là Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ nôm xuất sắc, nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Lối viết thơ văn sáng tạo, ngôn ngữ giàu màu sắc, dòng thơ gợi cảm, mỹ lệ, giàu cảm xúc với thiên nhiên, con người và quê hương.
Trong thơ chữ nôm, tác giả vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuốm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thi nhân có sáng tác thơ chữ Hán nhưng hầu hết là thơ trữ tình. Cả hai lĩnh vực Nguyễn Khuyến đều mang về những thành công và tạo nên giá trị cho nền văn học Việt Nam.
Chủ đề thơ văn của ông thường là tấm lòng yêu nước thiết tha sâu nặng. Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Khuyến gắn liền với tư tưởng trung quân. Sự quan tâm lo lắng cho đất nước được thể hiện qua nỗi đau khi nhà thơ không làm được gì để thay đổi thời cuộc. Nhà thơ có thái độ phản kháng đối với xã hội thực dân nửa phong kiến. Hơn nữa, Nguyễn Khuyến còn là nhà thơ của nông thôn nên ông viết về nông thôn bằng tất cả tình cảm thân thuộc quyến luyến. Có thể nói, trái tim ông đã rung lên cùng một nhịp với người lao động. Ông đã sống với tâm trạng của họ, vui với cái vui của họ, buồn với nỗi buồn của họ và mơ ước cái họ từng ước mơ. Vì vậy ông có những vần thơ xuất phát từ tình cảm chân thành của mình, thể hiện luôn gắn bó với người nông dân.
Ngôn ngữ thơ Nguyễn Khuyến rất phong phú không những trong cách nói mà còn rất mỹ lệ, gợi cảm trong cách miêu tả. Ông có khả năng khai thác diễn tả của từ ghép rất độc đáo, ví dụ như: Thấp le te, đóm lập loè, tẻo teo, ve ve, tênh nghếch, làng nhàng, khoẻ khoe,… Ông tiếp tục truyền thống học tập ca dao, tục ngữ của những nhà thơ Nôm các thế kể trước, nhưng ông có lối sáng tạo riêng.
Ngôn ngữ trào phúng của Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng hóm hỉnh, nhiều cung bậc. Trào phúng của Nguyễn Khuyến có nét riêng không giống như Hồ Xuân Hương hay Tú Xương, ngoài ra ông cũng có biệt tài chơi chữ rất tài tình.
Bên cạnh đó, Nguyễn Khuyến rất thành công trong việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên. Thơ du vịnh và thơ bốn mùa không chỉ tả cảnh mà còn miêu tả tâm trạng của nhà thơ. Ngôn ngữ tả cảnh rất chính xác, cách chọn chữ dùng từ thích hợp, từ ngữ thường lấp láy giảu nhạc điệu, có khả năng gợi tả cao. Ông sử dụng vốn ngôn ngữ bình dân nhưng không hề rơi vào sự thông tục hoá, cảnh nào cũng được vẽ, được chạm khắc thần tình đạt đến mức nghệ thuật.
Hình ảnh ông sử dụng thường đơn sơ, khêu gợi thể hiện qua những chi tiết thật bình dị, sống động. Nó có giá trị nâng các câu thơ làm tăng sức biểu cảm. Hình ảnh Hoa nở, trăng trôi, chiếc thuyền thấp thoáng, bé tẻo teo, ngõ trúc quanh co, thấp le te, đóm lập loè,… đầy sức sống.
Thơ của ông có sự kết hợp hài hoà giữa âm thanh và màu sắc gợi cảm giác vừa xem tranh thuỷ mặc vừa nghe thơ Đường. Có thể nói rằng, Nguyễn Khuyến là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh, nhất là trong việc tả cảnh sắc thiên nhiên. Ông được mệnh danh là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam vì những cảnh, người, vật qua cảm nhận của ông đều đậm đà phong vị của quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến đã có những cống hiến quan trọng làm cho ngôn ngữ đi sát với đời sống và ông đã thành công trong việc chuyển cái tinh tuý của đời thường thành thơ.
Phân tích Nguyễn Khuyến - mẫu 5
Nguyễn Khuyến là một trong nhà thơ cuối cùng của thời trung đại, được mệnh danh là “nhà thơ của dân tình và làng cảnh Việt Nam”. Thơ của ông luôn nhẹ nhàng, thấm đẫm bài học về triết lý nhân văn sâu sắc.
Nguyễn Khuyến tên thật là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự là Miễu Chi, sinh ngày 15/2/1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên tỉnh Nam Định. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (tục gọi là làng Và), xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Lục Bình, tỉnh Hà Nam.
Cuộc đời của Nguyễn Khuyến có nhiều biến cố khi làm quan dưới triều Nguyễn đang suy sụp nên ước mơ chính trị của ông không thành công. Tuy nhiên, ông nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực, phẩm chất trong sạch. Nguyễn Khuyến còn là văn lớn, giàu cảm xúc với thiên nhiên nên thơ văn của ông rất phong phú từ những tác phẩm trữ tình tới thơ ca trào phúng, văn tế, điếu.
Nguyễn Khuyến nổi tiếng là người thông minh, học giỏi. Thuở nhỏ, Nguyễn Khuyến học với cha mình cho đến năm 8 tuổi ông theo gia đình về quê nội ở Lục Bình để sinh sống. Ông theo học ở trường Hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Với sự siêng năng, cần cù và ý chí cầu tiến, năm 1864 ông thi đỗ đầu cử nhân trường Hà Nội.
Năm 1865, ông thi trượt kỳ thi Hội nên ở lại Hà Nội học trường Quốc Tử Giám và đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa.
Năm 1871, Nguyễn Khuyến Thi đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên. Kể từ đó, ông được mọi người gọi là “Tam Nguyên Yên Đổ”.
Năm 1873, Nguyễn Khuyến được bổ nhiệm làm Đốc Học rồi được thăng chức lên làm Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa.
Năm 1877, ông thăng chức Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi.
Sang năm sau, Nguyễn Khuyến bị giáng chức và điều về Huế giữ chức quan nhỏ với nhiệm vụ tỏa tu Quốc Sử Quán.
Mùa thu năm 1884, Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ.
Nguyễn Khuyến ra làm quan giữa lúc nước mất nhà tan, cơ đồ nhà Nguyễn gần như sụp đổ hoàn toàn nên ước mơ trị quốc thiên hạ của ông không thể thực hiện được.
Lúc này, Nam Kỳ rơi vào tay Pháp. Năm 1882, quân Pháp bắt đầu đánh ra Hà Nội. Năm 1885, tấn công kinh thành Huế. Kinh thành thất thủ, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, nhân dân hưởng ứng khắp nơi. Nhưng cuối cùng phong trào Cần Vương thất bại.
Nguyễn Khuyến là vị có phẩm chất tốt đẹp, trong sạch, thanh liêm, chính trực. Có rất nhiều giai thoại kể về cuộc đời và sự gắn bó của ông với nhân dân. Nguyễn Khuyến còn được biết tới là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống, gắn bó với thiên nhiên.
Nhà thơ Nguyễn Khuyến mất ngày 05/02/1909, hưởng thọ 75 tuổi.
Phong cách sáng tác của ông chia làm các mảng sau:
Tâm sự yêu nước, u hoài trước sự thay đổi cuộc đời
Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam khiến cho xã hội có nhiều biến đổi mạnh mẽ. Dưới con mắt của nhà Nho yêu nước, những biến đổi đó chủ yếu là tiêu cực. Đạo đức xã hội thay đổi khác rất nhiều so với chuẩn mực đạo đức phong kiến. Giống như nhiều nhà nho khác, Nguyễn Khuyến cảm thấy đau xót trước hiện thực này, ông sáng tác nhiều bài thơ thể hiện nỗi niềm u hoài của mình về vận mệnh dân tộc.
Thơ về làng cảnh Việt Nam
Nguyễn Khuyến được coi là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam, ông rất thành ông ở đề tài làng quê. Trong đó nổi tiếng nhất là chùm thơ thu. Để tránh khỏi sự bon chen chốn quan trường, ông đã lui về quê dạy học, làm thơ. Không khí thanh bình nơi thôn xóm đã khơi nguồn cảm hứng để ông sáng tác, gửi gắm tâm sự. Bức tranh làng quê trong ông luôn đẹp - vẻ đẹp của sự bình yên, thanh sang nhưng buồn và cô đơn.
Thơ trào phúng
Thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến mang giọng điệu thâm thúy với nội dung trào phúng sâu cay. Ông phê phán những biểu hiện suy đồi của đạo đức xã hội nhất là chuyện khoa cử, quan tước. Với tâm trạng của nhà nho bất lực trước thời cuộc, ông viết thơ tự trào để vừa trách mình vừa bộc bạch tâm sự về thế cuộc.
Cả 3 mảng sáng tác trên, Nguyễn Khuyến để lại nhiều tác phẩm có giá trị cả về nội dung và nghệ thuật.
Nhắc tới nghệ thuật ngôn từ thì không một ai có thể vượt qua được Nguyễn Khuyến. Với lối sáng tạo đầy màu sắc, ngôn ngữ mà ông miêu tả qua những dòng thơ đầy mỹ lệ, gợi cảm. Cùng với đó là tinh thần học hỏi, ông luôn tìm hiểu, học tập những nhà thơ Nôm đi trước để “cải tạo” thơ văn của mình phong phú hơn.
Nguyễn Khuyến rất biết cách dùng từ, tả cảnh thích hợp, giàu nhạc điệu giúp câu văn, câu thơ trở nên chân thực. Chẳng hạn như bài thơ Thu điếu, Nguyễn Khuyến dùng câu “ao thu lạnh lẽo nước trong veo/tựa gối ôm cằm lâu chẳng được/ cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Những hình ảnh được dựng lên một cách chân thực, cách gợi tả đi vào lòng người.
Ngôn ngữ trào phúng nhiều cung bậc, hóm hỉnh, cường điệu với lối chơi chữ tài tình, điêu luyện.
Nguyễn Khuyến là bậc thầy của làng thơ Việt Nam thông qua cách thể hiện tình cảm qua hình ảnh chân thật, thôn quê đầy sự yêu thương. Cùng với đó là ngôn ngữ nhẹ nhàng, đi sát với đời sống người dân lao động giúp ông thành công trong việc chuyển sự tinh tế của đời thường thành câu thơ gần gũi, đi vào lòng người.
Điểm nổi bật trong nghệ thuật thơ của Nguyễn Khuyến là ông đã “đưa tiếng nói sinh hoạt dân dã, bình dị vào thơ một cách tinh tế, sâu sắc, nhiều khi hóm hỉnh, tự nhiên mà thành thơ”. Dù viết thể thơ cổ điển nhưng ông vẫn luôn thỏa mái, không gò bó; vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật của thơ ca dân gian và ngôn từ giàu chất tạo hình. Nguyễn Khuyến đã đưa thơ Nôm, ngôn ngữ thơ đến trình độ mới, tinh tế và hiện đại hơn.
Phần lớn những tác phẩm xuất sắc của ông đều được sáng tác trong thời kỳ ông cáo quan về ở ẩn. Các tác phẩm tiêu biểu gồm có: Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ, cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.
Quế Sơn thi tập gồm khoảng 200 bài thơ bằng chữ Hán và 100 bài thơ bằng chữ Nôm với nhiều thể loại khác nhau. Có bài ông viết bằng chữ Hán rồi dịch ra tiếng Việt hoặc viết bằng tiếng Việt rồi dịch sang chữ Hán.
Trong thơ Nôm, Nguyễn Khuyến vừa là nhà thơ trào phúng vừa là nhà thơ trữ tình, nhuộm đậm tư tưởng Lão Trang và triết lý Đông Phương. Thơ chữ Hán của ông hầu hết là thơ trữ tình. Có thể thấy, Nguyễn Khuyến thành công ở nhiều lĩnh vực khác nhau.
Phân tích Nguyễn Khuyến - mẫu 6
Nguyễn Khuyến sinh ngày 15 – 2 – 1835, tại thôn Vân Khê, làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tĩnh Nam Định, trưởng thành và sống chủ yếu ở quê cha, làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Biệt hiệu của nhà thơ là Quế Sơn. Năm 1852, mới 17 tuổi đã đi thi Hương cùng với cha. Năm đó, người cha, thầy đồ Nguyễn Khải, giật được tú tài, còn Nguyễn Khuyến chưa được gì. Năm sau, ông lấy vợ, một phụ nữ hiền hậu, suốt đời tần tảo, nuôi chồng nuôi con. Khi thân sinh mất, gia đình thêm nghèo túng, Nguyễn Khuyến phải đi đánh cá, nhưng không bỏ việc sách đèn, Đến lúc gia đình nghèo khó quá, ông mới bỏ học, nối nghiệp cha đi dạy kiếm ăn và nuôi mẹ. Ông nghè Vũ Văn Lý thấy vậy bèn gọi về cho ăn học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến thi Hương, đỗ Giải nguyên (đỗ đầu). Năm sau, thi Hội ở kinh đô, không đỗ, bèn ở lại học, chờ khoa thi sau.
Năm 1871, nhà thơ đỗ Hội nguyên, rồi thi Đình, đỗ Đình nguyên (tức Trạng nguyên, thời nhà Nguyễn không lấy Trạng nguyên). Do đỗ đầu cả ba kì thi nên người đời gọi ông là Tam nguyên Yên Đổ và nhà thơ rất tự hào về điều đó.
Sau khi thi đỗ, Nguyễn Khuyến ra làm quan, từng giữ chức: Đốc học Thanh Hóa, Án sát Nghệ An, Bố chánh Quảng Ngãi… Năm 1883, ông được cử làm Tổng đốc Sơn Tây, nhưng lại cáo quan về lại quê nhà. Với những thành đạt rực rỡ về khoa bảng, lại được tin dùng, song Nguyễn Khuyến chỉ làm quan có 12 năm. Lúc về với “Vườn Bùi, chốn cũ”, nhà thơ mới 50 tuổi. Khi ấy, ông viết lời khuyên con cháu:
Đề vào mấy chữ trong bia,
Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu.
Tuy cáo quan về quê, nhưng mắt ông vẫn chứng kiến bao nhiêu cảnh trái ngang đang diễn ra. Nhà thơ luôn bồi hồi thổn thức khi nghe từng tin thất trận của nghĩa quân, nhức nhối với bao nỗi đau của dân lành. Ông nói tất cả những điều đó trong thơ, khi bằng một bút pháp châm biếm, mỉa mai sắc sảo, khi trữ tình với nhiều dằn vặt, thao thức.
Sau này, Xuân Diệu tôn Nguyễn Khuyến là “nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam”, “nhà thơ của dân tình” quả không có gì quá đáng. Nhưng chỗ đứng xứng đáng nhất của Nguyễn Khuyến trong lịch sử văn học dân tộc là nhà thơ trào phúng xuất sắc. Vốn học vấn uyên bác, tài thơ mang tính bẩm sinh, ngôn ngữ bình dân, giàu hình ảnh… đã tạo cho thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến trở nên độc đáo ở sự sâu sắc của trí tuệ, súc tích, sinh động của cuộc sống.
Nguyễn Khuyến làm thơ khá nhiều, nhất là thời gian ở ẩn, hiện còn khoảng 200 bài thơ chữ Hán và 100 bài thơ Nôm, tập hợp trong Quế Sơn thi tập. Nhà thơ mất ngày 5 – 2 – 1909 tại thôn Vị Hạ, xã Yên Đổ.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Phân tích nhan đề Lặng lẽ Sa Pa
- Phân tích nhân vật chị Thao
- Phân tích nhân vật cụ Tứ
- Phân tích nhân vật dế mèn phiêu lưu ký
- Phân tích nhân vật Giôn xi
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

