10+ Phân tích nhân vật cụ Tứ (điểm cao)
Phân tích nhân vật cụ Tứ điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
10+ Phân tích nhân vật cụ Tứ (điểm cao)
Dàn ý Phân tích nhân vật cụ Tứ
a) Mở bài:
Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, viết về cuộc sống ngột ngạt của nhân dân ta mà tiêu biểu là gia đình bà cụ Tứ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ngòi bút nhân đạo của Kim Lân vừa thể hiện ở sự phát hiện khẳng định vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau cái bề ngoài xác xơ vì đói khổ của nhân vật.
Trong ba nhân vật của truyện (bà cụ Tứ, Tràng và người đàn bà vợ Tràng), cụ Tứ, mẹ Tràng, là nhân vật có tâm trạng phức tạp mà nhân hậu vô cùng di thể hiện nổi bật nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động trong tác phẩm. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã diễn tả rất thành công trạng thái tâm lí đó
b) Thân bài:
* Sự ngạc nhiên đến sững sờ
Tình huống đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy là việc con trai mình lấy vợ. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, dân ngụ cư lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong. Tràng còn dám lấy vợ, rước thêm miệng ăn. Khi bà cụ đi làm về muộn, thấy người đàn bà ngồi ở đầu giường con mình rất ngạc nhiên, càng ngạc nhiên hơn khi được người đàn bà chào bằng u và được Tràng giới thiệu: “Kìa nhà tôi nó chào u”..”Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ”. Bà ngạc nhiên đến mức không còn tin được vào mắt và tai mình : “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhòe thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu”.
* Vừa mừng vừa tủi
- Khi đã vỡ lẽ, đã hiểu ra con mình “nhặt” được vợ, bà “cúi đầu nín lặng”. Bà liên tưởng đến bao cơ sự “ai oán” “xót thương” cho số kiếp của đứa con mình. Bà liên tưởng đến người chồng quá cố, đến đứa con gái đã qua đời, lòng bà trĩu nặng tủi buồn, xót xa.
- Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi vợ cho con. Giờ đây giữa lúc người chết đói “như ngả rạ" lại có người theo con trai bà về làm vợ. Cái tủi, cái buồn của người mẹ bị dồn vào cảnh nghèo cùng quẫn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, đế trình làng khi con đã có vợ. Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc vì thương con dâu không biết làm sao vượt qua nỗi khó khăn này.
“Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá!...” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bao nhiêu tình yêu thương chân thành tha thiết của người mẹ thể hiện trong những lời giản dị mộc mạc ấy.
- Bà cụ xót xa thương dâu, thương con, tủi phận mình: “bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Bao nhiêu lo lắng ngổn ngang trong lòng.
* Nỗi lo
Bà cụ Tứ lo lắng thực sự cho con trai, con dâu, lo cho cái gia đình nghèo túng của bà giữa lúc đói kém này liệu có nuôi nổi nhau? Tương lai rồi sẽ ra sao. Bà chấp nhận cái “hạnh phúc” éo le của gia đình. Ngẫm cái phận nghèo bà tự nhủ: “Có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được..”. Bà chỉ biết khuyên con, khuyên dâu thương yêu nhau, ăn ở hòa thuận với nhau để cùng vượt qua cơn khốn khó. Đó là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng sâu thẳm đối với mình. Trong sự lo lắng tủi hờn vẫn nhen nhóm một niềm tin.
* Niềm tin
- Trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui của cụ. Một niềm vui tội nghiệp không sao cất cánh lên được, cứ bị cái buồn, cái lo níu kéo xuống. Nhưng bà cụ Tứ cố vui và gắng làm cho con, cho dâu vui.
+ Vui trong ý nghĩ tốt đẹp về tương lai: “Rồi ra may mà ông giời cho khá…” ai giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau. Bà cụ “nói toàn: chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này".
+ Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa. Bà cụ giẫy cỏ cho sạch vườn. “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, quét tước nhà cửa”.
+ Vui trong bữa cơm sáng, bữa cơm đầu liên có con dâu đó là một bữa “tiệc với món cháo loãng và món “chè khoái” đắng chát - một bữa ăn ngày đói rất thảm hại nhưng bà cụ cố tạo ra niềm vui để động viên an ủi con trai, con dâu.
- Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt đến tàn bạo đã đầy đọa mẹ con bà. Bà vẫn cố tạo không khí hòa thuận ấm cúng trong gia đình và kể chuyện làm ăn, nuôi gà tươi cười đon đả múc cho con dâu những bát cháo cám.
Tuy nhiên cái vui ấy, dù là rất nhỏ bé mà vẫn mong manh, vẫn chìm đi trong cái tăm tối hiện tại: Tiếng khóc, mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết đói. Bà cụ nghĩ đến ông lão, đến đứa con út, đến cuộc đời cực khổ dài dặc dặc của mình, đến cái “đói to” trước mắt. Bà cụ phấp phỏng nghĩ về con trai, về con dâu.
Nhân vật bà cụ Tứ mang nét đạo lí truyền thống:
Trong cái thân hình khẳng khiu, tàn tạ, với “cái mặt bủng beo, u tối” '"bà vẫn nung nấu một ý chí sống mãnh liệt. Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, hiểu biết: hết lòng thương yêu con, yêu thương những cảnh đời tội nghiệp, oái oăm. Bà nung nấu một khái vọng về cuộc sống gia đình hạnh phúc.
c) Kết bài:
Qua nhân vật bà cụ Tứ, với những diễn biến tâm trạng phức tạp - dưới ngòi bút nhân đạo của Kim Lân - nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động của “Vợ nhặt” đã động chạm đến nơi sâu thẳm nhất của lòng người, bắt độc giả phải khóc, phải cười, phải sống cùng nhân vật của mình.
Phân tích nhân vật cụ Tứ - mẫu 1
Kim Lân thuộc hàng những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam. Những tác phẩm của ông thường viết về nông thôn và những con người quê lam lũ, hồn hậu, chất phác, giàu tình yêu thương. Vợ nhặt là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã khắc hoạ tình cảnh thê thảm của nhân dân ta trong nạn đói 1945 đồng thời khẳng định, ca ngợi tình yêu thương, đùm bọc, khát khao hạnh phúc, hướng tới tương lai của những người lao động. Trong đó nổi bật là nhân vật bà cụ Tứ được nhà văn khắc hoạ sinh động, tinh tế, bà hiện lên với hình ảnh một người mẹ nghèo khổ, trải đời, giàu tình yêu thương và có nội tâm phong phú, phức tạp.
Nếu ai đã từng đọc qua giọng văn Ngô Tất Tố, Nam Cao, chúng ta sẽ thấy đồng cảm với cuộc sống cơ cực của những người dân lao động. Họ bị bần cùng và bức bách khiến họ bị tha hoá về nhân phẩm. Nhưng có những con người trong nỗi cơ cực ấy vẫn liều lĩnh chấp nhận thêm những khốn khổ cùng cực, vì tình yêu, tình người, lòng nhan hậu. Đó là chị Dậu, là cụ Tứ, là anh cu Tràng.
Trong những tháng ngày u ám vì nạn đói, cái chết có thể rơi xuống bất kì ai thì anh cu Tràng lại làm một việc tưởng như bị "điên" đó là lấy vợ, tuy nhiên chỉ có mẹ anh- bà cụ Tứ mới là người thấm thía hết cơ sự.
Bà cụ Tứ là mẹ anh cu Tràng. Hình ảnh bà được khắc hoạ trong tác phẩm đó là trong bóng hoàng hôn chiều, người mẹ nghèo khổ "húng hắng ho". Trước mái tranh nghèo trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, người mẹ nghèo lại càng thêm cơ cực.
Vốn dĩ việc làm nhà, cưới vợ là một chuyện hệ trọng trong cuộc đời mỗi con người, cần có sự đóng góp ý kiến của cha mẹ - những người đi trước. Thế nhưng sự kiện Tràng lấy vợ lại đi ngược lại với những lẽ hiển nhiên đó, việc Tràng lấy vợ được thông báo đột ngột khiến bà cụ Tứ ngạc nhiên, ban đầu chỉ là sự thắc mắc thái độ sốt sắng của thằng con trai, bà cụ Tứ hấp háy hai con mắt nhìn Tràng chậm chạp hỏi: Có việc gì thế vậy? Khi Tràng vẫn thong thả chưa trình bày câu chuyện, bà cụ phấp phỏng bước theo con vào nhà. Kim Lân đã rất khéo léo khi dùng hai từ "phấp phỏng" để diễn tả sự lo lắng và sự nhẫn nại chờ đợi của bà cụ. Hành động "đứng sững lại" thể hiện sự ngạc nhiên đã lên cao trào, nhà văn đã thấu suốt những nỗi băn khoăn của nhân vật, rất nhiều câu hỏi đang xoay quanh bà: Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà ai thế nhỉ? Những câu hỏi cứ dồn dập được đặt ra mà không có câu trả lời. Mọi thắc mắc xoay quanh sự xuất hiện của người đàn bà trong ngôi nhà vốn dĩ chỉ có hai mẹ con bà sống. Đáng thương hơn bà cụ lại tưởng mình nhầm lẫn: bà cụ hấp háy mắt cho đỡ cay, nỗi băn khoăn của bà vẫn không được giải bày, bà lão quay sang nhìn con ra chiều không hiểu. Điều này thật dễ hiểu, trong sự việc này bà cụ hoàn toàn bị động, mọi việc đã rồi mà bà không hay biết điều gì cả.
Khi con trai bà vẫn trì hoãn bí mật, mời mẹ vào nhà ngồi, bà cụ "lập cập" bước vào nhà. "Lập cập" là sự run rẩy của người già hay là sự thấp thỏm, lo sợ những điều không hay xảy đến. Với một người mẹ cả đời lam lũ này còn gì khủng khiếp sẽ xảy đến với bà nữa đây. Kim Lân đã khơi dậy lên trong lòng người đọc một sự cảm thương sâu sắc với hai từ "lập cập".
Có lẽ bà cụ Tứ không nghĩ được rằng người đàn bà đang ngồi kia chính là vợ của con trai, là con dâu của bà. Có lẽ cảm thấy sốt ruột trước thái độ của bà cụ mà Tràng phải lên tiếng: "kìa nhà tôi nó chào u". Vậy mà bà cụ vẫn không hiểu được đầu đuôi câu chuyện, làm sao một người mẹ nghèo khốn khổ ấy có thể tin rằng con trai mình có vợ. Bà cũng hiểu rõ hoàn cảnh đáng thương của con trai mình, vừa nghèo, vừa xấu, vừa cục mịch, làm gì có ai để ý tới chứ đừng nói lấy vợ, trong giai đoạn nghèo khó "ốc chẳng mang nổi mình ốc mà còn mang cọc cho rêu" ai có thể nghĩ tới chuyện cưới xin được. Nỗi băn khoăn của bà cụ từ đầu tới giờ mới được gỡ khi Tràng dõng dạc vắn tắt trình bày cơ sự :" nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau. Chẳng qua nó cũng là cái số cả. Và thế là bà cụ cúi đầu nín lặng. Không phải là im lặng mà là im lặng nín nhịn không thể nói được điều gì. Lúc này bà đã hiểu hết sự tình. Nhà văn Kim Lân đồng cảm với những suy tư, những tủi hờn xót xa trong lòng bà cụ: "lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót thương cho số kiếp đứa con của mình. Những nỗi ai oán, xót thương, những thổn thức trong lòng bà chỉ nhà văn Kim Lân mới hiểu được. Thì ra suy nghĩ của bà cụ không đơn giản như chúng ta nghĩ, cái nghèo đói không làm bà cụ chấp nhận cuộc sống buông tuồng, bà đau đá trong lòng vì không thể hoàn thành trách nhiệm của người mẹ đó là chăm lo cho hạnh phúc của con trai mình một cách chu đáo. "Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này". Còn bản thân cụ Tứ, khi đứa con độc nhất của mình cưới vợ là những lời tự trách, là tiếng khóc nghẹn ngào của người mẹ nghèo khổ. Tuổi già hạt lệ như sương, nhưng trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ vẫn rỉ xuống hai dòng nước mắt. Đó là những giọt nước mắt tủi phận cùng cực, đó là những giọt nước mắt xót thương cho sự khốn khó của chính mình. Đó đồng thời cũng chính là giọt nước mắt của lòng tự trọng, những giọt nước mắt giữ nhân cách của con người, những giọt nước mắt ấy là minh chứng thể hiện tình yêu của mẹ đối với các con.
Bà cụ Tứ hết sức lo lắng cho cuộc sống của các con. Chỉ một câu đáp: Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Băn khoăn ấy có cơ sở cả, xóm ngụ cư của cụ đang sống trong những tháng ngày lầm than do cơn đói hoành hành, việc giữ cho mình được mạng sống còn khó huống chi cu Tràng còn đèo bòng. Ở cái tuổi gần đất xa trời, đáng lẽ bà đã được nghỉ ngơi, nhưng vì cái nghèo đói, khổ cực mà trong lòng bà vẫn đau đáu một nỗi niềm lo lắng cho các con.
Hình ảnh bà cụ Tứ chỉ xuất hiện nửa sau tác phẩm, có thể người ta sẽ nghĩ bà cụ xuất hiện với dáng vẻ cay nghiệt thường thấy ở các bà mẹ chồng, nhưng cụ xuất hiện với sự nhã nhặn trong cách cư xử đặc biệt là chuỗi diễn biến tâm trạng nhân vật khắc hoạ nhân cách cao đẹp của người phụ nữ. Trước mắt chúng ta đó là hình ảnh một người mẹ thương con vô bờ bến, những nỗi lo, những suy nghĩ trong lòng cụ được nhà văn ghi lại một cách chân thật, xúc động.
Qua hình tượng nhân vật bà cụ Tứ với biết bao tâm trạng xen lẫn với các tình huống con trai "nhặt được vợ", nhà văn Kim Lân đã làm nổi bật lên tấm lòng của người mẹ nghèo khổ nhưng giàu lòng vị tha, nhân hậu. Với những tình cảm mà bà cụ đã dành cho con trai và con dâu, chúng ta càng thấu hiểu hơn về tấm lòng của người mẹ và cũng chính điều đặc biệt này khiến nhân vật bà cụ Tứ hiện lên chân thật và cảm động hơn đối với người đọc. Hình ảnh người mẹ với tình yêu thương con ấy, như một ngọn nến thắp sáng cuộc đời tối tăm của những kiếp người nghèo khổ bị cùng cực.
Phân tích nhân vật cụ Tứ - mẫu 2
Có một lí do khiến người đọc cảm thấy ấn tượng khi đọc các tác phẩm của Ngô Tất Tố, Nam Cao, Kim Lân...bởi họ viết hay, viết thật. Mỗi khi đọc một trang văn, ta lại như sống cùng nhân vật đi qua những niềm vui, niềm hạnh phúc và cả nỗi đau đáu, bi ai. Đọc truyện ngắn "vợ nhặt" của Kim Lân, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên như một điển hình về người đàn bà tuy sống trong cảnh nghèo khổ đến cùng cực những tình yêu thương con vô bờ bến.
Truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối với nạn đói khủng khiếp năm 1945. Kim Lân không tập trung miêu tả kĩ hiện thực tàn khốc của nạn đói mà miêu tả vẻ đẹp tinh thần giấu sau vẻ bề ngoài xơ xác vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong hoàn cảnh ấy họ vẫn nhen nhúm niềm tin và hi vọng vào một tương lai tươi đẹp.
Hình ảnh bà cụ Tứ xuất hiện ở giữa tác phẩm, tuy nhiên bà cụ đã trở thành nhân vật trung tâm của tác phẩm. Dưới ngòi bút của Kim Lân, hình ảnh bà cụ Tứ hiện lên là một bà mẹ có số phận bất hạnh vì goá chồng, mất đứa con gái, chỉ còn một đứa con trai làm nghề kéo xe bò và cũng không được nhanh nhẹn như người ta. Có lẽ rằng tất cả những nỗi đau đã đè lên vai người phụ nữ đáng thương ấy. Hai mẹ con sống trong một căn nhà tồi tàn , rúm ró ở xóm ngụ cư và con trai bà có nguy cơ không có vợ. Chân dung nhân vật bà cụ Tứ được tác giả giới thiệu dần dần qua diễn biến câu chuyện. Bắt đầu là "tiếng cười húng hắng ho", một bà lão với cái dáng "lọng khọng" từ đầu ngõ "vừa đi vừa lầm bẩm tính toán trong miệng". Tính từ "lọng khọng" rất dân dã và giàu chất tạo hình giúp người đọc hình dung cái dáng gầy gò, xiêu vẹo của bà mẹ già bởi gánh nặng cuộc đời, bởi cái nghèo khổ. Chính cái nghèo khó cũng làm khuôn mặt bà một nét "bủng beo u ám". Qua miêu tả ngoại hình bà cụ Tứ, chúng ta thấy được đó là người mẹ có cuộc đời khổ cực, bất hạnh.
Buổi chiều bà cụ Tứ mang một tâm trạng ngạc nhiên khi từ ngõ đi vào, thấy thái độ khác thường của Tràng "reo lên như một đứa trẻ" và "lật đật chạy ra đón mình" thì bà lão theo con vào trong nhà với tâm trạng "phấp phỏng". Đó chính là biểu hiện của sự lo lắng, sự hồi hộp bởi bà không biết có sự gì sẽ đón mình trong nhà. Khi tới giữa sân, nhìn thấy một người đàn bà trong căn nhà vốn xưa nay chỉ có hai mẹ con, bà ngạc nhiên "đứng sững lại". Tác giả đã khéo léo sử dụng độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng băn khoăn, thắc mắc của bà cụ lúc này. Hàng loạt những câu hỏi được đặt ra trong đầu bà "quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? sao lại chào mình bằng u? không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?" Một loạt các câu hỏi cứ liên tiếp được đặt ra trong đầu bà cụ, nhưng bà cụ vẫn không tìm được câu trả lời, vì vậy bà đổ lỗi cho cặp mắt của mình, bà không tin vào mắt mình "bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải". Bà lão "nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào" nên bà quay sang hỏi con trai với sự ngạc nhiên không hiểu của chính mình.
Khi người đàn bà lạ mặt ấy trông thấy bà cụ về, cất tiếng chào "U đã về ạ", ngay cả tiếng chào thân thiết ấy cũng không làm bà cụ hiểu ra. "Ô hay, thế là thế nào nhỉ?" rồi bà lão "băn khoăn ngồi xuống giường". Mãi tới khi Tràng vừa giới thiệu, vừa giải thích "đây là nhà tôi", "chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau", "chẳng qua nó cũng là cái số cả". Lúc này bà lão mới bắt đầu hiểu ra và "cúi đầu nìn lặng", cái tư thế ấy ẩn chứa bao suy nghĩ, tâm sự, nỗi niểm mà không thể diễn đạt thành lời. Lúc này người đọc như hiểu được nội tâm bên trong cái vẻ tưởng chứng như già nua, cũ kĩ của bà. Bà đã hiểu ra con bà đã có vợ, bà hiểu ra những khó khăn, nghèo đói mà Tràng phải chịu đựng, rồi bà lại hiểu ra chính số phận bất hạnh của đờ bà khiến con bà rơi vào hoàn cảnh như hiện tại. Bà "xót thương cho số kiếp đứa con mình", sự ai oán đó vừa hướng tới chính bản thân bà, vừa hướng tới con bà, đó là một cảm xúc vừa tội nghiệp, vừa nhân hậu biết bao.
Cảm xúc trong bà càng cụ thể "chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì..." Đọc câu văn này, chúng ta có cảm giác như trái tim người mẹ khốn khổ đang rung lên đau đớn, xót xa. Cảm xúc của người mẹ già chất chứa sự so sáng con người và con mình trong hoàn cảnh dựng vợ gả chồng. Sự so sánh ấy không chỉ làm nổi bật sự thiếu thốn, khó khăn trong gia đình mà còn là lời tự trách bản thân, sự day dứt trong lòng bà, điều đó thể hiện lòng nhân ái thương con tha thiết.
Cảm xúc xót thương của bà còn thể hiện qua sự lo lắng "biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không". Có lẽ vừa tủi phận mình, vừa thương con khiến cho "trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hau dòng nước mắt". Bà cố kìm nén xúc động, cố nuốt những giọt nước mắt mặn đắng vào trong lòng vốn đã chất chứa đầy sự đau khổ,tủi nhục. Những giọt nước mắt cứ lặng lẽ rỉ ra từ đôi mắt khô cằn ấy.
Diễn biến câu chuyện được đẩy lên đỉnh điểm, cả ba nhân vật được Kim Lân khắc hoạ đều có tâm trạng căng thẳng, Tràng và người "vợ nhặt" hồi hộp chờ đợi người mẹ lên tiếng, như hiểu ra câu chuyện, sự đau buồn khiến cho bà lão khẽ "thở dài", bà muốn giấu đi nỗi buồn, nỗi đau đáu trong lòng để hướng tới người đàn bà lạ ấy. Bà "đăm đăm nhìn người đàn bà" khi thị "cúi mặt xuống tay vân vê tà áo đã rách bợt". Bà lão không chỉ nhìn người con dâu bằng mắt mà bằng cả tấm lòng của bà. Bà nghĩ "người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được..." Trong suy nghĩ của người mẹ ấy, Thị chính là người mang ơn và con tra bà chính là người chịu ơn. Điều đó chứng tỏ bà không hề coi thường khinh bỉ người vợ nhặt mà còn cảm thông trân trọng dù cho Thị có là người đàn bà rách rưới, nghèo đói và không gia đình. Bà lão lại tiếp tục day dứt "chẳng lo lắng được cho con..." Bà phó thác, chông chờ vào sự may rủi "may ra mà qua khỏi được cái đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ông giời bắt chết cũng phả chịu chứ biết làm thế nào lo cho hết được. Hoàn cảnh thật bi đát khốn cùng, mặc dù lo lắng, đau buồn những người mẹ già đã ấm thầm chấp nhận nàng dâu mới. Sau khi "khẽ dặng hắng một tiếng", bà lão "nhẹ nhàng" nói "Ừ thì thôi các con phảu duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...". Hai tiếng "mừng lòng" mà bà lão nói với các con thật chân thật, chất phác, chân tình biết bao, lời nói ấy thật xúc động đối với người "vợ nhặt" đáng thương kia.
Bà mẹ nghèo khổ nhân hậu thấu hiểu hoàn cảnh và tâm trạng của người phụ nữ xa lạ bất đắc dĩ trở thành con dâu của mình. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm diễn tả tâm trạng phức tạp của nhân vật bà cụ Tứ. Cảm xúc như những đợt sóng cuộn lên trong lòng người mẹ nghèo khổ, những cảm xúc ấy khiến người đọc xót xa với tình thương con, ý thức trách nhiệm của người mẹ khiến cho bà con phải lo cưới vợ cho con bằng tất cả khả năng.
Bà cụ tâm sự, dặn dò các con mình "nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá....biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau". Trong lời tâm sự của bà có những lời thành thật "nhà ta thì nghèo", vì vậy bà nhắc nhở các con của mình bảo ban nhau làm ăn, lời động viên của bà thể hiện sự lạc quan vào tương lai tươi sáng của các con bà cũng như cuộc đời bà, từ nay trong nhà đã có nàng dâu mới, chia sẻ gánh nặng với bà, đó là lời động viên đáng quý giúp các con bà vượt qua giai đoạn khó khăn.
Tâm trạng của bà buồn vui xen lẫn, bà vẫn đau đáu cái nghèo đeo bám "đăm đăm nhìn ra ngoài . Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mòi đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài", cái thở dài ấy là sự bất lực về thân phận của bà, trong kí ức đau buồn của bà "nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình". Tất cả như một cuốn phim tấn bi kịch cuộc đời bà, bà lo sợ tương lai của các con có giống như cuộc đời bà "vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?". Dù tâm trạng đầy bất an, nhưng bà vẫn niềm nở đối với người con dâu của mình "con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân", câu nói ấy đã rút ngắn khoảng cách giữa mẹ chồng- nàng dâu, an ủi nàng dâu mới. Lời nói của bà là sự thương xót với con dâu mình "bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ đã là con dâu trong nhà rồi". Bằng những lời nói thân mật, bà tâm sự "kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi lúc này. Cốt làm sao chúng mày hoà thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...".Bà cụ hiểu rằng khi cưới xin cho con cần phải làm vài ba mâm cỗ trước hết là báo cáo với ông bà tổ tiên, sau là ra mắt bà con xóm làng, bà cũng hiểu trong hoàn cảnh đói kém này chẳng ai chấp nhặt, tính toán. Nói tới đây bà cụ "nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy ròng ròng, những giọt nước mắt ấy là tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo.
Nếu như chiều hôm trước tâm trạng cả bà cụ hỗn độn xen lẫn lo âu thì sáng hôm sau tâm trạng bà tràn ngập niềm vui. Niềm vui ấy được thể hiện trên khuôn mặt của người mẹ rõ ràng "bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên", "xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa" với ý nghĩ "thu xếp nhà cửa cho quang quẻ, nền nếp thì cuộc đời họ có thể khác đi, làm ăn có cơ khấm khá hơn". Bà vui mừng vì con trai bà đã yên bề gia thất, gia đình bà có thêm thành viên mới. Bữa ăn đầu tiên khi nhà có dâu mới chỉ vỏn vẹn "rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo" nhưng "toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này". Những câu chuyện ấy không có chuyện quá khứ mà chỉ có những câu chuyện về tương lai tốt đẹp sau này, câu chuyện thật giản dị "Tràng ạ, khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà con mà xem..." Chính câu chuyện đó đã làm cho không khí đầm ấm hơn, nhưng cái nghèo thì vẫn đeo bám họ "câu chuyện trong bữa ăn bỗng ngừng lại. Liêu cháo lõng bõng mỗi người được có lưng hai bát đã hết nhẵn". Thế nhưng bà lão "lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi khói bốc lên nghi ngút" bà lão với giọng dí dỏm "chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Bà lão muốn xua đi không khí ảm đạm, lạc quan giữa tình cảnh khốn khó, nhưng bên trong tâm hồn người mẹ ấy, là những nỗi lo âu. Món ăn đặc biệt ngày đón nàng dâu là "chè khoán" và khẳng định "xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy". Chi tiết này khiến người đọc cảm nhận được tình thương, tấm lòng đáng quý của bà, kết đoạn là giọt nước mắt của người mẹ già, nhưng "không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc".
Nhà văn Kim Lân đã diễn tả sâu sắc và tinh tế tâm lí bà cụ Tứ, một người mẹ nghèo khổ nhưng tình yêu con vô bờ bến. Bà cố gắng xua đi cái ám ảnh đen tối của hiện tại cũng như cuộc đời bà mà hướng tới tương lai tươi sáng của các con. Trong văn học Việt Nam hình ảnh người mẹ luôn hiện lên với lòng bao dung, vị tha giàu đức hi sinh. Qua truyện ngắn "Vợ nhặt" nhà văn đã tạo dựng lên một hình ảnh về người mẹ nghèo khổ, hết lòng vì con, với ngòi bút tinh tế đã lột tả được diễn biến tâm lí của bà cụ qua từng lời nói, suy nghĩ, hành động. Phải là người có tấm lòng nhân hậu, sự thấu đời mới có cái nhìn chân thực như thế.
"Vợ nhặt" không chỉ đơn giản là những trang văn mà chính là những mảnh đời khổ cực, nghèo khổ. Nhưng trong cái nghèo khổ ấy, họ vẫn toát lên nhân cách cao quý. Hình ảnh bà cụ Tứ khiến chúng ta cảm động sâu sắc trước tấm chân tình tha thiết của người mẹ già, bà chính là ánh sáng trong đường hầm tố tăm của những kiếp người nghèo khổ. Nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm làm cho giá trị nhân đạo của tác phẩm trở lên cảm động, đọng lại trong lòng người đọc những suy nghĩ và rung động.
Phân tích nhân vật cụ Tứ - mẫu 3
Kim Lân không sáng tác nhiều, thế nhưng hầu hết các tác phẩm của ông đều để lại tiếng vang, đưa ông trở thành một trong mười nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện thực trước cách mạng. Với cuộc đời gắn bó với làng quê, tấm lòng thấu hiểu sâu sắc về cuộc đời của những người nông dân lầm lũi, Kim Lân đã tạo dựng nên bức tranh hiện thực đặc sắc, chân thật về con người của thế kỷ trước, đặc biệt là trong những giai đoạn khó khăn nhất của đất nước. Tác phẩm Vợ nhặt là một trong những tác phẩm thành công và xuất sắc nhất của Kim Lân, truyện không chỉ phản ánh số phận con người, hiện thực thảm khốc trong nạn đói năm 1945 mà quan trọng hơn trong tác phẩm của mình, tác giả đi sâu vào các giá trị nhân đạo, bộc lộ những vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn người nông dân, dù thực tại có tàn khốc, bị cái đói hành hạ, cái chết luôn cận kề, nhưng ở họ ta vẫn thấy sáng lên vẻ đẹp của niềm tin, hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp, tấm lòng bao dung, thông cảm, vẻ đẹp của tình mẫu tử đong đầy. Trong tác phẩm Vợ nhặt người thể hiện rõ những vẻ đẹp này chính là nhân vật bà cụ Tứ, dù không có nhiều phân cảnh, thế nhưng bà vẫn thể hiện được những vẻ đẹp tiềm ẩn mà Kim Lân muốn truyền tải.
Bà cụ Tứ là một điển hình của người nông dân thế kỷ trước, sống một đời với những gánh nặng mưu sinh vất vả lại phải vật lộn với cái đói khủng khiếp những năm 1944-1945. Bà cụ Tứ là người đàn bà góa chồng, sống trong một căn “nhà” rách nát trong xóm Ngụ Cư. Hình ảnh bà cụ xuất hiện trong truyện cũng chỉ vỏn vẹn mấy từ, nhưng in đậm trong tâm trí người đọc bức chân dung của một người phụ nữ trải qua gần hết đời người với những nhọc nhằn, tủi khổ, đó là một bóng dáng gầy yếu, bệnh tật miệng “húng hắng ho”, dáng người “lọng khọng”, luôn “lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Nhìn vào cảnh ấy, tức thời trong trí óc người đọc đã hiện lên cái số phận khốn khổ của bà, khi mà cả đời cụ Tứ có lẽ đã chịu nhiều đau thương vất vả, hoàn cảnh neo đơn, cố sức nuôi lớn con cái, rồi đến khi đã tuổi gần đất xa trời, bà vẫn không được hưởng cuộc sống an nhàn, mà vẫn phải chịu cảnh khốn khổ, gồng mình chống chọi với cơn đói khủng khiếp.
Không chỉ vậy cả cuộc đời bà cụ Tứ vẫn luôn phải chịu những dày vò, day dứt về chuyện không thể lo nổi cho cậu con trai duy nhất một người vợ, chỉ vì bà nghèo quá. Nhưng càng trong những hoàn cảnh ngặt nghèo, khốn khó, thông qua cách miêu tả diễn biến tâm lý tinh tế từ ngòi bút Kim Lân, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ này lại càng hiện lên rõ nét, đó là vẻ đẹp thiêng liêng của tình mẫu tử, niềm hy vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn và tấm lòng bao dung, cảm thông cho những số phận bất hạnh.
Câu chuyện bắt đầu từ việc anh cu Tràng bất ngờ dẫn về một người vợ nhặt, Tràng lấy vợ ngay giữa cơn đói ngặt nghèo nhất, một đám cưới không hoa, không đèn, không có mâm bàn. Thị theo không Tràng về nhà chỉ với 4 bát bánh đúc, về ở với Tràng bằng hi vọng rằng sẽ có một cuộc sống tốt hơn, tránh khỏi cái nạn đói khủng khiếp đang bủa vây khắp xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy, khi bà cụ được con trai giới thiệu cho người con dâu mới cưới, thoạt tiên bà chẳng hiểu đầu đuôi cớ sự, sự chậm rãi của một người già cả, cùng với sự kiện lạ lùng khiến bà cụ trong tức thời không thể lý giải, lòng bà có biết nhau nhiêu cớ sự thắc mắc. Tuy nhiên bà không vội vã hỏi dồn, hay tỏ ra hoang mang, mà trái lại bà im lặng nhìn con, ra ý để con trai mình từ từ giải thích đầu đuôi câu chuyện. Đó là biểu hiện của sự từng trải, của tấm lòng biết lắng nghe, chia sẻ, cũng là tấm lòng tin tưởng, yêu thương con của một người mẹ hiểu lý lẽ.
Sau khi nghe anh Tràng giải thích hết câu chuyện cưới vợ lạ lùng, bà bỗng “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự”, rồi thì người mẹ ấy im lặng với biết bao nhiêu suy nghĩ ngổn ngang trong lòng, bao nhiêu những lo âu cùng dồn về tấm lòng của người mẹ thương con tha thiết. Bà “ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình”, đến cưới một tấm vợ cũng phải tự thân lo lấy, mà lại cưới ngay giữa cảnh đói kém, cái chết đang rình rập khắp nơi, trong đó có cả bà, con trai và người đàn bà xa lạ. Càng nghĩ bà cụ Tứ càng thấy xót xa, tủi cho phận mình, phận con, nỗi xúc động ấy khiến“trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt”. Thế nhưng sống ở đời đã mấy chục năm, có chuyện lạ nào, sự kiện nào mà bà chưa từng trông thấy, bà nhanh chóng thoát ra khỏi những nỗi buồn rầu trong lòng, nhìn đến người đàn bà sẽ là con dâu trong nhà nay mai, người sẽ bầu bạn với con trai, bà nhanh chóng vực lại tinh thần, chấp nhận mối hôn sự chớp nhoáng của cậu con trai. Bà cụ hiểu rằng Tràng cũng đã đến tuổi lấy vợ từ lâu, nay Tràng và thị đã phải duyên phải kiếp với nhau thì bà cũng bằng lòng, bà chỉ trăn trở mãi một mối lo “biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”. Khi ấy tình thương của người mẹ lại càng hiện rõ, bà không trách con trai tự ý làm chủ hôn nhân, cũng không dò hỏi về câu chuyện cưới xin lạ lùng này mà bà chỉ có một ý nghĩ, sợ rằng vợ chồng Tràng không gồng gánh nổi nhau qua cơn đói khát khủng khiếp này, để mà xây dựng một mái ấm hạnh phúc. Bà thương cho số phận con trai mình thiếu thốn đủ điều, đến cuộc sống vợ chồng cũng bấp bênh chẳng thể đoán được tương lai phía trước. Thế nhưng trong ngày trọng đại, ngày vui của cuộc đời con trai, bà đã không để bản thân buồn rầu quá lâu, cũng không muốn phá hỏng buổi tân hôn, bà cụ nhanh chóng vực lại tinh thần với những điều tự nhủ thật lạc quan“Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được. Thôi bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con…Chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?”. Rồi nhanh chóng trò chuyện, săn sóc với thị, kéo thị ra khỏi cảnh ngượng ngùng của người dâu mới về nhà chồng. Đồng thời nói những lời an ủi động viên, vun vén cho cuộc hôn nhân mới bằng những lời của cha ông rằng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?. Đồng thời bà cũng nhanh chóng giấu nhẹm vào lòng những lo toan, sầu khổ đang bộn bề trong lòng, để mở ra cho các con một cuộc sống đầy hy vọng và tốt đẹp phía trước, dẫu rằng ngoài kia là hoạt cảnh thực tối tăm, đầy chết chóc, đau thương. Tấm lòng người mẹ của bà cụ Tứ quả thực ấm áp và đầy sự thấu hiểu, bao dung.
Không chỉ ở tấm lòng yêu thương, lo nghĩ cho con mà hình ảnh cụ Tứ còn hiện lên là một con người có tấm lòng bao dung, thấu hiểu và cảm thông sâu sắc với những số phận con người bất hạnh, mà điển hình ở đây là thị. Trước cảnh tượng con trai dẫn về một người đàn bà không lai lịch, rách rưới, tàn tạ, giới thiệu là vợ bà cụ Tứ không hề tỏ ý không hài lòng hay cự tuyệt trái lại bà chỉ im lặng nghe con trai kể chuyện rồi thầm quan sát người đàn bà. Sau khi đã rõ đầu đuôi câu chuyện bà nhanh chóng chấp nhận cuộc hôn nhân chớp nhoáng đồng thời tỏ ra thấu hiểu cho cái khó của thị “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà cũng thương cho người đàn bà khốn khổ, phải đến bước đường cùng, bị cái đói hành hạ đến mức nào thì mới chấp nhận kiếp làm vợ theo không của Tràng. Ánh nhìn đăm đăm vào thị, là cái nhìn của sự thấu hiểu, xót xa cho một kiếp người tàn tạ, thương cảm cho phận một người phụ nữ không được cưới hỏi đàng hoàng, không có mâm cao cỗ đầy, lầm lũi trở thành vợ người ta mà không một đồng sính lễ. Nghĩ đến đấy dường như bà lão càng thông cảm hơn cho thị bởi lẽ cũng may có thị xuất hiện thì con trai bà mới có được tấm vợ, có được cuộc sống gia đình điền viên.
Chính những suy nghĩ thấu đáo, hiểu lý lẽ như vậy, bà cụ đã nhanh chóng thấy thân thiết với người con dâu mới, nhẹ nhàng săn sóc thị “Con ngồi xuống đây, ngồi xuống cho đỡ mỏi chân”, để khiến cho thị đỡ ngại ngùng bỡ ngỡ trước tổ ấm mới. Rồi khi nhìn thấy sự rụt rè của thị, lòng bà lại tràn đầy thương xót, tội nghiệp cho một kiếp đàn bà, sinh ra vốn đã khổ, vào cảnh đói nghèo lúc này lại càng khổ cực hơn, có lẽ rằng cuộc đời thị cũng sẽ lại giống như cuộc đời bà mấy mươi năm trước. Nghĩ thế bà lại càng thương yêu thị hơn, nhẹ nhàng mà bảo ban, thân mật, giải thích cho thị về chuyện không có cỗ bàn đám cưới, lòng hy vọng thị sẽ không trách cho cái nghèo khó của mẹ con bà, mà cùng yêu thương vun vén hạnh phúc với Tràng, đồng thời cũng để thị đỡ tủi thân trước cảnh theo không về làm dâu nhà người. Rồi bà cũng thỉ thỉ tâm sự “cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Nam nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”, ấy là tấm lòng yêu thương con trai, con dâu, sự xót xa của người làm mẹ trước cảnh khổ cực của con cái. Có thể nói rằng dù ít học, nghèo khó thế nhưng cụ Tứ lại có một tấm lòng thấu hiểu lý lẽ, đồng cảm, yêu thương con người sâu sắc, làm câu chuyện càng thêm ấm áp tình người, xua tan đi cái lạnh lẽo của nạn đói khủng khiếp đang hoành hành ngoài kia.
Không chỉ ấn tượng ở tình mẫu tử sâu sắc, lòng bao dung, thấu hiểu, bà cụ Tứ còn bật lên với vẻ đẹp của niềm tin, niềm hy vọng mãnh liệt vào cuộc sống, vào một tương lai tốt đẹp phía trước, dù đang ở trong cảnh tượng khốn khổ, kinh hoàng nhất của nạn đói năm 1945. Cụ Tứ đã ở cái tuổi gần đất xa trời, cũng chẳng thể sống thêm mấy mươi năm nữa, thế nhưng trong lòng bà lúc nào cũng ngập tràn niềm tin về một tương lai sáng sủa, về chuyện một ngày nạn đói qua đi, gia đình bà sẽ lại có những ngày sống không phải lo bữa đói bữa no, cuộc sống sẽ đỡ bấp bênh vất vả hơn. Đồng thời cụ cũng gieo niềm tin, niềm hy vọng ấy vào tâm trí con trai con dâu mình bằng những lời thủ thỉ tâm tình rằng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?. Rồi trong bữa cơm sau đêm tân hôn của vợ chồng Tràng, bà cụ luôn nói đến những chuyện vui vẻ, gợi cho các con những dự định tốt đẹp trong tương lai, nào là chuyện nuôi gà đẻ trứng, chuyện làm ăn. Những lời nói đầy ắp hy vọng, niềm tin vào một tương lai khấm khá hơn khiến bữa cơm sáng chỉ “có độc một lùm rau chuối thái rối, một dĩa muối ăn với cháo”, dù khắc khổ, đạm bạc nhưng cũng thật vui vẻ và ấm áp. Trong bữa cơm sáng, bà cụ Tứ còn chiêu đãi các con bằng nồi chè khoán nấu từ cám đắng ngắt và nghẹn bứ nơi cổ họng, nó không chỉ thể hiện tấm lòng của người mẹ già nghèo khổ yêu thương con sâu sắc, mà còn bộc lộ ý tứ sâu xa của bà cụ về cuộc sống nhiều khó khăn sao này. Bà hy vọng rằng các con mình sao này dù gặp nhiều khó khăn, vất vả hơn nữa, cũng phải cố gắng mà vượt qua, cũng giống như ngày hôm nay họ cố nuốt xuống miếng cháo cám đắng nghét, khó ăn, để bắt đầu cuộc sống mới vậy. Có thể nói rằng dù già cả nhất, nhưng cụ Tứ lại chính là người có sức sống và niềm tin mãnh liệt nhất, trở thành người truyền cảm hứng, gieo vào lòng Tràng và thị những hy vọng, những khao khát vượt qua số phận, xây dựng một cuộc sống mới tốt đẹp hơn, hướng tới một tương lai tươi sáng, không còn sợ cảnh đói rách hành hạ.
Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm phản ánh rõ nét tính kinh hoàng, thảm hại của người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Thế nhưng bên cạnh những cái tàn tạ, ghê gớm của cảnh đói rét, hiện thực tối tăm, Kim Lân cũng đồng thời thể hiện những giá trị nhân đạo sâu sắc khi thông qua hiện thực để làm bật lên vẻ đẹp của con người trong cảnh bần hàn, khốn khổ. Bà cụ Tứ giữa cái đói nghèo, tủi phận, giữa cảnh con trai mang về một người vợ nhặt, bà đã hiện lên với hình ảnh một người mẹ thấu hiểu và yêu thương con sâu sắc, một người đàn bà biết cảm thông, chia sẻ và bao dung với những kiếp người khốn khổ như thị, và cuối cùng là hình ảnh của một con người có niềm tin, sức sống mãnh liệt, là người gieo rắc vào thế hệ sau những tư tưởng tốt đẹp, tạo lập cho các con hy vọng vào cuộc sống, vượt qua nghịch cảnh để tiến tới tương lai tươi sáng hơn.
Phân tích nhân vật cụ Tứ - mẫu 4
Tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân đã tạc lưu lại trong tâm trí người đọc không chỉ bởi một ấn tượng mang tên nỗi ám ảnh về cái đói, cái cùng của những người nông dân sống trong đêm trước Cách mạng. Những tháng ngày 1945 ấy, cái đói cứ bao vây nơi nơi, tưởng đâu đâu cũng ngửi thấy “mùi đói”. Làng quê chìm trong ko khí tang thương với tiếng quạ kêu quang quác, tiếng khóc hờ của những nhà có người chết đói và thân phận rẻ rúng của bao cảnh đời: người ta có thể nhặt được vợ giữa đường chợ chỉ với 4 bát bánh đúc và mấy câu đùa cợt…. Tạm gác lại cái cứu cánh nội dung ấy, lật giở lại tác phẩm và để lòng ta lắng lại với những dư vị của cảm xúc. Ta đã hiểu… Nếu như nói đến văn học là nói đến một phạm trù ko giới hạn của nghệ thuật, có khả năng gợi mở mọi chiều kích của các giác quan và trường liên tưởng, thì đây: với tác phẩm vợ nhặt này ta không chỉ biết đến một anh Tràng thô nhám, cục mịch mà có lúc ngượng nghịu, ngẩn ngơ như một đứa trẻ lớn hiền lành, một chị vợ “chao chát, chỏng lỏn” mà “hiền hậu, đúng mực”, ta còn biết đến một nhân vật nữa: một nv giữ cho câu chuyện “Việt Nam” có chiều sâu, mang lại cho tác phẩm sự mặn mà, đằm thắm. Đó là nhân vật bà cụ Tứ. Càng đọc, càng ngẫm nghĩ, ta càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng của người mẹ nông dân này.
Đến khoảng giữa câu chuyện, Kim Lân mới cho nhân vật Bà cụ Tứ xuất hiện như để hoàn chỉnh hơn ý niệm về một gia đình, trong mối quan hệ “mẹ chồng nàng dâu” với người “vợ nhặt”. Nhưng hẳn không chỉ thế. Hãy xem cách mà Kim Lân dẫn dắt chúng ta đến với nhân vật. Bắt đầu là cái dáng “lọng khọng đi vào ngõ, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”…. Chao ôi! những câu giản dị nhường ấy mà chất chứa bao yêu thương trìu mến. Ta gặp lại cái dáng gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người bà quen thuộc. Từ “lọng khọng” đầy sáng tạo và có sức gợi hình, gợi tả tạc lại trong ta một dáng hình. Có phải không? Kim Lân đã gửi trọn tấm lòng kính yêu của mình để cảm thông cùng với những nỗi đau suốt một đời đã đè nặng lên đôi vai người mẹ. Vả chăng, với nhân vật bà lão, nhà văn còn có dịp nhìn việc lấy vợ của Tràng từ một góc độ khác, trong 1 tâm trạng khác. Tôi những muốn viết ngay về những diễn biến phức tạp trong tâm hồn người mẹ khi biết đứa con trai xấu xí, cục mịch của mình đã lấy được vợ lại giữa một hoàn cảnh đặc biệt éo le. Nhưng, 1 ấn tượng nữa về bà lão cứ hiển hiện trong tâm trí tôi – một ấn tượng dù chỉ thoáng gặp nhưng cũng thật khó quên. Tôi đã lần theo từng câu chữ của tác phẩm và tìm thấy những dòng tâm trạng này: “Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa, dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà nghĩ đến cuộc đời khổ cực dằng dặc của mình” Ta biết được người phụ nữ nông dân này có một số phận đầy bất hạnh. Cuộc đời bà là một chuỗi ngày khổ đau, tê tái. Bà đã vĩnh viễn mất đi người chồng và đứa con gái út yêu thương.. Dẫu biết thời gian có thể xoá nhoà đi tất cả nhưng vết thương lòng đâu dễ biến tan. Ta không gặp 1 cơn hấp hối trong đau đớn, cũng chẳng gặp những quằn quại quay quắt, ta chỉ gặp ở đó 1 con người của hiện tại với 1 cái thở dài đầy chiêm nghiệm đang nhìn trông về bờ quá khứ. Điều ấy lý giải vì sao con người già cả ấy lại quen đánh giá sự việc bằng kinh nghiệm và sự từng trải, bằng một nỗi lòng đầy ám ảnh của 1 quá vãng nặng trĩu những đắng cay.
Ai đã từng nói rằng: “Văn chương là lịch sử tâm trạng của con người”. Nếu đúng như vậy thì Kim Lân quả là 1 nhà văn đích thực trên cái ý nghĩa ấy. Ngòi bút của ông đã thêm 1 lần chấm vào nghiên mực cuôc đời để khắc hoạ lại hình ảnh của nhân vật bà cụ Tứ với những diễn biến tâm trạng đầy tinh tế. Tưởng như, bà cụ Tứ bước từ căn nhà rúm ró, tồi tàn của mình đi vào trang truyện chứ ko hề do dụng công xây dựng của tác giả. Hình ảnh bà – hình ảnh của người mẹ nông dân Việt Nam 1945 hiện lên chân thực như nó vốn có qua những lời nói tưởng như ngớ ngẩn, lẩm cẩm mà xiết bao ân tình. Cuộc đời tuy có mất mát nhưng cũng không cướp đi của bà tất cả. Bà vẫn còn có anh Tràng – đứa con trai độc nhất để yêu thương chăm sóc. Làm mẹ, ai cũng mong cho con mình chóng khôn lớn, trưởng thành và yên bề gia thất. Rồi cái ngày hạnh phúc ấy cũng đã đến: cái ngày anh Tràng lấy vợ. Những tưởng niềm vui ánh lên rạng ngời trong trái tim già cỗi ấy, nhưng lòng người mẹ lại ngổn ngang bao tâm sự thầm kín. Dạo đầu của chuỗi tâm trạng ấy là 1 loạt những câu hỏi đầy vẻ ngạc nhiên, thắc mắc: “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường con mình thế kia?” “ai thế nhỉ? sao lại chào mình bằng u?”. Phải, làm sao bà ngờ được lại có ngày hôm nay, khi mà giữa nhưng năm đói mòn đói mỏi, nhà lại nghèo mà con trai bà lại dẫn không về 1 người vợ. Mọi việc đến với bà quá nhanh. Chính bởi tình huống hết sức đặc biệt này của câu chuyện “vợ nhặt”, mọi diễn biến nội tại đã được đẩy lên đến cao trào, trở thành 1 sợi chỉ xuyên suốt làm cho mạch tp đi theo 1 chiều hướng rất logic của tâm lý nhân vật. Bà lão thực sự đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tới mức: “không còn tin vào mắt, vào tai mình nữa”. “Bà lão nhấp nháy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu”.
Tâm trạng cứ băn khoăn như thế cho đến khi mọi chuyện được vỡ lẽ thông qua lời xác nhận của con trai: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ…” Lúc ấy tâm trạng của người mẹ lại bước sang 1 trang khác, hứa hẹn nhiều biến động hơn và tinh tế hơn. Kim Lân đã không tả thêm nữa những suy nghĩ, những căn vặn trong tâm não của nhân vật, hay những động thái tâm lý phức tạp khác, mà chỉ đơn giản là 1 cái “cúi đầu nín lặng”. Không chỉ là câu trần thuật, trong câu văn ngắn này còn rưng rưng tấm lòng hoà cảm đầy ân tình của Kim Lân. Bao nhiêu nỗi niềm chất chứa trong cái im lặng cúi đầu ấy. Cái im lặng tủi phận. Cái im lặng cam chịu. Cái im lặng xót xa. Bà thương thầm cho cái số kiếp của đứa con trai độc nhất. Vì người mẹ ấy giờ đây ý thức rõ hơn vợ chồng Tràng rất nhiều về cái nghịch cảnh quá éo le, nghiệt ngã của cuộc hôn nhân này. Chừng ấy năm sống trên đời mách bảo bà lão 1 điều rằng: mối duyên kiếp trớ trêu kia hình như không nên có. “Chao ôi! người ta dựng vơ gả chồng cho con là lúc gia đình ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này – còn mình thì…” Bao nhiêu ngập ngừng, tủi cực, chua xót dồn nén sau chữ “thì” vô vọng ấy. Bà xót xa vì không thể làm tròn bổn phận của người mẹ: ko lo nổi chuyện đại sự cho con. Giờ đây, giữa lúc người chết đói “như ngả rạ”, lại có người theo con trai mình về làm vợ. Người mẹ bị dồn vào cảnh túng quẫn, khó xử, không biết lấy gì cúng tổ tiên, trình làng khi con đã có vợ. Cái buồn, cái tủi lại chan đầy nước mắt, và bà đâm khóc vì thương con, thương dâu ko biết làm sao đây để vượt qua cơn khốn khó này: “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rũ xuống 2 hàng nước mắt”, lý trí đã ko ngăn nổi tình cảm. Kim Lân như 1 nhà quay phim tài ba đầy cảm xúc lia ống kính máy quay của mình chớp lấy thần cảnh, thước phim từ cận cảnh làm hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim 1 đời vất vả của người mẹ già, và trên cái khoé mắt nứt nẻ theo thời gian ấy rạn ra 2 dòng nước mắt khô héo. Nước mắt của người già, mà như Nguyễn Khuyến xưa đã từng viết trong “Khóc Dương Khuê”:
“Tuổi già hạt lê như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”
Thời gian là kẻ khách quan và quá đỗi vô tình, nó đã mang đi tuổi thanh xuân của mẹ cùng bao lo toan, nhọc nhằn, vất vả đã vắt kiệt sức mẹ. Mẹ khó có thể khóc được nữa, bởi “nước mắt người già chảy ngược vào tim”. Khi mẹ khóc tức là mẹ đang đau lắm. Một người mẹ thương con như bà cụ Tứ ko đau sao được khi chứng kiến cảnh con mình lấy vợ trong một hiện thực và tương lai ảm đạm đến thế. Và bà đã lo lắng để rồi tự cật vấn: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được qua cơn đói khát này không”. Đọc những dòng này, ta có cảm giác như trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi đang rung lên đau đớn, xót xa như xát muối. Bà thương con, tủi phận để rồi lại thương dâu: Bà “đăm đăm nhìn người đàn bà” như để nhận mặt người đồng hành khốn cùng trong cuộc đời khổ nghèo. Người con dâu đứng đấy, tay “vân vê tà áo đã rách bợt”. Và cũng từ đó đã thức dậy trong bà lão bao ý nghĩ nhân đạo và một sự hàm ơn: “Ngườita có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được… Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con…” Câu văn thật cảm động! Nó vừa nhoi nhói 1 tình cảm tủi hờn, ai oán cho số kiếp, vừa như cố nén cái cảm giác bất đắc dĩ trước 1 sự việc đã rồi, lại vừa rưng rưng, xao xuyến 1 niềm vui. Những lời độc thoại cứ như đợt sóng cuộn lên trong lòng người mẹ, vừa khắc khoải, dạt dào, vừa bao la, vỗ về đầy tình mẫu tử, hoà trong đó là là những rung cảm xót xa trong trái tim nhân đạo của Kim Lân. Ta cũng thấy tim ta thổn thức cùng với những trăn trở bình dị mà xiết bao ân tình. Đẹp biết bao 2 tiếng “mừng lòng” của bà lão nói với các con. Chữ “mừng” thật là đắc địa, có vẻ như ko đâu vào đâu của người già cả, nhưng lại lột tả đúng cái thần thái của một tấm lòng vị tha cao quý đang ngượng ngập, vụng về tìm cách giấu đi dòng nước mắt xót thương vì sợ phiền lòng cho chính người mình đang thương xót. “Có đèn đấy à? Ừ, thắp lên một tí cho sáng sủa…Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ”. Người mẹ già như cố nuốt nước mắt vào trong, cố nén nỗi đau trong lòng để tình thương của mình an ủi các con. Nỗi lo sợ ngày mai mãi chỉ là 1 niềm riêng không chia sẻ. Bới trái tim người mẹ ấy hiền hậu nhân từ lắm. Chẳng muốn con buồn, chẳng muốn con đau, chỉ mong con hãy tận hưởng trọn vẹn cái hạnh phúc lứa đôi. Đến đây, ta càng thấm thía hơn 1 câu danh ngôn: “tình yêu thương của người mẹ dành cho con luôn âm thầm, lặng lẽ như mạch nước ngầm trong lành đi theo con suốt cuộc đời”. Suối nguồn của tình mẹ và những giọt nước mắt, giọt mồ hôi thật thiêng liêng và đáng quý vô cùng. Rồi có ai đã từng ví trong câu hát “tình mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”, thì đây, những giọt nước mắt buồn thương vẫn mặn mà, nồng ấm, vẫn âm vang nhịp đập thuỷ triều. Mẹ kêu con thắp đèn lên “cho sáng sủa” hay chính tình yêu bao la của mẹ đang toả sáng cho hạnh phúc của các con. Quên làm sao được cử chỉ ân cần mà xiết bao thương mến của mẹ với con dâu, ta tưởng như có cái vẫy tay đầy thân thương sau câu nói này: “con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Còn đâu là ranh giới giữa mẹ chồng – nàng dâu? Hay tình yêu thương đã xoá nhoà đi tất cả. Tình yêu ấy dâng lên nghẹn ngào khi bà cụ Tứ nói trong nước mắt: “kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo… lấy nhau lúc này u thương quá….”. “Lúc này” ở đây chính là thời điểm năm 1945 – cái mốc in dấu 1 nạn đói khủng khiếp đã đi vào lịch sử: “hơn 2 triệu đồng bào ta chết đói” (Tuyên ngôn độc lập), câu nói ấy vẫn còn vang lên như 1 chứng tích tội ác của thực dan Pháp, ko khí quê hương “vẩn lên 1 mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”, “dưới những gốc đa, gốc gạo xù xì, bóng những người đói dật dờ đi lại như những bóng ma”. Ấy vậy mà, “như bèo gặp nước”, vợ chồng Tràng đã đến với nhau đánh cược cùng cuộc đời, cùng cái đói, cái khổ. Thử hỏi sao lòng người mẹ ko đau đáu. Bà chỉ biết khuyên vợ chồng Tràng thương yêu nhau, ăn ở hoà thuận để cùng vượt qua cơn bĩ cực này. Đó là nỗi lo, nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có tấm lòng yêu con sâu thẳm…
Trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui, niềm tin thắp lên trong lòng bà cụ Tứ. Một niềm vui tội nghiệp ko sao cất cánh được khi bị “ghì sát đất” bởi những nỗi lo, nỗi buồn luôn trĩu nặng. Nhưng bà vẫn cố vui, cố nén tất cả mọi sầu muộn, héo hon vào trong bằng tất cả sức mạnh của tình mẹ, để gắng làm cho con vui, dâu vui. Hoá ra chính cái bà lão “gần đất xa trời” này lại là người nói đến hi vọng, đến ngày mai nhiều hơn tất cả. Đó là niềm ao ước thiết tha về 1 ngày mai sáng sủa hơn cho con của bà mẹ nghèo: “Rồi may ông giời cho khá….ai giàu ba họ, ai khó ba đời…” Một lời động viên con giản dị, mang đậm niềm tin tâm linh của 1 bà mẹ nông dân từng trải, nhưng cũng thật cần thiết, bởi đó chính là nguồn động lực giúp cho mẹ con bà đủ vững vàng để vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cái đói, cái chết. Câu nói ấy chỉ có thể thốt lên từ 1 tấm lòng cao cả, tràn ngập tình thương. Nhưng ai dám bảo đó là 1 niềm tin, sự lạc quan khoẻ khoắn, bởi chính trong tâm trạng người mẹ ngay lúc này đây cũng đang bời bời những lo sợ cho cuộc sống của ngày mai. Chỉ có thể nói đó là 1 niềm tin bé nhỏ mà bất diệt, âm ỉ và dai dẳng tiếp thêm sức mạnh cho con trên sinh lộ cuộc đời. Và niềm tin đã chuyển hoá thành niềm vui. Bà vui trong công việc “sửa sang nhà cửa vườn tược”. Nó khiến bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, “cái mặt bủng beo, u ám của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên”. Bà đã chủ động tạo nên niềm vui đó trong ngày đầu tiên gia đình đón chào một nàng dâu mới: bà dậy từ rất sớm, bà “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, giẫy những búi cỏ mọc nham nhở trong vườn”. Bởi bà hiểu rằng, bắt đầu từ hôm nay đã đánh dấu 1 bước ngoặt trong cuộc đời các con mình, chúng nó đã nên vợ nên chồng và bà cảm thấy mình phải vun vén cho hạnh phúc của các con. Buổi sáng hôm nay, bà đã đon đả lo chu tất, chuẩn bị bữa cơm đón dâu, nhưng “cái bữa cơm ngày đói thật thảm hại” lại chỉ là một bữa “tiệc” với món cháo loãng và món “chè khoán” đắng chát, nhưng bà vẫn cố tạo ra 1 không khí ấm cúng, vui vẻ để động viên, làm giảm bớt nỗi thất vọng cho các con. Dù cuộc sống này có khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo, đầy đoạ mẹ con bà, bà vẫn nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này, chuyện nuôi đoi gà cho nó sinh sôi nảy nở thành đàn gà con…
Người mẹ già ấy vẫn nghĩ đến cái sống, nghĩ đến ánh sáng của ngày mai ngay bên bờ vực thẳm của cái chết. Hình ảnh đàn gà sinh sôi trong bữa cơm ngày đói đã nói lên sức sống kì diệu của người lao động. Nhưng xúc động nhất là nồi chám cám mà bà đã cố tình giấu con trai, con dâu cho đến phút cuối cùng. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng vui vẻ khi bà “lễ mễ bưng nồi cháo cám nghi ngút khói” lên nhà, tươi cười đon đả múc cho các con rồi mời mọc: “cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ ăn thử mà xem”. Nhưng ta biết, bên trong cái vẻ tươi tỉnh niềm nở ấy, lòng mẹ đang quặn thắt. Cái món mà bà cụ Tứ gọi là “chè khoán” ấy hoá ra lại là cám, gọi như vậy để cho các con bớt tủi thân, lời mời mọc của bà là lời động viên, an ủi. Bà muốn con được no đủ, hạnh phúc trong 1 việc làm mà bà cố gắng tạo nên dẫu biết rằng đó chỉ là ảo giác, sau đó thực tại sẽ lại trở về nguyên bản, bẽ bàng và chua chát. Dường như bà có ý xua tan đi không khí ảm đạm, cố che đậy, vùi đi thực cảnh thê lương. Nhưng thật tội nghiệp cho bà lão, tội nghiệp thay cho cái niềm vui bé nhỏ chới với giữa 1 bể bi luỵ, khi mà màu sắc của hiện tại phải được trả về đúng nghĩa của nó. “Bà ko dám để con dâu nhìn thấy bà khóc”. Một lần nữa, người mẹ lại nuốt đắng cay vào trong để cái hi vọng mong manh còn đủ sức soi đường con bước. Những giọt nữa mắt lại rơi. Những giọt nước mắt ám ảnh ấy….
Có thể, người đàn bà ấy chẳng còn sống, còn gần các con được lâu nữa. Nhưng bà sống trọn 1 đời vì các con, tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình trong sự chăm lo, vun vén cho con, mơ ước cho con. Bằng tất cả sự nâng niu trân trọng, Kim Lân đã để trái tim đập cùng 1 nhịp đập với trái tim người mẹ nông dân. Viết về bà cụ Tứ, nhà văn thực sự đã trở thành “người nhân đạo đến tận xương tuỷ” – (Sê khốp)
Nhà văn Tô Hoài có lần đã khẳng định: “Nhân vật là trụ cột của sáng tác, nhà văn trước tiên phải lo cho nhân vật của mình. Nhà văn nói bằng nhân vật, thông qua nhân vật, nhân vật là phương tiện để nhà văn thể hiện chủ đề và tinh thần tác phẩm”. Thì đây, nhân vật bà cụ Tứ đã cho ta hiểu bao điều về tình yêu thương vô bờ bến của người mẹ dành cho con. Bà chính là là linh hồn của tác phẩm, là hiện thân cho tình mẫu tử, là hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp các bà mẹ Việt nam: rất nhân hậu, rất bao dung, giàu lòng nhân ái, thương con vô hạn, hết lòng vun đắp cho các con được hạnh phúc, khát khao sống, khát khao yêu thương và truyền được ngọn lửa sống ấy từ mình sang cho các con. Người mẹ già ấy phải chăng chính là ánh sáng của cả thiên truyện, lặng thầm đằng sau bóng tối bi thảm của những kiếp đời nghèo khổ. Ánh sáng ấy làm cho câu chuyện anh Tràng nhặt vợ trở nên thấm thía cảm động hơn, nâng truyện ngắn “Vợ nhặt” lên tầm cao, mang chiều sâu của 1 truyện ngắn “hiện thực – nhân bản”.
Ta thấy cái nhìn đồng cảm xót thương của Kim Lân chứa chan, thấm đượm trong từng câu, từng chữ, từng chi tiết của bức tranh đời sống nạn đói năm Ất Dậu, đằng sau những giọt nước mắt, những lời độc thoại được chắt ra từ một tâm hồn cao đẹp. Và, có phải, thông qua hình tượng nhân vật bà cụ Tứ, Kim Lân còn muốn ngầm đi đến một lý giải nguyên nhân: vì sao thời ấy dù Tràng và biết bao người như Tràng phải chịu muôn vàn nỗi cực khổ, đè nén nhưng vẫn vượt lên và còn có khả năng nghĩ tới những điều như: “Việt Minh, lá cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới và đoàn người đi phá kho thóc”.
Phân tích nhân vật cụ Tứ - mẫu 5
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân đã miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Đồng thời tác giả còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kỳ diệu của họ. Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ được Kim Lân khắc họa trong tác phẩm là một phụ nữ nông dân nghèo khổ. Ngay từ cái tên, người đọc đã thấy được về xuất thân của nhân vật. Sống trong xã hội Việt Nam xưa cuộc đời bà đã phải chịu nhiều đắng cay vất vả. Cả cuộc đời bà mưu sinh cực nhọc để nuôi con. Đến khi già cả vẫn không được hưởng cuộc sống sung sướng, mà lại phải chịu cảnh đói kém hoành hành. Nhân vật không xuất hiện từ đầu tác phẩm mà chỉ đến khi Tràng đưa người vợ nhặt về nhà, nhà văn mới khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ: “Ngoài ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào ngõ. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Đó là hình ảnh của một bà lão, dáng đi thì chậm chạp, đôi mắt kèm nhèm. Bà lão vừa đi vừa ho húng hắng, miệng còn lẩm nhẩm tính toán một cái gì đó.
Nhưng đặc biệt hơn cả là tình mẫu tử thiêng liêng của bà cụ Tứ. Điều đó được thể hiện qua tình huống Tràng dẫn một người phụ nữ lạ mặt về nhà. Khi nhìn thấy có người lạ mặt trong nhà, tong lòng bà cụ nổi lên biết bao nhiêu là cớ sự thắc mắc. Những câu hỏi liên tiếp vang lên trong suy nghĩ của bà: Quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?” “Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia?”, “Sao lại chào mình bằng u?”. Rồi bà quay sang nhìn con tỏ ý không hiểu, để chờ Tràng giải thích. Đến khi bà cụ “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự” rồi thì bà im lặng. Những dòng suy nghĩ chảy trôi, quẩn quanh liên tục bên ngoài cái sự việc con bà lấy vợ. Nhưng đứng trên vai trò là một người mẹ có tấm lòng thương con sâu sắc, bà hiểu được chuyện anh Tràng lấy vợ âu cũng là chuyện hợp tình hợp lý, bởi Tràng cũng đã đến tuổi dựng vợ. Thương con, bà lại càng xót xa: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Việc lấy vợ trọng đại cả đời, lẽ ra “làm được dăm ba mâm cơm mới phải”, nhưng “nhà mình nghèo quá” - đó phải chăng là sự mặc cảm của người mẹ khi không thể lo cho con tử tế.
Không chỉ thương con trai, bà cụ Tứ lại còn thương cả con dâu. Điều đó đã thể hiện một tấm lòng nhân văn sâu sắc. Bà đồng cảm với hoàn cảnh của cô vợ nhặt: “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được…”. Bà lão đã vui vẻ chấp nhận người con dâu mới: “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bà đã không ghét bỏ cô vợ nhặt, mà còn ân cần hỏi han: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ chân”. Bà còn an ủi con dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này…”.
Nhưng hiện thực cuộc sống khiến bà không khỏi lo lắng: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khái này không?”. Nén nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Bà nói với con dâu bằng giọng của người từng trải - vừa lo lắng, vừa thương xót: “Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...”, “bà nghẹn lời không nói được nữa”. Đặc biệt là chi tiết giọt nước mắt của bà cụ Tứ. Bà khóc “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật của một người mẹ.
Không chỉ vậy, bà cụ Tứ còn là người truyền ngọn lửa niềm tin vào tương lai đến các con. Sáng hôm sau, trong bữa cơm đầu tiên sau khi Tràng có vợ. Dẫu rằng mâm cơm ngày đói kém trông thật thảm hại với “mớ rau chuối thái mỏng và cháo loãng” thế nhưng không khí trong nhà vẫn rất vui vẻ đầm ấm. Bà cụ Tứ chỉ toàn nói đến chuyện tương lai, chuyện vui vẻ sau này. Đặc biệt người mẹ nghèo khó còn chiêu đãi con trai và con dâu bằng một nồi “chè khoán”, mà thực tế đó là là cháo cám để mừng tân hôn. Trong khi Tràng thì “chum ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ”, còn cô vợ nhặt thì “đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại”. Thì bà cụ Tứ vẫn tươi cười vẫn tươi cười, đon đả: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Tấm lòng của một người mẹ cố gắng xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên các con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức.
Tóm lại, nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm “Vợ nhặt” là một hình tượng tiêu biểu cho những bà mẹ Việt Nam xưa. Cả cuộc đời hy sinh sinh vì con cái, yêu thương con sâu sắc bằng những tình cảm thấu hiểu, bao dung và vị tha. Dù sống trong sự nghèo khó thế nhưng với sự từng trải của mình bà vẫn giành lấy được những sự lạc quan, vui vẻ trong cuộc sống, trở thành điểm sáng tinh thần cho những đứa con.
Phân tích nhân vật cụ Tứ - mẫu 6
“Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm đặc sắc của nhà văn Kim Lâm. Truyện đã khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ - một người mẹ có tấm lòng nhân hậu, vị tha và là điểm sáng tinh thần cho những đứa con.
Nhân vật bà cụ Tứ không xuất hiện ngay từ đầu trong tác phẩm. Kim Lân đã cho nhân vật xuất hiện trong hoàn cảnh Tràng đưa người vợ nhặt về ra mắt mẹ, để từ đó làm nổi bật lên hình ảnh bà cụ Tứ với những phẩm chất tốt đẹp. Đầu tiên, ngoại hình của bà cụ Tứ đã được Kim Lân miêu tả bắt đầu là cái dáng: “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Người đọc như bắt gặp lại dáng hình gầy gầy, còng đi vì sương gió cuộc đời của người bà quen thuộc. Hình ảnh bà cụ Tứ là đại diện mang dáng vẻ chung của những người mẹ nông dân Việt Nam:
“Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh, mái đầu bạc phơ”
(Bên kia sông Đuống, Hoàng Cầm)
Cách dùng từ của nhà văn thật tinh tế, chỉ với từ “lọng khọng” nhưng đã cho thấy cái dáng hình nhỏ bé, chậm chạm và già cả của một bà lão. Cùng với đó là thói quen tính toán chi li, cẩn thận của những bà mẹ Việt Nam. Cuộc đời của bà cụ Tứ cũng giống như biết bao người phụ nữ trong xã hội xưa.
Khi bước vào trong nhà, bà cụ Tứ nhìn thấy một người đàn bà đứng ngay ở đầu giường con mình, bà hết sức ngỡ ngàng, thắc mắc. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?”. Từ sự ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, bà cụ Tứ không tin nổi vào mắt mình. Điều ấy dẫn đến hành động: “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lẫn nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu” để chờ đợi lời giải thích từ anh con trai. Chỉ đến khi nghe Tràng nói: “Nhà tôi nó chào u”, người mẹ ấy mới chợt hiểu ra: “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình” Để rồi nỗi tủi thân đã hóa thành nước mắt “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Bà vừa mừng, vừa lo, vừa tủi. Tấm lòng của một người mẹ thật bao dung và cũng thật cay đắng, xót xa. Nước mắt mẹ đã lặng lẽ rơi xuống trong mặc cảm thân phận, trong nỗi đau không lo nổi hạnh phúc cho con mình. Bà tủi thân vì cho rằng mình chưa làm tròn bổn phận người mẹ: “chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…”. Bà cụ Tứ khóc vì thương con, lòng tự trách đã không làm tròn trách nhiệm của một người mẹ.
Không chỉ thương con trai, bà cụ Tứ cũng thương cả con dâu: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Tấm lòng bao dung khiến bà đồng cảm với hoàn cảnh của con dâu: “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau cũng mừng lòng”. Và từ đó mà người mẹ ấy cảm thấy vui vẻ khi con trai có được vợ: “Cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Sự ân cần hỏi han “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ chân”, động viên con dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…”. Tất cả đã cho thấy tấm lòng cao cả của một người mẹ.
Đặc biệt nhất, nhân vật bà cụ Tứ được Kim Lân xây dựng với tình cảm mẫu tử thiêng liêng. Bà đã trở thành điểm sáng tinh thần cho Tràng và người vợ nhặt. Chính bà là người động viên các con: “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. Trong bữa ăn ngày đói, người mẹ ấy chỉ toàn nói đến chuyện tương lai, chuyện vui vẻ. Cái ánh sáng kỳ diệu đó tỏa ra từ nồi cháo cám mà bà cụ Tứ gọi là “chè khoán”: Bà lão múc ra một bát. Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon” này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt. Đó không phải là xúc cảm về vật chất, (xúc cảm về cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần. Điều đó cho thấy ở người mẹ này, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát thành ngọt ngào.
Với ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật thông qua những đối thoại, độc thoại nội tâm, Kim Lân đã khắc họa hình ảnh bà cụ Tứ là người mẹ nghèo khổ nhưng đầy tấm lòng yêu thương, bao dung. Bà chính là chỗ dựa tinh thần cho những đứa con.
Phân tích nhân vật cụ Tứ - mẫu 7
“Vợ nhặt” là một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân, có nội dung viết về nạn đói năm Ất Dậu (1945). Trong tác phẩm này, ngoài Tràng và Thị thì còn có nhân vật bà cụ Tứ - một người mẹ khắc khổ nhưng luôn tràn ngập tình yêu thương con cái cũng đem đến cho người đọc nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau.
Bà cụ Tứ là mẹ của Tràng, một thanh niên to khỏe chuyên làm nghề đẩy xe bò, bà được miêu tả là một bà lão già nua, khọm khẹm, tướng đi lọng khọng, chậm chạp và có phần hơi run run, có lẽ vì phần tuổi đã cao nên lúc đi bà hay ho húng hắng liên hồi. Chồng và con gái bà đã mất, hiện chỉ còn mình cụ Tứ và người con trai sống nương tựa vào nhau.
Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ là đỉnh điểm của nạn đói năm 1945, người chết như ngả rạ, ngày nào hai bên đường cũng vất vưởng vài ba xác chết nằm cong queo, việc chạy ăn từng bữa cũng là cả một vấn đề thế mà anh cu Tràng, con của bà lại đem về một cô gái và tự nhận là vợ của mình. Ban đầu bà cảm thấy hết sức ngạc nhiên khi thấy người con gái lạ mặt xuất hiện trong nhà và còn gọi mình là u.
Sau khi nghe rõ ngọn ngành, bà vừa vui mừng vừa cảm thấy buồn tủi, vui vì cuối cùng con trai của mình cũng yên bề gia thất, cũng có người chịu lấy làm vợ, nhưng buồn vì người ta dựng vợ gả chồng lúc gia đình ăn nên làm ra mà Tràng phải lấy vợ nhặt, và trong hoàn cảnh hết sức éo le như bây giờ. Chính vì điều này nên bà cảm thấy rất có lỗi vì mình là một người mẹ tồi không lo được cho con đến nơi đến chốn.
Bà cũng vừa thương Thị - vợ của Tràng vì khốn khổ mới phải lấy con trai mình, còn Tràng thì lại vô tư ngờ nghệch không biết gì, tuy nhiên cũng may vì thế mà con mình mới có được vợ. Tuy nhiên, nói là thế nhưng tâm trạng của cụ Tứ vui mừng khôn xiết khi “cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”.
Khi nghĩ về tương lại, lòng cụ Tứ bỗng chùng xuống, bà lo rằng không biết Tràng và Thị có vượt qua được giai đoạn đói khát này không? Liệu cuộc đời của hai người có tốt đẹp hơn bà và chồng trước đây không?
Tuy nhiên, cụ Tứ cũng chính là người đã giúp thắp sáng thêm ngọn lửa về một tương lai tươi sáng hơn, điển hình là trong bữa ăn bà chăm chăm bàn tính đến những chuyện tốt đẹp trong tương lai với giọng phấn chấn nhất, bà bàn tính sẽ nuôi thêm đôi gà rồi chẳng mấy chúng ta sẽ có một đàn gà cho mà xem, rồi cái cách bà nói đùa rằng nồi cháo cám là cháo khoái (cháo đậu xanh) để đãi con dâu khiến cho mọi người đều nghẹn đắng trong lòng.
Qua nhân vật bà cụ Tứ, nhà văn Kim Lân đã thành công miêu tả tấm lòng bao la vĩ đại của người mẹ đối với đứa con của mình, tuy nghèo khổ về tiền bạc nhưng bà lại rất giàu về tình thương. Tất cả những điều này càng khiến cho hình ảnh bà cụ Tứ trở nên ấm áp và thân thương hơn bao giờ hết, tình yêu của bà sẽ là ngọn lửa thắp sáng cho Tràng và Thị vào những lúc tăm tối nhất của cuộc đời.
Phân tích nhân vật cụ Tứ - mẫu 8
Kim Lân là một nhà văn chuyên viết về đề tài người nông dân vào giai đoạn trước cách mạng tháng Tám, tuy số lượng tác phẩm của ông không nhiều nhưng bài nào cũng rất đặc sắc và nổi bật nhất chính là truyện ngắn “Vợ Nhặt”, thông qua việc miêu tả diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ, tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh người mẹ cao quý, thiêng liêng nhất.
Bối cảnh truyện xảy ra vào giai đoạn nạn đói năm Ất Dậu (1945) đang hoành hành, khiến cho người chết như ngả rạ, nằm ngổn ngang khắp lều chợ, khắp những cánh đồng khiến cho bầu không khí có mùi ẩm thối và hơi gây bởi xác người. Bà Cụ tứ vốn là mẹ của Tràng, chồng và con gái bà mất sớm, hiện chỉ có hai mẹ con sống nương tựa vào nhau. Một buổi chiều ảm đạm nọ, Tràng dẫn về một người con gái và nói đó là vợ của mình, khiến cho tâm trạng của cụ Tứ rối bời và hỗn độn.
Ban đầu, khi cụ Tứ thấy một người con gái lạ mặt xuất hiện trong nhà và gọi mình là u, bà vô cùng ngạc nhiên và có chút sững sỡ. Bà ngạc nhiên vì trong cái thời buổi đói khổ này, thằng con trai xấu xí, nghèo khổ của mình lại lấy vợ - Vốn là một việc hệ trọng nhất của đời người.
Sau đó, khi nghe Tràng giải thích, bà mới vỡ lẽ ra rồi cảm thấy có chút buồn tủi. Bà buồn vì trách số phận mình quá đỗi nghèo khó nên không thể lo cho con trai được tử tế, đào đâu ra cơm, ra gạo để có thể làm bữa cơm đãi làng xóm, trình tổ tiên. Nhưng bên cạnh đó, cụ Tứ lại cảm thấy rất vui mừng vì từ nay Tràng đã yên bà gia thất, cuối cùng cũng có người chịu lấy con mình làm chồng.
Nhưng rồi khi nghĩ về tương lai sau này, nét mặt bà lại hiện nên vẻ lo lắng vì không biết hai đứa có thể vượt qua được giai đoạn nghèo đói này không? Sau này cuộc sống của hai người có trở nên tốt hơn không? Đây chính là nỗi lo của một người mẹ đã trải qua nhiều vất vả, khổ cực. Tuy nhiên, người đọc vẫn có thể cảm nhận được sự lạc quan của bà cụ Tứ khi bà vẽ nên những bức tranh tươi đẹp ở tương lai, bà cũng động viên Tràng và Thị cùng nhau cố gắng vượt qua mọi khó khăn để xây dựng một gia đình ấm êm, hạnh phúc.
Thông qua việc xây dựng tình huống truyện độc đáo với cách miêu tả tâm lý nhân vật bà cụ Tứ hết sức có chiều sâu, nhà văn Kim Lân đã đem đến cho người đọc một hình ảnh người mẹ tuy nghèo khổ nhưng lại hiểu chuyện và thương con hơn bao giờ hết. Đây chính là điểm giúp cho nhân vật này ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng mọi người.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Phân tích nhân vật dế mèn phiêu lưu ký
- Phân tích nhân vật Giôn xi
- Phân tích nhân vật Kiều Nguyệt Nga
- Phân tích nhân vật Liên trong hai đứa trẻ
- Phân tích nhân vật Lục Vân Tiên
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

