10+ Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí (điểm cao)
Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.
- Dàn ý Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí
- Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí (mẫu 1)
- Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí (mẫu 2)
- Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí (mẫu 3)
- Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí (mẫu 4)
- Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí (mẫu 5)
- Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí (mẫu 6)
- Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí (mẫu 7)
10+ Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí (điểm cao)
Dàn ý Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du: Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn của dân tộc. Sự nghiệp sáng tác của ông gồm những tác phẩm có giá trị cả chữ Hán và chữ Nôm.
- Giới thiệu về “Đọc Tiểu Thanh kí” (Độc Tiểu Thanh kí): Đọc Tiểu Thanh kí là một trong số những sáng tác bằng chữ Hán tiêu biểu của Nguyễn Du, thể hiện cảm xúc, suy tư của ông về số phận bất hạnh của người phụ nữ. Đồng thời, qua đó giúp chúng ta có cảm nhận sâu sắc về tấm lòng nhân đạo của ông.
2. Thân bài
a. Hai câu đề
- Là một cảm nhận trực tiếp về cảnh vật ở Tây Hồ.
- Có sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại.
+ Quá khứ : Đẹp, phát triển, tươi tốt ( hoa uyển) vườn hoa.
+ Hiện tại : Thành gò hoang, bãi hoang, lụi tàn, buồn vắng, thê lương.
=> Câu thơ nhói lên nỗi buồn thương nhân tình thế thái; sự biến đổi của cảnh vật trong dòng chảy thời gian.
- Giống như cảnh đẹp Tây Hồ, cuộc đời của Tiểu Thanh cũng bị huỷ hoại, chỉ còn một vài bài thơ may mắn sót lại. Nhà thơ nuối tiếc, xót xa cho cảnh đẹp của Tây Hồ nay đã thành “bãi hoang” nhưng thực chất là sự xót xa, tiếc nuối cho Tiểu Thanh - người con gái tài sắc mà bạc mệnh.
- Phần dịch thơ đã đánh mất hai chữ “nhất” trong “nhất chỉ thư” và chữ “độc” trong “độc điếu” làm giảm đi ý nghĩa của câu thơ.
=> Thực ra, “nhất” là một mà “độc” cũng là một, nhưng nếu “nhất” là số từ chỉ số lượng thì “độc” là trạng từ chỉ tâm thế của nhà thơ. Việc dùng cùng một nghĩa qua hai từ khác nhau, Nguyễn Du như muốn nhấn mạnh sự cô đơn nhưng cũng nhấn mạnh cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Một trạng thái cô đơn gặp một kiếp cô đơn, bất hạnh => sự đồng cảm của Nguyễn Du.
=> Hai câu đề đã mở ra ngoại cảnh và tâm cảnh. Đó là cái khoảnh khắc, suy nghĩ, cảm nhận khi gặp gỡ một con người, một số mệnh.
b. Hai câu thực
- Chi phấn: đồ trang sức của phụ nữ
- Thần: là thần thái, thần sắc, ở đây chỉ nhan sắc, tài hoa và trí tuệ của nàng Tiểu Thanh.
- Vô mệnh: không có số mệnh
- Phần dư: phần thơ, phần còn sót lại không bị đốt của nàng Tiểu Thanh.
- Son phấn: sắc đẹp
- Văn chương: tài hoa
=> Ca ngợi sắc đẹp và tài năng của nàng Tiểu Thanh – một con người toàn diện.
- Son phấn – chôn / Văn chương – đốt: chôn, đốt là những động từ cụ thể hóa sự ghen ghét, sự vùi dập phũ phàng của người vợ cả với nàng Tiểu Thanh => thái độ của xã hội phong kiến không chấp nhận những con người tài sắc.
=> Triết lí về số phận con người trong xã hội phong kiến: tài hoa bạc mệnh, tài mệnh tương đố, hồng nhan đa truân,...cái tài, cái đẹp thường bị vùi dập.
=> Bên cạnh triết lí đó còn có sự ca ngợi, sự khẳng định trường tồn, bất tử của cái đẹp, tài năng (vẫn hận, còn vương).
=> Giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du, sự xót xa cho những người vì sắc, vì tài mà bị hủy hoại.
c. Hai câu luận
- “ Cổ kim hận sự”: mối hận xưa và nay, mối hận muôn đời, mối hận truyền kiếp -> mối hận của những người tài hoa bạc mệnh
=> Câu thơ mang tính chất khái quát cao. Nỗi hận kia không phải là nỗi hận của riêng nàng Tiểu Thanh, của Nguyễn Du mà là của tất cả những người tài hoa trong xã hội phong kiến.
- “Thiên nan vấn”: khó mà hỏi trời được => câu thơ thể hiện sự đau đớn, phẫn uất cao độ trước một thực tế vô lí: người có sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô độc (bởi vậy nên thường có sự đồng cảm trong những cuộc gặp gỡ giữa tài tử giai nhân).
- Kì oan: nỗi oan lạ lùng
- Ngã: ta (từ chỉ bản thể cá nhân táo bạo so với thời đại Nguyễn Du sống). Nguyễn Du không đứng bên ngoài mà nhìn vào nữa, mà giờ đây ông chủ động tìm sự tri âm với nàng, với những người tài hoa bạc mênh.
d. Hai câu cuối
- Sử dụng câu hỏi tu từ => Nguyễn Du khóc nàng Tiểu Thanh và băn khoăn, khóc cho chính mình. Nguyễn Du như muốn nói với Tiểu Thanh, hôm nay ta khóc nàng cách ta ba trăm năm. Ba trăm năm sau, ai là người khóc ta? Một câu hỏi da diết, câu hỏi lớn, đậm chất nhân văn. Nguyễn Du hỏi Tiểu Thanh mà như hỏi người, hỏi chính mình.
- Khấp (Khóc): tiếng khóc là dấu hiệu mãnh liệt nhất của tình cảm, cảm xúc thương thân mình, thân người trào lên mãnh liệt, không kìm nén được.
- Chữ “khấp” mà Nguyễn Du sử dụng trong câu thơ cuối rất tinh tế. Nó cụ thể hóa chữ “điếu” (viếng) ở câu thơ thứ 2. Ông không viết đơn thuần mà khóc cho Tiểu Thanh. Ông băn khoăn không biết hậu thế ai sẽ khóc cho ông.
=> Thể hiện nỗi cô đơn của của người nghệ sĩ. Ông thấy mình lạc lõng ở hiện tại và đã tìm thấy được một người tri kỉ ở quá khứ nhưng vẫn mong ngóng một tấm lòng trong tương lai.
=> Tấm lòng nhân đạo mênh mông vượt qua mọi không gian và thời gian.
3. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản:Thể hiện cảm xúc, suy tư của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của người phụ nữ có tài có sắc trong xã hội phong kiến. Chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du.
Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí - mẫu 1
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du có một loạt bài viết về các nhân vật lịch sử mà ở đó nhà thơ gửi gắm rất nhiều tâm sự. Đọc Tiểu Thanh kí (Độc Tiểu Thanh kí) là một bài thơ như thế. Bằng tiếng nói tri âm sâu sắc với một người con gái sống cách mình hơn 300 năm, Nguyễn Du muốn bày tỏ nhiều tâm sự về con người và cuộc đời trong bối cảnh hiện tại và vượt thời gian, mang dự cảm của mình tới 300 năm sau để tìm tri âm.
Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc có “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân).
Nguyễn Du đã đóng góp lớn về mặt tư tưởng, đồng thời có những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ Nôm Nguyễn Du thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai thể thơ dân tộc: lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh). Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển.
Tiểu Thanh là người phụ nữ thông minh, tài hoa, nhan sắc nhưng phận bạc. Nàng sống một cuộc đời ngắn ngủi đầy trái ngang. Di cảo còn sót lại của Tiểu Thanh với những vần thơ bị đốt dở là bằng chứng cho số phận oan nghiệt ấy, mà người đa cảm như Nguyễn Du khi đọc nó đã không thể cầm lòng. Nỗi “thổn thức” đã khiến thi nhân viết nên những dòng tuyệt tác trong Đọc Tiểu Thanh kí.
Trước hết Độc Tiểu Thanh kí là tiếng lòng nhân đạo cao cả, sâu sắc của Nguyễn Du. Bài thơ đã mở ra bằng hai hình ảnh biểu tượng cho sự biến thiên dâu bể của cuộc đời:
Tây Hồ cảnh đẹp hoá gò hoang.
Cảnh đẹp trước đây (hoa uyển) đã biến thành gò hoang (thành khư). Câu thơ xuất phát từ một thành ngữ Trung Quốc: “Thương hải biến vi tang điền” (Biển xanh biến thành nương dâu). Dẫu biết rằng: sinh - hoá, trụ - diệt,... vốn là lẽ thường, vốn là quy luật sao vẫn thấy có gì xót xa? Nhất là nơi ấy lại gắn với cuộc đời và số phận của Tiểu Thanh, một cuộc đời gợi bao nỗi cảm thương qua những vần thơ cháy dở.
Độc Tiểu Thanh kí có thể coi như một bài thơ viếng Tiểu Thanh. Câu thơ thứ hai đã hé mở: trong nỗi ngậm ngùi luyến tiếc, một mình viếng người đã khuất (độc điếu) qua một tập giấy mỏng (nhất chỉ thư). Tập giấy mỏng ấy là mảnh hồn Tiểu Thanh còn vương lại. Người chết cô đơn mà người viếng cùng cô đơn, một lòng đau tìm đến một hồn đau. Câu thơ với cách nói hàm súc đã vượt qua thời gian và sinh tử để tri âm.
Hai câu thơ tiếp vươn rộng tới nhiều lớp nghĩa:
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
“Son phấn” là biểu tượng của sắc đẹp, còn “văn chương” là bằng chứng của tài năng. Cái đẹp, cái tài ở đời là bất tử, là không có số mệnh, vậy mà vẫn bị “liên tử hậu”, “lụy phần dư”, vẫn luôn bị chà đạp phũ phàng, nghiệt ngã. Cuộc đời này quả là nhiều bất công, ngang trái.
Hận cho số kiếp Tiểu Thanh, hận cho muôn đời, muôn người. Trong cái hận của Tiểu Thanh có cái hận của muôn người và của bản thân nhà thơ. Thương người và thương mình. Nỗi hận, nỗi đau thương ấy thật khó mà hỏi trời (Cổ kim hận sự thiên nan vấn) đành ôm trọn vào lòng thành nỗi cô đơn. Câu thơ là một kết luận mang tính chất triết lí thấm đẫm nước mắt. Câu thơ tiếp theo giúp người đọc hiểu rõ hơn, sâu hơn tại sao Nguyễn Du viết về Tiểu Thanh mà lại da diết đến thế? Nguyễn Du khóc cho người cũng là khóc cho mình đó thôi.
Bài thơ khép lại bằng câu hỏi tu từ bộc lộ nỗi niềm trăn trở, dự cảm nhói buốt, cứ day cứa mãi vào tâm trạng người đọc các thế hệ:
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng ?
(Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?)
“Ba trăm năm lẻ” là một con số ước lệ chỉ mai sau khi nhà thơ đã chết cũng như hơn ba trăm năm sau cái chết của Tiểu Thanh vậy. Mai sau liệu có ai khóc cho Tố Như, cùng Tố Như khóc cho mỗi kiếp người dâu bể? Bài thơ với hai lần tự xưng (“ng” [tôi] và “Tố Như”) đã hé mở một cái “tôi” đang cô đơn đến tột độ, một cái “tôi” tự thương, tự đau. Nguyễn Du thương cho người xưa (quá khứ), thương cho mình và nhiều con người bất hạnh cùng thời với mình (hiện tại), thương cả cho người sau phải khóc mình nữa (tương lai). Đây chính là nỗi buồn sâu lắng về cuộc đời và cũng là một triết lý sâu sắc về kiếp người.
Hãy cứ đọc trực tiếp bài thơ từ phiên âm chữ Hán rồi lắng nghe âm điệu réo rắt đau thương cố kìm, cố nén của nó ta sẽ chạm được phần nào tới tiếng lòng của thi nhân. Bài thơ vượt lên cả những bản ai điếu thông thường bởi Nguyễn Du đâu chỉ viếng mộ cô hồn thuộc về quá khứ, Nguyễn Du khóc cho cả “thập loại chúng sinh” trong hiện tại và dòng lệ nhân văn thấm đẫm tình đời, tình người ấy đã tràn cả đến hậu thế. Phải thật tinh, thật sâu mới hiểu và cảm được tình thơ, ý thơ, câu chữ trong bài thơ bởi với thiên tài của mình, Nguyễn Du đã viết một cách hàm súc cao độ, mỗi từ đều có độ nén, sức nặng và sức bật để tạo nên những cộng hưởng trong lòng người.
Bụi thời gian có thể phủ mờ nhiều thứ nhưng những bài thơ được chất ra từ máu và nước mắt như Đọc Tiểu Thanh kí, được luyện bởi một thiên tài văn học như Nguyễn Du chắc chắn thời gian càng giúp thi phẩm đứng vững trong lòng người.
Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí - mẫu 2
Nguyễn Du - cái tên khi nhắc đến, người ta thường nghĩ ngay đến một tác phẩm vĩ đại: "Truyện Kiều". Điều đó không hề là ngẫu nhiên. "Truyện Kiều" là biểu tượng của sự thành công vĩ đại trong thơ ca tiếng Việt. Tuy nhiên, ngoài "Đoạn Trường Tân Thanh", Nguyễn Du còn để lại một dấu ấn sâu sắc trong thơ chữ Hán, có giá trị không kém. Những bài thơ như "Độc Tiểu Thanh Kí" là minh chứng rõ ràng cho sự tài năng vô song của ông. Trong tập "Thanh Hiên Thi Tập", bài thơ này nổi bật với vẻ trác tuyệt và diệu bút của đại thi hào Nguyễn Du.
Độc Tiểu Thanh Kí không chỉ là một tác phẩm thơ chữ Hán, mà còn là một bức tranh sâu sắc về sự đau thương, cảm thông của tác giả đối với những thân phận bất hạnh trong xã hội phong kiến. Như một vực sâu của nỗi đau và tình thương, bài thơ này thấm đượm cảm xúc của một người nghệ sĩ lớn đối diện với những bi kịch của cuộc đời.
Nàng Tiểu Thanh, một người phụ nữ với tài sắc xuất chúng, nhưng bị ràng buộc bởi những bất công và định kiến xã hội. Cuộc đời nàng đầy những sóng gió, như một bi kịch đau lòng của người tài hoa bị đày đọa bởi vận mệnh. Từ cuộc đời bi thương của Tiểu Thanh, Nguyễn Du đã lên tiếng tố cáo sự bất công, sự đau khổ trong xã hội, và đồng thời thể hiện lòng nhân ái sâu sắc của mình.
Nhìn vào bức tranh mà Nguyễn Du vẽ ra, ta không chỉ thấy sự đau đớn và nỗi thương cảm, mà còn nhận thấy sự phẫn uất và bức xúc trước sự bất công của thời đại. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, mà còn là một thông điệp về lòng nhân ái và sự chấp nhận, đồng thời là một lời kêu gọi cho sự công bằng và tự do.
Nhìn vào những dòng thơ đầy cảm xúc, ta không thể không cảm thấy rằng Nguyễn Du đã dành cho Tiểu Thanh, và cả những người phụ nữ khác, một tình cảm sâu nặng và một sự quan tâm chân thành. Đằng sau những từ ngữ tinh tế là những suy tư sâu xa về cuộc đời và xã hội, về sự đau khổ và hy vọng.
Như một ngọn đèn sáng soi đường cho thế hệ sau, bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí của Nguyễn Du vẫn tiếp tục lan tỏa sự ấm áp và ý nghĩa của lòng nhân ái, là một minh chứng cho sức mạnh của văn chương trong việc thể hiện và lan tỏa những giá trị nhân văn cao quý. Đó không chỉ là một bức tranh về cuộc đời, mà còn là một lời nhắc nhở về tình thương và hi vọng.
Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí - mẫu 3
Nguyễn Du là một cái tên mà nhắc đến thì ai cũng biết. Tên tuổi của ông thường gắn liền với Truyện Kiều thế nhưng ông còn nhiều sáng tác khác nữa. Có thể nói Nguyễn Du là một người có sự đồng cảm với những người phụ nữ đương thời. Chính vì thế những bài thơ của ông thường khóc cho số phận của những con người hồng nhan bạc mệnh. Ngoài Kiều ra thì chúng ta còn thấy Nguyễn Du khóc thương cho nàng tiểu Thanh đời nhà Minh qua tác phẩm độc tiểu thanh ký. Qua bài thơ Nguyễn Du thể hiện sự thương cảm cho những con người tài sắc nhưng bạc mệnh. Đồng thời qua đó ông thể hiện sự day dứt trăn trở cho số phận những người có tài trong đó có chính bản thân ông.
Cảnh Hồ Tây gắn liền với những với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn mà chết, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng.
Mở đầu bài thơ tác giả dựng lên một hình ảnh Hồ Tây đầy những u ám, nó không đẹp phảng phất ngây ngất nữa mà nó mang một nỗi niềm oan ức của người con gái đa tài có nhan sắc kia:
“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư. ”
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.)
Nhắc đến Tây Hồ người ta thường nghĩ đến những cảnh đẹp thế nhưng ở đây Nguyễn Du lại nói là gò hoang. Có thể nói ở đây ngày xưa đúng là một cảnh đẹp thật đấy nhưng giờ đây thì không. Nó chỉ còn lại một gò hoang vu mà thôi. ở nơi ấy nàng Tiểu Thanh đã mất đi và chính sự mất đi ấy đã làm cho cảnh vật nơi đây âm u tràn trong những uất ức mà cô phải chịu. Nó không còn đẹp nữa giống như người con gái ấy không còn nữa. Tây Hồ thành gò hoang cũng như cô ấy đã ra đi và giờ đây chỉ còn là một nắm xương khô mà thôi. Hai chữ “thổn thức” như gợi lên bao đau đớn buồn thương của người con gái ấy. Tiếng lòng Tiểu Thanh hay chính là tiếng lòng của Nguyễn Du. Ở đây có một sự đồng điệu về nhân vật và tác giả. Họ cùng chung một sự nghiệp văn chương cho nên trước sư ra đi của người tài giỏi Nguyễn Du đồng điệu tâm hồn mình.
Đến hai câu thơ sau chúng ta lại thấy được những linh hồn của cô nàng tài sắc ấy vẫn còn vấn vương trên cõi trần, vẫn ở đâu đó khiến cho nhà thơ cảm nhận được:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư:”
(Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.)
Son phấn ở đây chỉ nhằm nói đến Tiểu Thanh, son phấn để chỉ người phụ nữ bởi nó là một vật trang điểm khiến cho nhan sắc của những người phụ nữ thêm phần lộng lẫy và xinh đẹp hơn. Tác giả như cảm nhận thấy được cái thần thái của người con gái ấy vẫn còn đâu đây mặc dù bị chôn đi nhưng mà nỗi hận vẫn còn. Chính nhà thơ dùng tâm hồn đồng điệu của mình để cảm nhận được điều đó. Và chính cái chết ấy đã mang đi sự nghiệp văn chương của cô. Vốn dĩ nó còn được phát triển nữa nhưng thật sự không thể được vì cái người làm ra nó vì xinh đẹp mà bị giết hại. Có thể nói nhan sắc kia đã làm cho văn chương bị liên lụy. Thế nhưng những tác phẩm văn chương của nàng tiểu Thanh ấy dù bị đốt đi nhưng hãy còn vương. Văn chương đâu có mệnh có linh hồn vậy mà ở đây lại có. Tất cả để nói lên rằng linh hồn của tiểu Thanh.
Nhà thơ tiếp tục bày tỏ nỗi lòng mình với nàng Tiểu Thanh tài sắc trong hai câu thơ tiếp. có thể nói rằng những câu thơ như càng ngày càng thấm đẫm sự thương xót người xưa của nhà thơ. Từ đó ta thấy được nhà thơ đang như “thương người như thể thương thân” vậy:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.)”
Nỗi hận của nàng Tiểu Thanh là một nỗi hận kim cổ, câu thơ chứa đựng biết bao nhiêu tuyệt vọng. Không những thế Nguyên Du đã nâng nỗi hận của Tiểu Thanh thành nỗi hận của đời này truyền sang đời khác. Cái chết oan ức của Tiểu Thanh không thể hết oan ức được. Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh túy của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy? đúng là:
“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần”
Càng thương tiếc Tiểu Thanh bao nhiêu thì Nguyễn Du lại nghĩ đến bản thân mình bấy nhiêu:
“Bất tri tam bách dư niên hậu, .
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)
Nhà thơ lo lắng cho bản thân mình trước sự trôi chảy của cuộc đời. Rồi mai này Nguyễn Du cũng mất đi nhưng không biết rằng có ai khóc Tố Như không. Câu hỏi cất lên mang đầy sự trăn trở về số phận mình. Ba trăm năm con số ấy là rất dài nhưng đến ngày nay thì người ta đã nhớ đến Nguyễn Du rất nhiều rồi.
Qua đây ta thấy được sự thương cảm xót xa đồng điệu của những con người tài hoa bạc mệnh với nhau. Nguyễn Du quả thật là một nhà văn của người phụ nữ, ông không những có một tác phẩm về cuộc đời nàng Kiều mà ông còn thương cảm với nàng Tiểu Thanh bên Trung Quốc. Tóm lại nhà thơ viết lên bài thơ này một mặc để bày tỏ sự thương tiếc với người tài hoa nhưng bạc mệnh lại vừa thể hiện sự trăn trở về số phận của bản thân mình.
Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí - mẫu 4
Độc Tiểu Thanh kí là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du in trong Thanh Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài này trước hoặc sau khi được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc.
Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn mà chết, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng.
Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, lòng dạt dào thương cảm cô gái tài hoa bạc mệnh, đồng thời ông cũng bày tỏ nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao con người tài hoa khác trong xã hội cũ, trong đó có cả bản thân ông.
Phiên âm chữ Hán:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn;
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Dịch thơ Tiếng Việt:
Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Đến với Tiểu Thanh ba trăm năm sau ngày nàng mất, trong lòng nhà thơ Nguyễn Du dậy lên cảm xúc xót xa trước cảnh đời tang thương dâu bể:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,)
Câu thơ có sức gợi liên tưởng rất lớn. Cảnh đẹp năm xưa đã thành phế tích, đã bị hủy hoại chẳng còn lại gì. Trên gò hoang ấy chôn vùi nắm xương tàn của nàng Tiểu Thanh xấu số. Nói đến cảnh đẹp Tây Hồ, chắc hẳn tác giả còn ngụ ý nói về con người đã từng sống ở đây, tức Tiểu Thanh. Cuộc đời của người con gái tài sắc này cũng chẳng còn lại gì ngoài những giai thoại về nàng. Cảnh ấy khiến tình này nhân lên gấp bội. Trái tim của nhà thơ thổn thức trước những gì gợi lại một kiếp người bất hạnh:
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
(Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.)
Tiểu Thanh đã bày tỏ tâm trạng của mình qua những bài thơ đó như thế nào?
Chắc chắn là nỗi buồn tủi cho thân phận, nỗi xót xa cho duyên kiếp dở dang và thống thiết hơn cả là nỗi đau nhân tình không người chia sẻ. Tiếng lòng Tiểu Thanh đồng điệu với tiếng lòng Nguyễn Du nên mới gây được xúc động mãnh liệt đến thế. Nhà thơ khóc thương Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh, đồng thời cũng là khóc thương chính mình – kẻ cùng hội cùng thuyền trong giới phong vận.
Nguyễn Du có cảm giác là dường như linh hồn Tiểu Thanh vẫn còn vương vấn đâu đây. Nàng chết lúc mới mười tám tuổi trong cô đơn, héo hắt, đau khổ. Oan hồn của nàng làm sao tiêu tan được?
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
(Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.)
Ba trăm năm đã qua nhưng tất cả những gì gắn bó với nàng vẫn như còn đó. Chi phấn (son phấn) nghĩa bóng chi phụ nữ; tức Tiểu Thanh. Son phấn là vật để trang điểm, song nó cung tượng trưng cho sắc đẹp phụ nữ. Mà sắc đẹp thì có thần (thần chữ Hán cũng có nghĩa như hồn) nó vẫn sống mãi với thời gian như Tây Thi, Dương Quý Phi tên tuổi đời đời còn lưu lại. Nỗi hận của son phấn Cũng là nỗi hận của Tiểu Thanh, của sắc đẹp, của cái Đẹp bị hãm hại, dập vùi. Nó có thể bị đày đọa, bị chôn vùi, nhưng nó vẫn để thương để tiếc cho muôn đời.
Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói riêng và cũng là vẻ đẹp tinh thần của cuộc đời nói chung. Văn chương vô mệnh bởi nó đâu có sống chết như người? Ấy vậy mà ở đây, nó như có linh hồn, cũng biết giận, biết thương, biết cố gắng chống chọi lại bạo lực hủy diệt để tồn tại, để nói với người đời sau những điều tâm huyết. Dụ nó có bị đốt, bị hủy, nhưng những gì còn sót lại vẫn khiến người đời thương cảm, xót xa. Nhà thơ đã thay đổi số phận cho son phấn, văn chương, để chúng được sống và gắn bó với Tiểu Thanh, thay nàng nói lên nỗi uất hận ngàn đời. Hai câu thơ đầy ý vị ngậm ngùi, cay đắng, như một tiếng khóc thổn thức, nghẹn ngào.
Đến hai câu luận:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn;
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.)”
Nhà thơ tiếp tục bày tỏ niềm thương cảm của lòng mình. Câu thơ: cổ kim hận sự thiên nan vấn chứa đựng sự tuyệt vọng. Từ nỗi hận nhỏ là hận riêng cho số phận Tiểu Thanh, Nguyễn Du nâng cao, mở rộng thành nỗi hận truyền kiếp từ xưa tới nay của giới giai nhân tài tử. Tài hoa bạc mệnh, đó có phải là quy luật bất di bất dịch của Tạo hóa ? Là định mệnh rõ ràng khắt khe của số phận? Nếu đúng như thế thì nguyên nhân là do đâu? Trải mấy ngàn năm, điều đó đã tích tụ thành nỗi oán hờn to lớn mà không biết hỏi ai. Nỗi oan lạ lùng của những kẻ tài sắc như Tiểu Thanh cũng là nỗi oan của những người tài hoa bạc mệnh rõ ràng là vô lí, bất công, nhưng khó mà hỏi trời vì trời cũng không sao giải thích được (thiên nan vấn). Do đó mà càng thêm hờn, thêm hận.
Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh túy của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy? Nguyễn Du đã từng viết: Chữ tài liền với chữ tai một vần. Bởi thế nên phong lưu đã thành cái án chung thân mà khách (kẻ tài hoa) phải mang nặng suốt đời. Oái oăm thay, biết là vậy mà bao thế hệ văn nhân tài tử vẫn tự mang nó vào mình. Nguyễn Du đã nhập thân vào Tiểu Thanh để nói lên những điều bao đời nay vẫn cứ mãi băn khoăn, dằn vặt.
Càng ngẫm nghĩ, nhà thơ càng thương tiếc Tiểu Thanh và càng thương thân phận mình. Từ thương người, ông chuyển sang thương thân:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)
Câu hỏi đậm sắc thái tu từ cho thấy Nguyễn Du vừa băn khoăn vừa mong đợi người đời sau đồng cảm và thương cảm cho số phận của mình. Có thể hiểu ba trăm năm là con số tượng trưng cho một khoảng thời gian rất dài. Ý Nguyễn Du muốn bày tỏ là giờ đây, một mình ta khóc nàng, coi nỗi oan của nàng như của ta. Vậy sau này liệu có còn ai mang nỗi oan như ta nhỏ lệ khóc ta chăng? Câu thơ thể hiện tâm trạng cô đơn của nhà thơ vì chưa tìm thấy người đồng cảm trong hiện tại nên đành gửi hi vọng da diết ấy vào hậu thế. Hậu thế không chỉ khóc cho riêng Tố Như, mà là khóc cho bao kiếp tài hoa tài tử khác.
Nhà thơ thấy giữa mình và Tiểu Thanh có những nét đồng bệnh tương liên. Tiểu Thanh mất đi, ba trăm năm sau có Nguyễn Du thương xót cho số phận nàng. Liệu sau khi Tố Như chết ba trăm năm, có ai nhớ tới ông mà khóc thương chặng?
Câu thơ như tiếng khóc xót xa cho thân phận, thương mình bơ vơ, cô độc, không kẻ tri âm, tri kỉ; một mình ôm mối hận của kẻ tài hoa bạc mệnh giữa cõi đời. Dường như nhà thơ, đang mang tâm trạng của nàng Kiều sau bao sóng gió cuộc đời: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,/ Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
Mở đầu bài thơ là thương người, kết thúc bài thơ là thương thân. Tứ thơ không có gì lạc điệu bởi đến đây, Tiểu Thanh và Nguyễn Du đã hòa làm một – một số kiếp tài hoa mà đau thương trong muôn vàn số kiếp tài hoa đau thương trong xã hội phong kiến cũ.
Bài thơ cho thấy niềm thương cảm của Nguyễn Du đối với con người mênh mông biết chừng nào! Nó không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Nguyễn Du không chỉ thương người đang sống mà thương cả người đã khuất mấy trăm năm. Thương người, thương mình, đó là biểu hiện cao nhất của đạo làm người. Đời người hữu hạn mà nỗi đau con người thì vô hạn. Trái tim đa cảm của nhà thơ rất nhạy bén trước nỗi đau to lớn ấy. Giống như Truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí là đỉnh cao tư tưởng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.
Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí - mẫu 5
Trong gia tài thi ca phong phú của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bộ phận thơ chữ Hán có vai trò khá đặc biệt. Đó là những bài mà Nguyễn Du có thể trực tiếp bộc lộ những tâm tư, tình cảm; bày tỏ những day dứt trăn trở của mình. Trong bài thơ Độc Tiểu Thanh kí, những tâm sự ấy của Nguyễn Du lại có được sự tương đồng, gần gũi với cuộc đời, số phận tài sắc mà bất hạnh của Tiểu Thanh.
Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa nỗi thương người và sự thương mình, giữa sự xót thương cho kiếp người mệnh bạc và lòng trân trọng ngợi ca những phẩm chất cao đẹp của con người. Đó cũng là một phương diện quan trọng, sâu sắc trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du. Trong thơ văn trung đại, không phải ít hình ảnh những người phụ nữ “tài hoa bạc mệnh”, là nạn nhân của cái quy luật “hồng nhan đa truân”. Người cung nữ của Nguyễn Gia Thiều đa tài là thế:
Câu cẩm tú đàn anh họ Lý
Nét đan thanh bậc chị chàng Vương
Và:
Cờ tiên, rượu thánh ai đang
Lưu Linh, Đế Thích là làng tri âm
Nhưng rồi rốt cuộc cũng chỉ bị nhốt nơi cung cấm mà nuối tiếc quá khứ, chán nản hiện tại và lo sợ cho tương lai. Tuy nhiên, phải nói rằng chỉ đến Nguyễn Du mới xuất hiện cả một lớp người mang trọn cái số kiếp bạc mệnh ấy: Thuý Kiều, Đạm Tiên, người ca nữ đất Long Thành... Số phận của họ nằm trong mạch cảm hứng chung của Nguyễn Du và thể hiện tấm lòng nhân đạo bao la ở ông. Bởi thế dễ hiểu vì sao cuộc đời Tiểu Thanh - một người con gái xa về thời gian, cách về không gian lại nhận được sự cảm thông sâu sắc như thế từ nhà thơ. Tiểu Thanh cũng đầy đủ tài hoa, nhan sắc, nhất là tài hoa văn chương, thơ phú. Cuộc đời cuối cùng cũng vùi chôn trong nấm mồ khi đang độ xuân xanh tuổi trẻ. Phần tinh hoa để lại cho đời cũng tiêu tan chỉ vì cái lòng ghen tuông ích kỷ, tàn ác của người vợ cả. Sự biến đổi đau thương ấy của cuộc đời nàng như được hiện hữu trong cảnh vật:
Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
Trong nguyên văn, Nguyễn Du dùng chữ “tận” như muốn xóa sạch mọi dấu vết của cảnh đẹp Tây Hồ, tô đậm thêm ấn tượng hoang vắng, tàn tạ của gò hoang. Sự biến đổi tang thương của cảnh gợi mối thương tâm đến người. Cảnh đẹp Tây Hồ giờ chỉ còn gò hoang cũng như tất cả những gì còn lại của Tiểu Thanh tài sắc chỉ là một mảnh giấy tàn, là phần dư cảo. Nhưng chỉ từng ấy thôi cũng đủ để nhà thơ một mình thương cảm, xót xa mà khóc cho đời hồng nhan. Tiểu Thanh trong đời thực 300 năm trước cũng như nàng Kiều, người ca nữ đất Long Thành đều phải hứng chịu:
Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu
(Truyện Kiều)
Tài sắc của những con người ấy thì được ngợi ca là những giá trị tinh thần cao đẹp nhưng bản thân họ thì lại bị đày đọa, chà đạp. Nguyễn Du với tấm lòng nhân đạo bao la sâu sắc của mình đã thể hiện một sự đồng cảm, xót thương hết sức chân thành với số phận Tiểu Thanh. Đây là một nét mới mẻ trong Chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du. Đối tượng mà Nguyễn Du thương cảm, quan tâm không chỉ là “thập loại chúng sinh” đói nghèo đau khổ. Rất nhiều tình cảm của ông hướng về những kẻ tài hoa.
Chính số kiếp của Tiểu Thanh tạo nên cái mối hận ngàn năm để Nguyễn Du nhắc đến trong hai câu luận:
Mối hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang
Mối hận ấy hỏi trời không thấu, hỏi đất không hay, chỉ có những kẻ cùng hội cùng thuyền là có thể cùng nhau than thở. Nguyễn Du tự nhận mình cũng mắc cái nỗi oan kỳ lạ vì nết phong nhã tài hoa. Nói cách khác sự đồng cảm lớn lao của Nguyễn Du dành cho Tiểu Thanh có được bởi Nguyễn Du là người đồng cảnh. Lòng thương người khởi phát từ sự thương mình nên càng chân thực và sâu sắc. Đúng như Mộng Liên Đường chủ nhân Nguyễn Đăng Tuyến từng nhận xét rằng: “Thúy Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như thì làm truyện Thúy Kiều, việc tuy khác nhau mà lòng thì là một, người đời sau thương người đời nay, người đời nay thương người đời xưa, hai chữ tài tình thật là cái mối thông lụy của bọn tài tử khắp trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy”. Quả thực cái sự vô tình, trớ trêu của tạo hóa với những kẻ tài năng đã trở thành mối hận của muôn đời và khắp chốn.
Như vậy, tình thương của Nguyễn Du đối với Tiểu Thanh là tình cảm của những người tuy xa cách về hoàn cảnh nhưng lại tương đồng trong cảnh ngộ. Từ nỗi thương mình mà xót xa cho người. Và từ sự thương cảm cho người lại tiếp tục gợi lên bao băn khoăn, day dứt cho kiếp mình. Bởi một lẽ, Tiểu Thanh rốt cuộc còn có được một Nguyễn Du tri âm tri kỷ rỏ lệ xót xa. ít hay nhiều linh hồn văn chương, nhan sắc, tài hoa “hữu thần” ấy còn có được sự an ủi. Nhưng còn Nguyễn Du, cũng là kẻ “tài tử đa cùng” lắm sự lận đận gian nan thì 300 năm sau biết còn ai trong thiên hạ tưởng nhớ, tiếc thương. Đó là cái tâm sự băn khoăn không thể có lời giải đáp mà chỉ nhờ qua trường hợp Tiểu Thanh, Nguyễn Du mới có cơ hội suy ngẫm và gửi gắm.
Bài thơ có kết cấu đặc biệt: hai câu đầu là cảnh vật, sự kiện, còn 6 câu sau nặng một khối tình. Khối tình ấy xét riêng ra thì là sự xót xa cho số kiếp Tiểu Thanh và những băn khoăn về cuộc đời chính tác giả. Nhưng ở tầng sâu khái quát nó là nỗi niềm của cả một lớp kẻ sĩ tài hoa, tài tử mà nhân ái bao la.
Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí - mẫu 6
Nguyễn Du, một danh nhân văn hóa mà tên tuổi ai cũng đã nghe qua, không chỉ nổi tiếng với kiệt tác Truyện Kiều mà còn để lại dấu ấn qua nhiều tác phẩm khác. Ông là một nhà văn nhạy cảm, đồng cảm với số phận của phụ nữ trong xã hội thời đại ông. Các bài thơ của Nguyễn Du thường đượm buồn khi kể về số phận bi đắng của những người phụ nữ kiệt xuất.
Ngoài câu chuyện của Kiều, ta còn gặp Nguyễn Du trong bức tranh thê thảm của nàng tiểu Thanh thời nhà Minh qua tác phẩm độc tiểu thanh ký. Trong những bài thơ của ông, sự thương cảm dành cho những con người tài năng nhưng đau khổ được thể hiện rõ. Đồng thời, ông cũng lên tiếng về sự lo lắng, trăn trở về số phận của những tài năng, bao gồm cả bản thân ông.
Cảnh Hồ Tây gắn liền với hồi ức về nàng Tiểu Thanh, người phụ nữ tài năng và xinh đẹp sống vào thời đầu nhà Minh. Dù sở hữu nhan sắc và tài năng, nhưng với số phận éo le, nàng buộc phải lấy một thương gia giàu có tại Chiết Giang. Sự ghen tuông và áp đặt từ phía vợ cả khiến nàng bị giam cầm trong ngôi nhà trên núi Cô Sơn. Tiểu Thanh ghi lại tâm trạng của mình trong những bài thơ, nhưng không lâu sau, cô buồn bã mất đi, khi mới chỉ 18 tuổi. Vợ cả vẫn ghen tỵ và đốt hết tập thơ của nàng, may mắn chỉ còn lại một số ít được ghi lại với tựa đề Phần dư, tái hiện câu chuyện đau buồn của nàng.
Nguyễn Du mở đầu bài thơ bằng việc tái hiện Hồ Tây với một góc nhìn u ám hơn, không còn nguyên vẹn như hình ảnh đẹp nguyên thủy mà thường được biết đến. Nơi đây đã trở thành biểu tượng cho sự mất mát của nàng Tiểu Thanh và sự u ám của tâm hồn cô. Cảnh đẹp đã chuyển biến thành một cảnh u ám, giống như số phận bi thảm của người phụ nữ ấy. Sự mất mát của Tiểu Thanh không chỉ là sự mất mát của cá nhân mà còn là sự mất mát của một phần của xã hội, và Nguyễn Du biểu hiện điều này qua từ "thổn thức", thấu hiểu và chia sẻ nỗi đau của nhân vật.
Trong hai câu thơ tiếp theo, tác giả vẫn cảm nhận được tinh thần vương vấn của Tiểu Thanh trên cõi đời. Bằng cách mô tả "son phấn có thần", Nguyễn Du nói lên việc tâm hồn của Tiểu Thanh vẫn còn tồn tại, dù thân xác đã lìa xa. Tác giả đồng cảm với nỗi hận thù và sự mất mát của người phụ nữ này, và thông qua đó, ông thể hiện sự đồng điệu tâm hồn giữa mình và Tiểu Thanh.
Trong các câu thơ sau, nỗi hận thù của Tiểu Thanh không chỉ là nỗi hận thù cá nhân mà còn trở thành biểu tượng cho sự bất công của đời sống. Sự oan trái trong số phận của Tiểu Thanh không chỉ kết thúc tại cái chết của cô, mà còn tiếp tục với việc bị quên lãng và bị hủy hoại các tác phẩm của mình. Nguyễn Du đặt ra câu hỏi sâu xa về sự bất công và vận mệnh của con người, và thông qua đó, ông cảm nhận sự đồng điệu về số phận giữa mình và Tiểu Thanh.
Như vậy, bài thơ của Nguyễn Du không chỉ là sự thể hiện của tình cảm thương xót đối với những người tài năng mà còn là sự trăn trở về số phận của bản thân và của nhân loại. Ông không chỉ là nhà văn của người phụ nữ mà còn là người đồng cảm với mọi hình thái của sự đau khổ và bất công trong xã hội.
Thuyết minh Độc Tiểu Thanh kí - mẫu 7
Khi nhắc đến Nguyễn Du, người ta thường ngẩng đầu nhớ đến một tác phẩm vĩ đại của văn học Việt Nam - Truyện Kiều. Điều đó không phải là ngẫu nhiên, vì Truyện Kiều thực sự là một biểu tượng của thơ ca tiếng Việt. Tuy nhiên, ngoài Truyện Kiều, Nguyễn Du còn để lại nhiều tác phẩm chữ Hán đáng giá, những tác phẩm đậm chất nhân văn, gợi lên những cảm xúc sâu lắng trong lòng người, không khác gì những giai điệu buồn bã trong khúc hát của những người nghệ sĩ tài hoa. Trong số đó, Độc Tiểu Thanh Kí là một bài thơ chữ Hán tuyệt vời, sáng tác bởi đại thi hào Nguyễn Du, được thu vào Thanh Hiên Thi Tập.
Độc Tiểu Thanh Kí không chỉ là một tác phẩm văn chương, mà còn là một thông điệp sâu sắc về lòng đồng cảm của tác giả trước những nỗi đau, những khổ đau của những tài năng bị bất công trong xã hội phong kiến. Bài thơ này kể về cuộc đời bi thảm của Tiểu Thanh, một người phụ nữ tài sắc, nhưng bị số phận bất công trói buộc. Chính lòng gan của Tiểu Thanh đã gợi lên những dòng thơ chân thành, đầy bi thương, uất hận, nhưng đồng thời cũng tràn ngập tình yêu thương và cảm thông.
Nỗi đau của Tiểu Thanh không chỉ là nỗi đau riêng của một người con gái, mà còn là nỗi đau của nhiều người phụ nữ tài sắc khác, những người phải chịu đựng sự ghen tuông, đố kỵ từ người khác. Cuộc sống của họ trở nên như những bức tranh u buồn, mong manh và yếu đuối, nhưng đồng thời cũng rất đẹp và đầy ý nghĩa.
Nguyễn Du đã lồng ghép những cảm xúc, những suy tư sâu sắc về nhân quả, về cuộc sống, và về bản thân mình vào bài thơ Độc Tiểu Thanh Kí. Qua đó, ông đã khơi dậy lòng đồng cảm của độc giả và để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Một tấm lòng nhân từ, tràn đầy cảm thông, một tấm lòng của một nhà thơ vĩ đại, đã được thể hiện qua những dòng thơ trăn trở, bi thương của Nguyễn Du.
Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:
- Thuyết minh Đồng Chí
- Thuyết minh Lăng Bác
- Thuyết minh Lão Hạc
- Thuyết minh lễ hội
- Thuyết minh mì Quảng
Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.
Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều


Giải bài tập SGK & SBT
Tài liệu giáo viên
Sách
Khóa học
Thi online
Hỏi đáp

