Top 5 Văn chương có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ (điểm cao)
Đề bài: Trong một bức thư bàn luận về văn chương, Nguyễn Văn Siêu có viết:
"Văn chương … có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người". Hãy phát biểu ý kiến về quan niệm trên.
- Dàn ý Nghị luận Văn chương có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ
- Nghị luận Văn chương có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ - mẫu 1
- Nghị luận Văn chương có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ - mẫu 2
- Nghị luận Văn chương có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ - mẫu 3
- Nghị luận Văn chương có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ - mẫu 4
- Nghị luận Văn chương có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ - mẫu 5
Top 5 Văn chương có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ (điểm cao)
Dàn ý Nghị luận Văn chương có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ
1. Mở bài: Giới thiệu Nguyễn Văn Siêu đã nêu lên một quan niệm văn chương xác đáng và thuyết phục: "“Văn chương ... là loại chuyên chú ở con người”
2.Thân bài:
a. Giải thích ý kiến của Nguyễn Văn Siêu
- Văn chương có hai loại: loại “đáng thờ" và loại “ không đáng thờ''
- Văn chương “không đáng thờ" là loại văn chương chỉ chuyên chú ở "văn chương", nghĩa là chỉ quan tâm đến việc gọt đẽo ngôn từ, chạy theo cái đẹp hình thức...
- Văn chương "đáng thờ" là loại văn chương “chuyên chú ở con người", quan niệm “văn học là nhân học", văn chương là cuộc đời...
b. Bình luận, đánh giá, để xuất ý kiến
- Trong thực tế một tác phẩm văn học nghệ thuật luôn luôn có hai mặt không thể tách rời nhau: nội dung và hình thức. Không thể nào khác được.
- Quan niệm của “Thân Siêu"còn đề cao “chữ tâm" của người cầm bút đúng như Nguyễn Du từng nhấn mạnh: Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài (Truyện Kiều).
- Ngày nay, cần xác định rõ khái niệm “con người' - đối tượng phục vụ của văn chương phải là con người lao động, nhân dân lao động chứ nhất định không thể là con người chung chung, trừu tượng, siêu hình.
3. Kết bài:
- Khẳng định lại quan niệm của Nguyễn Vãn Siêu về văn chương
- Quan niệm đó vẫn còn giữ nguyên giá trị tới hôm nay. Chúng ta tiếp tục xây dựng, phát triển nền văn học chuyên chú ở con người với nhiều tác phẩm, không chỉ có nội dung và tư tưởng sâu sắc mà còn có hình thức nghệ thuật hấp dẫn lôi cuốn.
Nghị luận Văn chương có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ - mẫu 1
Từ xa xưa, văn chương đã xuất hiện và phát triển song song với lịch sử xã hội loài người. Trong kho tàng văn học nhân loại, có biết bao nhiêu kiệt tác mà giá trị đã vượt qua giới hạn không gian, thời gian để trở thành bất hủ. Ấy thế nhưng rất nhiều thế hệ cầm bút vẫn không nguôi trăn trở về ý nghĩa và giá trị đích thực của văn chương.
Đầu thế kỉ XX, trên văn đàn nước ta diễn ra những cuộc tranh luận gay gắt giữa các quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau về văn chương, tiêu biểu là hai trường phái: Nghệ thuật vị nghệ thuật và Nghệ thuật vị nhân sinh. Tuy nhiên, từ cuối thế kỉ XIX, danh sĩ Nguyễn Văn Siêu đã khẳng định: Văn chương… có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người. Nhận định đúng đắn này rất gần gũi với quan điểm: Mục đích tối thượng của văn học là phục vụ con người, phục vụ nhân sinh.
Thế nào là loại văn chương chỉ chuyên chú ở văn chương? Đó là loại văn chương chỉ chú trọng về mặt nghệ thuật, coi nghệ thuật là trên hết, thậm chí tôn sùng nghệ thuật như một tôn giáo kì bí. Người cầm bút chỉ lo trau chuốt cho vẻ đẹp hình thức của tác phẩm chứ không quan tâm tới nội dung tư tưởng có liên quan đến vận mệnh con người và trách nhiệm của nhà văn, nhà thơ đối với xã hội hay không. Những sáng tác như thế đều không chịu nổi thử thách nghiêm ngặt của thời gian và dư luận. Bài thơ vịnh Mùa thu sau đây của tác giả Ngô Chỉ Lan thế kỉ XV toàn là hình ảnh tượng trưng, ước lệ vay mượn từ thơ Đường, thơ Tống, như: gió vàng, bông nhạn, giống ngọc, rừng phong:
Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,
Lồ tổ bôn trời bóng nhạn thưa,
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm,
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa.
Cho đến khi trào lưu Thơ mới xuất hiện và phát triển, làm chủ thi đàn Việt Nam vào những năm ba mươi, bốn mươi của thế kỉ XX thì không ít thi sĩ vẫn quan niệm rằng văn chương chỉ là văn chương. Thế Lữ lúc đầu khẳng định mình chỉ tôn sùng Cái Đẹp:
Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp cỏ muôn hình, muôn thể
Mượn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ
Và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca
(Cây đàn muôn điệu)
Trong bài thơ trên, Thế Lữ cho rằng thi nhân, nghệ sĩ là những khách tình si ham mô Cái Đẹp. Thiên chức duy nhất và cao cả nhất của nghệ sĩ là đi tìm Cái Đẹp, phụng sự Cái Đẹp chứ không bận tâm đến những vấn đề thiết thực của con người và xã hội. Thi sĩ muốn được sống trên cõi tiên để xa lánh cuộc đời trần tục và coi đó là biểu hiện của thái độ thoát li thực tại. Thơ văn ấy tuy đẹp, tuy hay nhưng nó xa lạ với dân tộc đang phải sống đói khổ, tủi nhục dưới ách nô lệ của thực dân, phong kiến.
Cực đoan hơn nữa, một vài nhà thơ, nhà văn theo quan niệm văn chương chỉ chuyên chú ở văn chương đã phủ nhận nội dung tư tưởng và giá trị nhân sinh trong tác phẩm. Hoặc khẳng định thơ không cần phải có nội dung, ý nghĩa cụ thể mà thơ là nghệ thuật của âm thanh, hình ảnh; thậm chí chỉ là ảo thuật của ngôn từ mà thôi.
Còn thế nào là văn chương chuyên chú ở con người? Đó là loại văn chương quan tâm trước hết đến số phận con người và cuộc sống, luôn hướng tới mục đích phục vụ con người. Các nhà văn, nhà thơ theo quan điểm này cho rằng giá trị của văn chương là ở chỗ nó có ích cho cuộc đời nhiều hay ít, gần hay xa. Đây chính là quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh. Các tác phẩm thuộc trào lưu hiện thực và cách mạng, kể cả một số tác phẩm thuộc trào lưu lãng mạn có nội dung tích cực cũng được viết theo quan điểm đúng đắn này.
Văn chương chân chính phải phục vụ con người, phải phản ánh được đời sống vật chất, tinh thần của con người với những niềm vui, nỗi đau muôn thuở. Nhà thơ Tố Hữu khẳng định: Văn học không chỉ là văn chương mà thực chất là cuộc đời. Văn học sẽ không là gì cả nếu không vì cuộc đời mà có. Cuộc đời là nơi xuất phát, cũng là nơi đi tới của văn học. Cách đây hơn một trăm năm, nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu cũng đã nêu rõ chức năng của văn học và trách nhiệm xã hội của người cầm bút:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Đạo ở đây là nhân nghĩa, là yêu nước, thương dân. Văn chương là con thuyền chở đạo (đạo lí làm người) và ngòi bút là vũ khí sắc bén để trừ gian, diệt ác, cứu đời, cứu người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, phát triển và nâng cao ý nghĩa của quan niệm tích cực ấy trong bài cảm tưởng đọc Thiên gia thi:
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
Theo Bác thì văn chương phải là vũ khí chiến đấu để cải tạo, xây dựng xã hội và văn nghệ sĩ là người chiến sĩ đứng trong hàng ngũ cách mạng, cống hiến, hi sinh để bào vệ chủ quyền độc lập tự do của đất nước, hạnh phúc của nhân dân.
Loại văn chương đáng thờ mà Nguyễn Văn Siêu nhắc tới chính là văn chương viết về con người, phục vụ con người. Ý kiến này của ông rút ra từ hiện thực nền văn học nước nhà nên hoàn toàn xác đáng. Có ý kiến cho rằng: Văn học không chỉ phải chân thực, sâu sắc, nhân đạo mà còn phải hay, phải đẹp. Vậy hai ý kiến này có mâu thuẫn với nhau chăng?
Như trên đã nói, con người là trung tâm của cuộc sống mà văn chương lại là tấm gương phản chiếu cuộc sống. Nếu văn chương không đề cập tới con người thì nó sẽ không có giá trị; Mặt khác, giá trị nội dung và nghệ thuật của văn chương luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. Nội dung chi phối và lựa chọn hình thức thể hiện. Do vậy mà không có nội dung thì cũng không thể có hình thức. Xét cho cùng, chất lượng nghệ thuật của tác phẩm chủ yếu là ở chỗ nó đã thể hiện nội dung tác phẩm như thế nào? Văn chương sáng tạo ra Cái Đẹp mà Cái Đẹp lại chính là sự sống. Không có Cái Đẹp thuần túy, trừu tượng chẳng liên quan gì đến cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Phản ánh con người chính là cách thức duy nhất để văn chương đến với Chân, Thiện, Mĩ của cuộc đời.
Một tác phẩm có giá trị lâu dài nghĩa là phải vừa hay, vừa đẹp. Nhà văn sáng tạo ra nó phải thực sự có tài năng và tâm huyết. Cái tâm chính là tấm lòng là tình người, tình đời của người cầm bút. Cái tâm mới là gốc rễ bền vững làm nên mọi giá trị thực sự của văn chương chân chính.
Lòng thương yêu, cảm phục người nông dân yêu nước giúp nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu dựng nên một tượng đài hùng tráng về người nghĩa sĩ nông dân trong lịch sử văn học Việt Nam. Sự đau xót chân thành trước số phận bi thảm của con người lương thiện; thái độ bất bình, căm phẫn xã hội phong kiến thối nát, bất công là cơ sở để thi hào Nguyễn Du viết nên một Truyện Kiều bất hủ, bởi đó là tác phẩm chuyên chú ở con người. Những tác phẩm như Đời thừa, Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt… và đặc biệt là Chí Phèo của Nam Cao là lời kêu cứu hãy bảo vệ con người, hãy chặn đứng bàn tay tội ác tha hóa con người. Phần tích cực, trong sáng của Thơ mới cũng được coi là tiếng nói trẻ trung, yêu đời tha thiết, yêu tiếng Việt sâu xa. Thế hệ trẻ sẽ không bao giờ quên thơ Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Huy Cận, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư… Những tác phẩm như thế chính là loại văn chương đáng thờ vậy.
Ý kiến trên đây của danh sĩ Nguyễn Văn Siêu tiêu biểu cho quan điểm nghệ thuật truyền thống của dân tộc ta. Chính với quan điểm văn chương chuyên chú ở con người mả ông cha ta đã xây dựng được một nền văn học đầy sức sống và giàu chất nhân văn. Nền văn học ấy là cơ sở vững chắc cho sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của văn chương hiện đại.
Nghị luận Văn chương có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ - mẫu 2
Mỗi người nghệ sĩ tùy theo phong cách nghệ thuật cá tính sáng tạo và tư tưởng thẩm mĩ mà có những quan niệm riêng về văn chương. Có người cho rằng văn chương không phải từ người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho, mà văn chương phải là sự khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có. Hay có người lại cho rằng văn chương phải là sự thoát ly hay lãng sự lãng quên, nhưng cũng có người cho rằng văn chương phải là những sự thật ở đời,phải là những tiếng đau khổ phát ra từ những kiếp lầm than. Với Nguyễn Văn Siêu, ông cho rằng “Văn chương … có loại đáng nhớ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người ”. Nguyễn Văn Siêu đã bày tỏ quan điểm của mình về văn chương. Theo ông thì văn chương có hai loại là văn chương đáng thờ và văn chương không đáng thờ. Văn chương không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú văn chương, còn văn chương đáng thờ là loại chuyên chú ở con người.
Vậy chúng ta hiểu như thế nào về văn chương chỉ chuyên chú ở văn chương? Văn chương chuyên chú ở văn chương là loại văn chương không có nhiều ý nghĩa đối với con người. Những tác phẩm kiểu này giống như một bài hát nghe thì có vẻ dễ nghe, bắt tai nhưng ngôn từ của nó thì lại chẳng có ý nghĩa gì, chỉ một vài ba câu chữ ghép hết sức giản đơn và tẻ nhạt. Sức mạnh của văn chương đã được rất nhiều người khẳng định, Thạch Lam từng nói văn chương là “một thứ khí giới thanh cao mà đắc lưc” nó khiến cho tâm hồn con người thanh lọc và cũng vạch trần xã hội giả dối. Thế nhưng khi văn chương không chuyên chú đến con người thì đó không còn là văn chương thực sự nữa. Vì văn chương có chức năng giáo dục, nhận thức mà thẩm mỹ đối với con người. Thực tế cho thấy, khi xã hội phát triển những câu chuyện ngắn trên mạng được đăng tràn lan. Ở đó ta có thể bắt gặp những câu chuyện về tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình. Nhưng với cách viết chú trọng vào hình thức văn bản mà không chú trọng đến nội dung ý nghĩa của nó. Vả lại trước khi viết một tác phẩm hay làm bất cứ một việc gì việc đầu tiên chúng ta cần xác định chính là đối tượng của tác phẩm ấy là ai. Nếu không xác định được điều đó thì một tác phẩm văn chương viết ra chẳng dành cho ai, chẳng biết là dành cho độ tuổi nào thì đó không phải là loại văn chương đáng để con người ta tôn thờ.Thể loại văn chương này chỉ chạy theo thị hiếu của con người, nó sáo rỗng vô cùng.
Ngược lại chúng ta có thể hiểu rằng văn chương đáng được tôn thờ là văn chương chuyên chú ở con người. Đó là những tác phẩm thực sự có giá trị nghệ thuật , giá trị nhân văn sâu sắc. Nguyễn Văn Siêu đã rất đúng đắn khi đặt ra một yêu cầu cho văn chương chân chính đó phải là tiếng nói hơi thở của cuộc sống đời thường đưa ra nhiệm vụ phản ánh hiện thực cho văn chương. Yêu cầu này đòi hỏi ở nhà văn một sự tinh tế nhạy cảm thức nhận các giác quan rất cao để có thể quân sự cuộc sống nhập thân vào cuộc sống để khám phá tìm tòi. Một tác phẩm ưu tú "không đem đến một cách cho người đọc sự thoat ly hay sự quên" nó đem đến cho người đọc hơi thở nhịp đạp của chính cuộc đời cho người đọc những "bài học trông nhìn và thưởng thức" (Theo dòng). "Tác phẩm văn nghệ phải thể hiến sự sống thật hơn là sự sống bình thường cô đọng hơn khái quát hơn cao hơn cuộc sống mà văn là cuộc sống" (Trường Chinh). Người nghệ sĩ phải nhận thức phản ánh cuộc sống có lý tưởng chứ không phải mình họa lý tưởng cuộc sống. Lý tưởng nằm ngay trong cuộc sống chứ không tách ra khỏi cuộc sống không khiến người ta toát ly hay quên lãng. Văn chương chân chính không phải là công thức sao chép nô lệ hiện thực mà phải thể hiện sự sáng tạo độc đáo nghiêm túc của ngời nghệ sĩ. Quá trình sáng tạo ấy là quá tình nhà văn gom góp nhặt nhạnh chắt chiu những mảnh đời những số phận thu nhận vào mình muôn vẻ của cuộc sống ngoài kia để trải nghiệm chúng. Chỉ có công phu và sáng tạo như vậy tác phẩm văn chương mới chở đi được linh hồn của cuộc sống bắt người đọc phải hướng về cuộc đời mà tìm kiếm khám phá say mê. Văn chương chân chính nhất định không phải là thứ văn dễ dãi người đọc không hiểu gì. Trong nền văn học Việt Nam ta có biết bao nhiêu tác phẩm văn chương đáng tôn thờ vì nó luôn chú trọng đến con người. Ví dụ như Vợ Nhặt của Kim Lân là văn chương đáng tôn thờ vì tác phẩm ca ngợi được vẻ đẹp tình thương mến lá lành đùm lá rách của nhân dân ta luôn tỏa sáng kể cả trong hoàn cảnh khó khăn của nạn đói. Đó còn là vẻ đẹp đất nước, sự tự hào về truyền thống văn hóa, về tinh thần yêu nước và căm thù giặc, về tự tôn dân tộc, chủ quyền lãnh thổ trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Từ thời Nguyễn Trãi, Nguyễn Du với tác phẩm Bình Ngô đại cáo, Truyện Kiều cho đến Hồ Chí Minh, Nam Cao, Tố Hữu… đều lấp lánh những áng văn chương đáng tôn thờ đến ngàn đời.
Như vậy, có thể thấy Nguyễn Văn Siêu thật tinh tế và đưa ra được quan điểm đúng đắn về văn chương. Để rồi, người viết cũng như người đọc biết cách sáng tạo, lựa chọn những tác phẩm văn chương thực sự hữu ích, có ý nghĩa, những tác phẩm văn chương đáng được tôn thờ.
Nghị luận Văn chương có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ - mẫu 3
Sách là một nguồn tri thức quý báu của nhân loại nhưng cũng có loại sách xấu và loại sách tốt, con người sống ở đời cũng có người xấu và người tốt. Văn chương cũng vậy, nó cũng có loại đáng tôn thờ và loại không đáng tôn thờ. Bàn về văn chương, Nguyễn Văn Siêu từng nhân định rằng: “Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”.
Xét nhận định trên ta có thể thấy rằng tác giả muốn thể hiện quan niệm của mình về văn chương. Không phải cứ văn chương là nên tôn thờ, không phải một tác phẩm văn chương nào cũng hướng cho con người ta đến những giá trị tốt đẹp. Nếu như người viết chỉ chú trọng vào những câu văn xáo rỗng, để ý tới nghệ thuật nhiều hơn là nội dung, câu văn mỹ miều nhưng lại không hề có ý nghĩa thì đó không phải là tác phẩm mà ta đáng tôn thờ. Trái lại những tác phẩm văn chương mà chú trọng đến con người, lấy nghệ thuật và nội dung để chuyển tải những triết lí sống, những cuộc đời của con người thì đó mới là văn chương đáng tôn thờ.
Văn chương chuyên chú ở văn chương là loại văn chương không có nhiều ý nghĩa đối với con người. Những tác phẩm kiểu này giống như một bài hát nghe thì có vẻ bắt tai đấy nhưng ngôn từ của nó thì lại chẳng có ý nghĩa gì, chỉ một vài ba câu chữ ghép lại chẳng có ý nghĩa mấy. Sức mạnh của văn chương đã được rất nhiều người khẳng định, Thạch Lam từng nói văn chương là “một thứ khí giới thanh cao mà đắc lưc” nó khiến cho tâm hồn con người thanh lọc và cũng vạch trần xã hội giả dối. Thế nhưng khi văn chương không chuyên chú đến con người thì đó không còn là văn chương thực sự nữa. Vì văn chương có chức năng giáo dục, nhận thức mà thẩm mỹ đối với con người. Thực tế cho thấy, khi xã hội phát triển những câu chuyện ngắn trên mạng được đăng tràn lan. Ở đó ta có thể bắt gặp những câu chuyện về tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình. Nhưng với cách viết chú trọng vào hình thức văn bản mà không chú trọng đến nội dung ý nghĩa của nó. Vả lại trước khi viết một tác phẩm hay làm bất cứ một việc gì việc đầu tiên chúng ta cần xác định chính là đối tượng của tác phẩm ấy là ai. Nếu không xác định được điều đó thì một tác phẩm văn chương viết ra chẳng dành cho ai, chẳng biết là dành cho độ tuổi nào thì đó không phải là loại văn chương đáng để con người ta tôn thờ.
Trái lại, những tác phẩm văn chương đáng tôn thờ là những tác phẩm biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa nội dung và nghệ thuật, lấy cái nghệ thuật để làm nổi bật nội dung, ý nghĩa và tư tưởng cảm quan của mình. Một tác phẩm văn chương đáng tôn thờ bao giờ cũng xác định được đối tượng trước khi viết. Những tác phẩm văn chương ấy phải hướng đến con người, không văn hoa sáo rỗng, không mơ mộng, không dùng những câu văn mỹ miều mà chẳng có ý nghĩa gì. Trong nền văn học Việt Nam ta có biết bao nhiêu tác phẩm văn chương đáng tôn thờ vì nó luôn chú trọng đến con người. Ví dụ như Vợ Nhặt của Kim Lân là văn chương đáng tôn thờ vì tác phẩm ca ngợi được vẻ đẹp tình thương mến lá lành đùm lá rách của nhân dân ta luôn tỏa sáng kể cả trong hoàn cảnh khó khăn của nạn đói. Đó còn là vẻ đẹp đất nước, sự tự hào về truyền thống văn hóa, về tinh thần yêu nước và căm thù giặc, về tự tôn dân tộc, chủ quyền lãnh thổ trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Từ thời Nguyễn Trãi, Nguyễn Du với tác phẩm Bình Ngô đại cáo, Truyện Kiều cho đến Hồ Chí Minh, Nam Cao, Tố Hữu… đều lấp lánh những áng văn chương đáng tôn thờ đến ngàn đời.
Như vậy có thể thấy, nhận định của Nguyễn Văn Siêu về văn chương thật đúng đắn và chính xác. Văn chương cũng có loại tốt và loại không tốt, loại đáng tôn thờ và loại không đáng tôn thờ. Một tác phẩm văn chương đáng tôn thờ phải là một tác phẩm để lại cho đời, cho người nhiều giá trị tốt đẹp, nhiều ý nghĩa khuyên răn con người sống hướng thiện.
Nghị luận Văn chương có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ - mẫu 4
Nguyễn Văn Siêu nổi danh chính là một văn sĩ có tài, là bạn thân của Cao Bá Quát từng được người đời tôn thờ lên thành “Thần Siêu, Thánh Quát”. Trong văn chương thì Nguyễn Văn Siêu cũng là một trong những văn sĩ thật tài năng, ông có nhiều những cống hiến để đời. Và kho bàn luận về văn chương thì ông cũng đã đưa ra quan điểm của mình về văn chương một cách khá rõ ràng “Văn chương có loại đáng thờ. Có loại ko đáng thờ. Loại đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Quan niệm này thực sự cũng tốn nhiều giấy mực, tranh cãi của nhiều người.
Đầu tiên ta cũng cần phải hiểu được vì sao Nguyễn Văn Siêu nói được “Văn chương chuyên chú ở văn chương”. Ý của câu nói này đó chính là để chỉ loại văn chương chỉ chăm chút gò câu đẽo chữ, và nhà văn luôn luôn cố gắng để có thể tìm những chữ thật “kêu”, những chữ thật “đắt” sử dụng các điển tích cổ bí ẩn...nói chung đấy là loại văn chương thuần tuý, và đồng thời cũng chính là nói đến loại "văn” không cần biết nội dung. Còn xét về tư tưởng, là loại văn chương thuần túy về hình thức mà chúng ta cũng có thể dễ dàng nhận thấy. Bên cạnh đó thì ý của câu “Văn chuyên chú ở con người” chính là loại hình văn chương mà tác giả cũng đã cố gắng viết lên từ cuộc sống của con người, hướng đến con người sao cho con người chính là chủ thể, là tung tâm của tác phẩm văn học.
Nói một cách khác thì nó cũng lại còn có tác dụng đó là “làm cho người gần người hơn”. Nói tóm lại ta có thể hiểu được rằng ý của cả câu nói mà Nguyễn Văn Siêu như nói rằng văn chương chỉ có giá trị khi nó được lấy nguồn cảm hứng từ chính con người. Từ con người, và cũng lại vì con người thì thức văn chương đó mới có giá trị. Và người ta vẫn luôn luôn tự nhủ rằng “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ”. Nguyễn Văn Siêu dường như cũng lại thẳng thắn phủ nhận loại văn chương không đem đến một cái gì tốt lành cho con người cà và loại văn chương như thế là loại "không đáng thờ”. Đã không đáng thờ tức là không đáng để đọc, để học hỏi và nó còn không được coi là văn chương nữa. Văn chương cũng luôn cần đến khối óc của những vị kỹ sư tâm hồn chứ đâu cần những “người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho”.
Thực sự nếu như không giao cảm với đời, văn chương tuôn ra ngọn bút không bất đầu từ lòng thương cảm sâu sắc mà vì đời thì chỉ là văn chương mà dường như nó cũng chỉ “một tấc đến trời” mà thôi. Người nghệ sĩ cũng làm sao có thể sáng tác được một tác phẩm có giá trị không thể nào có thể ngồi trong cung điện mà viết về đời sống kham khổ của những người dân trong xã hội kia. Và như ai đó đã nói câu “Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép”. Bởi "Nhà văn chính là người hư ký trung thành của thời đại” cho nên nhà văn phải đi ra mà chứng kiến để có thể viế về cuộc sống, viết về con người. Văn học luôn luôn phải ánh những biến cố, những điều mới lạ, lịch sử,... và đích đến nó chính là con người. Mỗi bài học, mỗi tác phẩm văn học hay “đáng thờ” phải luôn luôn hướng đến con người và cũng vì con người. Vì nếu tác phẩm không viết về con người, không hướng đến con người không mang lại những giá trị chân - thiện - mỹ thì chắc chắc rằng tác phẩm văn học đó dường như cũng nhanh chóng đi vào quên lăng mà thôi. Còn ngược lại những tác phẩm kinh điển như vẫn còn tồn tại với thời gian năm tháng, hết thế hệ này đến thế hệ kia thì nó lại luôn lấy cảm hứng từ con người và vì con người.
Nếu như mà văn chương chỉ biết lấy chủ nghĩa duy mĩ làm đích thì thử coi có đáng thờ cơ chứ? Nói như Ngô Thi Sĩ thì "Văn chương phải có quan hệ với đời”, làm sao có thể tách bạch cuộc đời với nghệ thuật được. Người ta cũng nhận thấy được nhà văn L. Tônxtôi vĩ đại bởi kiệt tác “Chiến tranh và hoà bình” thì ông cũng đã thấu hiểu được cảnh chinh chiến, ông cũng đã từng một thời xông pha nơi chiến trận tìm hiểu, ghi chép. Chắc chắn nếu như người thi sĩ mà lại “đóng cửa phòng văn hì hục viết thì làm sao một tác phẩm "Chiến tranh và hoà bình” được trở thành một tác phẩm kinh điển được cơ chứ? Và nếu như mà không gắn bó, đau đời Nguyễn Du có một “Đoạn trường tân thanh” nức tiếng không? Văn chương không thể cứ đóng phòng văn mà tìm được những mỹ từ hay, thật nghệ thuật thì đã thành văn chương được. Nó chỉ là những từ sáo rỗng và thậm chí người ta đọc cũng cảm thấy sự khó hiểu, khó chịu. Làm sao có thể viết lên được những lời lễ mà mang được sự tin cậy khi chính bản thân nhà văn còn chưa được trải quan, chưa được biết đến.
Người đọc cũng có thể thấy được chính quan niệm của Nguyễn Văn Siêu gần giống như những văn học hiện thực Việt Nam vào chính giai đoạn văn học 1930-1945. Ở giai đoạn văn học này cũng đã lại lấy con người làm chủ thể sáng tạo, ngòi bút hướng vào con người và như vậy tác phẩm viết ra mới chiếm được nhiều tình cảm của mỗi người. Bởi sáng tác văn chương cũng như một tấm gương vậy, người ta có thể nhìn thấy chính họ trong đó, những tác phẩm văn chương nói lên được nỗi lòng của chính họ và đây mới thực sự là “văn chương đáng thờ”
Thực sự để mà nói thì nhắc đến “Văn chương đáng thờ” Nguyễn Văn Siêu dường như cũng đã muốn nói đến cái giá trị của văn chương. Giá trị của nghệ thuật đi sâu vào thế giới tâm hồn của con người thì chúng ta cũng có thể nhận thấy được chính văn chương phải vì con người, văn chương cũng phải vì cuộc sống con người. Văn chương luôn luôn phải hướng đến Chân - Thiện- Mĩ phải khơi ở lòng người những tình cảm nhân ái. Văn chương phải hoàn thành nhiệm vụ của chính nó đó là cũng có nhiệm vụ là phải đem đến cho con người một cái nhìn thật mới từ trong những cái đã quá quen thuộc.
Trong các tác phẩm văn chương thì làm sao mà có một thứ văn chương nào lại không lấy con người làm đối tượng cơ chứ? Nói như nhà văn M.Gorki đã khẳng định : “Văn học là nhân loại” cho nên chúng ta cũng cần phải hiểu rằng không thể tách rời văn chương và con người cũng văn chương như tách rời nội dung và hình thức biểu đạt của nó được. Đã là văn chương thì nó cũng phải mang vẻ đẹp của văn chương nghệ thuật trước đã, nó phải là một tác phẩm nghệ thuật trước thì mới có thể truyền tải được nội dung. Giống như một cái chai rượu vậy, phải có cái vỏ thì rượu - nội dung bên trong mới được chứa đựng. Và hình dạng vỏ như nào thì nội dung cũng chịu tác động ít nhiều.
Một nhà văn giỏng là một nhà văn biết hòa quyện được mặt nội dung cũng như hình thức của tác phẩm văn học với nhau. Viết về con người nhưng phương thức biểu đạt ra như thế nào để người đọc tiếp nhận được mới là cái tài của nhà văn. Chính vì thế mà chúng ta không nên xem nhẹ nội dung hay hình thức quá. Tuy nhiên đánh giá chung của Nguyễn Văn Siêu cũng vẫn còn đúng đắn khi nói như muốn nhắn nhủ những nhà văn hãy mở lòng ra, đi thực tế và viết những tác phẩm hướng đến con người.
Ý kiến của Nguyễn Văn Siêu như cũng nhận được đông đảo những phản ứng trái chiều của nhiều giới văn sĩ với hai trường phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh”. Và một tác phẩm có thể đạt đến đỉnh cao, tác phẩm “đáng thờ” thì nó phải mang đến sự hai hòa về cả hai phương diện này. Dù sao đi chăng nữa ý kiến của văn sĩ cũng thật đáng học hỏi cho thế hệ người nghệ sĩ sáng tạo ngôn từ nay và mai sau học tập.
Nghị luận Văn chương có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ - mẫu 5
Cuộc sống con người từ lâu đã gắn liền với văn chương. Bởi vì văn chương không chỉ có tác dụng giải trí, mà bên cạnh đó, văn chương còn làm cho cuộc sống mỗi người thêm đẹp, thêm phong phú. Nhưng, như cuộc sống vốn tồn tại cả cái xấu xa và tốt đẹp, thì văn chương cũng có loại hay, loại dở. Bởi vậy, Nguyễn Văn Siêu đã từng viết: “Văn chương […] có loại đáng thờ. Có loại không đáng thờ”. Đây thực sự là một quan niệm đúng đắn đáng để suy nghĩ.
Theo Nguyễn Văn Siêu, văn chương có hai loại: “loại không đáng thờ là loại chỉ chuyên chú ở văn chương” và “loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Vậy, thế nào là văn chương "đáng thờ" và "không đáng thờ”?.
Có thể hiểu, văn chương “không đáng thờ” là loại văn chương không chân chính, “chỉ chuyên chú ở văn chương”. Đây là kiểu văn chương chỉ quan tâm đến vẻ hào nhoáng bên ngoài, lấy hình thức nghệ thuật làm mục đích sáng tác, trau chuốt về ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu. Bên cạnh đó, loại văn chương này thường mang những nội dung tư tưởng không rõ ràng, không tạo nên sự độc đáo, và hơn nữa không quan tâm đến đời sống, số phận con người, xã hội. Người đọc có thể cảm nhận được ánh hào quang rực rỡ của nó bởi những hình ảnh mĩ lệ, trang trọng nhưng lại khó có thể cảm nhận được tình cảm, suy nghĩ của người viết trong tác phẩm.
Còn văn chương “đáng thờ” thì lại khác. Đây là loại văn chương lấy con người làm mục tiêu sáng tác, được dựng lên từ chính cuộc sống của con người “chuyên chú ở con người”. Trong những tác phẩm thuộc loại này, “con người” trở thành trọng tâm, là động lực chi phối toàn bộ nội dung tác phẩm cũng như các hình tượng nghệ thuật, biện pháp nghệ thuật. Và chính điều này đã làm nên giá trị cho những tác phẩm – giá trị được làm nên bởi nó có ích cho cuộc đời.
Quan niệm của Nguyễn Văn Siêu – người được tôn thờ là “Thần Siêu” cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Ông coi văn chương là lĩnh vực để “thờ”, do đó, câu nói của ông càng trở nên thuyết phục và đúng đắn hơn. Mà như thế thì đâu phải loại văn chương nào cũng “đáng thờ”. Như vậy, với ông văn chương chỉ có giá trị khi lấy con người làm trung tâm, khắc họa con người và phục vụ con người. “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du vì đâu mà dễ đi vào lòng người đọc, vì đâu mà trở thành một tác phẩm bất hủ, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam? Bởi vì, tất cả những éo le, những nghiệt ngã của cuộc đời, của số phận – nhất là số phận của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa - được Nguyễn Du tái hiện đủ đầy. Ông đã đưa số phận của con người – của kiếp “hồng nhan bạc mệnh” vào văn chương. Và chính điều ấy, đã làm nên giá trị của tác phẩm – giá trị nhân đạo sâu sắc mà không phải ở tác phẩm nào cũng có.
Trở lại với quan điểm của Nguyễn Văn Siêu. Có thể nhận thấy rằng, bản chất quan niệm của “thần Siêu” có phần tương đồng với quan niệm văn chương “nghệ thuật vị nhân sinh” (văn học 1930 – 1945) của không ít các nhà văn hiện đại. Đã là văn chương chân chính thì phải hướng tới con người, tới hiện thực. Văn chương có giá trị phải “chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ…Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình….Nó làm cho người gần người hơn” (Đời thừa – Nam Cao). Hay trong “Trăng sáng”, Nam Cao viết “Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than..”. Tức là, Nam cao phủ nhận văn học lãng mạn thoát li- văn học chỉ biết trau chuốt hình thức, phủ nhận hiện thực, đồng thời nhà văn cũng khẳng định văn chương phải gắn bó với cuộc đời con người "thoát ra từ những kiếp lầm than..”. M. Gorki cũng từng nói “Văn học là nhân học”, để đề cao văn học hướng tới con người, viết về con người và phục vụ con người. Quan niệm của Nam Cao, M. Gorki cũng như của Nguyễn Văn Siêu là những quan niệm đúng, tiến bộ, phản ánh chức năng cao quý của văn học.
Tuy nhiên, ngay trong chính quan niệm của Nguyễn Văn Siêu cũng thể hiện rõ, ông lên án thứ văn chương chỉ mải gọt giũa ngôn từ, chứ không phủ nhận vai trò của nghệ thuật. Ông cho rằng văn chương không nên thiên về hình thức nghệ thuật, nhưng đồng thời, tác phẩm giá trị cũng không thể không có đặc sắc về nghệ thuật. Điều đó cho thấy, đối với Nguyễn Văn Siêu cũng như rất nhiều các nhà văn nhà thơ khác, một tác phẩm văn chương có giá trị là tác phẩm có nội dung “chuyên chú ở con người” song đồng thời cũng có hệ thống hình thức nghệ thuật độc đáo, sáng tạo, và quan trọng không kém là phải chứa đựng cái “Tâm” của người viết. Như Nguyễn Du cũng từng khẳng định “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”. Kiệt tác Truyện Kiều hàng trăm năm nay vẫn tồn tại, và in sâu trong tâm trí người đọc. Không chỉ bởi giá trị nhân đạo sâu sắc, mà Truyện Kiều còn là tuyệt tác bởi những biện pháp nghệ thuật được tác giả sử dụng, cùng với một tâm hồn đồng cảm của chính tác giả với cuộc đời nhân vật. Hay như khi đọc Chí Phèo của Nam Cao, ban đầu ta chỉ thấy hiện hữu rõ ràng một thằng lưu manh rạch mặt ăn vạ, uống rượu chửi bới. Nhưng rồi, chắc chắn sẽ đọng lại trong ta ít nhiều thương cảm sau khi đọc xong tác phẩm. Thấp thoáng đằng sau cái vẻ bề ngoài hung dữ táo tợn ấy, lại là một anh Chí như bao anh Chí khác, cũng khát khao "làm người lương thiện", để được sống, được yêu thương. Nhân vật này hiện lên qua ngòi bút tinh tế, tài tình của tác giả, và thành công của nó ít nhiều cũng phụ thuộc vào suy nghĩ, lòng cảm thương của tác giả. Như vậy, một tác phẩm văn chương chân chính là tác phẩm mà hướng ngòi bút về con người, cuộc sống con người, được xây dựng bằng sự sáng tạo nghệ thuật, tạo thành phong cách riêng cho từng nhà văn.
Từ trước tới nay, không một ai có thể phủ nhận được vai trò quan trọng của văn chương đến đời sống tinh thần của con người. Văn chương như là một công cụ để con người khám phá thế giới, và khám phá chính bản thân tâm hồn mình. Nhưng như quan niệm của “thần Siêu”, không phải văn chương nào cũng "đáng thờ”. Chỉ có những tác phẩm văn chương hướng về con người, hướng về cuộc sống, và đặc sắc nghệ thuật được tạo ra từ sự sáng tạo văn học cùng với tâm huyết của nhà văn mới làm nên văn chương chân chính, tiêu biểu cho quan niêm truyền thống “ Văn dĩ tải đạo”của cha ông ta. Cho đến nay, quan niệm của Nguyễn Văn Siêu vẫn còn nguyên giá trị.
Xem thêm các bài văn mẫu lớp 12 Ôn thi THPT Quốc gia khác:
Nghị luận Phong cách chính là người (Buy-phông) (dàn ý + 6 mẫu)
Dàn ý “Thơ là hùng biện du dương” hãy chứng minh điều đó qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ (2 mẫu)
“Thơ là hùng biện du dương” hãy chứng minh điều đó qua bài thơ Mùa xuân nho nhỏ (dàn ý + 2 mẫu)
- 2 bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh 1 (dàn ý + 3 mẫu)
Sách VietJack thi THPT quốc gia 2025 cho học sinh 2k7:
- Giải Tiếng Anh 12 Global Success
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Smart World
- Giải sgk Tiếng Anh 12 Friends Global
- Lớp 12 Kết nối tri thức
- Soạn văn 12 (hay nhất) - KNTT
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - KNTT
- Giải sgk Toán 12 - KNTT
- Giải sgk Vật Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Hóa học 12 - KNTT
- Giải sgk Sinh học 12 - KNTT
- Giải sgk Lịch Sử 12 - KNTT
- Giải sgk Địa Lí 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - KNTT
- Giải sgk Tin học 12 - KNTT
- Giải sgk Công nghệ 12 - KNTT
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - KNTT
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - KNTT
- Giải sgk Âm nhạc 12 - KNTT
- Giải sgk Mĩ thuật 12 - KNTT
- Lớp 12 Chân trời sáng tạo
- Soạn văn 12 (hay nhất) - CTST
- Soạn văn 12 (ngắn nhất) - CTST
- Giải sgk Toán 12 - CTST
- Giải sgk Vật Lí 12 - CTST
- Giải sgk Hóa học 12 - CTST
- Giải sgk Sinh học 12 - CTST
- Giải sgk Lịch Sử 12 - CTST
- Giải sgk Địa Lí 12 - CTST
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - CTST
- Giải sgk Tin học 12 - CTST
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - CTST
- Giải sgk Âm nhạc 12 - CTST
- Lớp 12 Cánh diều
- Soạn văn 12 Cánh diều (hay nhất)
- Soạn văn 12 Cánh diều (ngắn nhất)
- Giải sgk Toán 12 Cánh diều
- Giải sgk Vật Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hóa học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Sinh học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Lịch Sử 12 - Cánh diều
- Giải sgk Địa Lí 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục KTPL 12 - Cánh diều
- Giải sgk Tin học 12 - Cánh diều
- Giải sgk Công nghệ 12 - Cánh diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 12 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng 12 - Cánh diều
- Giải sgk Âm nhạc 12 - Cánh diều