10+ Tưởng tượng gặp gỡ người lính trong bài Đồng Chí (điểm cao)

Tưởng tượng gặp gỡ người lính trong bài Đồng Chí điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Tưởng tượng gặp gỡ người lính trong bài Đồng Chí (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Tưởng tượng gặp gỡ người lính trong bài Đồng Chí

1. Mở bài

- Giới thiệu tình huống gặp gỡ.

2. Thân bài: Kể lại tình huống được gặp gỡ với người lính.

- Miêu tả người lính đó ( ngoại hình, tuổi tác,…).

- Kể lại diễn biến cuộc gặp gỡ và trò chuyện:

+ Hỏi người lính về những năm tháng kháng chiến chống Pháp,…

+ Người lính kể lại những gian khổ mà ông và đồng đội phải chịu đựng: sự khốc liệt của chiến tranh, bom đạn của kẻ thù.

+ Người lính kể về tinh thần dũng cảm, về tư thế hiên ngang, niềm lạc quan sôi nổi của tuổi trẻ trước bom đạn kẻ thù, trước khó khăn, gian khổ.

+ Những suy nghĩ của bản thân.

3. Kết bài

- Nêu kết thúc của câu chuyện.

Quảng cáo

Tưởng tượng gặp gỡ người lính trong bài Đồng Chí - mẫu 1

Tôi đã nghe và thuộc lòng những hình ảnh thơ được phổ nhạc mà ba tôi vẫn thường mở chiếc radio vào sáng sớm. Đến khi học thuộc được bài thơ “Đồng chí” tôi lại càng ngưỡng mộ sự anh dũng của những người lính trong buổi đầu kháng pháp còn nhiều thiếu thốn. Một buổi trưa, tôi nằm trên chiếc võng sau nhà rồi ngâm nga lại bài thơ. Cơn gió nào đã đưa tôi vào mộng mị hay chính vì khao khát muốn được gặp các chiến sĩ.

Tôi choàng mở mắt thì mọi cảnh vật xung quanh hoàn toàn khác lạ. Dưới chân tôi những chiếc là rừng khô xào xạc. Trước mắt tôi là những tán cây rậm rạp chạy dài. Cái lạnh tê buốt của sương đêm làm tôi bất giác xoa hai bàn tay vào nhau sưởi ấm. Tôi nhận ra phía trước tôi là một đoàn quân với hơn năm mươi người, các anh đang say sưa trong giấc ngủ sau một ngày hành quân vất vả. Nhìn các anh, tôi không sao khỏi xúc động. Những người lính với tấm áo mỏng họ lấy ba lô của mình làm gối  hoặc gối đầu lên nhau sưởi ấm. Các anh chẳng có tấm chăng chỉ lấy mảnh áo của đắp lên người và lấy lá cây làm chiếu.  Canh gác cho giấc ngủ đồng đội mình là hai người lính với vầng trăng treo lơ lửng trên đầu ngọn súng. Chẳng hiểu sao lúc ấy tôi không hề lo lắng hay sợ hãi mà hồi hộp tiến đến gần hai người lính. Tiếng bước chân của tôi trong đêm vắng làm các anh giật mình quay lại. Tôi nghĩ các anh sẽ ngạc nhiên và truy hỏi tôi là ai, nhưng không, các anh mỉm cười nhìn tôi như đã quen biết tôi từ trước. Tôi cũng sững sờ khi nhận ra gương mặt quen thuộc của các anh sao giống cha, chú đến thế.  Gương mặt rám nắng, hai quai hàm kiên quyết, đôi mắt trũng sâu vì những đêm thức trắng hành quân. Các anh mặc bộ quân phục màu xanh lá, khoác bên ngoài là chiếc áo trấn thủ nhưng chẳng mấy lành lặn. Tôi chợt nhớ đến câu thơ của  Chính Hữu “Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá”. Nhìn những mảnh vá chằng chịt không khéo léo của các anh, tôi quên mất giới thiệu mình là ai và cứ thế trò chuyện.  

Quảng cáo

- Cuộc sống ở chiến khu vất vả lắm phải không anh? Hai anh tên là gì?

Người chiến sĩ vỗ nhẹ lên vai tôi:

- Anh là Tính, còn đây là anh Việt. Tụi anh quen nhau từ ngày mới vào bộ đội. Cuộc chiến mà em, ở đâu chẳng khó khăn thiếu thốn. Quân đội mình còn cần viện trợ từ bên ngoài nên nhiều lúc thức ăn, thuốc men, quần áo thiếu quanh năm. Em cũng thấy đấy thời tiết rừng khắc nghiệt, đơn vị nào cũng chống chọi với sốt rét rừng. Mà cái căn bệnh này ghê lắm em ạ, vừa thấy khỏe mạnh đấy thì đã run người vừng trán ướt mồ hôi.

Tôi chăm chú lắng nghe anh Tính, anh Việt tiếp lời đồng đội:

- Em không thấy các anh đang ngủ ở kia, các anh bị sốt rét rừng làm da xanh xao, tóc thì rụng sắp hết. Tụi anh vẫn trêu nhau là vệ trọc.

Tôi nhìn xuống đôi bàn chân của các anh. Vượt qua bao ụ, dốc của rừng, leo bao nhiêu ngọn núi mà các anh chẳng có một đôi giày. Đôi dép lốp đã mòn vẫn kiên cường tiến bước.

- Nhìn các anh thân nhau như thế chắc các anh là đồng hương?

Anh Việt nhìn tôi  cười:

Quảng cáo

- Không đâu chàng trai trẻ.  Anh đến từ miền biển của Trung Bộ, còn anh Tính lại đến từ Bắc Bộ. Các chiến sĩ ở đây mỗi người mỗi cảnh, mỗi xứ sở nhưng cùng là người Việt Nam mất nước em à!.

-  “Quê hương anh nước mặn đồng chua, làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá” phải vậy không anh?

Anh Việt cười:

- Em cũng thuộc bài thơ của Chính Hữu à? Giỏi đấy! Ở đơn vị, các anh chép tay truyền cho nhau, tụi anh thuộc nằm lòng. Bài thơ hay phải không em?

- Dạ, hay và rất chân thật.

Anh Tính tiếp lời:

- Tuy không cùng nơi sinh ra nhưng tụi anh nguyện gắn bó cùng nhau, sông chết cùng nhau. Những đêm trong rừng lạnh quá, nên các anh tìm hơi ấm của nhau, gối đầu lên nhau, cùng nhau chia bát cơm, hạt muối còn hơn cả tình anh em nữa em à! “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ” mà.

Anh vừa nói vừa phì cười mang theo hơi sương giá lạnh như làn khói trắng.

- Các anh xa nhà bao lâu không về rồi? Thế các anh có nhớ nhà không?

Hai anh nhìn nhau ánh lên vẻ ngậm ngùi:

- Nhà thì nhớ em ạ, đôi lúc nhắm mắt lại có thể thấy cả hình ảnh gốc đa, giếng nước đầu làng, cả mái nhà tranh vách lá. Từ ngày ra đi đến nay cũng chừng năm mùa lúa chín, không biết mẹ già, em nhỏ có khỏe không. Anh Tính còn có cả vợ con ở nhà đấy! Nhưng đất nước đang cần, phải hòa bình thì mới mong hết khổ em à! Các anh ở đây ai cũng nén tình cảm riêng vì nghĩa lớn, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc là thiêng liêng, cao quý vì tổ quốc là máu chảy trong tim am à!

Ánh trăng đêm nay treo lơ lửng như một chiếc lưỡi liềm, các anh vẫn đứng hiên ngang, súng trên vai trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. “Đầu súng trăng treo” không có gì đẹp hơn như thế. Hòa bình và chiến tranh, thi sĩ và chiến sĩ tất cả làm nên một bức tranh tuyệt đẹp. Tôi miên man trong dòng suy nghĩ thì nghe âm thanh quen thuộc của mẹ: “Con vào nhà ngủ, gió ngoài này lạnh lắm”. Tôi giật mình mới biết mình nằm mơ, một giấc mơ dài, ý nghĩa.

Tôi không thể ngủ thêm được nữa vì hình ảnh người lính cứ quanh quẩn bên tôi. Giá mà giấc mơ có thể nối tiếp tôi sẽ hỏi các anh nhiều hơn thế nữa. Dù sao cũng cảm ơn một giấc mơ tuyệt vời đã giúp tôi hiểu thêm bài học và giúp tôi nhận ra mình cần phải cố gắng nhiều hơn nữa để không phụ sự hi sinh của các anh. Các anh đã bảo vệ đất nước, trách nhiệm của chúng ta là giữ gìn, xây dựng quê hương.

Tưởng tượng gặp gỡ người lính trong bài Đồng Chí - mẫu 2

Hôm ấy ở trên lớp, tôi được học bài thơ "Đồng chí” của Chính Hữu Bài thơ thật hay và ý nghĩa. Nó nhanh chóng chiếm được thiện cảm trong tôi. Buổi tối, tôi lấy sách ra học thuộc bài thơ. Đọc mãi... đọc mãi... tôi bỗng ngáp dài. Tôi thiếp đi, chìm vào giấc ngủ. Và tôi đã mơ một giấc mơ thật kì lạ, được gặp và trò chuyện với người lính trong bài thơ Đồng chí của nhà thơ Chính Hữu.

Giấc mơ đưa tôi đến một khu rừng đen kịt thật heo hút, xa lạ. Nơi đây mới vắng vẻ làm sao. Tôi giật mình ngơ ngác giữa không gian mù mịt và những ngọn lửa cháy bập bùng nơi xa tít. Không biết đây là đâu? Tôi hoang mang, lo sợ. Tôi giật bắn người khi có một bàn tay chắc nịch đặt lên vai tôi. Tôi quay người lại. Trước mắt tôi là môt chú bộ đội ăn vận với bộ quần áo rách vá. Khuôn mặt chú vuông vắn và đầy nghiêm nghị nhưng nước da lại xám vàng nên trông chú thật khắc khổ, Chú hỏi tôi với giọng nói ân cần:

- Cháu đi đâu mà lạc vào đây? Có biết đây là chiến trường ác liệt không? Nơi chỉ dành cho chiến tranh, cho nghững người lính? Tôi trả lời chú:

- Cháu chẳng biết đây là đâu cả. Chú giúp cháu trở về nhé. Nhưng... hình như cháu đã gặp chú ở đâu rồi hay sao mà nhìn chú quen thế?

Chú mỉm cười và nói: "Chú là Nguyễn Hữu Việt, là chiến sĩ giải phóng quân Việt Bắc. Các chú đang chiến đấu chống lại thực dân Pháp. Cháu nhìn quang cảnh nơi đây mà xem, những cánh rừng bạt ngàn màu xanh nơi đã chôn xác bao kẻ thù và cả các đồng đội của chú. Những thân cây đầy dấu vết của đạn bom. Những hố bam khổng lồ - vết tích của chiến tranh. Giọng chú bùi ngùi khi vừa kể vừa chỉ cho tôi xem toàn cảnh xung quanh. Và cháu hãy hướng con mắt về phía đằng xa kia, cháu sẽ binh đoàn của các chú đang đóng quân." Chú ấy dẫn tôi từ từ tiến doanh trại. Tôi lễ phép chào hỏi các chú chiến sĩ giải phóng quân. Nhìn các chú thật lạ. Quân trang thì mỗi người một kiểu, phần lớn mặc quần áo nâu, chân thì không có giầy. Mà áo có lành lạnh lặn gì cho cam vá chằng vá đụp . Tất cả mọi ngườ cười nói vui vẻ bên đống lửa .Các chú mời tôi cùng ăn bữa tối. Nói bữa tối cho sang chứ chỉ có nồi cháo loãng với ít rau rừng.Nghĩ mà thương các chú. Vừa ăn tôi vừa nhìn các chú.Thật lạ, tôi thấy các chú ai cũng có màu da giống nhau : Màu xám tái và chưa kể đa số đều cạo đầu. Trời về đêm trở lên lạnh chú Việt lấy chiếc chăn khoác lên mình tôi. Ngoài tôi, chẳng thấy chú nào đắp thêm gì lên mình. Họ vẫn cười đùa vui vẻ.

Sau bữa ăn, tôi được chú Việt giải đáp thắc mắc. Đêm rét chỉ có đốt lửa sưởi vì chăn mền không đủ. Muốn giặt quần áo phải ngâm mình dưới suối do trang phục hàu như mỗi người chỉ có một bộ… Đa số các chiến sĩ đều cạo tóc vì như chú Việt nói chấy rận rất nhiều và bệnh sốt rét. Không ít anh em đã chết vì chấy rận, sốt rét rừng quật ngã. Tôi thấy cuộc sống của các chú sao mà khổ quá vậy. Tôi hỏi:
- Chắc cuộc sống của các chú rất vất vả, nhọc nhằn. Các chú chắc gặp nhiều khó khăn lắm?

- Đúng thế. Cuộc sống vất vả lắm. Đói ăn, đói muối, sốt rét rừng, thú dữ hành hạ.- chú vừa nói vừa mỉm cười- Nụ cười sao buốt giá. Các chú chiến sĩ khác cũng cười.

Và chú kể tiếp: “Hưởng ứng lời Bác kêu gọi kháng chiến, Các chú ở khắp mọi nơi gia nhập đoàn quân này.” Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm”, Binh đoàn của với vũ khí thô sơ, có chiến sĩ người Mường chỉ có cung nỏ mà khiến giặc Pháp phải kinh sợ. Do vậy, các chú hầu như ai cũng giỏi võ thuật, đặc biệt là sức chiến đấu bền bỉ, sẵn sàng hi sinh “ . Tôi cảm động với những câu chuyện huyền thoại về những chiến binh mà chú Việt kế như đại đội trưởng trinh sát của bị quân Pháp phục kích, kêu gọi ra hàng nhưng anh đã cùng đại đội chiến đấu đến viên đạn cuối cùng rồi tự sát. Chú Việt bùi ngùi: Rất nhiều đồng đội của chú đã ngã xuống nơi núi rừng Tây Bắc này.

Nghe đến đây tôi thấy thương các chú quá. Ngày ngày các chú vẫn kiên trì bám sát trận địa bất kể mưa hay nắng, đau hay ốm. Các chú đã quá vất vả, gian lao. Tôi đang suy nghĩ thì chú Việt nói tiếp: "Tuy vất vả nhưng chú vẫn thấy hạnh phúc khi được sống, được chiến đấu với các đồng đội của mình. Những người đồng chí từ bốn phương trời đã hội tụ về đây. Bạn bè các chú tay trong tay chia nhau từng cơn ớn lạnh, từng điếu thuốc, từng niềm vui nỗi nhớ... Các chú cùng nhau chia ngọt sẻ bùi, chia nhau những nỗi nhớ, niềm mơ ước. Những ngày tháng đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới giữa rừng, làm sao chú quên được? Các chú vẫn nhìn lên bầu trời rộng mở. Nói xong chú Việt ngân nga vài câu thơ:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Vừa ngân nga xong chú Việt đứng lên khoác súng lên vai và bước đi. Tôi đi theo,vừa đi vừa ngắm nghía doanh trại cùng các người lính. Chú Việt đã tới ca trực. Tối đứng lặng nhìn chú và đồng đội đứng gác. Hình ảnh sao mà đẹp quá. Ánh mắt chú sáng lên niềm tin và hi vọng. Các chú chiến đấu vì đất nước. Với lòng quả cảm và quyết tâm, các chú đã vượt lên tất cả, hoàn thanh tốt nhiệm vụ của mình. Và tôi ngước nhìn nên bầu trời. Trăng sao đẹp quá? Trăng như treo trên đầu ngọn súng.

Tôi không cầm được lòng mình. Tôi chạy tới, ôm chầm lấy chú: "Các chú thật kiên cường! Cháu rất khâm phục các chú. Vượt lên tất cả, các chú luôn lo cho đất nước.”. Chú nắm chặt lấy tay tôi: "Chắc chắn là như vậy. Đát nước sẽ sớm hòa bình cháu ạ."

Chú Việt vừa nói tới đây, bỗng từ xa một tiếng nổ lớn vang lên. Tôi choàng tỉnh giấc. nghĩ lại về giấc mơ. tôi vẫn cảm nhận được sự ấm áp của bàn tay chú Việt khi chú nắm tay tôi.

Qua giấc mơ, tôi như hiểu thêm về những ngườ lính bộ độ cụ Hồ anh dũng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Con người Việt Nam là vậy, không bao giờ khuất phục trước chiến tranh. Tôi nghĩ về mình. Tôi cũng phải như các chú ấy, luôn cống hiến hết mình cho đất nước. Tôi sẽ cố gắng học tập để noi gương các chú, đưa dất nước Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu, như lời Bác đã dạy

Tưởng tượng gặp gỡ người lính trong bài Đồng Chí - mẫu 3

Chiến tranh luôn là nỗi đau đau đáu trong lòng mỗi người. Nhưng có lẽ đau đớn và xót xa khôn nguôi hơn cả là những con người đã oằn mình trong cuộc chiến ấy vì bảo vệ biên cương. Hôm nay, nhân ngày QUân đội nhan dân Việt Nam, trường tôi có mời một bác cựu chiến binh đã tham gia chiến trường chống Pháp năm xưa. Trò chuyện, tâm sự với bác sau buổi lễ kết thúc tôi mới có dịp được hiểu rõ và biết được bác chính là anh lính năm xưa được nhà thơ CHính Hữu khắc họa qua bài thơ Đồng chí.

Biết rằng hôm nay sẽ có một cựu chiến binh đến thăm trường nhân ngày Quân đội nhân dân Việt Nam nên em vô cùng háo hức. Em ấn tượng khi nhìn thấy bác bởi vẻ ngoài thật đặc biệt.  Chân dung bá là chân dung người lính đứng tuổi  vô cùng uy nghi trong bộ quân trang màu xanh cùng rất nhiều quân hàm. Đó có lẽ là niềm kiễu hãnh và tự hào khôn cùng ở bác. Dáng đi của bác có phần chậm chạp hơn bởi tuổi tác. Nhìn mái tóc bạc trắng, những vết chân chim nơi khóe mắt bác giúp em nhận ra dấu hiệu thời gian. Để ý kĩ em thấy cánh tay hoạt động không được linh hoạt mà có phần chậm hơn bình thường. Em chợt hiểu ra đó có lẽ là vết thương chiến tranh đã để lại. Bác vô cùng xúc động khi bài hát Quốc ca vang lên và khi nghe về truyền thống lịch sử của dân tộc. EM c òn chú ý hơn cả đến ánh mắt, sự chú tâm nhìn xuống các bạn học sinh phía dưới dõi theo từng hoạt động của chúng em. 

Cuộc gặp gỡ, nói chuyện với bác diễn ra dù chỉ ít phút nhưng khiến em xúc động khôn nguôi. Em may mắn là người đại diện cho toàn khối để lắng nghe câu chuyện của bác khi buổi lễ kết thúc. Bác hiền hậu, ân cần qua từng cử chỉ, hành động. Và em còn thêm bất ngờ khi biết bác chính là người lính trong bài Đồng chí của Chính Hữu. Bác kể về xuất thân của bác và đồng đội đều là người lính nông dân nghèo khó.  Đồng đội cùng chung nhau lí tưởng, đồng đội cùng sống trong hoàn cảnh gian khó và đồng hành vượt lên khắc nghiệt với căn bệnh sốt rét, với áo rách, quần vá...Các bác đã  động viên nhau vượt qua khó khăn và trở thành tri kỉ, là người bạn thân thiết gắn bó với trăng, với không khí chiến trường khắc nghiệt. EM chỉ biết điều ấy qua trang thơ, nay qua lời kể của bác em thêm bồi hồi, xúc động khôn nguôi. 

Bác nhìn em với niềm tin tưởng, hi vọng cũng như niềm tin vào thế hệ trẻ tương lai của đất nước. Giọng bác dịu hiền yêu thương: Các cháu hãy cố gắng nối tiếp truyền thống cha anh. Bác và cả dân tộc đều trông chờ vào thanh niên sức dài vai rộng. NGườ lính đồng chí năm xưa nay vẫn ở đây như một chứng nhân lịch sử để nhắc nhở tất cả chúng em bằng tình yêu thương lớn lao. 

Cuộc trò chuyện với bác kết thúc giúp em hiểu ra nhiều điều. Chiến tranh khắc nghiệt gian khổ nhưng cũng làm sáng rõ và nổi bật vẻ đẹp của anh lính bộ đội cụ Hồ dẫu mấy chục năm qua thì vẻ đẹp ,khí thế ấy sống mãi

Tưởng tượng gặp gỡ người lính trong bài Đồng Chí - mẫu 4

Chiều thu, tôi lang thang trên con đường làng quê ngoại thành Hà Nội. Những hàng tre rì rào, con đường đất đỏ còn vương bụi nắng. Tôi dừng chân trước một ngôi nhà nhỏ, mái ngói rêu phong, tường gạch lấm tấm rêu xanh. Tò mò, tôi bước vào ngõ, nơi cánh cổng tre đang khép hờ. Một cụ ông tóc bạc, ánh mắt hiền từ đang ngồi chẻ tre bên thềm. Ông nhìn tôi, mỉm cười:

- Cháu lạc đường à?

Tôi ngượng ngùng chào hỏi, rồi không hiểu sao, câu chuyện giữa tôi và ông cứ thế mở ra. Khi biết tôi đang học văn và vừa đọc bài thơ "Đồng chí" của Chính Hữu, ông lặng người đi giây lát, rồi ánh mắt ông sáng lên như vừa gặp lại một người thân cũ.

- Ờ... Chính Hữu. Đồng đội cũ của ông đấy. Bài thơ ấy... là về chúng tôi, những người lính năm xưa.

Tôi ngỡ ngàng. Trước mặt tôi là nhân vật trong bài thơ “Đồng chí” – một người lính thực sự, sống động và đầy chân thật. Tôi lặng nghe ông kể lại những ngày tháng chiến đấu năm xưa.

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua...” – ông chậm rãi đọc lại. “Tôi quê vùng biển, nghèo, mặn chát. Chính Hữu thì quê đất cày lên sỏi đá. Chúng tôi gặp nhau trong một đêm tập kết, mỗi người một phương trời, chẳng hẹn mà thành đồng đội.”

Ông kể rằng ngày ra đi, ông để lại mảnh vườn, con trâu cho người bạn thân chăm nom. Căn nhà tranh lợp lá đứng trơ trọi giữa gió. Không mang được gì nhiều, hành trang chỉ là khẩu súng, một đôi dép cao su và lòng quyết tâm đánh giặc. Rồi ông cười nhẹ: “Thời ấy, rét buốt, áo rách vai, chân không giày, sốt rét rừng hoành hành. Nhưng chúng tôi vẫn sống, vẫn chiến đấu, vì có nhau.”

Tôi nhìn bàn tay ông – gân guốc, chai sạn, những ngón tay khẽ run lên khi kể về những đêm “súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Giữa rừng thiêng nước độc, họ chia nhau miếng sắn, manh áo, và cả giấc ngủ. Đêm đông lạnh buốt, chiếc chăn đơn không đủ ấm, hai người lính ghé sát vào nhau để xua đi cái giá rét của núi rừng. Tình đồng chí, đồng đội cũng từ đó mà lớn lên.

Tôi hỏi: “Vậy điều gì làm ông nhớ nhất?”

Ông trầm ngâm: “Là cái nắm tay... Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. Giữa đêm lạnh, không cần lời nói, chỉ một cái nắm tay là đủ hiểu lòng nhau. Là sức mạnh tinh thần, là sự sẻ chia, là máu thịt.”

Tôi cảm nhận sâu sắc sự giản dị mà thiêng liêng của tình cảm ấy. Không ồn ào, không màu mè, mà chân thật, bền vững. Đó không chỉ là tình đồng đội trong chiến tranh mà là tình người – thứ gắn bó những số phận xa lạ thành thân thiết như ruột thịt.

Rồi ông nhắc đến hình ảnh “Đầu súng trăng treo” với một nụ cười đầy tự hào. “Bài thơ ấy kết như thế là rất đẹp – bởi ngay trong chiến tranh, cái đẹp vẫn hiện hữu. Chúng tôi đứng giữa rừng hoang sương muối, sẵn sàng hy sinh, mà đầu súng vẫn có vầng trăng – ánh sáng của niềm tin và hy vọng.”

Cuộc trò chuyện kéo dài đến lúc mặt trời khuất sau rặng tre. Trước khi tôi rời đi, ông đặt tay lên vai tôi, ánh mắt đượm buồn:

- Cháu ạ, thời nay không còn tiếng súng, nhưng cái tình người, cái nghĩa đồng chí ấy... đừng để nó phai nhạt. Thế hệ trẻ các cháu, hãy sống tử tế, sống biết yêu thương, biết trân trọng những gì mình có.

Tôi rời ngôi nhà nhỏ trong hoàng hôn, lòng đầy xúc động. Tôi đã được gặp, được nghe và được cảm nhận một người lính – nhân vật sống trong bài thơ "Đồng chí" – bằng cả tâm hồn. Cuộc gặp ấy sẽ mãi là kỷ niệm không phai trong đời học sinh của tôi.

Tưởng tượng gặp gỡ người lính trong bài Đồng Chí - mẫu 5

Đêm ấy, tôi có một giấc mơ kỳ lạ. Tôi đang đi trên một con đường nhỏ, hai bên là rừng cây âm u, sương trắng giăng mờ như sữa. Đất dưới chân lạnh và ẩm, tiếng gió rít qua từng khe lá, lạnh đến tê người. Tôi cứ đi mãi, cho đến khi trước mắt hiện ra một đốm lửa nhỏ bập bùng. Bên ánh lửa là hai người lính ngồi sát bên nhau, vai kề vai, tay nắm tay, như đang truyền cho nhau hơi ấm trong đêm rừng.

Tôi bước lại gần. Một người lính quay lại, nhìn tôi. Anh có khuôn mặt gầy, đôi mắt sâu thẳm nhưng sáng và đầy nghị lực. Chiếc áo anh mặc đã sờn vai, bàn tay anh nắm lấy tay người đồng đội run rẩy bên cạnh. Anh khẽ mỉm cười.

- Em từ đâu đến?

Tôi lúng túng: “Em... từ tương lai. Em học lớp 9 và vừa học bài thơ ‘Đồng chí’. Em mơ thấy mình được gặp anh... là anh đấy phải không? Người lính trong bài thơ của Chính Hữu...”

Anh cười hiền, đôi mắt ánh lên một nỗi buồn và kiêu hãnh:

- Vậy là thơ vẫn còn sống mãi... và tụi anh vẫn còn hiện diện trong tâm trí các em. Vui thật.

Tôi ngồi xuống bên anh, cảm nhận rõ hơi lạnh xuyên qua lớp áo mỏng. Nhưng bên ánh lửa và bên câu chuyện của anh, tôi thấy lòng mình ấm dần.

Anh kể rằng anh sinh ra ở một vùng đồng bằng “nước mặn đồng chua”, còn người đồng đội bên cạnh đến từ “vùng đất cày lên sỏi đá”. Họ vốn là “đôi người xa lạ”, nhưng rồi gặp nhau trong kháng chiến, cùng cầm súng chiến đấu, cùng chia ngọt sẻ bùi giữa rừng sâu.

- Chúng tôi chẳng hẹn mà quen, chẳng máu mủ mà thân thiết như ruột thịt. Cái tình đó không phải ngày một ngày hai mà có. Nó hình thành từ những lần đổi nhau miếng cơm, chia nhau viên thuốc sốt rét, cùng đắp chung một tấm chăn mỏng giữa đêm sương muối.

Tôi nhìn người đồng đội bên cạnh anh – người đang ngủ thiếp đi, mồ hôi ướt đẫm trán. Tôi hỏi: “Anh ấy bị sốt phải không?”

- Ừ, sốt rừng đấy. Nhiều đêm, tôi phải thức trông chừng. Chỉ cần lơ là là anh ấy có thể không qua nổi. Nhưng chúng tôi thương nhau. Một cái nắm tay thôi cũng đủ truyền sức mạnh, như câu thơ viết: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”

Tôi im lặng, lòng đầy xúc động. Những gì tôi học qua sách vở giờ đây trở thành sự thật hiện hữu, sống động và thiêng liêng.

Tôi hỏi anh: “Vậy... điều gì khiến anh và đồng đội không gục ngã?”

Anh nhìn tôi, trầm ngâm:

- Là tình đồng chí. Là niềm tin vào ngày mai hòa bình. Là ánh trăng. Đêm nào trực chiến, tôi cũng ngẩng nhìn lên và thấy trăng lặng lẽ treo trên đầu súng. Trăng không nói, không động, nhưng nó như đang dõi theo và tiếp sức cho chúng tôi. Câu thơ cuối “Đầu súng trăng treo” là có thật – là hình ảnh tôi từng chứng kiến trong một đêm không ngủ.

Anh đứng dậy, sửa lại chiếc chăn cho bạn. Tôi nhìn theo mà lòng bồi hồi. Thì ra đằng sau một bài thơ là cả một đời người, là những tháng ngày bằng xương máu và nước mắt. Tôi đã được chứng kiến, được nghe, được sống cùng khoảnh khắc ấy – dù chỉ trong mơ.

Tôi nói với anh: “Anh ơi, bây giờ chúng em sống trong hòa bình rồi. Không còn tiếng bom đạn, không còn phải chia đôi chiếc áo hay nằm co quắp trong chăn mỏng. Nhưng... nhiều người trong chúng em lại không biết quý trọng điều đó. Em thấy buồn lắm.”

Anh mỉm cười hiền hậu:

- Đừng buồn. Hãy học cách sống biết yêu thương, biết trân trọng nhau. Đồng chí không phải chỉ có trong chiến tranh. Trong thời bình, chỉ cần biết sẻ chia, biết nắm tay nhau khi cần, các em cũng có thể trở thành đồng chí của nhau.

Tôi chưa kịp trả lời thì gió mạnh nổi lên. Sương giăng dày hơn. Hình ảnh anh dần mờ nhạt. Tôi cố gọi nhưng không thành tiếng. Mọi thứ chao đảo rồi tối sầm.

Tôi tỉnh dậy, mồ hôi thấm ướt lưng. Ánh sáng ban mai lấp lánh qua cửa sổ. Nhưng trái tim tôi thì vẫn còn ngân vang lời anh lính đêm qua. Tôi biết, giấc mơ ấy là thật – không phải trong hiện thực, mà trong lòng tôi – nơi bài thơ “Đồng chí” đã sống, và người lính năm xưa đã đến.

Tưởng tượng gặp gỡ người lính trong bài Đồng Chí - mẫu 6

Chiều ấy, tôi theo lớp đến thăm nghĩa trang liệt sĩ của huyện. Con đường lên nghĩa trang vắng và thanh tịnh. Hai bên lối đi là hàng thông cao vút, lá xào xạc trong gió như đang thì thầm một khúc hát xưa cũ. Không gian lặng lẽ nhưng trang nghiêm. Những ngôi mộ nằm nối tiếp nhau, ngay hàng thẳng lối. Trên bia, nhiều cái tên đã mờ theo năm tháng. Tôi cắm một nén hương trước một ngôi mộ đề tên "Nguyễn Văn T.", người quê ở Quảng Bình, hy sinh năm 1950.

Tôi ngồi xuống, lặng ngắm làn khói nhang mờ ảo. Rồi như có gì thôi thúc, tôi nhắm mắt lại. Và… bất ngờ, tôi nghe thấy một giọng nói nhẹ vang bên tai:

- Cháu đến thăm mộ chú à?

Tôi mở mắt. Trước mặt tôi là một người lính trong bộ quân phục cũ, màu đã bạc. Anh đứng đó, dáng cao gầy, ánh mắt hiền từ nhưng kiên nghị. Tôi sửng sốt:

- Chú... là chú Nguyễn Văn T.?

Anh gật đầu. Tôi bối rối hỏi: “Cháu... cháu không nghĩ là mình sẽ được gặp chú. Cháu vừa học bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và... cháu nghĩ ngay đến những người lính như chú.”

Anh cười:

- Ừ, chúng tôi là một phần trong những câu thơ ấy. Là những người nông dân khoác áo lính, rời quê ra chiến trận, để rồi gửi lại máu xương nơi chiến trường.

Tôi nhìn anh, xúc động. Anh bắt đầu kể:

- Ngày ấy, tôi và đồng đội xuất thân từ những vùng quê nghèo khó. Tôi quê Quảng Bình “nước mặn, đồng chua”, còn người bạn thân nhất của tôi quê ở vùng trung du đất đai sỏi đá. Chúng tôi gặp nhau trong một trận càn quét của địch, rồi từ đó trở thành tri kỷ. Không phải bạn bè thân lâu năm, mà vì ở bên nhau trong gian khổ, chúng tôi hiểu nhau từng ánh mắt, từng hơi thở.

Tôi lặng nghe, lòng nghẹn lại khi anh nhắc đến những ngày sống giữa rừng núi, lạnh lẽo, thiếu thốn:

- Có đêm, rừng sâu rét căm căm, chỉ có một tấm chăn mỏng. Chúng tôi nằm sát bên nhau, bàn tay nắm chặt, chuyền cho nhau chút hơi ấm. Tình đồng chí là vậy đấy, không cần nói nhiều, chỉ cần hiểu và thương.

Anh trầm ngâm một lúc, rồi nói tiếp:

- Có lần, tôi bị sốt rét, run cầm cập, mồ hôi ướt đẫm người. Bạn tôi không rời nửa bước. Dù áo đã rách vai, chân không giày, anh ấy vẫn miệng cười mà tay thì run rẩy nắm lấy tay tôi. Cái nắm tay đó, tôi không bao giờ quên…

Tôi khẽ thốt: “Chính Hữu đã viết rất đúng... “Miệng cười buốt giá, chân không giày / Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Anh gật đầu, ánh mắt long lanh:

- Đúng thế. Những câu thơ ấy là tiếng nói của cả một thế hệ lính. Tình đồng chí là thứ chúng tôi mang theo suốt cuộc đời, dù là trong những giây phút cuối cùng.

Tôi cúi đầu, không nói nên lời. Bỗng, tôi hỏi:

- Chú có tiếc không? Khi không được sống đến ngày hòa bình?

Anh khẽ cười, dịu dàng:

- Không. Tôi hy sinh, nhưng tôi biết những người như tôi đã giữ được bình yên cho thế hệ cháu hôm nay. Thế là đủ rồi. Nếu được sống lại, tôi vẫn sẽ ra đi.

Tôi nghe mà tim thắt lại. Tình yêu quê hương, đất nước của những người lính thật cao cả biết bao. Họ dám sống hết mình, dám chết không hối tiếc, chỉ mong một ngày đất nước hòa bình.

Tôi đứng dậy, cúi đầu thật thấp:

- Cảm ơn chú. Cảm ơn vì chú đã sống, đã chiến đấu và đã hy sinh cho thế hệ chúng cháu.

Khi ngẩng lên, anh đã biến mất. Chỉ còn làn khói hương nhẹ bay và ánh nắng chiều vắt ngang bia mộ.

Tôi bước đi, lòng nghẹn ngào. Trên con đường rời nghĩa trang, tôi thấy mình đã lớn lên thêm một chút – không chỉ vì được gặp người lính năm xưa, mà vì tôi đã hiểu sâu hơn hai tiếng “Đồng chí”. Đó không chỉ là danh xưng trong chiến tranh, mà là biểu tượng vĩnh cửu của lòng yêu nước, của tình người – thứ sức mạnh đã giúp dân tộc ta vượt qua bao gian khổ.

Tưởng tượng gặp gỡ người lính trong bài Đồng Chí - mẫu 7

Đêm ấy, tôi ngồi học bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu trong ánh đèn bàn vàng vọt. Ngoài trời, trăng sáng vằng vặc. Gió thổi nhẹ qua cửa sổ, mang theo mùi hương ngai ngái của hoa sữa cuối mùa. Tôi đọc đến câu cuối cùng: “Đầu súng trăng treo.”. Bất giác, tôi ngẩng lên nhìn bầu trời đêm. Trăng thật sự đang treo nghiêng đầu ngõ, vàng dịu, lặng yên. Tôi khẽ nhắm mắt, thả hồn theo ánh trăng. Bất chợt, mọi thứ mờ dần, và tôi thấy mình đang ở một cánh rừng lặng lẽ, sương mù giăng kín.

Trước mặt tôi là hai người lính đang ngồi sát bên nhau, đầu tựa lưng súng. Một người quay lại, nhìn tôi bằng ánh mắt hiền hòa. Tôi sững sờ: “Chú... là người lính trong bài thơ ‘Đồng chí’ phải không?”

Anh gật đầu, mỉm cười. Khuôn mặt anh gầy, đôi mắt sâu nhưng sáng như ánh trăng rừng. Chiếc áo bộ đội bạc màu, vài chỗ rách, bàn tay anh khô và chai sần. Anh chỉ vào chiếc balo bên cạnh:

- Trong này là thư của mẹ tôi, vài củ khoai luộc và... một tấm ảnh cũ của cả gia đình. Lúc rời quê đi bộ đội, nhà tôi nghèo lắm, ruộng nương thì gửi người bạn thân cày giúp, còn ngôi nhà thì “mặc kệ gió lung lay”.

Tôi nghe mà nghẹn ngào. Anh kể tiếp:

- Tôi và đồng đội gặp nhau nơi chiến trường. Ban đầu chỉ là người xa lạ, “tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Nhưng rồi súng kề súng, đầu sát đầu, chúng tôi thành tri kỷ. Trong những đêm rừng hoang lạnh buốt, chỉ có hơi thở và tiếng trái tim đập là ấm áp nhất.

Tôi hỏi: “Chú từng bị bệnh à? Bài thơ có nói đến sốt rét, mồ hôi đầm đìa...”

Anh gật đầu:

- Sốt rừng. Cả đơn vị đều từng bị. Có lúc nằm run lập cập, tưởng không qua nổi. Nhưng đồng đội không bao giờ bỏ nhau. Người này ốm, người kia chăm. Không thuốc men gì mấy, chỉ có một cái nắm tay, một lời động viên, một nụ cười buốt giá giữa đêm khuya – cũng đủ làm ấm lòng nhau.

Tôi nhìn đôi bàn chân anh: không giày. Tôi lặng người. Thời bình, tôi có đầy đủ mọi thứ mà vẫn thường kêu than. Còn họ – những người lính – lại dũng cảm bước đi giữa gian khổ không lời oán trách.

Anh đứng dậy, đi về phía lùm cây. Tôi bước theo. Trăng vẫn treo trên đầu, như cái cách mà bài thơ đã viết: “Đầu súng trăng treo.” Anh chỉ lên:

- Có đêm gác, chúng tôi đứng im lặng cả giờ. Không ai nói câu nào. Nhưng trăng là người bạn không rời. Trăng soi đường, soi súng, soi cả tâm hồn những người lính trẻ. Trong bom đạn, trăng là bình yên. Trong rét buốt, trăng là hy vọng.

Tôi lặng người. Bỗng anh quay sang tôi:

- Bây giờ, các cháu sống trong hòa bình. Hãy giữ gìn điều đó. Tình đồng chí không chỉ có trong chiến tranh. Nó còn sống trong cách các cháu sẻ chia với nhau, nhường nhịn nhau, cùng nhau vượt qua thử thách.

Tôi hỏi: “Chú có điều gì muốn gửi lại cho thế hệ hôm nay không?”

Anh nhìn tôi, đôi mắt ánh lên tia sáng dịu dàng:

- Hãy sống tử tế. Hãy nhớ rằng phía sau hai chữ ‘hòa bình’ là máu, là nước mắt, là hi sinh của biết bao người. Chúng tôi không mong được nhớ tên, chỉ mong các cháu sống xứng đáng với điều mà thế hệ đi trước đã giành lấy.

Một cơn gió mạnh thổi qua. Tôi thấy mình choáng váng. Mọi thứ xung quanh mờ dần. Khi mở mắt ra, tôi lại thấy mình ngồi trước bàn học, trang sách vẫn đang mở ở bài thơ “Đồng chí”. Nhưng lòng tôi thì không còn như trước nữa.

Tôi viết lại giấc mơ ấy vào nhật ký, như một lời thề với chính mình: sẽ sống trọn vẹn, yêu thương hơn, biết ơn hơn. Bởi tôi đã được gặp một người lính – một “đồng chí” thật sự – người đã sống và chiến đấu để tôi có thể ngồi đây, bình yên viết nên những dòng chữ này dưới ánh trăng hòa bình.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học