10+ Viết đoạn văn có sử dụng từ ngữ địa phương (điểm cao)

Viết đoạn văn có sử dụng từ ngữ địa phương điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những đoạn văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm đoạn văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

10+ Viết đoạn văn có sử dụng từ ngữ địa phương (điểm cao)

Quảng cáo

Dàn ý Viết đoạn văn có sử dụng từ ngữ địa phương

I. Mở đoạn:

- Giới thiệu về quê hương và tình cảm đặc biệt dành cho nơi mình sinh ra.

- Dùng từ ngữ địa phương để tạo sự gần gũi, thân thương.

- Ví dụ: “Quê tui, cái chốn thân thương mà mỗi lần nhớ lại là lòng nao nao…”

II. Thân đoạn:

1. Miêu tả cảnh vật quê hương:

 -  Những hình ảnh đặc trưng của quê như con sông, cây đa, mái nhà tranh, cánh đồng lúa.

  -  Dùng từ ngữ địa phương để diễn tả, ví dụ: “con sông Cái nước trong veo, có tiếng gọi vịt kêu 'cạp cạp' mỗi sớm mai.”

2. Tình cảm của người dân quê:

   - Sự mộc mạc, chân chất của bà con, láng giềng.

   - Dùng từ địa phương để thể hiện nét đặc sắc trong giao tiếp, như “ông Hai”, “bà Năm”, “hổng sao đâu”, “chị ơi đi chợ về chưa?”

3. Kỷ niệm hoặc cảm xúc gắn bó:

  -  Kể về một kỷ niệm đáng nhớ ở quê.

  -  Dùng câu chuyện dân gian hoặc cách nói thân quen của địa phương.

III. Kết đoạn:

- Khẳng định tình yêu quê hương sâu sắc.

- Dùng câu nói dân gian hoặc thành ngữ vùng miền để kết thúc.

- Ví dụ: “Quê hương như bát nước đằm, dù đi đâu cũng nhớ, cũng thương.”

Quảng cáo

Viết đoạn văn có sử dụng từ ngữ địa phương - mẫu 1

Sáng tinh mơ, khi những tia nắng đầu tiên còn lấp ló sau rặng tre xanh, tôi đã nghe thấy tiếng gà gáy oe oe vang vọng khắp làng quê. Mẹ gọi tôi dậy ăn bát phở nóng hổi, thơm nức mũi với nước dùng ngọt thanh, đúng chuẩn phở Hà Nội. Ra khỏi nhà, ngõ nhỏ rợp bóng cây xanh um, thoảng mùi hoa sữa ngào ngạt khiến lòng người cứ lâng lâng như say. Dạo quanh phố cổ, đâu đâu cũng thấy người người tay cầm cốc trà đá mát lạnh, ngồi hóng mát, tám chuyện rôm rả bên hè phố. Những bà cụ già ngồi trên chiếc ghế gỗ thấp, tay lật từng lá cờ tướng, thỉnh thoảng lại búng một quân, mặt mày thảnh thơi, nói cười vui vẻ. Các bác già thường bảo: “Mùa thu Hà Nội là nhất, không đâu sánh bằng.” Quả thật, khi mùa thu về, lá vàng rơi khắp mọi ngõ ngách, những chiếc lá bàng đỏ au rụng lẫn trong đám lá đa xanh mướt tạo nên một bức tranh thiên nhiên sống động đến nao lòng. Mỗi lần đi qua góc phố, tôi lại bắt gặp những đứa trẻ chơi kẹo kéo, tiếng cười giòn tan vang vọng khắp không gian. Những tiếng rao hàng rong thân quen cũng khiến tôi nhớ mãi: “Bánh mì đây, bánh mì nóng giòn mới ra lò nè!” hay “Chè xanh thơm lừng đây chị ơi!”. Đến chiều muộn, khi nắng đã ngả về tây, mọi người lại tụ tập bên hồ, câu cá, ngồi trò chuyện vui vẻ như thể quên hết những bộn bề cuộc sống. Ở quê tôi, mọi thứ giản dị và mộc mạc, người dân chân chất, thật thà, từ bà cụ lúi húi dọn rau, đến anh thợ cày gồng gánh trên đồng ruộng. Những buổi tối, cả làng lại kéo nhau ra sân đình, ngồi xem hát chèo, nghe những câu chuyện cổ tích đầy màu sắc truyền thống. Dù đi đâu, tôi cũng không thể nào quên được những kỷ niệm ấm áp ấy. Những chiều thu ngồi bên bếp lửa hồng, nghe mẹ kể chuyện thời xưa, tôi cảm thấy lòng mình dịu lại, thấy yêu quê hương sâu sắc hơn. Người Hà Nội nói riêng, miền Bắc nói chung, dù có hiện đại đến đâu vẫn giữ trong mình một nét duyên riêng biệt, vừa thanh lịch, vừa gần gũi, mộc mạc. Tất cả những điều đó đã làm nên một Hà Nội, một miền Bắc đầy sức sống và tình người, khiến ai đã từng một lần đặt chân đến đều nhớ mãi không quên.

Quảng cáo

Viết đoạn văn có sử dụng từ ngữ địa phương - mẫu 2

Ở quê tui, đời sống giản dị mà đầy ắp tình người. Mỗi sáng sớm, khi tiếng gà gáy vang vọng khắp xóm, bà con trong xóm đã bắt đầu “cựa mình dậy sớm” để chuẩn bị cho một ngày mới. Mấy cô mấy dì rủ nhau ra chợ, “buôn dưa lê” đủ chuyện, từ chuyện nhà tới chuyện làng, chuyện thời sự cho tới mấy câu chuyện “điếc không sợ súng” mà nghe mà cười té ghế. Ở đây, “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” là chuyện thường tình, nghĩa là vừa lo việc nhà vừa không ngại phụ giúp hàng xóm, không phân biệt già trẻ lớn bé. Mấy đứa nhỏ con nít trong xóm thì “chơi chán rồi lại lăn vô chơi”, tụ tập “tắm mương”, “bắt cá lóc” hay “leo cây bần” khiến cho cả xóm nghe tiếng cười “rổn rảng” cả ngày. Người ta nói “cái nết đánh chết cái đẹp,” và tui thấy điều đó rõ ràng ở đây, vì dù nhiều người không có “ăn mặc bảnh bao,” nhưng ai cũng có tấm lòng rộng mở, hiếu khách và biết “thương người như thể thương thân.” Có lần tui nghe mấy chú mấy bác ngồi bên hiên nhà nói chuyện, họ bảo, “ở đâu cũng có chuyện đời, nhưng mà quê mình thì yên bình, tình cảm, không như chốn thị thành bon chen, khói bụi.” Mỗi lần về quê, tui cảm thấy lòng “ấm áp như được trở về cái nôi,” không chỉ vì cảnh sắc thiên nhiên trong lành, mà còn vì tình làng nghĩa xóm, cái cảm giác “chân quê chân thật” mà không chốn đô thành nào có được. Mấy hôm trời mưa, nước ngập ngang lưng, bà con ai cũng “chung sức chung lòng” giúp nhau lội nước, không để ai phải “một mình gánh chịu.” Những câu chuyện xưa được kể lại bên bếp lửa, với tiếng rì rầm của gió, tiếng xèo xèo của than hồng, làm tui nhớ mãi không quên cái nét bình dị mà đậm đà của quê mình. Thật thà mà nói, ở nơi ấy, “đường đời có khúc quanh cũng không làm thay đổi được tình cảm keo sơn của bà con.” Người ta sống với nhau bằng cái tình, không hẳn chỉ bằng lợi ích, nên dù có “thân cò làm lụng vất vả” nhưng vẫn luôn giữ được nụ cười trên môi và lòng tin yêu cuộc sống.

Quảng cáo

Viết đoạn văn có sử dụng từ ngữ địa phương - mẫu 3

Ở cái làng tôi, miền Bắc này, mùa gặt đến là lúc người ta hối hả lắm. Từ tờ mờ sáng, ông bà, bố mẹ đã dắt díu nhau ra đồng, “còng lưng lên ruộng” như một thói quen không thể thiếu. Ai cũng mặc bộ quần áo cũ kỹ, nhưng tấm lòng thì rộng lớn như cánh đồng bát ngát trước mắt. Người lớn thì “khoác tay cày”, còn trẻ con lại “theo chân mẹ” chạy nhảy tung tăng, làm cho cả đồng quê rộn rã tiếng cười. Ở quê tôi, mọi người gọi nhau bằng những cái tên rất thân thương như “bác Hai”, “chị Tám”, hay “em Út”, nghe mà thấy ấm áp trong lòng. Không khí làng quê cứ thế vui vẻ, náo nhiệt như một cái “chợ phiên” nhỏ giữa cánh đồng. Mấy bà mấy chị ngồi bên bờ mương, tay rửa rau, tay trò chuyện, cứ nói chuyện “nhỏ to” về chuyện nhà, chuyện làng mà chẳng biết chán. Lắm lúc, trong lúc nghỉ ngơi, bà con lại rủ nhau “chén nước chè xanh”, thêm vài hạt dưa hấu, rồi kể những câu chuyện “xưa như trái đất” về những ngày “trời mưa gió bão bùng” mà vẫn phải ra đồng “cày bừa trăm mối”. Người lớn trong làng vẫn hay dặn dò con cháu rằng, “phải chăm chỉ như trâu”, dù thời thế có thay đổi, thì cái đức cần cù, chịu khó ấy vẫn mãi là nét đẹp truyền thống. Mỗi lần mùa gặt xong, bà con lại “xôm tụ” ăn mừng, mở tiệc ngay ngoài sân đình làng, cùng nhau hát ca, nhảy múa, quên hết bao nỗi nhọc nhằn. Thật đúng là, ở quê tôi, dù cuộc sống còn vất vả, nhưng tình làng nghĩa xóm thì luôn “đậm đà như cánh đồng lúa chín vàng”.

Viết đoạn văn có sử dụng từ ngữ địa phương - mẫu 4

Ở cái làng quê nhỏ bé của tôi, nằm nép mình dưới chân dãy núi đá vôi, cuộc sống cứ trôi chảy đều đều theo nhịp thời gian. Mỗi sáng tinh mơ, khi mà màn đêm còn chưa tan hết, bà con trong làng đã rục rịch dậy sớm chuẩn bị cho một ngày lao động mới. Mẹ tôi hay bảo, “Sáng sớm dậy mà không tranh thủ thì như con gà tồ úp mặt vào gối,” ý muốn nói là phải biết tranh thủ làm việc thì mới có cơm ăn áo mặc, chứ không “nằm ì ra như con gà lợn” là phí công vô ích. Từ nhỏ, tôi đã quen nghe giọng bà đậm chất quê hương, lúc nào cũng pha chút “ngọt ngào” mà cũng “mặn mà” như chính con người nơi đây. Đến mùa gặt, cả làng rộn rã hẳn lên, tiếng máy tuốt lúa rì rầm, tiếng người gọi nhau í ới, rồi cả tiếng cười nói vang xa như muốn xua tan hết cái oi bức của buổi trưa hè. Những người lớn tuổi vẫn giữ thói quen ngồi bên hiên nhà, kể chuyện ngày xưa, nói về cái thời “trẻ trâu” cày sâu cuốc bẫm, bươn chải khắp đồng ruộng để kiếm sống. “Ngày đó, đất đai thì nhiều, nhưng người làm chẳng có mấy, cứ phải dậy từ lúc chưa có ánh mặt trời,” ông bà tôi hay nhắc đi nhắc lại như một bài học cho con cháu. Trẻ con trong làng thì khác, chúng bày đủ trò chơi, từ thả diều, đánh đáo đến bắt cua, bắt cá, tiếng cười nói rộn ràng khắp cả cánh đồng. Có những buổi chiều hoàng hôn, tôi thường ra bờ đê ngồi ngắm dòng sông quê hương, ngửi mùi rạ mới thơm thoảng bay trong gió, lòng thấy nhẹ nhõm đến lạ. Ở quê, mọi người sống chan hòa, nghĩa tình, “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng,” luôn sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau mỗi khi có việc. Dù cuộc sống có bộn bề, lo toan, nhưng chỉ cần về quê, nghe giọng nói thân thương của mẹ, nhìn những cánh đồng lúa xanh mướt, mọi muộn phiền như được cuốn trôi hết. Đó chính là cái “chất” mà không nơi nào có được, cái hồn của miền quê Bắc Bộ đậm đà tình nghĩa, chân chất mà sâu sắc, khiến người ta dù đi đâu cũng nhớ quay về, nhớ mãi không quên.

Viết đoạn văn có sử dụng từ ngữ địa phương - mẫu 5

Ở quê tui, mùa nước nổi là thời điểm mà ai cũng mong chờ, bởi vì đó là lúc thiên nhiên thật sự sống động, chứ không phải “tháng Năm là tháng ăn chơi”. Mỗi lần nước về, cả xóm đều rộn ràng như hội, người ta đua nhau chuẩn bị ghe xuồng, lưới cá, đủ thứ đồ nghề để ra đồng bắt cá, bắt ốc. Tui còn nhớ hồi nhỏ, má tui hay dặn, “ra ruộng phải cẩn thận, kẻo bị cá sặc, cá rô cắn đau dữ lắm đó nghen!”. Nước lớn tràn vào, làm cho đồng ruộng thành một cái hồ rộng mênh mông, mấy đứa nhỏ tụi tui thường tụ tập lại câu cá, nhảy ùm xuống nước chơi cho mát. Người lớn thì ngồi trên bờ ngồi nói chuyện, vừa ăn mít vừa kể chuyện ngày xưa, thiệt là vui. Ở đây, mọi người sống thân tình, gặp nhau trên đường là “hổng biết mô mà lỡ”, ai cũng vui vẻ, chuyện trò rôm rả. Nhờ có những lúc như vậy mà tui cảm thấy cuộc sống thật giản dị nhưng đầy ắp tiếng cười, chẳng như chốn thị thành ồn ào, bon chen.

Viết đoạn văn có sử dụng từ ngữ địa phương - mẫu 6

Ở quê tui, cái xứ miệt vườn Cái Bè – Tiền Giang, mùa hè tới là y như rằng rộn ràng từ trong xóm ra tới ngoài đồng. Mới tờ mờ sáng, mấy bác nông dân đã dậy “bắt nước vô ruộng”, mần cỏ, tỉa lại mấy luống rau. Nắng thì chang chang, nóng muốn chảy mỡ, mà ai cũng ráng mần cho xong việc để trưa còn vô nghỉ. Ở đây, người ta nói chuyện thiệt dễ thương: “Má ơi, bữa nay con nhức đầu wá” – “Thôi, uống miếng nước dừa cho mát gan, rồi nghỉ chút nghen con”. Mấy câu nói tưởng chừng đơn giản vậy mà nghe ấm lòng ghê gớm. Mấy đứa nhỏ thì khỏi nói, tụi nó chạy long nhong suốt ngày, lúc thì nhảy dây, lúc thì rủ nhau đi mò cua bắt ốc. Đứa nào đứa nấy mặt mũi lem nhem, tay chân dính đầy bùn đất mà cười toe toét, hổng biết mệt là gì. Có bữa mưa bất chợt đổ xuống, tụi nó còn lội mưa, tắm mưa, la hét um sùm cả xóm. Người lớn thì vừa ngó tụi nhỏ vừa cười, rồi nói với nhau: “Tụi nhỏ giờ còn nhỏ dại, chớ mai mốt lớn lên, tụi nó đi xa hết trơn... nhớ quê hổng chịu nổi đâu!” Xế chiều, cả xóm bắt đầu “rục rịch” nấu cơm, khói bếp bay lên thơm mùi cá kho tộ, canh chua bông súng, kèm chén mắm nêm thiệt mặn mà. Tui nhớ hoài hình ảnh má tui ngồi bên bếp lửa, quạt lửa bằng cái mo cau, tay thì bưng nồi cơm vừa chín tới, vừa nói: “Ra rửa tay lẹ đi, cơm nguội là tao méc cha bay đó nha!” – nghe mà thương gì đâu. Đêm xuống, cả xóm tắt đèn sớm, chỉ còn tiếng ếch nhái kêu râm ran ngoài đồng, tiếng gió rít qua hàng dừa, thiệt yên bình. Tui nằm võng, đưa đưa qua lại, nghĩ trong bụng: “Mai mốt có đi xa cỡ nào, tui cũng ráng về quê thăm má, thăm cái xứ nghèo mà nghĩa tình này.” Ừ thì nghèo thiệt, chớ tình cảm thì “bao la bát ngát”, ai sống rồi cũng nhớ, cũng thương, cũng thấy lòng mình... nặng tình quê xứ biết chừng nào.

Viết đoạn văn có sử dụng từ ngữ địa phương - mẫu 7

Quê tui, cái chốn thân thương nằm ven sông Vàm Cỏ, nơi mà mỗi lần nhắc tới là lòng tui lại nao nao, thương nhớ lạ kỳ. Ở đó, có con đường đất đỏ quanh co dẫn ra ruộng, có hàng dừa soi bóng xuống dòng sông lặng lẽ trôi, có mấy đứa bạn tắm mưa, chơi trốn tìm trong mùi rơm rạ thơm lừng. Sáng sớm, má tui thường thức dậy sớm nấu nồi cơm rồi giục: “Tèo ơi, dậy đi học con, trễ giờ mất rồi đó nghen!” – nghe giọng má, lòng tui thấy ấm áp biết bao. Người dân quê tui mộc mạc lắm, ai cũng “thiệt thà như đếm”, gặp nhau là chào hỏi ríu rít: “Bà Tư khỏe hông?”, “Ủa, bữa nay đi chợ mua gì dzậy chị Ba?”. Cách nói năng nghe quê mùa thiệt đó, mà gần gũi dễ thương vô cùng. Những buổi trưa hè nóng bức, tụi nhỏ tụm năm tụm bảy dưới bóng cây me, bẻ trái chấm muối ăn chua lè, vậy mà vui như Tết. Tui nhớ nhất là mấy đêm trăng rằm, cả xóm quây quần nghe ông Năm kể chuyện “ma giấu đồ”, nghe mà nổi da gà, đứa nào cũng ôm nhau cười hì hì rồi chạy tán loạn. Hổng biết sao, càng lớn lên, đi xa quê lâu ngày, tui càng thương những câu nói mộc mạc, thương cái cách má gọi tui, thương cả tiếng rao “Ai chè đậu đỏ nước dừa đâyyy!” vang vang trong ngõ nhỏ. Thiệt lòng, dù có đi xa tới đâu, tui cũng không thể quên quê mình – nơi nuôi tui khôn lớn, nơi có biết bao nhiêu kỷ niệm hồn nhiên, trong sáng như giấc mơ tuổi thơ. Quê hương tui đó, dẫu nghèo thiệt, nhưng đầy ắp nghĩa tình, chân chất mà đậm đà – như bát canh chua cá lóc má nấu vậy, ăn một lần là nhớ hoài, nhớ mãi…

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.


Giải bài tập lớp 12 sách mới các môn học