5+ Phân tích Chiếc lược ngà (hay, ngắn gọn)

Phân tích truyện Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng điểm cao, hay nhất được chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh trên cả nước giúp bạn có thêm bài văn hay để tham khảo từ đó viết văn hay hơn.

5+ Phân tích Chiếc lược ngà (hay, ngắn gọn)

Bài giảng: Chiếc lược ngà - Cô Nguyễn Ngọc Anh (Giáo viên VietJack)

Dàn ý Phân tích Chiếc lược ngà

I. Mở bài

   Giới thiệu truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng

   Giới thiệu tình huống truyện đặc sắc, giàu kịch tính và đậm chất thơ qua đó thấy được tài năng viết truyện của nhà văn cũng vai trò của tình huống truyện đối với việc thể hiện tư tưởng tác phẩm

II. Thân bài

- Tình huống truyện là tình thế của câu chuyện, là cảnh huống chứa đựng những mâu thuẫn, xung đột hoặc tiềm tàng để cốt truyện diễn biến, phát triển nhân vật bộc lộ tính cách

1. Nội dung tình huống truyện

    + Ông Sáu nóng lòng muốn nhận con sau 8 năm xa cách nhưng bé Thu không nhận ông Sáu là ba chỉ vì vết thẹo trên má mãi tới khi mọi người chuẩn bị trở lại chiến trường miền Đông thì bé Thu mới chịu nhận ba

    + Ở chiến trường vì thương nhớ con ông Sáu đã làm cho con chiếc lược ngà nhưng chưa kịp trao cho con thì ông hy sinh

- Đặc điểm tình huống truyện Chiếc lược ngà

    + Giàu kịch tính: gây bất ngờ, tò mò cho người đọc

    + Giàu chất thơ: có cảm xúc, sức lay động lòng người

2. Phân tích, chứng minh

   * Kịch tính trong tình huống truyện

- Cuộc gặp gỡ giữa hai cha con ông Sáu và bé Thu đầy bất ngờ khi bé Thu không nhận ba

    + Mọi nỗ lực của ông Sáu trong những ngày ở nhà không thể thay đổi được thái độ của bé Thu đối với mình

- Trước khi ông Sáu đi thật bất ngờ bé Thu lúc này lại thét lên “Ba…a…a…ba!”nhận ông Sáu là ba

- Trở lại chiến khu miền Đông, tất cả tình yêu thương ông Sáu dồn vào làm cho con chiếc lược ngà nhưng chưa kịp trao cho con thì ông hy sinh

    + Trước khi hy sinh ông Sáu trao lại cây lược ngà cho bác Ba- người đồng đội thân thiết cũng là người chứng kiến câu chuyện của cha con ông Sáu

→ Tình huống chuyện liên tục thay đổi tạo kịch tính, bất ngờ, gây xúc động cho người đọc

   * Chất thơ thể hiện

- Tình huống truyện cuộc gặp gỡ của cha con ông Sáu giàu chất thơ thể hiện cảm xúc mãnh liệt, xúc động của tình cha con

    + Hình ảnh ông Sáu vội vàng trong hành động, bối rối trong lời nói với con khiến người đọc cảm thấy cảm động

    + Khi đứa con không nhận ông Sáu là cha, sự thất vọng của ông Sáu lại khiến người đọc thấy xót thương

- Đoạn miêu tả cảnh cha con ông Sáu từ biệt giàu cảm xúc đặc biệt là thái độ của của bé Thu dành cho cha lay động lòng người ( Nhìn thấy cảnh ấy bà con xung quanh không có ai cầm được nước mắt, còn tôi bỗng thấy khó thở như nắm lấy trái tim tôi”)

- Tình huống ông Sáu làm cây lược ngà và trao lại trước khihy sinh là điểm nhấn cho giai điệu về tình cha con trong hoàn cảnh chiến tranh

    + Khi trở lại chiến trường, ông Sáu dốc tâm sức làm cho con chiếc lược bằng tất cả nỗi nhớ mong, tình yêu thương và cả niềm ân hận

    + Chiếc lược trở thành biểu tượng của tình phụ tử thiêng liêng, cao đẹp

    + Tình huống truyện toát lên tình cảm, cảm xúc mãnh liệt tinh tế, tạo chất thơ cho thiên truyện này

III. Kết bài

- Truyện ngắn thành công khi xây dựng tình huống truyện bất ngờ, giàu kịch tính trong diễn biến truyện, gợi lên nhiều cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc

- Tình huống truyện góp phần thể hiện tư tưởng của tác phẩm: Chiếc lược ngà đã thể hiện thật cảm động tình cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh

Phân tích Chiếc lược ngà - mẫu 1

    Nguyễn Quang Sáng là nhà văn chuyên viết về cuộc sống và con người Nam Bộ với rất nhiều thể loại khác nhau: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch…Tác phẩm "Chiếc lược ngà" được nhà văn sáng tác năm 1966 tại chính chiến trường miền Nam trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt. Truyện thể hiện thật thấm thía, cảm động tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Qua thiên truyện, chúng ta thấy được tài năng xây dựng tình huống truyện độc đáo, nghệ thuật khắc họa miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật khéo léo của nhà văn Nguyễn Quang Sáng.

    Truyện được xây dựng trên hai tình huống cơ bản: Tình huống thứ nhất: Hòa bình lập lại, anh Sáu được nghỉ phép về thăm nhà, thăm con sau tám năm ròng xa cách. Nhưng thật trớ trêu thay, bé Thú đã không chịu nhận anh Sáu là cha vì trên khuôn mặt anh có vết thẹo (khác với tấm hình chụp với mẹ nó). Và đến lúc Thu hiểu ra và biểu lộ tình cảm với cha thì cũng là lúc ông Sáu phải lên đường. Tình huống thứ hai: Anh Sáu trở lại chiến khu và dồn hết tất cả tình thương, nỗi nhớ con bằng cách làm một chiếc lược ngà để tặng cho con. Nhưng anh chưa kịp trao món quà ấy cho con thì anh đã hi sinh. Trước lúc nhắm mắt, anh đã nhờ đồng đội trao tận tay chiếc lược đó cho con gái. Với cách tạo tình huống truyện như thế, nhà văn đã đầy câu chuyện lên sự kịch tính, chất chứa yếu tố bất ngờ và xúc động. Tình huống thứ nhất là tình huống cơ bản của truyện, bộc lộ tình cảm mãnh liệt của Thu với cha. Tình huống thứ hai lại biểu lộ tình cảm sâu sắc của người cha dành cho đứa con gái bé bỏng. Từ đó bật sáng tư tưởng chủ đề của tác phẩm: tình cảm cha con sâu nặng, bền chặt nhưng éo le, đau khổ trong chiến tranh.

    Cũng qua tình huống truyện ấy, người đọc còn nhận ra tài năng khắc họa, miêu tả tâm lí, tính cách nhân vật sắc sảo của nhà văn Nguyễn Quang Sáng qua nhân vật ông Sáu và nhân vật bé Thu. Điều này được thể hiện trong haonf cảnh trước và sau khi bé Thu nhận ra cha. Có thể nói, niềm khao khát cháy bỏng của ông Sáu muốn được nghe một tiếng "Ba" lớn lao bao nhiêu thì bé Thu – con ông Sáu lại càng lảng tránh, xa cách đến bấy nhiêu. Từ đó, những nét tâm lí giằng xé, đấu tranh nội tâm của hai cha con cứ diễn ra, biểu lộ tình cha con sâu nặng, cao cả và rất đỗi thiêng liêng, cao quí.

    Ông Sáu được phép về thăm nhà, thăm con sau tám năm ròng xa cách, lòng nôn nao, mong ngóng được gặp con cháy rực trong lòng ông. Không đợi thuyền cập bến, ông Sáu đã “nhón chân nhảy thót lên bờ, xô chiếc xuồng tạt ra” rồi “bước vội vàng với những bước dài”, miệng “kêu to tên con, vừa bước vừa khom người đưa tay đón chờ con”. “Anh không kìm nổi nỗi xúc động” khi gặp lại con, vết sẹo dài bên má lại đỏ ửng , giần giật trông dễ sợ. Giọng lắp bắp, run run: “Ba đây con!, Ba đây con!”. Thế nhưng, trái lại với tình cảm đó của ông, bé Thu lại cảm thấy sợ hãi, giật mình tròn xoe mắt, bỏ chạy rồi thất thanh gọi "Má, má". “Anh đứng sững lại đó, nhìn theo con, nỗi đau đớn khiến mặt anh sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy”. Tâm trạng ông Sáu đau khổ tột cùng, ông mong ngóng được con chạy lại ôm mình nhưng đứa con bé bỏng, ngây thơ lại xa lánh, hoảng sợ khiến ông hụt hẫng, đau đớn và thất vọng.

    Trong ba ngày được nghỉ phép ở nhà, Ông Sáu tìm đủ mọi cách để được gần gũi con bé, nhưng dường như mọi sự cố gắng ấy đều trở nên thất bại. Bé thu càng trở nên ngờ vực, sợ hãi. Khi mẹ bảo mời cha vào ăn cơm, bé vẫn nhất quyết không gọi ba mà lại nói trổng "vô ăn cơm", "cơm chín rồi". Ngay cả khi bé bị ép vào đường cùng là chắt nước nồi cơm, dù loay hoay không biết phải xử lý thế nào, nó cũng chẳng chịu gọi. Bé ướng bướng tới mức, chú Ba cũng phải thở dài "con bé đáo để thật" hay trong bữa ăn khi gắp miếng trứng cá vào chén nó, nó lấy đũa soi vào trong chén rồi bất thần hắt cả miếng trứng cá ra khỏi chén, bắn tung tóe ra ngoài mâm, ông Sáu tức giận không kiềm chế được cảm xúc đã đánh con và bất lực mà thét lên "sao mày cứng đầu quá vậy!". Dường như ông khao khát có được tình cảm của con bao nhiêu thì con bé lại hoàn toàn lạnh lùng trước mọi tình cảm vồ vập của cha bấy nhiêu. Ông càng muốn xích gần nó, nó lại càng lùi xa; ông càng chiều thương nó, nó lại càng lẩn tránh; ông càng mong được nghe tiếng ba thì nó lại càng không gọi. Ông kiên nhẫn, đợi chờ tình cảm của con “ suốt mấy ngày anh chẳng đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con”, “anh quay lại nhìn con vừa khẽ lắc đầu, vừa cười. Có lẽ vì khổ tâm đến nỗi không khóc được nên anh phải cười vậy thôi”.

    Tuy nhiên, thái độ bướng bỉnh, ương ngạnh đó của bé thu hoàn toàn không đáng trách. Bởi đơn giản là vì bé thấy người cha của hiện tại trước mắt khác với tấm hình chụp chung với má của bé quá. Vả lại Thu còn quá bé bỏng để có thể thấu hiểu được sự khắc nghiệt của cuộc sống, của chiến tranh và người lớn cũng chưa kịp giả thích cho bé hiểu nên bé không tin là người có vết sẹo trên mặt kia là ba của mình. Đồng thời, điều đó cũng chứng tỏ tình cảm sâu sắc của bé dành cho ba. Bé chỉ yêu, chỉ nhận ba khi biết chính xác đó là ba của bé mà thôi.

    Vì thế, sau khi ngủ một đêm bên nhà bà ngoại, được ngoại giải thích về nguyên nhân vết sẹo trên má của ba, bé Thu cảm thấy khó chịu, cả đêm lăn lóc không ngủ, xen lẫn niềm ân hận, khi đã đối xử với ba không tốt. Buổi sáng chia tay ấy, trước lúc ông Sáu lên đường, thái độ và hành động của bé khác hoàn toàn mọi khi: “nó không bướng bỉnh hay nhăn mày cau có nữa, vẻ mặt nó sầm lại buồn rầu”. Khi đối diện với ông Sáu, “đôi mắt mông mông của con bé bỗng xôn xao”, “tình cảm cha con như bỗng trỗi dậy trong người nó”, “nó kêu thét lên: “Ba…a…a…ba!”. Sự khao khát tình cảm cha bị kìm nén suốt mấy năm, nay bỗng bật lên xé tan cả sự im lặng và xé cả ruột gan mọi người, “nghe thật xót xa”. Thế rồi, nó vừa kêu, vừa chạy tới, nhanh như một con sóc, “nó chạy thót lên và dang hai tay ôm lấy cổ ba nó”. Sự xúc động ngẹn ngào đã khiến “làn tóc tơ sau ót nó như dựng đứng lên”. Nó hôn khắp người ông Sáu, “hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết thẹo dài bên má của ba nó nữa”. Sợ cha đi mất, “chắc nó nghĩ hai tay không thể giữ được ba nó, nó dang cả hai chân câu lấy ba nó và đôi vai nhỏ bé của nó run run”. Sau khi nghe ông Sáu nói: “Ba đi rồi ba về với con”, bé Thu thét lên: “không!”. Vừa khóc vừa không cho cha đi. Giọt nước mắt ấy là biểu hiện của tình cha con ấm áp, của sự hạnh phúc vỡ òa khi nhận ra cha sau tám năm xa cách, lại vừa xen lẫn cả sự ăn năn, hối hận vì không kịp nhận ra cha sớm hơn chút nữa… Chứng kiến cảnh ngộ ấy, có người đã không cầm được nước mắt, còn bác Ba thì cảm thấy như có bàn tay nắm lấy trái tim mình mà bóp thắt lại…Qua thái độ và hành động của bé Thu trước và sau khi nhận ra ông Sáu là cha mình, người đọc thấy được đằng sau sự hồn nhiên, ngây thơ và cứng đầu, bướng bỉnh của bé là tình cảm cha con sâu nặng, bền chặt, thiêng liêng. Đồng thời, người đọc cũng thấy được Nguyễn Quang Sáng là nhà văn rất am hiểu tâm lí và yêu thích trẻ thơ nên mới có những trang văn thật sinh động và cảm động về tình cha con đến như vậy!.

    Trong Chiếc lược ngà, tình cảm của ông Sáu dành cho con cũng mãnh liệt, sâu nặng không kém. Tình cảm ấy được tác giả thể hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà và được miêu tả kỹ lưỡng hơn khi ông ở căn cứ kháng chiên. Về tới chiến khu, ông Sáu cảm thấy day dứt,ân hận vì đã nóng giận đánh con. Ông dồn tất cả tình thương, nỗi nhớ con bằng việc làm một cây lược ngà – lời hứa với con trước lúc chia tay. Kiếm được khúc ngà voi, ông “hớn hở như một đứa trẻ được quà”, rồi dành hết tâm trí, tình cảm vào làm một cây lược. “Anh cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ và cố công như người thợ bạc”. Trên sống lưng của chiếc lược có khắc dòng chữ “Yêu nhớ tặng Thu con của ba” mà ông gò lưng, khắc từng nét một. Chiếc lược ngà phần nào gỡ rối được tâm trạng của người cha. Chiếc lược trở thành vật qúy giá mà ông dồn tất cả tình cảm yêu thương con của người cha sau tám năm ròng xa cách. Vì thế, mỗi khi nhớ con, ông lại mang chiếc lược ra ngắm và chải lên tóc mình cho thêm bóng, thêm mượt. Nhưng rồi ông Sáu đã hi sinh trong một trận càn của giặc, khi còn chauw kịp trao cây lược cho con gái. Trước lúc tắt thở, không còn sức trăng trối lại điều gì, “hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được”, ông đã lấy cây lược mà ông thường mang theo bên mình rồi trao cho bác Ba và nhìn người bạn một hồi lâu, cái nhìn như gửi gắm sự ủy thác thiêng liêng. Chỉ khi nhận được lời hứa cua bác Ba, “mang về tận tay trao cho cháu” thì người cha mới nhắm mắt. Điều đó cho ta thấy tình cha con mãnh liệt và tha thiết của ông Sáu. Qua câu chuyện, người đọc không chỉ cảm nhận được tình cảm cha con sâu nặng của ông Sáu mà còn thấm thía về những đau thương, mất mát, éo le mà chiến tranh đã gây ra. Đồng thời thấy được những hi sinh thầm lặng mà cao cả của những người lính trong chiến tranh…

    Như vậy, qua việc phân tích ở trên, chúng ta thấy "Chiếc lược ngà" có một cốt truyện khá chặt chẽ, xây dựng được những tình huống bất ngờ hợp lí. Ngoài việc xây dựng thành công hai nhân vật chính bé Thu và ông Sáu, tác giả còn thành công trong việc lựa chọn nhân vật người kể chuyện: xưng "tôi", ngôi thứ nhất, là ông Ba – người bạn thân thiết của ông Sáu trong chiến tranh. Ông không chỉ dừng lại ở việc chứng kiến câu chuyện, rồi kể lại theo điểm nhìn của mình mà cao hơn, ông Ba còn bày tỏ sự đồng cảm, chia sẻ với các nhân vật như một người trong cuộc. Chọn nhân vật kể chuyện như vậy, khiến cho câu chuyện trở nên đáng tin cậy, tăng theeo sự chân thực cho những tình tiết được kể. Người kể chuyện lại hoàn toàn chủ động điều khiển nhịp kể theo trạng thái cảm xúc của mình, chủ động xen vào những ý kiến bình luận, suy nghĩ để dẫn dắt sự tiếp nhận của người đọc, người nghe...Tất cả góp phần đắc lực tạo nên sự thành công của thiên truyện, cũng như ý nghĩa tư tưởng của tác phẩm được bộc lộ rõ hơn.

    Tóm lại, qua truyện ngắn "Chiếc lược ngà", chúng ta thực sự thấm thía và cảm động trước tình cảm cha con sâu nặng, bền chặt của cha con ông Sáu trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh. Truyện không chỉ dừng lại ở việc khắc họa tình cảm phụ tử mà còn có ý nghĩa tố cáo hiện thực, tố cáo chiến tranh đã đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đã phá tan đi biết bao nhiêu là hạnh phúc của các gia đình, khiến vợ chồng xa cách, cha con xa nhau. Từ câu chuyện, chúng ta càng cảm thấy trân trọng hơn nền hòa bình dân tộc và càng quí trọng hơn tình cảm gia đình mà mở rộng ra là tình yêu quê hương đất nước.

Phân tích Chiếc lược ngà - mẫu 2

    Nguyễn Quang Sáng là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Các sáng tác của ông tập trung chủ yếu về cuộc sống và con người Nam Bộ trong hai cuộc chiến cũng như sau hòa bình. Chiếc lược ngà là một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông được sáng tác năm 1966. Tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về tình cảm cha con sâu nặng trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.

    Tác phẩm xoay quanh tình huống truyện éo le: Ông Sáu sau tám năm xa nhà đi kháng chiến, ông được nghỉ ba ngày phép về thăm nhà, thăm con. Trước nỗi xúc động và tình cảm yêu mến của ông, bé Thu – đứa con gái ông yêu quý, mong nhớ suốt tám năm trời đã không nhận ra ông là ba. Ngày ông phải trả phép về đơn vị cũng chính là ngày con bé nhận ông là ba. Ở đơn vị, ông Sáu dồn tất cả tình yêu, nỗi nhớ, nỗi ân hận vào việc làm chiếc lược ngà để tặng con. Nhưng chưa kịp trao cây lược cho con thì ông đã hi sinh trong một trận càn lớn của Mỹ. Từ tình huống truyện, tác phẩm đề cao, ngợi ca tình ca tình cha con sâu nặng, đồng thời tố cáo tội ác chiến tranh.

    Truyện xoay quanh hai nhân vật chính là bé Thu và ông Sáu, thông qua tình huống truyện éo le, mỗi nhân vật bộc lộ tính cách, phẩm chất của mình.

    Trước hết về bé Thu, em là con của ông Sáu nhưng từ nhỏ đã phải xa cha do ba vào chiến trường. Sau tám năm xa cách, Thu được gặp lại ba, những tưởng đó sẽ là cuộc đoàn viên đầy hạnh phúc, nhưng trái ngược với ông Sáu mừng rỡ lao về phía em thì Thu dửng dưng, thậm chí hốt hoảng gọi Má. Má . Những ngày sau đó, dù ông Sáu hết lòng chăm sóc nhưng bé Thu vẫn lạnh nhạt, thậm chí xa lánh, ngang ngạnh cự tuyệt ông Sáu. Dù ông đã làm hết cách nhưng bé Thu vẫn không gọi ông là ba. Những lúc gặp khó khăn, nguy cấp Thu chỉ gọi trống không, không nhận được sự trợ giúp của ông Sáu, nó cũng loay hoay tự làm một mình. Trong bữa cơm, ông Sáu gắp cho nó cái trứng cá, Thu gạt ra, bị ông Sáu đánh, cô bé lập tức bỏ về nhà bà ngoại. Nguyễn Quang Sáng đã miêu tả thật chính xác thái độ, hành động khác thường của bé Thu. Bởi trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt em không hiểu những éo le mà chiến tranh gây ra, nên chỉ vì một vết thẹo trên mặt ông Sáu em kiên quyết không nhận ba. Điều đó cũng cho thấy Thu là đứa trẻ bướng bỉnh, cá tính nhưng đằng sau sự từ chối đến cứng đầu đó là tình yêu thương thắm thiết Thu dành cho ba mình.

    Bé Thu cứng đầu chối từ sự ân cần của cha bao nhiêu thì giây phút nhận ra cha lại mãnh liệt, xúc động bấy nhiêu. Sau khi nghe bà ngoại giải thích, bé Thu đã trở về nhà trong sáng ngày ông Sáu lên đường về đơn vị. Con bé đã thay đổi hoàn toàn thái độ trong sự ngỡ ngàng của ông Sáu và mọi người, tiếng gọi ba của Thu là tiếng gọi kìm nén suốt tám năm, tám năm yêu thương, đợi chờ ngày ba về. Không chỉ gọi, con bé con lao tới, nhảy lên người ba và hôn khắp cùng, hôn mặt, hôn má, và hôn cả vết thẹo dài trên mặt ba, vết thẹo đã khiến con bé bướng bỉnh không nhận ba. Thu ôm chặt anh, quàng cả chân vào người anh Sáu, bởi nó sợ buông lơi anh Sáu sẽ đi mất, cái ôm cái hôn ấy còn như muốn bày tỏ tất cả tình cảm Thu dành cho ba. Trong khoảnh khắc đó, ai cũng như lặng người đi vì xúc động. Với lối miêu tả chân thực, giàu cảm xúc tác giả đã cho thấy tình yêu thương sâu nặng Thu dành cho ba, dù có những lúc gan góc, bướng bỉnh nhưng em rất giàu tình cảm và dễ xúc động.

    Về phía ông Sáu, trong ba ngày về nghỉ phép, ông dành trọn yêu thương cho đứa con gái bé bỏng. Thuyền chưa cập bến ông đã vội vàng nhảy lên bờ, chạy về phía con, đôi bàn tay sẵn sàng dang ra chờ đợi đứa con sà vào lòng. Nhưng trái ngược với điều ông tưởng tượng, bé Thu cự tuyệt, lảng tránh, điều đó làm ông hết sức đau lòng, hai tay ông buông thõng như bị gãy. Khuôn mặt ấy thật đáng thương biết bao, ông không biết làm thế nào để có thể xóa nhòa khoảng cách thời gian và không gian ấy. Để bù đắp cho con, ba ngày nghỉ phép ông không đi đâu, chỉ quanh quẩn bên con, yêu thương, ân cần bên con mong Thu sẽ thay đổi. Trước sự cứng đầu của Thu, ông chỉ khẽ lắc đầu, chứ không hề trách mắng con. Chỉ đến khi ông gắp thức ăn cho nó bị Thu bỏ ra, bao nhiều buồn đau dồn nén bấy lâu ông đã đánh Thu, điều ấy đã làm ông ân hận mãi về sau. Khoảnh khắc hạnh phúc nhất mà cũng đau lòng nhất của ông chính là được nghe tiếng gọi ba thiêng liêng, nhưng đó cũng là lúc ông phải chia tay con trở về đơn vị. Một người lính từng trải, gan góc trên chiến trường lại khóc bởi tiếng gọi đầy thân thương. Những giọt nước mắt không thể kiềm chế, cứ thế trào ra. Trong những ngày ở chiến trường ông ân hận vì đánh con, không quên lời hứa, ông dồn tâm huyết vào làm chiếc lược ngà. Ông chi chút, tỉ mẩn mài từng chiếc răng lược cho nhẵn bóng. Thậm chí, cái chết cũng không cướp đi được tình yêu thương con của ông Sáu. Vết thương nặng trong một trận càn khiến ông kiệt sức, không trăng trối được điều gì nhưng ông vẫn dồn hết tàn lực móc cây lược trao cho đồng đội và gửi gắm đồng đội mình qua ánh mắt đây yêu thương. Cây lược ấy đã được người đồng đội trao lại cho bé Thu. Tình cha con đã không chết, nâng đỡ cô bé trưởng thành, vượt lên mọi đau thương mất mát. Ông Sáu là biểu tượng cho tình yêu thương, sự ân cần và che chở của người cha dành cho con mình. Qua đó ta thấy được sự bất tử của tình cảm cha con trong hoàn cảnh chiến tranh.

    Tác phẩm đã xây dựng được tình huống truyện độc đáo, bất ngờ qua đó thể hiện chủ đề của tác phẩm. Nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc, phù hợp với lứa tuổi. Lối kể chuyện chân thực, tự nhiên, giàu cảm xúc. Hình ảnh giản dị, mà giàu giá trị, ý nghĩa biểu tượng, kết tinh trong hình tượng chiếc lược ngà. Ngôn ngữ đậm giản dị, đậm chất Nam Bộ.

    Câu chuyện đã tái hiện thành công tình cha con sâu nặng của bé Thu và ông Sáu. Từ đó, tác giả cho thấy sự tàn bạo của chiến tranh; những bi kịch cùng tình cảm gia đình đẹp đẽ trong thời chiến. Đồng thời tác phẩm cũng ca ngợi tình cảm phụ tử thiêng liêng trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt.

Phân tích Chiếc lược ngà - mẫu 3

 “Chiếc lược ngà” là một trong những tác phẩm nổi bật của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, được viết trong bối cảnh đất nước đang chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tác phẩm không chỉ khắc họa sâu sắc tình cha con mà còn phản ánh nỗi đau, sự hy sinh trong chiến tranh. Qua câu chuyện cảm động của ông Sáu và bé Thu, tác giả đã thể hiện những giá trị nhân văn cao đẹp, đặc biệt là tình yêu gia đình và những mất mát trong thời kỳ chiến tranh.

"Chiếc lược ngà" kể về câu chuyện giữa ông Sáu, một người lính trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, và cô con gái bé Thu. Sau nhiều năm xa cách vì chiến tranh, ông Sáu trở về nhà, nhưng bé Thu, do đã trưởng thành và bị ảnh hưởng bởi sự vắng mặt lâu dài của cha, không nhận ông là cha mình. Mặc dù vậy, ông Sáu vẫn quyết tâm giành lại tình yêu thương từ con gái qua những hành động và món quà tình cảm.

Ông Sáu làm một chiếc lược ngà tặng bé Thu, thể hiện tình cha yêu thương và sự hy sinh của ông. Tuy nhiên, do hiểu lầm, bé Thu không nhận chiếc lược, nhưng trong phút giây cuối đời, khi ông Sáu hy sinh trong chiến đấu, bé Thu đã nhận ra tình cha và ôm chiếc lược ngà khóc thương. Đây là một cái kết đầy xúc động, thể hiện sự hy sinh vô bờ bến của người cha, tình yêu thương gia đình và những mất mát trong chiến tranh.

Ông Sáu là hình mẫu điển hình của người chiến sĩ cách mạng, vừa dũng cảm trên chiến trường vừa yêu thương con cái. Mặc dù là người lính, nhưng ông Sáu rất gần gũi, ân cần và yêu thương con gái. Tình yêu của ông dành cho Thu rất thiêng liêng, và ông sẵn sàng hy sinh mọi thứ để bảo vệ gia đình. Tuy nhiên, chiến tranh đã khiến ông phải xa con suốt một thời gian dài. Sau khi trở về, ông gặp phải một nỗi đau lớn khi bé Thu không nhận ra ông vì đã quá lâu xa cách. Cảnh tượng ông Sáu trở về và bé Thu không chịu nhận cha đã làm nổi bật sự đau đớn trong lòng người cha, nhưng ông vẫn kiên trì và không từ bỏ con gái.

Tình yêu của ông Sáu được thể hiện rõ qua hành động làm chiếc lược ngà tặng Thu. Chiếc lược không chỉ là vật phẩm mang giá trị vật chất mà còn là món quà chứa đựng tình yêu thương, sự khắc khoải của một người cha, mong muốn được nhận lại tình cảm của con gái. Ông Sáu không thể ngờ rằng chiếc lược ngà lại là món quà cuối cùng ông dành cho con, và cũng là dấu ấn của sự hy sinh lớn lao trong cuộc đời ông.

Tình cha con là chủ đề nổi bật xuyên suốt trong "Chiếc lược ngà". Tuy ông Sáu là một người lính chiến đấu kiên cường trên chiến trường, nhưng tình yêu ông dành cho con gái không bao giờ giảm đi, dù khoảng cách về thời gian và không gian là rất lớn. Ngay cả khi bé Thu không nhận ông là cha, ông Sáu vẫn không bỏ cuộc. Chiếc lược ngà mà ông làm tặng Thu chính là hình ảnh đẹp về tình cảm cha con. Món quà ấy không chỉ là vật phẩm thông thường mà là một phần của tình yêu và sự hy sinh của người cha.

Bé Thu, từ chỗ giận dỗi và không nhận cha, dần dần cảm nhận được tình yêu thương vô bờ bến của ông Sáu. Mặc dù cô bé không thể nhận được tình cảm của cha ngay lập tức, nhưng qua những hành động chân thành của người cha, cô dần thay đổi và cuối cùng cũng nhận ra tình cảm cha con thiêng liêng ấy. Cái kết của tác phẩm, khi bé Thu ôm chiếc lược ngà và khóc thương cha, chính là biểu tượng của sự đoàn tụ, tình yêu thương và sự thấu hiểu giữa hai thế hệ.

 “Chiếc lược ngà” không chỉ là câu chuyện về tình cha con mà còn là một tác phẩm phản ánh về sự hy sinh trong chiến tranh. Cuộc chiến tranh khốc liệt đã cướp đi bao nhiêu hạnh phúc gia đình, bao nhiêu cơ hội để cha mẹ đoàn tụ với con cái. Mặc dù chiến tranh đã cướp đi của ông Sáu thời gian bên con, nhưng ông vẫn kiên cường chiến đấu để bảo vệ tổ quốc và gia đình. Mỗi hành động của ông, từ việc làm chiếc lược ngà đến việc chiến đấu đến phút cuối cùng, đều thể hiện sự hy sinh của những người lính trong cuộc kháng chiến.

Sự hy sinh của ông Sáu cũng phản ánh một thực tế tàn khốc của chiến tranh: nó không chỉ cướp đi sinh mạng của con người mà còn làm đứt đoạn mối quan hệ gia đình, khiến những người thân không thể đoàn tụ, không thể hiểu nhau. Cái chết của ông Sáu không chỉ là sự mất mát của bé Thu mà còn là sự mất mát chung của cả xã hội, của những gia đình bị chiến tranh cướp đi hạnh phúc.

Từ câu chuyện đầy xúc động của ông Sáu và bé Thu, Nguyễn Quang Sáng muốn gửi gắm một thông điệp sâu sắc về tình yêu thương gia đình, sự hy sinh và sự vươn lên trong chiến tranh. Tình cha con trong tác phẩm là hình mẫu của sự kiên trì, sự hy sinh vô điều kiện, thể hiện một lòng yêu nước sâu sắc và sự tôn trọng giá trị gia đình. Tác phẩm cũng phản ánh rõ nét những mất mát mà chiến tranh gây ra, khi những người cha phải rời xa gia đình để tham gia chiến đấu, khi những đứa trẻ phải chịu đựng nỗi đau xa cha mẹ, và khi tình yêu thương không phải lúc nào cũng được đón nhận ngay lập tức.

Tuy nhiên, cái kết của tác phẩm, dù đau xót, vẫn mang lại niềm hy vọng. Những hành động của ông Sáu đã khiến bé Thu nhận ra tình cha, và chiếc lược ngà là món quà của sự hy sinh, là biểu tượng cho tình yêu vô bờ bến giữa cha và con.

 “Chiếc lược ngà” là một tác phẩm giàu tính nhân văn, thể hiện rõ những giá trị về tình cảm gia đình, tình yêu thương, sự hy sinh và những mất mát trong chiến tranh. Qua câu chuyện cảm động về ông Sáu và bé Thu, Nguyễn Quang Sáng đã khắc họa một bức tranh chân thực về nỗi đau chiến tranh, nhưng cũng là một bài ca về tình cha con thiêng liêng và sức mạnh của tình yêu trong những thời khắc khó khăn nhất.

Phân tích Chiếc lược ngà - mẫu 4

 “Chiếc Lược Ngà” là một tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, được viết trong bối cảnh chiến tranh, kể về mối quan hệ tình cảm sâu sắc giữa người cha là người chiến sĩ cách mạng và cô con gái nhỏ trong hoàn cảnh đất nước đang có chiến tranh. Từ chiếc lược ngà mà người cha tặng cho con gái, câu chuyện truyền tải nhiều thông điệp về tình yêu thương, sự hy sinh và lòng kiên cường của con người trong chiến tranh. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng phân tích chi tiết chiếc lược ngà và những giá trị sâu sắc mà tác phẩm mang lại.

Chiếc lược ngà trong tác phẩm là món quà mà người cha tặng cho con gái sau khi anh trở về từ chiến trường. Dù là một món quà đơn giản, chiếc lược ngà lại chứa đựng rất nhiều ý nghĩa về tình cha con sâu sắc và những tâm tư của người cha gửi gắm vào con gái.

Chiếc lược ngà không phải là một vật phẩm quý giá về mặt vật chất, nhưng với người cha, nó là món quà chứa đựng những tình cảm yêu thương và sự hy sinh thầm lặng. Người cha không thể ở bên cạnh con gái trong suốt những năm tháng đầu đời của cô, vì thế chiếc lược ngà trở thành vật kỷ niệm duy nhất mà anh có thể trao cho con gái. Mặc dù là một vật dụng nhỏ bé, nhưng chiếc lược ngà lại là minh chứng cho sự chu đáo và tình yêu vô bờ bến của người cha đối với đứa con yêu dấu.

 Hành động khắc chiếc lược ngà trong thời gian chiến tranh thể hiện rõ sự yêu thương và nỗi nhớ của người cha dành cho con gái. Mỗi đường khắc trên chiếc lược ngà không chỉ là vật chất, mà là những kỷ niệm, những hi vọng người cha mong muốn con gái sẽ lớn lên hạnh phúc. Khi trao chiếc lược ngà cho con, người cha không chỉ tặng một vật dụng, mà còn gửi gắm tình yêu thương sâu sắc, những mong mỏi về tương lai của con gái.

Trong "Chiếc Lược Ngà", nhân vật người cha là hình mẫu của người chiến sĩ cách mạng, là người có lòng yêu nước mãnh liệt và sẵn sàng hy sinh vì đất nước. Tuy nhiên, tình yêu thương gia đình, đặc biệt là tình cảm đối với con gái, vẫn luôn là nguồn động lực giúp anh vượt qua khó khăn, thử thách.

Người cha là một chiến sĩ kiên cường, dũng cảm trong chiến tranh. Dù phải trải qua vô vàn gian khổ, anh không bao giờ từ bỏ lý tưởng chiến đấu vì Tổ quốc. Tuy nhiên, tình yêu thương dành cho con gái là thứ duy nhất giúp anh vượt qua được những phút giây yếu đuối, giúp anh kiên cường tiếp tục cuộc chiến đấu. Hành động khắc chiếc lược ngà cũng là minh chứng cho tình yêu, lòng kiên trì và sự hy sinh của anh đối với con.

 Người cha trong tác phẩm có thể không thể ở bên cạnh con gái trong suốt những năm tháng đầu đời của cô, nhưng tình cảm anh dành cho con vẫn mãnh liệt. Chiếc lược ngà mà người cha tặng con gái là món quà vô cùng đặc biệt, là hình ảnh của sự hy sinh, mong muốn con gái luôn nhớ đến tình yêu của cha dù có ở xa.

Mối quan hệ giữa người cha và con gái trong "Chiếc Lược Ngà" không chỉ là mối quan hệ đơn thuần giữa một người cha và con mà còn phản ánh tình cảm gia đình trong bối cảnh chiến tranh. Dù chiến tranh tàn khốc và chia cắt, nhưng tình yêu thương gia đình không bao giờ bị xóa nhòa. Người cha dù không thể ở gần con, nhưng trong suốt những tháng ngày xa con, anh luôn khắc khoải nhớ nhung và mong muốn được đoàn tụ. Dù không thể hiện ra trực tiếp bằng lời nói, nhưng qua chiếc lược ngà, tình cảm cha con được thể hiện rõ ràng, sâu sắc. Mỗi lần nghĩ về con gái, người cha lại cảm thấy một nỗi đau không thể nói thành lời, đó là sự tiếc nuối vì không thể chăm sóc con, nhưng cũng là sự khát khao được đoàn tụ và chăm sóc cho con trong những năm tháng tới.

 Chiếc lược ngà không chỉ là món quà vật chất, mà còn là một món quà tinh thần vô giá. Người cha hy vọng rằng con gái sẽ luôn nhớ đến mình, dù có ở xa. Sau khi nhận được chiếc lược ngà, cô con gái đã trưởng thành hơn, hiểu được tình yêu thương của người cha và cũng bắt đầu nuôi dưỡng tình cảm của mình đối với cha. Mối quan hệ giữa họ không chỉ đơn giản là sự trao nhận vật phẩm, mà là sự trao đổi tình cảm, sự gắn kết sâu sắc.

Thông qua hình ảnh chiếc lược ngà, Nguyễn Quang Sáng đã gửi gắm những thông điệp sâu sắc về tình yêu gia đình, lòng hy sinh và sự kiên cường của con người trong hoàn cảnh chiến tranh. Chiếc lược ngà không chỉ là vật dụng đơn giản, mà là biểu tượng của tình cảm gia đình, là minh chứng cho những tình cảm không thể đo đếm được bằng vật chất.

 Dù chiến tranh có thể tàn phá, chia cắt con người, nhưng tình yêu gia đình vẫn luôn tồn tại, là chỗ dựa vững chắc cho những con người trong cuộc sống đầy khó khăn. Chiếc lược ngà, dù nhỏ bé, nhưng lại chứa đựng tình cảm của người cha dành cho con gái, là sợi dây kết nối những người thân yêu trong bối cảnh khắc nghiệt của chiến tranh.

Người cha trong tác phẩm đã hy sinh cả cuộc sống cá nhân để chiến đấu vì đất nước, nhưng tình cảm dành cho con gái không bao giờ phai nhạt. Chiếc lược ngà là món quà thể hiện sự hy sinh thầm lặng của người cha đối với con, một món quà không chỉ mang ý nghĩa vật chất mà còn là tình yêu, là ước mơ về một tương lai tốt đẹp hơn cho con.

 “Chiếc Lược Ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một tác phẩm cảm động về tình cha con và những giá trị nhân văn lớn lao trong chiến tranh. Thông qua hình ảnh chiếc lược ngà, tác phẩm không chỉ phản ánh tình yêu thương gia đình mà còn thể hiện sự hy sinh, lòng kiên cường và mong muốn về một tương lai tốt đẹp hơn. Những tình cảm trong tác phẩm là minh chứng cho sức mạnh của tình yêu thương trong bối cảnh chiến tranh đầy gian khổ, và cũng là lời nhắc nhở về những giá trị con người không bao giờ bị phai mờ, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.

Xem thêm những bài văn mẫu đạt điểm cao của học sinh trên cả nước hay khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.

chiec-luoc-nga.jsp

Giải bài tập lớp 9 sách mới các môn học