10+ Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung (siêu hay)



Tổng hợp 10+ nghị luận câu thơ Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung hay, chọn lọc từ những bài văn hay của học sinh lớp 9 trên cả nước giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó biết cách viết văn hay hơn.

10+ Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung (siêu hay)

Quảng cáo

Đề bài:

   "Đau đớn thay phận đàn bà

   Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"

Em hãy bình luận hai câu thơ trên và dùng các nhân vật văn học mà em biết để chứng minh.

Bài giảng: Truyện Kiều - Cô Nguyễn Dung (Giáo viên VietJack)

Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung - mẫu 1

Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du là kiệt tác của nền văn học cổ điển Việt Nam. Truyện Kiều là tinh yêu thương, niềm say mê lớn trong hàng trăm năm của hàng triệu con người Việt Nam. Vút qua năm tháng “đêm trường dạ tối tăm mù mịt”, nhiều câu thơ Kiều đọng lại trong tâm hồn nhân gian bao ám ảnh:

Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Hai câu thơ này nằm trong Hồi 2, đoạn sau khi chị em Thuý Kiều chơi tiết thanh minh trở về, trên đường gặp mộ Đạm Tiên. Sau khi nghe Vương Quan kể về thân phận của Đạm Tiên, Thuý Kiều tỏ lòng thương tiếc và than cho thân phận phụ nữ nói chung bằng hai câu thơ này. “Phận” là thân phận, số phận. Theo quan niệm cũ số phận của con người được sung sướng hay đau khổ là do một thế lực huyền bí, thiêng liêng định đoạt. Câu thơ thứ nhất là lời cảm thán cho số phận đàn bà đau khổ.

Quảng cáo

“Bạc mệnh” hay mệnh bạc là số phận, số mệnh tiền định mỏng manh, đen tối, trải qua nhiều đau thương bất hạnh. “Bạc mệnh” không chỉ riêng ai mà là “lời chung”, là số phận đáng thương của hầu hết mọi người phụ nữ trong xã hội cũ.

Hai câu thơ trên là tiếng khóc của Thuý Kiều khi đứng trước nấm mồ Đạm Tiên trong một buổi chiều thanh minh. Đó là tiếng khóc của nàng cho mọi người phụ nữ tài hoa bạc mệnh ngày xưa, và cũng tự khóc cho đời mình mai sau (sự cảm). Ý thơ mang tính chất khái quát rất cao, biểu hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du qua Truyện Kiều.

Hai câu thơ trên đã nói lên bi kịch về thân phận của người phụ nữ ngày xưa: đau khổ, bạc mệnh. Nguyễn Du đã sống trong một thời đại đen tối là lúc chế độ phong kiến suy tàn, đầy rẫy thối nát, bất công và dã man. Truyện Kiều đã phản ánh một cách sống động và chân thực cái hiện thực đen tối ấy của xã hội phong kiến:

Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

“Phận đàn bà” trong xã hội ấy là “đau đớn”, là “bạc mệnh”, tủi nhục không kể xiết. Lễ giáo phong kiến khe khắt, cổ hủ nặng nề: trọng nam khinh nữ (nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô), đạo “tam tòng” như sợi dây oan nghiệt thít chặt vào cổ người đàn bà (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Thân phận bếp núc, không được học hành, không có chút quyền hành gì ngoài xã hội. Nam nữ “thụ thụ bất thân”. Người con gái và nhan sắc chỉ để “mua vui” cho bọn vua chúa, quan lại, kẻ quyền quý… Hai chữ “bạc mệnh” trong lời thơ đã cực tả nỗi “đau đớn”, tủi nhục của “khách má hồng”. Nguyễn Du đã phản ánh một sự thật đau lòng trong xã hội phong kiến suy tàn, thổi nát. Nạn mất mùa, dịch bệnh, tệ áp bức bóc lột nặng nề của vua quan, chiến tranh, loạn lạc triền miên đã dìm người dân lanh trong máu, nước mắt và đói rét. Phụ nữ và trẻ em là lớp người đau thương nhất: goá bụa, côi cút… Có người phải ăn xin “chết lăn rãnh đến nơi, thịt da béo cầy sói” (Những điều trông thấy). Có giai nhân “nổi danh tài sắc một thì” nhưng bạc mệnh: “Sống làm vợ khắp người ta, Hại thay thác xuống làm ma không chồng” (Đạm Tiên). có thiếu nữ hiếu thảo, tài sắc vẹn toàn nhưng phải trải qua số kiếp “đoạn trường” nên phải nếm mùi cay đắng nhục nhã “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” (Thuý Kiều).

Quảng cáo

Nguyễn Du bằng sự trải nghiệm của đời mình, đã từng mười năm trời lưu lạc, không thuốc men lúc ốm đau, vợ con chia lìa, anh em tan tác (Anh em tan tác nhà không có – Ngày tháng xoay vần tóc bạc rồi – Thơ chữ Hán), nên ông đã có sự đồng cảm sâu sắc, cảm thương vô hạn cho bao nỗi đau đớn của người phụ nữ bạc mệnh. Ông đã lên tiếng tố cáo những thế lực hắc ám, bạo tàn (quan lại, bọn lưu manh, lũ buôn thịt bán người, đồng tiền hôi tanh và bạo lực…) đã chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc của con người, của người phụ nữ. Truyện Kiều là tiếng kêu thương thống thiết, ai oán, não nùng. Tiếng kêu thương ấy, nhà thơ ấy, nhà thơ đã gửi vào thân phận một người đàn bà:

Những là oan khổ lưu ly

Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!

Hai câu thơ:

Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

đúng như Tố Hữu đã nói “còn đọng nỗi đau nhân tình”, “Tố Như ơi lệ chảy quanh thân Kiều!…”. Nó chứa chan tinh thần nhân đạo cao đẹp.

Quảng cáo

Câu thơ của Nguyễn Du cho đến nay vẫn còn làm xúc động lòng người. Cách mạng đã xác nhận quyền nam nữ bình đẳng. Người phụ nữ đã có vai trò rộng lớn trong xã hội. Đảm đang việc nước, đảm đang việc nhà, người phu nữ đã và đang phát huy tài năng, đức hạnh trong sản xuất, học tập và chiến đầu:

Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử,

Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ.

(Huy Cận)

Hai câu thơ của Nguyễn Du tuy không còn ý nghĩa phổ biến nữa, nhưng trong xã hội hiện nay vẫn còn không ít bất công, tàn dư của tư tưởng phong kiến, đã và đang làm cho người phụ nữ bị thiệt thòi, đau khổ. Vì thế cuộc đấu tranh để thực sự giải phóng phụ nữ phải được tiếp tục.

Qua hai câu thơ:

Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

Ta thấy trái tim yêu thương mênh mông của thiên tài Nguyễn Du, ta cảm nhận sâu sắc giá trị nhân bản tuyệt vời của Truyện Kiều. Một lần nữa trong Văn chiêu hồn, Nguyễn Du lại thống thiết kêu lên:

Đau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu!

Hơn bất cứ nghệ sĩ nào, Nguyễn Du đã dành cho người phụ nữ những tình cảm thắm thiết, cảm động nhất. Ông mãi mãi bất tử về tấm lòng nhân đạo mênh mông…

Dàn ý Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

1. Mở bài

- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận

2. Thân bài

- Hai câu thơ là lời cảm thán của Kiều khi đứng trước nấm mồ lạnh lẽo của Đạm Tiên, đó cũng là lời than thở của Nguyễn Du trước nỗi đau mà người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu đựng.

- "Đau đớn thay": Lời thơ như một lời thở dài đầy đau xót của tác giả.

- Bản thân Nguyễn Du đã có những năm tháng phiêu dạt giữa xã hội, phải chịu cảnh đói nghèo, vì thế ông hiểu được những số phận nghèo khó và cả hoàn cảnh đau khổ của những người phụ nữ trong xã hội cũ.

=> Lời thương cảm, tấm lòng nhân đạo đầy cao cả của Nguyễn Du dành cho những người phụ nữ - thân phận "thấp cổ bé họng" trong xã hội phong kiến đương thời..

- Nguyên nhân đã tạo nên số phận bất hạnh của những người phụ nữ:

+ Đó là một xã hội với Nho giáo là chủ, không có quyền bình đẳng dành cho phụ nữ.

+ Những người phụ nữ bị tước đoạt quyền được bình đẳng như nam giới.

- "Phận đàn bà" mà Nguyễn Du đau xót than thở là kẻ "bạc mệnh" còn phải chịu những đày đọa về thể xác và tinh thần, bị chà đạp về nhân phẩm, nhân cách, bị rẻ rúng như một món hàng.

+ Nhân vật Đạm Tiên mà Nguyễn Du xây dựng: Bất hạnh, sinh ra trong sự nghèo khó, phải bán thân, bán nghệ để nuôi sống mình, khi chết không ai thương nhớ, xót xa: "Sống làm vợ... không chồng".

+ Nhân vật Thúy Kiều: Người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng cũng chỉ là một món hàng trong tay những kẻ buôn phấn bán hương: "Cò kè... ngoài bốn trăm".

=> Xã hội phong kiến ấy đã đưa đẩy nàng Kiều, buộc nàng phải bán mình để cứu cha và em...

- Nguyễn Du thương cảm cho những thân phận người phụ nữ yếu đuối, chịu thiệt thòi, bất hạnh trong tình yêu, hôn nhân:

+ Đó là những người chinh phụ có chồng đi lính: Chiến tranh phong kiến phi nghĩa đã tước đoạt đi hạnh phúc, tình yêu của bao người vợ hiền.

+ Những người phụ nữ không được quyền quyết định hôn nhân của mình, phải nghe theo lời cha mẹ "Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó".

=> Nhà thơ thấu hiểu, xót xa trước thân phận nhỏ bé, "ba chìm bảy nổi" của người phụ nữ.

- Liên hệ, mở rộng với cuộc sống hiện đại ngày nay: Bên cạnh những người phụ nữ được sống đúng với bản thân, được đối xử bình đẳng, được tự do yêu thương, hôn nhân..., vẫn còn những người phụ nữ bị bạo lực, bị khinh thường, bị hành hạ.

3. Kết bài

- Hai câu thơ "Đau đớn... lời chung" giúp chúng ta được cảm nhận sâu sắc về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa.

-  Đánh giá về tình cảm, thái độ của nhà thơ Nguyễn Du qua hai câu thơ. 

Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung - mẫu 2

 Vút qua năm tháng “đêm trường dạ tối tăm mù mịt”, nhiều câu thơ Kiều đọng lại trong tâm hồn nhân gian bao ám ảnh:

 Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

      “Phận” là thân phận, số phận. Theo quan niệm cũ số phận của con người được sung sướng hay đau khổ là do một thế lực huyền bí, thiêng liêng định đoạt. Câu thơ thứ nhất là lời cảm thán cho số phận đàn bà đau khổ.

      “Bạc mệnh” hay mệnh bạc là số phận, số mệnh tiền định mỏng manh, đen tối, trải qua nhiều đau thương bất hạnh. “Bạc mệnh” không chỉ riêng ai mà là “lời chung”, là số phận đáng thương của hầu hết mọi người phụ nữ trong xã hội cũ.

      Hai câu thơ trên là tiếng khóc của Thuý Kiều khi đứng trước nấm mồ Đạm Tiên trong một buổi chiều thanh minh. Đó là tiếng khóc của nàng cho mọi người phụ nữ tài hoa bạc mệnh ngày xưa, và cũng tự khóc cho đời mình mai sau (sự cảm). Ý thơ mang tính chất khái quát rất cao, biểu hiện sâu sắc cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Du qua Truyện Kiều.

      Hai câu thơ trên đã nói lên bi kịch về thân phận của người phụ nữ ngày xưa: đau khổ, bạc mệnh. Nguyễn Du đã sống trong một thời đại đen tối là lúc chế độ phong kiến suy tàn, đầy rẫy thối nát, bất công và dã man. “Truyện Kiều” đã phản ánh một cách sống động và chân thực cái hiện thực đen tối ấy của xã hội phong kiến:

Trải qua một cuộc bể dâu, 
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

     “Phận đàn bà” trong xã hội ấy là “đau đớn”, là “bạc mệnh”, tủi nhục không kể xiết. Lễ giáo phong kiến khe khắt, cổ hủ nặng nề: trọng nam khinh nữ (nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô), đạo “tam tòng” như sợi dây oan nghiệt thít chặt vào cổ người đàn bà (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử). Thân phận bếp núc, không được học hành, không có chút quyền hành gì ngoài xã hội. Nam nữ “thụ thụ bất thân”. Người con gái và nhan sắc chỉ để “mua vui” cho bọn vua chúa, quan lại, kẻ quyền quý… Hai chữ “bạc mệnh” trong lời thơ đã cực tả nỗi “đau đớn”, tủi nhục của “khách má hồng”.

      Nguyễn Du đã phản ánh một sự thật đau lòng trong xã hội phong kiến suy tàn, thổi nát. Nạn mất mùa, dịch bệnh, tệ áp bức bóc lột nặng nề của vua quan, chiến tranh, loạn lạc triền miên đã dìm người dân lanh trong máu, nước mắt và đói rét. Phụ nữ và trẻ em là lớp người đau thương nhất: góa bụa, côi cút… Có người phải ăn xin “chết lăn rãnh đến nơi, thịt da béo cầy sói” (Những điều trông thấy). Có giai nhân “nổi danh tài sắc một thì” nhưng bạc mệnh: “Sống làm vợ khắp người ta, Hại thay thác xuống làm ma không chồng” (Đạm Tiên). có thiếu nữ hiếu thảo, tài sắc vẹn toàn nhưng phải trải qua số kiếp “đoạn trường” nên phải nếm mùi cay đắng nhục nhã “Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần” (Thuý Kiều).

      Nguyễn Du bằng sự trải nghiệm của đời mình, đã từng mười năm trời lưu lạc, không thuốc men lúc ốm đau, vợ con chia lìa, anh em tan tác (Anh em tan tác nhà không có – Ngày tháng xoay vần tóc bạc rồi – Thơ chữ Hán), nên ông đã có sự đồng cảm sâu sắc, cảm thương vô hạn cho bao nỗi đau đớn của người phụ nữ bạc mệnh. Ông đã lên tiếng tố cáo những thế lực hắc ám, bạo tàn (quan lại, bọn lưu manh, lũ buôn thịt bán người, đồng tiền hôi tanh và bạo lực…) đã chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc của con người, của người phụ nữ. “Truyện Kiều” là tiếng kêu thương thống thiết, ai oán, não nùng. Tiếng kêu thương ấy, nhà thơ ấy, nhà thơ đã gửi vào thân phận một người đàn bà “Những oan khổ lưu ly – Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!”.

      Hai câu thơ:

Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

      Đúng như Tố Hữu đã nói “còn đọng nỗi đau nhân tình”, “Tố Như ơi lệ chảy quanh thân Kiều!…”. Nó chứa chan tinh thần nhân đạo cao đẹp.

      Câu thơ của Nguyễn Du cho đến nay vẫn còn làm xúc động lòng người. Cách mạng đã xác nhận quyền nam nữ bình đẳng. Người phụ nữ đã có vai trò rộng lớn trong xã hội. Đảm đang việc nước, đảm đang việc nhà, người phu nữ đã và đang phát huy tài năng, đức hạnh trong sản xuất, học tập và chiến đầu:

Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử,
Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ

                                                                                  (Huy Cận)

      Hai câu thơ của Nguyễn Du tuy không còn ý nghĩa phổ biến nữa, nhưng trong xã hội hiện nay vẫn còn không ít bất công, tàn dư của tư tưởng phong kiến, đã và đang làm cho người phụ nữ bị thiệt thòi, đau khổ. Vì thế cuộc đấu tranh để thực sự giải phóng phụ nữ phải được tiếp tục.

Qua hai câu thơ:

Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.

      Ta thấy trái tim yêu thương mênh mông của thiên tài Nguyễn Du, ta cảm nhận sâu sắc giá trị nhân bản tuyệt vời của Truyện Kiều. Một lần nữa trong “Văn Chiêu hồn”, Nguyễn Du lại thống thiết kêu lên:

Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu!

       Hơn bất cứ nghệ sĩ nào, Nguyễn Du đã dành cho người phụ nữ những tình cảm thắm thiết, cảm động nhất. Ông mãi mãi bất tử về tấm lòng nhân đạo mênh mông…

Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung - mẫu 3

Nguyễn Du đã viết nên truyện Kiều bằng tấm lòng thiết tha đối với con người, đặc biệt là sự cảm thông sâu sắc trước số phận người phụ nữ. Thông quá nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khắc hoạ hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa chịu bất công, đau đớn, khổ cực. Hai câu thơ mà ông viết về người phụ nữ đến nay còn đọng lại nỗi đau nhân thế: 

"Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạch mệnh cũng là lời chung".

Xã hội phong kiến đã bóp nghẹt đi sức sống, tài năng và vẻ đẹp của biết bao kiếp hồng nhan. Một xã hội “trọng nam khinh nữ”, khi mà ở đó trai năm thế bảy thiếp, gái đoan chính một chồng. Họ xứng đáng được nhận hết sự cưu mang, yêu thương, chở che, nhưng cuối cùng chính họ lại lâm vào bị kịch, chịu kiếp chồng chung.

Số phận bạch bẽo, bấp bênh trôi nổi vô định của cuộc đời người con gái khiến Nguyễn Du phải thốt lên hai từ " đau đớn' đến nghẹn lòng. Đó là một Đạm Tiên tài năng, sắc đẹp vẹn toàn vậy mà số kiếp đau thương, cô đơn đến cõi chết: " Sống làm vợ khắp người ta. Hạ thay thác xuống làm ma không chồng'. Một nàng Kiều vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, khiến hoa phải ghen , tuyết phải hơn, tài năng toàn diện cả cầm , kì, thi, hoạ. Nàng xứng đáng được yêu thương trân trọng, vậy mà số phận lại chịu nhiều oan trái, trải qua mười lăm năm lưu lạc, bao kiếp lầu xanh, những tưởng được hạnh phúc lứa đôi nhưng cũng không vẹn toàn. Một Hoạn Thư thông minh, khéo léo cũng không có được tình yêu của chính chồng mình. Một Vũ Thị Thiết tư dung tốt đẹp, nết na, sống đoan trang hết mực yêu thương chồng con cuối cùng cũng lựa chọn cái chết để rửa oan cho chính mình. Và còn bao nhiêu kiếp người khác nữa cũng chịu nhiều khổ đau, tủi nhục đến như thế. Họ chính là nạn nhân của một chế độ phong kiến hà khắc, quá đỗi bất công, tàn bạo.

Người phụ nữ thiếu tự do, không được nói lên tiếng nói, khát vọng của mình. Họ bị kìm hãm, chà đạp lên nhân phẩm danh dự, họ bị chà đạ lên thể xác và tinh thần, vậy mà vẫn cam chịu. Như Hồ Xuân Hương từng viết:

“Thân em thời trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm mấy nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son”

Số phân bạc mệnh, nhưng họ vẫn giữ lấy cho mình những phẩm chất tốt đẹp nhất của người phụ nữ. Số kiếp tài hoa bạc mệnh, họ chịu sự điều khiển và phụ thuộc bởi những kẻ tàn bạo. Họ không được là chính mình, thân phận như trái bần trôi:

“Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu”.

Thông qua hai câu thơ, Nguyễn Du không chỉ tố cáo xã hội phong kiến độc ác, tàn nhẫn, bất công, chà đạp lên quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc và quyền tự do của con người. Mà thông qua đó, ông nói lên lời chia sẻ thiết tha với những kiếp người chìm nổi, là tiếng nói oán trách, tiếng kêu đầy xót thương thấy đối với xã hội kia. Là câu nói thức tỉnh lương tri của chế độ cũ, hãy biết trân trọng và yêu thương phụ nữ.

Đất nước ta ngày càng phát triển, công bằng nam nữ cũng ngày càng được cải thiện. Nhưng đâu đó, vẫn còn tồn tại nhữn hủ tục lạc hậu, chèn ép cuộc sống của người phụ nữ. Đâu đó vẫn còn tình trạng những gia đình chỉ vì muốn sinh con trai mà phá bỏ cái thai của mình. Chúng ta cần lên án những hành động như thế. Hãy trân trọng và đề cao những người phụ nữ bởi chính họ sinh ra đã chịu nhiều thiệt thòi. Hãy yêu thương tất thảy những người bà, người mẹ, người chị, người em trên thế gian này.

Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung - mẫu 4

" Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai"

Câu ca dao ấy cất lên như lời than thân, thở dài của một người phụ nữ giữa xã hội đương thời phong kiến. Cái xã hội khi mà số phận của họ được định đoạt bằng những cuộc trao đổi, mua bán, bằng những cuộc hôn nhân chính trị chứ không phải bằng tình yêu. Xã hội ấy nơi mà nhân phẩm của họ bị đạp xuống tận bùn đen. Cảm thông, thấu hiểu sự đau đớn đó của người phụ nữ mà nhà thơ Nguyễn Du đã viết lên thiên kì cổ "Truyện Kiều". Và trong tác phẩm ấy, chính tác giả cũng đã thốt lên hai câu thơ mà mãi tận sau này, người ta vẫn còn thấy nguyên giá trị của nó khi nhắc về thân phận của người phụ nữ trước lễ giáo phong kiến:

" Đớn đau thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung".

Hai câu thơ này được Nguyễn Du viết - là lời cảm thán của Kiều khi đứng trước nấm mồ lạnh lẽo của Đạm Tiên - một người kĩ nữ. Hai câu thơ bật lên như một lời than thở của Kiều hay cũng chính là của Nguyễn Du trước nỗi đau mà người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu đựng. Không phải bất cứ từ ngữ nào khác mà là "đớn đau thay"! Lời thơ như một lời thở dài đầy đau xót của tác giả. Chính Nguyễn Du cũng đã có những năm tháng phiêu bạt giữa xã hội, phải chịu cảnh đói, cảnh nghèo, có lẽ vì thế ông hiểu được những số phận nghèo khó và cả hoàn cảnh đau khổ của những người phụ nữ nữa. Có lẽ chính vì vậy khi viết lên thiên "Truyện Kiều", ông đã đem những xúc cảm chân thật nhất của mình vào trong những vần thơ ấy. Nguyễn Du hiểu rất rõ "phận đàn bà", cái số phận của người phụ nữ xưa khi mà họ phải sống trong một xã hội trọng nam khinh nữ, một xã hội luôn chà đạp lên nhân phẩm, nhân cách của người phụ nữ yếu đuối. Xã hội ấy cũng tước đoạt đi quyền được sống hạnh phúc, quyền được yêu thương và cả những mong ước nhỏ bé của họ nữa. Xã hội đó đã khiến họ phải trở thành những kẻ "bạc mệnh". Đau đớn nào bằng?

"Đớn đau thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung".

Đó là lời thương cảm của Nguyễn Du, là tấm lòng nhân đao đầy cao cả của ông dành cho những người phụ nữ Việt Nam xưa - những thân phận "thấp cổ bé họng" trong xã hội phong kiến đương thời.

Nếu hỏi những nguyên nhân nào đã tạo nên số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội xưa thì điều đầu tiên đó chính là xã hội. Đó là một xã hội với Nho giáo là chủ, không có quyền bình đẳng dành cho người phụ nữ, xã hội mà đàn bà chỉ là một vật phẩm để trao đổi, mua bán, xã hội "trọng nam khinh nữ" khi mười người con gái chẳng đổi bằng một người đàn ông " Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô". Chính xã hội bất bình đẳng ấy đã khiến cho thân phận người phụ nữ bị đẩy xuống tầng đáy. Họ không có quyền hành gì trong nhà, ngoài xã hội. Họ không được tham gia bất cứ công việc gì bên ngoài, không được học tập, chỉ biết quanh quẩn bên trong nhà để trở thành một người phụ nữ của gia đình. Họ bi tước đoạt quyền được bình đẳng như nam giới. Dù rằng trong xã hội xưa cũng có không ít những người phụ nữ tài giỏi như bà Trưng, bà Triệu, ... dám đứng lên thể hiện ý chí của mình nhưng họ chỉ là một số ít những người phụ nữ dám đứng lên chống lại cường quyền để thể hiện khí phách của mình mà thôi.

"Phận đàn bà" mà Nguyễn Du đau xót than thở là kẻ "bạc mệnh" còn phải chịu những đày đọa về thể xác và tinh thần, bị chà đạp về nhân phẩm, về nhân cách, bị coi rẻ như một món hàng. Có lẽ thấu hiểu được điều này, Nguyễn Du mới có thể cô đọng tất cả tiếng lòng của mình thành hai câu thơ đau xót tới vậy! Người phụ nữ trong xã hội phong kiến bị coi rẻ tới mức họ chỉ được coi như một món hàng ngoài chợ, được mua đi bán lại, được trao đổi, tặng biếu cho người khác.

"Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?"

Họ hoàn toàn không có quyền được lên tiếng, được bày tỏ nỗi niềm của mình. Cũng như Đạm Tiên mà Nguyễn Du xây dựng, nàng bất hạnh sinh ra trong sự nghèo khổ, phải bán thân, bán nghệ để nuôi sống mình. Vậy mà đến khi chết đi, chỉ có những ngọn cỏ xanh làm bạn, chẳng một ai tới thương nhớ, xót xa cho nàng dù lúc trước bao nhiêu bướm ong dập dìu:

"Sống làm vợ khắp người ta
Đến khi thác xuống làm ma không chồng"

Chẳng ai còn đoái hoài, thương xót gì người phụ nữ ấy nữa. Đến như Kiều trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, là một người con gái tài sắc vẹn toàn, thế nhưng cũng chỉ là một món hàng trong tay những kẻ ma cô buôn phấn bán hương:

"Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm"

Chính xã hội phong kiến ấy đã đẩy đưa nàng Kiều, buộc phải bán mình để cứu lấy người cha già và em. Nếu như xã hội ấy coi trọng người phụ nữ, coi trọng con người thì chắc có lẽ nàng Kiều đã chẳng mất mười lăm năm bôn ba khắp nơi, trở thành món hàng trong tay bao nhiêu kẻ, đến mức phải tìm đến cái chết. Và chắc hẳn nàng cũng đã có được một tình yêu thật đẹp với chàng trai hào hoa phong nhã Kim Trọng.

Có lẽ nỗi thương cảm của Nguyễn Du cho người phụ nữ không chỉ dừng ở đó, ông còn thương cảm cho những thân phận người phụ nữ yếu đuối, bị bất hạnh trong hôn nhân và tình yêu. Trong xã hội xưa, những cuộc chiến tranh nổi lên liên miên, đó là khi những người chồng, người tình lang phải rời xa nhà để lại người vợ hiu quạnh một mình bao năm tháng. Chiến tranh phi nghĩa trong xã hội phong kiến ấy đã tước đoạt đi hạnh phúc, tình yêu của bao người vợ hiền. Chúng ta biết tới một Vũ Nương hiền lành, đảm đang, xinh đẹp, thế nhưng sau khi chiến tranh qua đi, lại khiến nàng trở thành một người vợ bất hạnh nhất trần đời khi chồng nàng nghi ngờ nàng không đoan chính. Và rồi, nàng đã phải dùng cái chết của mình để rửa sạch nỗi hàm oan. Nếu như không có chiến tranh thì liệu số phận của Vũ Nương và của những người phụ nữ khác trog xã hội phong kiến có bi thương tới vậy hay không? Không chỉ Vũ Nương, chúng ta còn được chứng kiến hình ảnh người chinh phụ ra ngóng vào trông chờ tin người chồng trở về từ nơi chiến trận. Những hình ảnh "gương gượng soi lệ lại châu chan", hay "lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi", ... ghim vào lòng chúng ta về số phận đầy xót xa của những người vợ phải xa chồng. Chính xã hội đã cướp đi của họ hạnh phúc, cướp đi tình yêu của họ, khiến họ trở thành những "hòn vọng phu" chờ chồng.

Chúng ta ai cũng có mưu cầu được sống hạnh phúc, mưu cầu một cuộc sống được tự do yêu đương, tự do hôn nhân. Thế nhưng, trong xã hội xưa, hôn nhân, tình yêu không phải do người phụ nữ quyết định. Họ phải làm theo lễ giáo, phải nghe theo lời cha mẹ, phải "môn đăng hộ đối". Chính những thứ luật lệ hà khắc đó đã giết chết bao nhiêu tình yêu đẹp đẽ, đã lấy mất đi bao niềm hạnh phúc của người phụ nữ xưa. Đối với họ, hôn nhân của mình nhưng mình lại chẳng thể quyết định, tất cả đều được định đoạt bởi chữ "phận", bởi lễ giáo, lề lối mà thôi. Đó chẳng phải là một nỗi đau xót lớn hay sao?

Có lẽ sau những năm tháng bôn ba, sống giữa những tầng lớp thấp kén nhất ngoài xã hội, được tiếp xúc, được nhìn, được nghe những câu chuyện về những người phụ nữ, Nguyễn Du mới có thể thấu hiểu người phụ nữ tới vậy. Ông đau xót trước thân phận nhỏ bé, "ba chìm bảy nổi" của người phụ nữ. Họ phải chịu sự bất công trong đối xử bình đẳng, bị tước đoạt mất hạnh phúc, tình yêu, tước đoạt mất cả nhu cầu được yêu thương đươc hạnh phúc nữa. Tất cả cũng chỉ vì những lẽ giáo hà khắc kia của xã hội đương thời. Qua hai câu thơ của Nguyễn Du, ta cũng thấy được niềm cảm thương của ông dành cho người phụ nữ xưa nhiều tới nhường nào, ông thấu hiểu họ tới nhường nào! Nếu không, sao ông có thể viết được những dòng thơ cô đọng, đau xót, đầy yêu thương tới như vậy được.

Sống trong xã hội ngày nay, chúng ta - những người phụ nữ đã được sống đúng với bản thân mình. Chúng ta được đối xử bình đẳng, được tự do yêu thương, tự do hôn nhân được mưu cầu hạnh phúc cho chính mình. Thế nhưng ở đâu đó, chúng ta vẫn phải chứng kiến hình ảnh người phụ nữ bị bao lực, bị khinh thường, bị hành hạ, bị tước đi những quyền cơ bản nhất của một con người. Những hành động ấy cần được lên án, cần được kết tội và chấm dứt.

Qua hai câu thơ ngắn gọn, nhưng Nguyễn Du cũng đã khiến cho chúng ta được cảm nhận sâu sắc về thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa. Đó cũng là lời kết án xã hội phong kiến khi chính xã hội đó đã gián tiếp đẩy người phụ nữ tới tận cùng của sự đau khổ, bế tắc. Qua đó, ta cũng cảm nhận được tình cảm yêu thương mà Nguyễn Du dành cho họ - những người phụ nữ yếu đuối, cần được nâng niu, cần được yêu thương và bảo vệ.

Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung - mẫu 5

   Xưa nay biết bao người đã say mê, yêu thích Truyện Kiều. Nguyên nhân của sự say mê đó có lẽ trước hết là do tài nghệ của Nguyễn Du, như Đào Nguyên Phổ nhận xét : " mực muốn múa, bút muốn bay, văn muốn nhyar, chữ muốn nói khiên người cười, khiến người khóc, khiến người đọc đi đọc lại hàng nghìn lần, càng thuộc long lại càng không thấy chán. " Người ta còn say mê vì Nguyễn Du có tấm long nhân đạo cao cả, có những nhận xét sâu sắc về cuộc đời, số phận con người, đặc biệt là những người phụ nữ.

Đau đơn thay phân đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung .

   Đó là hai câu thơ Nguyễn Du viết trong Truyện Kiều. Sau khi tác giả đã chứng kiến " những điều trông thấy ". Đó là một tiếng kêu xé long thấm đầy nước mắt. Quả thật không ai có thể đau đớn xót xa hơn những người sinh ra làm phận má hồng trong thời phong kiến. Nỗi đau đớn không chỉ do nghèo khổ hay thiếu thốn vật chất. Nỗi đau đớn chủ yêu là bị khinh rẽ, chà đạp nhân phẩm, bị giày vò về tinh thần khi hạnh phúc tan nát, tình yêu lỡ dở ... Nguyên nhân gây ra đau khổ chính là xã hội phong kiến gia trưởng trọng nam khinh nữ. Xã hội ấy đã trói buộc người phụ nữ bằng " tam tròng ", đã coi thường họ bằng những quan niệm định kiến bất công " nữ nhi nan hóa ". " nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô ". Trong xã hội như vậy người phụ nữ tránh sao khỏi cuộc sống đau đớn xót xa. Nếu nói về tài sắc thì Đạm tiên là một người rất đẹp.

Nối danh tài sắc một thì
Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh .

   Thế mà đời Đạm Tiên là đời ca nhi ê chề đau đớn:

Sống làm vợ khắp người ta
Hại thay thác xuống làm ma không chồng .

   Sau khi chết rồi, nấm mồ của Đạm Tiên cũng là một nấm mồ vô chủ, cô đơn hoang lạnh:

   Sè sè nấm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.

   Đâu chỉ có một mình Đạm Tiên. Thúy Kiều xinh đẹp, tài sắc ai bì, thông minh hết mực cũng chịu cảnh đánh đập chửi bới, " thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần " suốt mười lăm năm lưu lạc, đoạn trường. Mười lăm năm của một đời con gái mất đi tình yêu ban đầu tươi đẹp, mất đi trinh tiết ngàn vàng và cũng có lúc nàng mất đi cả cuộc sống của mình. Hết Mã Giám Sinh gian xảo, đến Sở Khanh trâng tráo rồi đến Hồ Tôn Hiến dâm ô. Từ mụ Tú Bà " nhờn nhợt màu da ". đến Hoạn Thư " sắc sảo nước đời ", ngay cả Bạc Hà, Bạc Hạnh ... tất cả là một cái lưới quây tròn vây tỏa kín mít xung quanh nàng Kiều đang vùng vẫy trong khổ đau tuyệt vọng. Cả cái xã hội ấy từ bọn lưu manh đén bọn buôn thịt bán người và cả tầng lớp thống trị, những quan bà, quan ông cùng hè nhau dìm Kiều xuống bùn đen. Chúng muốn giết chết những tài năng, sắc đẹp như nàng. Nàng muốn yên phận làm vỡ lẽ cũng không được, muốn sống yên lành gần gũi mẹ cha cũng không xong.

   Mấy lần lấy chồng rồi cuối cùng nàng cũng phải tìm đến cái chết, trầm mình trên song Tiền Đường để chấm dứt khổ đau.

   Câu thơ của Nguyễn Du không phải là một nhận xét lạnh lùng khách quan, mà là tiếng kêu như xé lòng người. Đây là lời nhận xét của Thúy Kiều khi nghe chuyện Đạm Tiên, nhưng cũng có thể coi là suy nghĩ của tác giả về thân phận của những người phụ nữ. Đó không chỉ bao hàm ý xót thương mà còn là lời tố cáo đanh thép về sự tàn bạo của chế độ phong kiến.

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

   Cùng chung số phận với nàng Kiều, cũng phải tìm đến cái chết là Vũ Nương của Nguyễn Dữ ở thế kỉ XVI trước đây. Người phụ nữ xinh đẹp đứng đắn trong Người con gái Nam Xương gặp nỗi bất hạnh đầu tiên là lấy phải người chồng tính tình đa nghi, gia trưởng, đã thế lại ít học. Nàng phải chịu lệ thuộc vè kẻ khác hoàn toàn – chồng nàng. Bao nhiêu khó khăn vất vả trong ba năm chồng đi lình nàng đã chịu được tất cả. Nhưng nàng lại không thể chịu được sự đay nghiễn, nghi ngờ mù quáng của người chồng cục cằn, thô lỗ. Nếu nàng Kiều chịu nỗi đau phải dứt bỏ mối tình đầu thì nàng lại phải chịu nỗi oan cho chính chồng, con gây ra. Đau đớn phẫn uất, nàng gieo mình trên bến Hoàng Giang, để lại hận nghìn đời. Sau này Lê Thánh Tông có viết bài Miếu vợ chàng Trương nói lên số phận đau đớn của nàng.

Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ
Cung nước chi cho lụy tới nàng.

   Đau đớn không kém là số phận của người phụ nữ trong thơ của " Bà chua thơ Nôm. " Những người phụ nữ phải sống trong cảnh lấy lẽ thật cay đắng :

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

   Họ xinh đẹp, thông minh nhưng cuộc sống phụ thuộc, vất vả " bà chìm bảy nổi chin lênh đênh ".

Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn.

   Nói chung họ bị đè nén, áp bức, họ bị đối xử bất công. Ngang tàng, cứng cỏi như Hồ Xuân Hương, đấu tranh không mỏi mệt, nhưng có lúc phải buột miệng ao ước " Ví đây đổi phận làm trai được. " Muốn làm phận con trai vì phận đàn bà bao giờ cũng đau khổ, bị coi thường.

   Ngoài ra ta còn gặp người phụ nữ sống cô đơn trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, hay người phụ nữ xa chồng mòn mỏi trong nhớ thước ( Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm ), người phụ nữ nghèo khổ với những đứa con nheo nhóc trong Sở kiến hành của Nguyễn Du, tất cả những người phụ nữ ấy đều sống trong đau khổ, nô lệ, bị xã hội đày đọa. Song như những bông sen nở trong bùn lầy, họ vẫn giữ được " tấm lòng son ", giữ được hương thơm ngát của mình.

   Nguyễn Du nói rất đúng và chính xác về số phận phụ nữ trong xã hội nam quyền phong kiến trước kia. Lời nhận xét như chính tâm huyết của tác giả trào ra đầu ngọt bút. Đó là nhận xét bằng con mắt trông cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời.

   Đã mấy trăm năm trồi qua, Nguyễn Du đã trở về với cát bụi, không kịp chứng kiến đổi đời và sự vùng lên đấu tranh của người phụ nữ. Giờ đây người phụ nữ đã đứng lên đòi quyền sống, đòi quyền bình đẳng và họ đã đạt được mơ ước của mình. Người con gái Bắc Giang cũng sát cánh với con trai phá đường chặn giặc :

  Em là con gái Bắc Giang
Rét thì mặc rét, nước làng em lo

   Người phụ nữ chờ chồng trong Thăm lúa đã biến nỗi nhớ mong manh thành những vụ mùa say hạt nặng bông, giật giải thi đua cùng người tiền phương. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ có bao nhiêu phụ nữ gánh vác việc " ba đảm đang " họ " giỏi tay cày, chắc tay sung ". Phận đàn bà bây giờ không đau đớn nữa mà đang hạnh phúc nở hoa.

   Nguyễn Du từng khóc cho những nàng Kiều, cho những người phụ nữ và cho cả chính mình.

Ba trăm năm lẻ về sau nữa
Thiên hạ ai còn khóc Tố Như?

   Nhưng Nguyễn Du ơi xin hãy vui lên, hãy ngậm cười nới chin suối. Những nàng Kiều ngày xưa của ông đã hết đau khổ rồi. Họ không phải là những người " nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa " nữa. Dù không còn đúng hoàn toàn trong xã hội ngày nay, nhưng lời nhận xét của Nguyễn Du vẫn là một tấm lòng đầy ưu ái cảm thông với những người phụ nữ.

Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung - mẫu 6

Thân em như dải lụa đào
Bay phất giữa chợ biết vào tay ai

Câu ca dao ấy truyền đạt như lời than thân, thở dài của người phụ nữ giữa thế giới phong kiến. Đó là xã hội nơi số phận được quyết định bởi cuộc mua bán, trao đổi, và những cuộc hôn nhân chính trị thay vì tình yêu. Một xã hội đen tối đẩy nhân phẩm của họ xuống cảnh đen tối. Cảm thông, Nguyễn Du trong 'Truyện Kiều' đã viết lên hai câu thơ thể hiện sự đau đớn của người phụ nữ trước bàn tay tàn ác của lễ giáo phong kiến:

Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

Hai câu thơ này do Nguyễn Du sáng tác, là lời thánh thót của Kiều trước mộ Đạm Tiên, người phụ nữ kĩ nữ. Đây là lời than thở, niềm đau lòng của Kiều, hay cũng là của Nguyễn Du trước nỗi đau của phụ nữ trong xã hội xưa. Không có từ nào phản ánh chân tình hơn từ 'đớn đau thay'! Lời thơ như là sự thở dài đau đớn của tác giả. Nguyễn Du, trải qua những ngày tháng khó khăn, đói nghèo, hiểu rõ nỗi đau của những số phận nghèo khó và hoàn cảnh đau khổ của phụ nữ. Có lẽ vì vậy, khi sáng tác 'Truyện Kiều', ông đã đặt tâm huyết của mình vào những câu thơ ấy. Nguyễn Du hiểu rõ về 'phận đàn bà', số phận của phụ nữ khi bị chìm đằng sau trong xã hội đặc biệt là xã hội trọng nam khinh nữ. Xã hội ấy làm mất đi quyền lực, hạnh phúc và cả những ước mơ nhỏ bé của họ. Xã hội đó khiến họ trở thành những kẻ 'bạc mệnh'. Đau đớn đến đâu?

Đớn đau thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

Đó là lời thương cảm của Nguyễn Du, là trái tim cao quý của ông dành cho phụ nữ Việt Nam xưa - những thân phận 'thấp cổ bé họng' trong xã hội phong kiến.

Nếu hỏi về nguyên nhân gây nên số phận khó khăn của phụ nữ trong xã hội xưa, câu trả lời đầu tiên chính là xã hội. Đó là một xã hội được Nho giáo kiểm soát, nơi phụ nữ không được công bằng, nơi mà đàn bà trở thành hàng hóa để trao đổi, mua bán. Xã hội 'trọng nam khinh nữ', nơi mà mười con gái không đổi được một người đàn ông. Xã hội ấy làm mất quyền tự do, quyền hạnh phúc và thậm chí cả quyền nhỏ bé của phụ nữ. Xã hội đó đã làm cho thân phận của phụ nữ bị đẩy xuống đáy. Họ bị tước đoạt quyền bình đẳng, không được tham gia vào bất kỳ công việc nào bên ngoài, không được học vấn, chỉ biết lưu lạc trong nhà để trở thành một người phụ nữ trong gia đình. Họ bị bóc lột quyền lực như nam giới. Dù xã hội xưa cũng có những người phụ nữ tài năng như bà Trưng, bà Triệu... dám đứng lên bảo vệ quyền tự do của mình, nhưng họ chỉ là một số ít trong số những người phụ nữ dám đối mặt với quyền lực để bảo vệ bản thân mình.

Nguyễn Du thảm thương 'phận đàn bà', những người 'bạc mệnh' phải trải qua đau đớn về thể xác, tinh thần, bị coi thường về nhân phẩm và nhân cách. Chính sự hiểu biết này thúc đẩy ông sáng tác hai câu thơ đau lòng nhất. Phụ nữ phong kiến bị đánh bại, xem như hàng hóa, trao đổi như chợ búa, không được quyền phát ngôn.

Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ, ai biết vào tay nào?

Họ không được quyền bày tỏ nỗi niềm, như Đạm Tiên, nàng sinh ra nghèo đói, bán thân để sống. Khi chết, chỉ có cỏ xanh làm bạn, không ai thương nhớ, xót xa dù trước đó bao bướm ong dập dìu.

Sống làm vợ khắp người ta
Đến khi thác xuống làm ma không chồng

Không ai còn để ý, chia sẻ tình cảm với người phụ nữ. Như Kiều trong 'Truyện Kiều', mặc dù tài sắc vẹn toàn, nhưng trở thành món hàng trong tay những kẻ buôn bán.

Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu giá vàng ngoài bốn trăm

Xã hội phong kiến buộc nàng Kiều phải bán mình để cứu cha và em. Nếu xã hội trọng trọng phụ nữ, nàng có thể tránh khỏi mười lăm năm đau khổ, có tình yêu hạnh phúc với Kim Trọng.

Nguyễn Du không chỉ thương cảm Kiều mà còn dành sự thương cảm cho những phụ nữ bất hạnh trong hôn nhân và tình yêu, bị tàn phá bởi chiến tranh và xa chồng. Xã hội đã cướp đi hạnh phúc, tình yêu, biến họ thành 'hòn vọng phu' chờ chồng.

Tất cả chúng ta mong muốn cuộc sống hạnh phúc, tự do trong tình yêu và hôn nhân. Nhưng trong xã hội xưa, quyết định về hôn nhân không thuộc về phụ nữ. Họ bị ràng buộc bởi lễ giáo, phải tuân theo gia truyền, phải chấp nhận 'môn đăng hộ đối'. Đó là nỗi đau lớn chăng?

Sau những năm sống giữa tầng lớp thấp, Nguyễn Du thấu hiểu thân phận nhỏ bé, bị bất công và mất hạnh phúc của người phụ nữ xưa. Thông qua hai câu thơ, ông thể hiện lòng thương cảm sâu sắc và sự hiểu biết tới đau khổ của họ.

Ngày nay, chúng ta, những người phụ nữ, được sống theo ý muốn của mình. Nhưng vẫn có những người phụ nữ phải đối mặt với bạo lực, xúc phạm và mất mát quyền lợi cơ bản. Những hành động này cần bị lên án và chấm dứt.

Nguyễn Du, qua hai câu thơ, đã khắc sâu hình ảnh và thân phận của người phụ nữ xưa. Ông lên án xã hội phong kiến đã đẩy họ đến bế tắc và trải qua những đau khổ. Thể hiện tình yêu thương và sự bảo vệ đối với những người phụ nữ yếu đuối.

Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung - mẫu 7

Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều với trái tim chân thành đối với con người, đặc biệt là sự cảm thông sâu sắc với số phận của người phụ nữ. Qua nhân vật Thúy Kiều, ông tả rõ hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa phải chịu đựng bất công, đau khổ và khổ đau. Hai câu thơ về người phụ nữ vẫn là niềm đau lưu lại: 'Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạch mệnh cũng là lời chung'.

Xã hội phong kiến đã át chặt sức sống, tài năng và vẻ đẹp của vô số hồn nhiên. Một xã hội 'trọng nam khinh nữ', nơi nam nắm quyền và nữ phải tuân thủ. Họ xứng đáng được bao dung, yêu thương và che chở, nhưng kết quả lại đẩy họ vào kịch tính, chịu đựng kiếp số khó khăn.

Cuộc đời con gái, bạch bẽo và bấp bênh, khiến Nguyễn Du không thể giấu nổi 'đau đớn' nghẹn lòng. Đạm Tiên, tài năng và sắc đẹp vẹn toàn, lại chìm đắm trong số kiếp đau thương và cô đơn: 'Sống làm vợ khắp người ta, hạ thay thác xuống làm ma không chồng'. Kiều, với vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, tài năng đa dạng, cầm kỳ, thi phú, họa sĩ, xứng đáng với tình yêu và sự trân trọng, nhưng số phận lại trải qua mười lăm năm lưu lạc và kiếp lầu xanh, không hạnh phúc vẹn toàn. Hoạn Thư, thông minh và khéo léo, cũng không đạt được tình yêu từ chồng. Vũ Thị Thiết, tư dung tốt đẹp, sống đoan trang, cuối cùng cũng chọn cái chết để rửa sạch oan trái. Họ là những nạn nhân của chế độ phong kiến tàn bạo, bất công.

Người phụ nữ mất tự do, bị kìm hãm, chà đạp lên nhân phẩm và danh dự, nhưng vẫn giữ lấy tấm lòng mạnh mẽ. Như câu thơ của Hồ Xuân Hương:

“Thân em thời trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm mấy nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn
Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son”

Số phận bạc mệnh, nhưng họ vẫn giữ cho mình những phẩm chất tốt đẹp nhất của người phụ nữ. Bị kiểm soát và phụ thuộc, họ vẫn giữ lấy những giá trị quan trọng nhất của bản thân mình, không bao giờ mất đi:

“Thân em giống như chiếc lá bần trôi
Gió cuốn sóng đưa biết hướng nào”.

Thông qua hai câu thơ, Nguyễn Du không chỉ lên án xã hội phong kiến tàn nhẫn, bất công, chà đạp lên quyền tự do và hạnh phúc của con người. Đồng thời, ông cũng chia sẻ lòng bi thương và kêu gọi sự trân trọng, yêu thương đối với những kiếp người chìm đắm trong đau khổ và bất công của xã hội cũ.

Mặc dù đất nước ngày càng phát triển, công bằng giữa nam và nữ cũng được cải thiện. Tuy nhiên, vẫn còn những hủ tục lạc hậu và sự chèn ép đối với cuộc sống của phụ nữ. Chúng ta cần phê phán những hành động như vậy và tôn trọng, đề cao vai trò của phụ nữ, những người chịu nhiều thiệt thòi từ khi ra đời. Hãy trân trọng yêu thương tất cả phụ nữ trên thế gian này, từ người bà, người mẹ đến người chị, người em.

Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung - mẫu 8

Nguyễn Du, với lòng thiết tha và đầy tình cảm nhân bản, đã tạo ra tác phẩm "Truyện Kiều" không chỉ để kể một câu chuyện, mà còn là để thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Ông đã sử dụng nhân vật Thúy Kiều để mô tả hình ảnh người phụ nữ đối mặt với bất công, đau đớn và khổ cực. Hai câu thơ của Nguyễn Du "Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạch mệnh cũng là lời chung" vẫn đọng mãi như một biểu tượng của nỗi đau nhân thế.

Xã hội phong kiến đã làm tê liệt sức sống, tài năng và vẻ đẹp của biết bao người phụ nữ. Trong một xã hội "trọng nam khinh nữ", nơi mà nam giới được ưu ái hơn, phụ nữ trở thành một món đồ trao đổi, mua bán, và họ cuối cùng lại rơi vào kiếp chồng chung. Số phận của họ trở nên bạc bẽo, bấp bênh, không dựa vào ý chí của họ mà là do những quy định và truyền thống củng cố.

Sự bạc bẽo, bấp bênh và không chắc chắn trong cuộc sống của người con gái khiến Nguyễn Du thốt lên hai từ "đau đớn" đến nghẹn lòng. Những nhân vật như Đạm Tiên và Kiều, tài năng và đẹp vẹn toàn, lại phải chịu đựng số kiếp đau thương, cô đơn và kết thúc trong cõi chết. Những hình ảnh như Hoạn Thư và Vũ Thị Thiết cũng làm chứng minh rằng thậm chí cả những người phụ nữ thông minh và tốt đẹp cũng không thoát khỏi số phận bi kịch.

Người phụ nữ trong xã hội phong kiến không chỉ bị hạn chế về tự do, mà còn bị đè nén trong việc bày tỏ ý kiến và khát vọng của mình. Họ phải chịu đựng sự chà đạp lên nhân phẩm và danh dự, thậm chí thể xác và tinh thần, nhưng vẫn kiên trì và cam chịu. Như Hồ Xuân Hương đã viết: "Thân em thời trắng phận em tròn, Bảy nổi ba chìm mấy nước non. Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn, Nhưng em vẫn giữ tấm lòng son".

Nguyễn Du thông qua hai câu thơ đã không chỉ chỉ trích xã hội phong kiến tàn bạo và bất công, mà còn làm nổi bật tiếng nói oán trách, tiếng kêu thương đầy xót thương đối với những người phụ nữ khốn khổ. Đó không chỉ là lời cảnh báo đối với chế độ cũ mà còn là lời nhắc nhở chúng ta trân trọng và yêu thương phụ nữ trong xã hội ngày nay.

Dù xã hội hiện đại ngày nay đã có nhiều tiến bộ về công bằng nam nữ, nhưng vẫn còn những thực tế lạc hậu, những hủ tục độc ác đối với phụ nữ. Hãy đánh giá cao những người phụ nữ, hãy yêu thương và trân trọng họ, vì họ đã chịu nhiều thiệt thòi từ khi mới ra đời. Hãy đặt trọng trách và quyền lợi cho những người bà, mẹ, chị và em trên thế gian này.

Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung - mẫu 9

Thân em như tấm lụa đào, mềm mại và mong manh, đứng đó giữa thị trấn, không biết sẽ thuộc về tay ai.

Câu ca dao đó không chỉ là một dòng thơ đơn thuần, mà nó còn là bức tranh sống động về thực tế khó khăn của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đó là hình ảnh của người phụ nữ bị đặt vào hoàn cảnh khó khăn, nơi số phận của họ không được quyết định bởi tình yêu mà bởi những quy định và truyền thống xã hội.

Câu ca dao đó như một lời than thở, một tiếng thở dài của người phụ nữ giữa cuộc sống đầy những ràng buộc và định kiến. Đó là thước phim nhỏ trong bức tranh lớn về cuộc sống phụ nữ trong một thời kỳ lịch sử nơi mà họ bị xem thường và bị hạn chế quyền tự do của mình.

Trong tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, tác giả đã lồng ghép những thước phim đau lòng về số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Câu thơ "Đớn đau thay phận đàn bà, lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung" không chỉ là một tả cảm đắng của Kiều, mà còn là biểu hiện của tình cảm thương cảm và hiểu biết sâu sắc của Nguyễn Du về thân phận của họ.

Nguyễn Du không chỉ là một nhà thơ tài năng, mà còn là người hiểu biết về cuộc sống, đặc biệt là cuộc sống của phụ nữ trong một xã hội nơi mà họ thường xuyên phải đối mặt với những khó khăn và đau đớn. Ông đã chấp nhận và thấu hiểu nỗi đau của họ, lồng ghép những cảm xúc này vào tác phẩm của mình.

Hình ảnh "bạc mệnh" không chỉ là của Kiều mà còn là của nhiều người phụ nữ khác trong xã hội phong kiến. Sự hạn chế và đau khổ mà họ phải trải qua không chỉ đến từ cuộc sống gia đình mà còn từ xã hội, với những giới hạn và kỳ thị mà họ phải đối mặt.

Nguyễn Du không chỉ đơn thuần là một nhà văn, mà là người thông cảm, chia sẻ nỗi đau của những người phụ nữ yếu đuối. Những dòng thơ của ông không chỉ là ngôn ngữ, mà còn là cầu nối tinh thần, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới tâm hồn và tình cảm của những người phụ nữ bị giữ lại trong bức tranh xã hội phong kiến.

Cuộc sống của họ không chỉ là một câu đố khó giải, mà còn là một hành trình đau khổ và tìm kiếm tự do. Để hiểu được điều này, chúng ta cần những tâm huyết, tâm trạng như của Nguyễn Du, người đã để lại những dấu ấn sâu sắc về thế giới phụ nữ trong tác phẩm của mình.

Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung - mẫu 10

Nguyễn Du đã khắc sâu hình ảnh người phụ nữ trong xã hội phong kiến thông qua tác phẩm "Truyện Kiều", và điều đó là do tâm huyết và sự cảm thông sâu sắc của ông đối với số phận của họ. Thông qua nhân vật Thúy Kiều, ông đã mô tả một hình ảnh phụ nữ bị bất công, đau đớn và khổ cực trong một xã hội đầy những ràng buộc và định kiến.

Hai câu thơ "Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạch mệnh cũng là lời chung" không chỉ là những dòng thơ, mà còn là lời kêu gọi đau lòng về tình cảm thương cảm của Nguyễn Du đối với người phụ nữ. Ông đã sử dụng những từ ngữ đắng cay để diễn đạt sự bất công và đau đớn mà người phụ nữ phải chịu đựng trong một xã hội trọng nam khinh nữ.

Xã hội phong kiến đã làm mất đi sức sống, tài năng và vẻ đẹp của nhiều người phụ nữ. Chúng ta thấy rõ sự bóp nghẹt và hạn chế quyền tự do của họ trong một xã hội mà trai năm thế bảy thiếp, gái đoan chính một chồng. Điều này đã tạo ra số phận bạc bẽo, bấp bênh và không định trong cuộc sống của họ.

Nguyễn Du đã cảm nhận rõ sự đau đớn, bất hạnh và cô đơn của người phụ nữ. Thông qua các nhân vật như Đạm Tiên và Kiều, ông đã thể hiện một loạt các số phận đau lòng, từ một tài năng vẹn toàn nhưng lại gặp nhiều khổ đau, đến một vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành nhưng lại phải trải qua hàng loạt kiếp lưu lạc và đau khổ.

Người phụ nữ trong xã hội phong kiến bị tự do, giọng nói và khát vọng của mình bị kìm hãm. Họ bị chà đạp lên nhân phẩm và danh dự, nhưng vẫn giữ cho mình những phẩm chất tốt đẹp nhất. Sự phụ thuộc và kiểm soát bởi những kẻ tàn bạo khiến cho số phận của họ trở nên bất công và đau đớn.

Nguyễn Du đã không chỉ chỉ trích xã hội phong kiến độc ác và tàn nhẫn, mà còn thể hiện sự chia sẻ và thấu hiểu sâu sắc đối với những người phụ nữ bị bóp méo bởi chế độ xã hội. Các dòng thơ của ông là một lời nói oan trái, là lời kêu gọi chấm dứt sự bất công và tôn trọng phụ nữ.

Dù xã hội hiện đại ngày nay đã cải thiện về công bằng giới, nhưng vẫn còn những tình trạng kỳ thị và áp đặt đối với phụ nữ. Chúng ta cần phải lên án những hành động phân biệt giới tính và hãy đề cao giá trị của người phụ nữ, vì họ là người sinh sôi và mang lại nhiều giá trị cho thế giới này.

Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung - mẫu 11

Thân em, tấm lụa đào, tỏa sáng giữa chợ sôi động, là biểu tượng của sự mong manh, tinh tế nhưng cũng bị giữ chặt trong lòng xã hội đầy thách thức và định kiến. Ca dao ấy không chỉ là những lời thoại của một người phụ nữ, mà còn là trải lòng, thở dài của những đứa con gái giữa những ràng buộc và dè dặt của thời đại phong kiến. Xã hội phong kiến, nơi mà cuộc sống của họ được xác định bởi sự trao đổi, mua bán và những cuộc hôn nhân chính trị, không phải từ tình yêu chân thật. Đây là xã hội nơi những người phụ nữ bị đặt xuống dưới, nhân phẩm của họ bị chà đạp và bùn đen phủ trùm. Nguyễn Du đã thấu hiểu và chia sẻ những đau thương đó trong tác phẩm "Truyện Kiều".

"Câu đớn đau thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung."

Hai câu thơ của Nguyễn Du không chỉ là lời than thở của Kiều, mà còn là cảm xúc sâu lắng của tác giả trước cảnh đau đớn mà phụ nữ phải trải qua. Những từ ngữ như "đớn đau thay" không chỉ là mô tả mà còn là một lời thở dài đầy đau xót của tác giả. Nguyễn Du, với những năm tháng phiêu bạt và cảm nhận sâu sắc về đời sống, hiểu rõ những khổ đau, nghèo đói, và đặc biệt là số phận của phụ nữ. Ông đã đưa tâm huyết và cảm xúc của mình vào "Truyện Kiều", tạo nên những dòng thơ đầy ý nghĩa.

Nguyễn Du không chỉ thấu hiểu "phận đàn bà" trong xã hội phong kiến, mà còn lấy nó làm biểu tượng cho sự bất công và đau khổ. Xã hội ấy không chỉ tước đoạt họ quyền sống hạnh phúc, mà còn biến họ thành những kẻ "bạc mệnh." Những nguyên nhân của số phận đen tối đó không chỉ là do xã hội, mà còn là do những quy định, luật lệ khắc nghiệt của thời đại đó. Nguyễn Du không chỉ thương cảm phụ nữ trong xã hội, mà còn đối mặt với những thăng trầm và đau khổ của cuộc sống, điều này có thể giải thích tại sao ông có thể viết nên những câu thơ lưu danh mãi sau này.

Nếu nhìn sâu hơn, ta thấy Nguyễn Du đặt câu hỏi về những nguyên nhân tạo nên số phận đau buồn của phụ nữ xưa. Xã hội bất bình đẳng, quyền lực ở tay nam giới, và những lễ giáo cứng nhắc đã đẩy họ xuống vực sâu. Họ không được quyền lựa chọn, mất đi những quyền lợi cơ bản, và trở thành những con người "bạc mệnh." Đau đớn không chỉ đến từ vấn đề vật chất mà còn làm mất đi những giá trị tinh thần và nhân cách. Nguyễn Du không chỉ thấy "đớn đau thay" về vấn đề này mà còn đặt nó lên bàn cân đạo đức và nhân quả.

Nguyễn Du không chỉ là người thấu hiểu phụ nữ mà còn là nhà văn, nhà thơ biểu tượng cho tình cảm nhân bản và sự thấu hiểu. Nếu nhìn về hiện tại, chúng ta vẫn thấy những bất công, bạo lực, và sự khinh thường đối với phụ nữ. Qua những dòng thơ của Nguyễn Du, chúng ta nên nhớ rằng cuộc đấu tranh cho quyền bình đẳng và tự do vẫn còn đang tiếp tục. Chúng ta nên cảm ơn và bảo vệ những quyền tự do mà chúng ta đang có, để không phải trải qua những đau đớn và mất mát như những người phụ nữ xưa đã trải qua.

Xem thêm các bài văn mẫu lớp 9 hay khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay 9 theo từng phần:

Săn shopee siêu SALE :

ĐỀ THI, GIÁO ÁN, SÁCH ĐỀ THI DÀNH CHO GIÁO VIÊN VÀ PHỤ HUYNH LỚP 9

Bộ giáo án, bài giảng powerpoint, đề thi dành cho giáo viên và sách dành cho phụ huynh tại https://tailieugiaovien.com.vn/ . Hỗ trợ zalo VietJack Official

Tổng đài hỗ trợ đăng ký : 084 283 45 85

Đã có app VietJack trên điện thoại, giải bài tập SGK, SBT Soạn văn, Văn mẫu, Thi online, Bài giảng....miễn phí. Tải ngay ứng dụng trên Android và iOS.

Theo dõi chúng tôi miễn phí trên mạng xã hội facebook và youtube:

Loạt bài Tuyển tập những bài văn hay | văn mẫu lớp 9 của chúng tôi được biên soạn một phần dựa trên cuốn sách: Văn mẫu lớp 9Những bài văn hay lớp 9 đạt điểm cao.

Nếu thấy hay, hãy động viên và chia sẻ nhé! Các bình luận không phù hợp với nội quy bình luận trang web sẽ bị cấm bình luận vĩnh viễn.




Giải bài tập lớp 9 sách mới các môn học
Tài liệu giáo viên